Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly

“Tôi nhớ rằng mọi chuyện bắt đầu với một loạt thăng trầm trong cảm xúc, một chút bấp bênh của hồi hộp lo sợ” Một cô gái trẻ nhận được công việc đầu tiên trong đời là làm gia sư cho hai đứa trẻ xinh đẹp, trong sáng và lặng lẽ đến dị thường tại toà dinh thự Bly cô độc, bị bủa vây trong cái ác rình rập. Những bóng người ẩn hiện từ toà tháp tối tăm và ô cửa sổ bụi bặm, các bóng ma xấu xa lặng lẽ tiến đến ngày một gần. Với nỗi kinh hoàng lớn dần, cô gia sư bất lực nhận ra những sinh vật tàn ác đó nhắm đến bọn trẻ, rắp tâm xâm chiếm cơ thể, tâm trí và cả linh hồn các em… Nhưng không ai ngoài cô nhìn thấy những bóng ma ấy. Phải chăng những ám ảnh kia được gợi lên từ chính trí tưởng tượng của cô gia sư, hay sự thật còn chứa đựng nhiều hơn thế? HENRY JAME (1843 - 1916) Là nhà văn người Mỹ, một trong những người sáng lập và dẫn đầu trường phái hiện thực trong văn hư cấu. Ông sống phần lớn cuộc đời tại Anh và trở thành công dân Anh không lâu trước khi qua đời. Ông được biết tới chủ yếu nhờ một loạt tiểu thuyết đồ sộ miêu tả sự giao thoa giữa Mỹ và châu Âu. Truyện của ông xoay quanh mối quan hệ cá nhân, cách sử dụng quyền lực đúng mực trong các mối quan hệ đó, và nhiều vấn đề đạo đức khác. Phương pháp viết của ông lấy góc nhìn của một nhân vật trong truyện, cho phép ông khám phá các hiện tượng ý thức và nhận thức, phong cách viết trong các tác phẩm về sau của ông từng được so sánh với tranh trường phái ấn tượng. Henry James kiên định tin rằng các nhà văn ở Anh và Mỹ nên được tự do tối đa trong việc thể hiện thế giới quan của mình, giống như các nhà văn Pháp. Chất sáng tạo trong thủ pháp sử dụng góc nhìn, độc thoại nội tâm và người trần thuật không đáng tin cậy trong các câu chuyện và tiểu thuyết của ông mang lại chiều sâu và sự hấp dẫn mới cho thể loại hư cấu hiện thực, và báo hiệu sự đổi mới trong văn học của thế kỉ hai mươi. Là một nhà văn có bút lực phi phàm, bên cạnh số lượng tác phẩm hư cấu đồ sộ, ông còn xuất bản báo, sách du lịch, tiểu sử, tự truyện, phê bình văn học, và kịch. Một số vở kịch của ông được biểu diễn lúc sinh thời và đạt được thành công nhất định. Tác phẩm kịch của ông được cho là có ảnh hưởng sâu rộng tới truyện và tiểu thuyết của ông sau này. Henry James từng được đề cử giải Nobel Văn học vào các năm 1911, 1912, và 1916. Từ khi xuất hiện lần đầu vào năm 1898 đến nay, CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY đã được mệnh danh là một trong những truyện ma nổi tiếng nhất thế giới, là nguyên tác và nguồn cảm hứng cho hàng loạt các tác phẩm chuyển thể cũng như sản phẩm làm lại thuộc nhiều loại hình khác nhau: phim điện ảnh, phim truyền hình, opera, kịch, balê “Một câu chuyện nhỏ độc hại đến sửng sốt, và cũng tuyệt diệu nhất.” – OSCAR WILDE - “CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY là một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất từ trước đến nay, phần lớn là vì nó khó nắm bắt theo cách quá hấp dẫn.” – GILLIAN FLYNN - *** Chúng tôi quây quần quanh lò sưởi, nín thở lắng nghe câu chuyện, nhưng ngoài lời nhận xét hiển nhiên rằng nó rất ghê rợn, mà chuyện kinh dị vào đêm giáng sinh trong một ngôi nhà cũ thì tất phải ghê rợn, tôi nhớ rằng không ai lên tiếng bình luận gì cho đến khi có người tình cờ nói rằng anh ta từng gặp duy nhất một trường hợp tương tự, xảy đến với một đứa trẻ. Tôi xin nói thêm rằng trường hợp đó là về hồn ma trong một ngôi nhà cũ giống như ngôi nhà chúng tôi đang tụ tập vào dịp này - một vụ hiện hồn kinh khủng, xảy đến với một cậu bé đang ngủ trong phòng với mẹ. Cậu bé đã đánh thức người mẹ trong cơn khiếp hãi; nhưng trước khi người mẹ kịp xua tan cơn sợ và dỗ dành cậu ngủ tiếp, bản thân bà cũng chứng kiến cảnh tượng khiến cậu run rẩy. Nhận xét này đã khơi gợi lời hồi đáp từ Douglas - không phải ngay lúc đó, mà vào tối muộn - dẫn đến một kết quả thú vị khiến tôi chú ý. Câu chuyện người khác đang kể chẳng hấp dẫn lắm, và tôi nhận thấy anh không chú ý lắng nghe. Tôi cho đó là dấu hiệu thể hiện rằng bản thân anh có chuyện muốn kể và chúng tôi chỉ cần chờ đợi. Quả thực chúng tôi đã đợi đến hai đêm sau; nhưng vào tối hôm đó, trước khi chúng tôi giải tán, anh đã nói ra ý nghĩ trong đầu mình. “Tôi đồng ý - về hồn ma của Griffin, hay dù nó là gì đi nữa - rằng việc nó xuất hiện cho cậu bé nhìn thấy trước, ở cái tuổi dễ tổn thương như vậy, đã thêm điểm nhấn cho câu chuyện. Nhưng đây không phải lần đầu tôi nghe về kiểu chuyện hấp dẫn này liên quan đến trẻ con. Nếu một đứa trẻ đã thêm nhát búa chát chúa cho hiệu quả câu chuyện, thì các vị nói sao với haiđứa trẻ…?” “Tất nhiên chúng tôi sẽ bảo rằng chúng mang đến hai nhát búa! Và rằng chúng tôi muốn nghe chuyện về chúng,” có người thốt lên. Tôi vẫn còn có thể hình dung ra Douglas đứng quay lưng về phía ngọn lửa, hai tay đút túi, nhìn xuống những người đang trò chuyện với mình. “Cho đến giờ, chưa có ai ngoài tôi từng nghe chuyện này. Câu chuyện có phần quá kinh khủng.” Câu này đương nhiên là đã được vài người nói ra để tạo hiệu quả tối đa cho câu chuyện của mình, và người bạn của chúng tôi, với nghệ thuật kể chuyện tinh tế, chuẩn bị cho chiến thắng của mình bằng cách đưa mắt nhìn chúng tôi rồi nói tiếp: “Vượt ra ngoài tất cả. Tôi chưa từng biết đến thứ gì có thể chạm tới câu chuyện này.” “Về mặt đáng sợ ư?” Tôi nhớ mình đã hỏi như vậy. Dường như anh muốn đáp rằng không chỉ đơn giản như vậy; như thể anh thực sự không tìm được từ thích hợp để miêu tả. Anh đưa tay xoa mắt, khẽ nhăn mặt. “Về độ kinh hoàng!” “Ôi, hấp dẫn quá đi mất!” Một người trong cánh phụ nữ kêu lên. Anh không hề chú ý đến cô ta; anh nhìn tôi, nhưng như thể thay vì tôi, anh đang nhìn thấy thứ mình nói đến. “Về sự xấu xa dị hợm nói chung, về nỗi khiếp sợ và đau đớn.” “Chà,” tôi bảo, “thế thì hãy ngồi xuống và bắt đầu kể ngay đi.” Anh quay về phía ngọn lửa, đưa chân gẩy một khúc gỗ, ngắm nhìn chốc lát. Rồi anh quay lại đối mặt với chúng tôi: “Tôi chưa bắt đầu kể được. Tôi phải gửi thư vào thành phố đã.” Một loạt tiếng ca thán vang lên, kèm theo trách móc; sau đó anh liền giải thích, vẫn với vẻ lơ đãng: “Câu chuyện đã được ghi lại và cất giữ trong ngăn kéo suốt nhiều năm. Tôi có thể viết thư và gửi kèm chìa khóa cho người của mình; anh ta sẽ gửi bưu kiện tới đây khi tìm thấy nó.” Cá nhân tôi cảm thấy dường như anh chủ động đề xuất việc này - có vẻ anh gần như kêu gọi mọi người giúp anh thôi do dự. Anh đã phá vỡ một lớp băng dày tích tụ qua nhiều mùa đông; anh có những lí do riêng để giữ im lặng lâu như vậy. Những người khác bất mãn với sự trì hoãn, nhưng chính những trăn trở của anh đã hấp dẫn tôi. Tôi yêu cầu anh viết thư để gửi ngay chuyến bưu chính đầu tiên và anh đồng ý cho chúng tôi nghe chuyện sớm; rồi tôi hỏi anh trải nghiệm mà anh nói đến có phải của chính bản thân anh hay không. Với câu hỏi này, anh trả lời ngay tức khắc. “Ôi, ơn Chúa, không!” “Vậy còn bản ghi chép là của anh? Anh đã ghi lại câu chuyện đó?” “Tôi không ghi lại gì ngoài ấn tượng về nó. Tôi ghi khắc vào đây,” anh vỗ lên tim mình. “Tôi chưa từng quên.” “Vậy bản ghi chép…?” “Là một bản thảo cũ kĩ, đã phai màu mực, bằng bút tích đẹp nhất trên đời.” Anh lại quay về phía ngọn lửa. “Bút tích của một phụ nữ. Cô đã qua đời hai mươi năm rồi. Cô gửi cho tôi những trang giấy ấy trước khi chết.” Lúc này tất cả bọn họ đều đang lắng nghe, và tất nhiên có người tỏ ý trêu chọc, hay ít nhất là rút ra suy diễn. Nhưng anh bác bỏ suy diễn một cách nghiêm túc, dù cũng không tỏ vẻ bực bội. “Cô là một người hết sức duyên dáng, nhưng cô lớn hơn tôi mười tuổi. Cô là gia sư của em gái tôi,” anh lặng lẽ nói thêm. “Cô là người phụ nữ đáng mến nhất tôi từng biết ở địa vị đó; dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, cô cũng sẽ là một người đáng kính, chuyện đã lâu lắm rồi, và câu chuyện kia còn lâu hơn nữa. Khi ấy tôi đang học ở trường Trinity, tôi gặp cô khi về nhà vào mùa hè năm thứ hai. Năm ấy tôi ở nhà khá nhiều - một mùa hè đẹp. Chúng tôi đã đi dạo và nói chuyện vài lần trong vườn vào giờ nghỉ của cô - những cuộc trò chuyện khiến tôi phát hiện cô cực kỳ thông minh và dễ mến. Ô đúng vậy; đừng cười: tôi yêu quý cô rất nhiều và đến tận hôm nay vẫn lấy làm vui mừng khi nghĩ cô cũng quý mến tôi. Nếu không thì cô đã không kể với tôi rồi. Cô chưa từng kể với bất cứ ai. Không chỉ vì cô nói vậy, mà tôi biết là thực sự cô chưa từng kể. Tôi không chỉ biết chắc; tôi thấy rõ như vậy. Các vị sẽ dễ dàng rút ra kết luận ngay khi nghe chuyện.” “Bởi vì câu chuyện ấy quá đáng sợ?” Anh tiếp tục nhìn chăm chú về phía tôi. “Các vị sẽ tự rút ra kết luận,” anh nhắc lại. “Anh sẽ tự rút ra kết luận.” Tôi cũng nhìn anh không chớp. “Tôi hiểu rồi. Cô ấy đang yêu.” Anh bật cười lần đầu tiên. “Anh nói đúng đấy. Phải, cô đang yêu. Đúng hơn là đã từng yêu. Điều đó thể hiện rõ ràng - cô không thể kể câu chuyện của mình mà không biểu lộ điều đó. Tôi đã thấy, và cô thấy rằng tôi đã thấy; nhưng không ai trong chúng tôi nhắc đến. Tôi nhớ như in thời gian và địa điểm - nơi góc thảm cỏ, dưới bóng râm của hàng sồi lớn và buổi chiều mùa hè dài nóng bức. Đó không phải khung cảnh thích hợp để nghe chuyện kinh dị; nhưng ối chao…!” Anh rời bỏ lò sưởi và thả mình lại ghế ngồi. “Anh sẽ nhận được bưu kiện vào sáng thứ Năm?” Tôi hỏi. “Chắc phải đến chuyến bưu chính thứ hai.” “Vậy thì, sau bữa tối…” “Các vị đều sẽ gặp tôi ở đây?” Anh lại nhìn khắp lượt chúng tôi. “Sẽ không có ai rời đi chứ?” Giọng điệu anh gần như mong đợi. “Tất cả mọi người đều sẽ ở lại!” “Tôi sẽ ở lại” và “Tôi sẽ ở lại!” là tiếng kêu của những quý cô đã định sẵn ngày rời đi. Tuy nhiên bà Griffin tỏ ý muốn biết thêm. “Cô ấy đang yêu ai?” “Câu chuyện sẽ nói rõ,” tôi tranh lời đáp. “Ôi, tôi nóng lòng nghe chuyện quá!” “Câu chuyện sẽ không nói rõ đâu,” Douglas nói; “không nói theo một cách lộ liễu, sỗ sàng.” “Thế thì thật đáng tiếc. Tôi chỉ hiểu được theo mỗi cách ấy.” “Anh cũng không nói ư, Douglas?” Một người khác hỏi. Anh lại đứng bật dậy. “Có - ngày mai. Giờ thì tôi phải đi ngủ thôi. Chúc ngủ ngon.” Rồi anh nhanh chóng vớ lấy một ngọn nến, và bỏ lại chúng tôi trong ngỡ ngàng. Từ đầu bên này của hành lang màu nâu rộng lớn chúng tôi nghe thấy tiếng chân anh bước lên cầu thang; khi đó bà Griffin nói: “Chà, nếu tôi không biết cô ấy đang yêu ai, thì tôi cũng biết anh ấy yêu ai.” “Cô ấy già hơn mười tuổi,” chồng bà đáp lại. “Càng thêm lí do… ở cái tuổi ấy! Nhưng anh ấy giữ kín lâu như vậy cũng khá là đáng quý.” “Bốn mươi năm!” Griffin nói thêm. “Rốt cuộc bảy giờ cũng vỡ oà ra.” “Sự vỡ oà này,” tôi đáp lại, “sẽ biến tối thứ Năm thành một dịp đặc biệt.” Và mọi người đều đồng ý với tôi rằng, trước tình huống này, chúng tôi đều đã mất hứng thú với mọi câu chuyện khác. Câu chuyện cuối cùng, dù không hoàn chỉnh và chỉ như mở đầu của một loạt truyện dài kì, đã được kể ra; chúng tôi bắt tay và “bắt nến”, như một người nói, rồi đi ngủ. Ngày hôm sau, tôi biết rằng một lá thư kèm theo chìa khoá đã được gửi đến căn hộ của Douglas ở London vào chuyến bưu chính đầu tiên. Nhưng dù tin đó đã bị lan truyền cho mọi người, hay phải chăng chính vì lẽ đó, chúng tôi để anh yên cho đến sau bữa tối, thực tế là tới tận khi đã khuya đến mức thích hợp với bầu không khí mà kỳ vọng của chúng tôi tạo lập nên. Khi đó anh trở nên cởi mở đúng như chúng tôi mong muốn và cho chúng tôi lí do chính đáng nhất về thái độ cởi mở đó. Một lần nữa chúng tôi tụ tập trước lò sưởi trong đại sảnh để nghe anh kể, giống như tối hôm trước, khi chúng tôi bị anh khơi gợi tâm trí. Có vẻ như bản tường thuật mà anh hứa sẽ đọc cho chúng tôi nghe thực sự cần một lời mở đầu thích đáng. Tôi xin được nói rõ rằng bản tường thuật mà tôi trình bày dưới đây được lấy từ bản chép nguyên văn do chính tôi ghi lại nhiều năm sau đó. Douglas tội nghiệp đã gửi bản thảo cho tôi trước khi chết - khi anh thấy rõ cái chết sắp đến gần. Bản thảo đến tay anh vào ngày thứ ba của cuộc tụ tập và vào đêm thứ tư, tại đúng chỗ hôm trước, với sự truyền cảm mạnh mẽ, anh bắt đầu đọc trước đám đông quây quần. May thay, các quý cô hôm trước hứa sẽ ở lại cuối cùng lại thất hứa: họ đã rời đi theo lịch trình định sẵn, mang theo lòng hiếu kì sôi sục mà anh đã gợi lên trong tất cả chúng tôi, theo như lời họ thừa nhận. Nhưng điều đó chỉ khiến đám đông thính giả cuối cùng của anh thêm thu gọn và có chọn lọc, chia sẻ một đam mê chung, vây quanh ngọn lửa. Những dòng đầu tiên cho biết rằng bản ghi chép này được thực hiện tại thời điểm sau khi câu chuyện đã bắt đầu. Theo đó, người bạn cũ của Douglas - cô con gái út của một mục sư nông thôn nghèo - ở tuổi hai mươi, đã đến London để nhận công việc dạy học đầu tiên. Lòng đầy hồi hộp, cô tới gặp mặt trực tiếp người đăng quảng cáo tuyển dụng mà trước đó cô đã trao đổi qua thư. Khi cô trình diện tại ngôi nhà đồ sộ và bề thế trên phố Harley, ông chủ tương lai thể hiện mình là một quý ông độc thân lịch thiệp đang tuổi tráng niên; hình tượng như vậy chưa từng xuất hiện, trừ trong mơ hay tiểu thuyết, trước một cô gái đầy xúc động, hồi hộp, đến từ một ngôi nhà của mục sư vùng Hampshire. Mẫu người như anh không bao giờ lỗi thời. Điển trai, bạo dạn và nhã nhặn, tự nhiên, vui vẻ và nhân từ. Tất nhiên anh gây cho cô ấn tượng lịch thiệp và phong nhã, nhưng điều chinh phục cô hơn cả và cho cô lòng dũng cảm mà cô thể hiện về sau là việc anh đã coi toàn bộ công việc của cô như một ân huệ, một trách nhiệm mà đáng lẽ anh phải vui lòng đảm đương. Cô nhận thấy anh giàu có, nhưng cũng xa hoa đến khiếp đảm - cô đã thấy anh trong trang phục đắt tiền hào nhoáng, trong diện mạo đẹp đẽ, trong những thói quen đắt đỏ, trong vẻ phong lưu trước mặt phụ nữ. Nơi ở tại thành phố của anh là một ngôi nhà rộng lớn chứa đầy chiến lợi phẩm và đồ lưu niệm từ du lịch và săn bắn; nhưng nơi anh muốn cô đến ngay lập tức là ngôi nhà ở quê, một biệt thự cổ của gia đình tại Essex. Anh bị trao quyền giám hộ hai đứa cháu một trai một gái, con của người anh trai trong quân ngũ, sau cái chết của cha mẹ chúng tại Ấn Độ vào hai năm trước. Với một người đàn ông ở địa vị của anh - độc thân, không có cả kinh nghiệm lẫn chút ít kiên nhẫn nào - bọn trẻ là gánh nặng rất lớn. Điều này gây ra nỗi lo lớn cùng một loạt sai lầm, hẳn nhiên là từ phía anh, nhưng anh vô cùng xót thương bọn trẻ tội nghiệp và đã làm tất cả những gì có thể. Cụ thể thì anh đã gửi chúng về ngôi nhà khác của mình ở nông thôn, là môi trường thích hợp dành cho chúng, và để chúng ở đó với những người tốt nhất mà anh tìm được để chăm nom chúng, anh thậm chí đã cử chính những người hầu của mình đi phục vụ chúng, và về thăm chúng mỗi khi có thể. Điều khó xử là chúng không còn người thân nào khác, mà việc riêng của anh đã chiếm dụng toàn bộ thời gian. Anh đã cho chúng sở hữu Bly, một nơi an toàn và lành mạnh, đồng thời cử bà Grose, một người phụ nữ xuất sắc, làm người đứng đầu tại dinh cơ nho nhỏ của chúng. Bà Grose từng là hầu gái cho mẹ của anh và anh tin chắc vị khách của mình sẽ quý mến bà. Hiện giờ bà là quản gia và cũng tạm thời đóng vai trò chăm nom bé gái; may mắn thay, bà cực kỳ yêu quý cô bé, vì bản thân bà không có con cái. Còn có nhiều người giúp việc khác, nhưng tất nhiên cô gái trẻ chuẩn bị đến đó làm gia sư sẽ nắm quyền hành tối cao. Vào các kỳ nghỉ, cô cũng sẽ phải trông nom bé trai, cậu bé đã đi học được một kì - dù tuổi hơi nhỏ, nhưng còn cách nào khác đâu? - và chuẩn bị về vì kỳ nghỉ sắp bắt đầu. Trước đó từng có một cô gái khác trông nom hai đứa trẻ nhưng cô ta không may đã mất. Cô ta làm việc khá xuất sắc - là một người hết sức đáng kính - cho đến khi qua đời, dẫn đến tình huống khó xử khiến cho Miles bé nhỏ không còn lựa chọn nào khác ngoài trường học. Kể từ đó, bà Grose đã phụ trách dạy dỗ Flora trong khả năng của mình, về mặt phép tắc và lễ nghi. Ngoài ra còn có một đầu bếp, hầu gái, người phụ nữ phụ trách việc bơ sữa, một con ngựa lùn già, cùng người giữ ngựa, và một người làm vườn già, tất cả đều vô cùng đáng kính. Sau khi Douglas trình bày bối cảnh đến đây, có người đặt câu hỏi. “Thế cô gia sư trước chết vì cái gì? Chết ngộp trong đáng kính chắc?” Bạn tôi trả lời ngay tức khắc. “Sau này sẽ nói. Tôi không báo trước.” “Xin lỗi, tôi nghĩ báo trước chính là việc anh đang làm.” “Đứng từ vị trí của người kế nhiệm cô ta,” tôi gợi ý, “tôi sẽ muốn được biết nếu công việc đi kèm với…” “Nguy hiểm đến tính mạng?” Douglas nói tiếp suy nghĩ của tôi. “Cô ấy quả thực muốn biết, và cô ấy đã biết. Ngày mai anh sẽ được nghe chuyện gì cô ấy đã biết. Còn trước mắt, tất nhiên, viễn cảnh đối với cô có vẻ ảm đạm. Cô còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, đầy lo lắng: một viễn cảnh với nhiều trách nhiệm và ít bầu bạn, cùng nỗi cô đơn to lớn. Cô do dự - mất vài ngày đắn đo cân nhắc. Nhưng mức lương được trả cao hơn hẳn mức sống đạm bạc của cô. Cô đã nhận lời vào buổi phỏng vấn thứ hai.” Và đến đây, Douglas tạm dừng, khiến tôi góp lời thay mặt cho mọi người… “Mà cốt lõi của việc này tất nhiên là sức quyến rũ của chàng thanh niên phong nhã. Cô ấy đã bị chinh phục.” Anh đứng dậy và, như đã làm vào đêm hôm trước, bước về phía lò sưởi, dùng chân gẩy một thanh củi, rồi đứng quay lưng về phía chúng tôi trong chốc lát. “Cô chỉ gặp anh ta hai lần.” “Đúng vậy, nhưng điều đó càng nói lên tình cảm của cô ấy.” Tôi hơi ngạc nhiên khi Douglas nghe vậy và quay về phía tôi. “Chính là như thế. Có những người khác,” anh nói tiếp, “không bị chinh phục. Anh ta đã nói thành thật với cô mọi khó khăn của mình - rằng một số ứng viên khác cho rằng điều kiện công việc quá khắt khe. Vì lẽ nào đó họ thực sự e ngại. Công việc này nghe có vẻ tẻ nhạt - có vẻ kỳ quặc; và hơn hết là do điều kiện chính anh ta đặt ra.” “Đó là…?” “Là cô không bao giờ được làm phiền anh ta - tuyệt đối không bao giờ: dù là để yêu cầu, than phiền, hay vì bất kể lý do gì; cô chỉ có thể tự mình giải quyết mọi vấn để, nhận mọi khoản tiền từ luật sư của anh ta, đảm nhận toàn bộ trách nhiệm và để anh ta yên. Cô hứa sẽ làm như vậy, và cô kể với tôi rằng cô đã cảm thấy được đền đáp khi anh ta nắm lấy tay cô trong giây lát, vui mừng vì thoát khỏi gánh nặng, cảm ơn cô vì sự hi sinh.” “Nhưng cô ấy chỉ được đền đáp có như vậy thôi ư?” Một người trong cánh phụ nữ hỏi. “Cô ấy không bao giờ gặp anh ta nữa.” “Ôi!” Người phụ nữ nọ đáp. Và đó là từ duy nhất góp thêm vào chủ đề này, khi bạn chúng tôi lại một lần nữa lập tức bỏ chúng tôi mà đi, cho đến đêm hôm sau, bên góc lò sưởi, trong chiếc ghế thoải mái nhất, anh mở tấm bìa đỏ phai màu của một cuốn sổ mỏng viền vàng cũ kĩ. Cả câu chuyện mất hơn một đêm để kể, nhưng ngay khi có cơ hội, vẫn người phụ nữ hôm trước đặt một câu hỏi nữa. “Đầu đề anh đặt cho câu chuyện là gì?” “Tôi chưa đặt.” “Ôi, tôi thì có!” Tôi thốt lên. Nhưng Douglas không để ý đến tôi và bắt đầu đọc bằng giọng rành rọt như thể biểu đạt với tai người nghe vẻ đẹp của bút tích tác giả. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly của tác giả Henry James & Nguyên Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ác Quỷ Nam Kinh
Grey tới Tokyo để tìm kiếm một cuộn phim về cuộc thảm sát khủng khiếp ở Nam Kinh năm 1937. Nhiều người cho rằng đoạn phim đó không hề tồn tại. Người duy nhất có thể giúp cô là một nạn nhân sống sót sau vụ thảm sát. Nhưng người đàn ông luôn đề phòng người lạ này dường như lại không có gì để chia sẻ. Cô đơn và tuyệt vọng trong một thành phố xa lạ, Grey đành chấp nhận làm tiếp viên tại một hộp đêm cao cấp. Chính tại đây, cô đã gặp một ông trùm xã hội đen già, tàn tật. Người ta đồn rằng ông ta vẫn sống khỏe mạnh là nhờ một thần dược bí ẩn. Và từ đó, Grey phát hiện ra những sự kiện khủng khiếp nối liền hiện tại với quá khứ... Ra đời từ những trải nghiệm của Hayder tại châu Á, Ác quỷ Nam Kinh đã được thai nghén từ khi bà còn trẻ, trong một lần tình cờ nhìn thấy bức ảnh một người lính Nhật đang chặt đầu một thường dân Nam Kinh. Một cuốn sách đầy ám ảnh và hồi hộp. “Khi đọc một cuốn tiểu thuyết, hiếm khi người ta phải đưa tay lên bịt chặt miệng để chặn những tiếng thở hổn hển kinh hoàng. Với Ác quỷ Nam Kinh, không thể không tìm cách ngăn những tiếng hổn hển đó bật ra.” - Daily Express *** Năm 1937, thành phố Nam Kinh, Trung Quốc như chìm trong biển lửa địa ngục, và những người đã châm ngòi phóng hỏa thành phố này chẳng ai khác ngoài quân đội Nhật Bản. Suốt khoảng thời gian bị chiếm đóng, khắp Nam Kinh tràn ngập tiếng thét đau thương như những con thú bị xé toạc da thịt trước khi chết. Những gì xảy ra tiếp theo đã vượt quá cả những nỗi sợ hãi khủng khiếp nhất của người dân Trung Quốc khi quân xâm lược điên cuồng tiến hành các vụ tra tấn, cưỡng hiếp và giết người phanh thây trong suốt một tháng trời. Nhận thức rõ được sự việc kinh hoàng ấy, Mo Hayder đã cho ra đời quyển tiểu thuyết Ác quỷ Nam Kinh nhằm thay bà tố cáo tội ác mà chiến tranh gây nên. Lấy bối cảnh những năm 90, người đọc vào vai một nữ sinh viên người Anh được biết đến với cái tên Grey, một cô gái có vấn đề về tâm thần và dành phần lớn thời gian để tìm kiếm bằng chứng về vụ thảm sát ở Nam Kinh năm 1937, thứ cô cho là mục đích sống của mình. Gần như tuyệt vọng khi sự kiện ấy xảy ra ở một đất nước phương đông mà Grey thì lại tìm những thông tin về nó khi cô đang ở Anh. Cuối cùng, dốc hết khả năng của mình để đi tìm Sử Trùng Minh, một vị giáo sư xã hội học đang sống ở Nhật Bản và quan trọng hơn hết, ông ta có thứ mà Grey cần. Thế nhưng vị giáo sư kiên quyết chỉ cho Grey xem thứ bằng chứng ấy nếu như cô tìm được nguyên liệu của một loại thuốc hiếm nằm trong tay băng nhóm Yakuza khét tiếng ở địa phương. Sau những nỗ lực vượt qua khó khăn thử thách, Grey cũng tìm được cơ hội cho cô ấy. Hơn 380 trang sách là những sự kiện liên hoàng khiến cho người đọc khó lòng gấp sách lại mà chưa biết được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Sử dụng lối viết lôi cuốn tài tình của mình, Mo Hayder thúc độc giả càng đọc càng phấn khởi trước vẻ đẹp của đất nước Nhật Bản, càng thấy ớn lạnh trước quá khứ của những con người không được bình thường và càng thấy hãi hùng trước những tội ác mà quân đội Nhật Bản đã mang đến cho người dân Trung Quốc. Hồi hộp là cảm giác khó tránh khỏi Được Nhã Nam xếp vào thể loại Trinh thám – Kinh dị, thế nhưng đây không phải quyển tiểu thuyết trinh thám cổ điển. Yếu tố trinh thám ở việc Grey đi tìm kiếm sự thật và Sử Trùng Minh thì lẩn trốn sự thật ấy. Ác quỷ Nam Kinh không có bóng dáng của ma quỷ, không hù dọa khiến người đọc giật thót, tác phẩm mang đến một sự ớn lạnh đến rùng mình khi đọc những dòng tác giả mô tả cảnh giết chóc của quân đội Nhật Bản. Là nỗi kinh dị ám ảnh người đọc mãi sau khi kết thúc quyển sách, giống cái cách mà Thomas Harris từng làm đối với những tác phẩm của ông. “Khi đọc một cuốn tiểu thuyết, hiếm khi người ta phải đưa tay lên bịt chặt miệng để chặn những tiếng thở hổn hển kinh hoàng. Với Ác quỷ Nam Kinh, không thể không tìm cách ngăn những tiếng hổn hển đó bật ra”. – Trích Daily Express. Mạch truyện từ tốn nhưng logic với các sự kiện liên tục xảy ra khiến người đọc chưa khỏi bất ngờ bởi tình huống trước đó đã phải chứng kiến thêm một sự bất ngờ mới. Không dễ để thấu hiểu, quyển sách không phù hợp với tất cả mọi người, khuyến cáo không nên đọc khi chưa đủ 18 tuổi.  Tác phẩm được Mo Hayder xây dựng bằng một lối viết độc lạ. Dưới góc nhìn của Grey ở thời điểm Tokyo hiện đại, song song đó là lời tự thuật từ những trang nhật ký trốn chạy của Sử Trùng Minh lúc ông ở Nam Kinh vào mùa đông năm 1937. Bạn đọc hãy để ý đến ngày tháng trên những trang nhật ký của Trùng Minh để hình dung rõ hơn diễn biến sự việc.  Không giống với các tác phẩm viết về những vị anh hùng trong thời chiến đã góp công lao đánh đuổi giặc ngoại xâm. Ác quỷ Nam Kinh giúp người đọc biết được rằng cuộc sống của một con người bình thường trong chiến tranh loạn lạc như thế nào, rằng ông bà ta từng sống khổ sở đến nhường nào để thế hệ ta ngày hôm nay được an lành, hạnh phúc. Đó cũng là một trong những điểm đáng giá mà tác phẩm này mang lại.  Những nhân vật tượng trưng cho những mảnh đời trái ngang Khi một tác phẩm được cho là hay, thì nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác phẩm ấy có điểm gì đó thú vị, đặc sắc khiến người đọc thích thú hoặc ghét cay ghét đắng nhân vật đó. Ác quỷ Nam Kinh được xây dựng dựa trên các nhân vật mà hầu hết không ai là người tốt, cũng không hoàn toàn là người xấu.  Với hai nhân vật chính là Grey và Sử Trùng Minh: Một cô gái 20 tuổi đã trải qua những câu chuyện khủng khiếp không ai ngờ tới, một vị giáo sư già vác trên vai gánh nặng suốt 50 năm qua. Một người thì đầy vẻ quyết tâm đào bới tìm kiếm sự thật, còn một người thì cố chôn cất sự thật ấy sâu xuống dưới lớp bụi thời gian. Nhưng cả hai người họ lại gặp nhau, cùng giúp đỡ nhau vì những mối liên hệ sâu kín bên trong. “Thiếu hiểu biết không phải là tội ác” Grey vì thiếu hiểu biết mà gây ra sai lầm trong quá khứ. Cũng vì thiếu hiểu biết, cô tưởng rằng mọi người cũng nhận ra sự thật về Nam Kinh giống như mình. Sử Trùng Minh là một người kiêu ngạo nhưng vì thiếu hiểu biết, ông đã đẩy gia đình mình vào một hoàn cảnh khốn cùng, nguy hiểm. Grey là hóa thân cho những con người “điên rồ”, can đảm tìm kiếm sự thật bị lãng quên, bị sai lệch do “lịch sử được viết nên bởi kẻ thắng”. Còn Sử Trùng Minh tượng trưng cho những con người từng trải qua nỗi đau với mong muốn quên đi những gì mình đã từng chứng kiến, mong muốn sửa sai và tìm lại những gì mình đã mất. Những nhân vật khác như Jason, hai cô gái người Nga làm trong hộp đêm, gia đình Yakuza của Fuyuki, … có những tác động không nhỏ đến câu chuyện. Đặc biệt là mụ y tá Ogawa, kẻ sát nhân tàn nhẫn với sở thích tô điểm cho tội ác của mình, làm người đọc không khỏi rùng mình khi chứng kiến những đoạn nhân vật chính và mụ ta đối đầu với nhau. Tất cả những con người ấy đã đem đến một hệ thống nhân vật tương đối hoàn chỉnh cho câu chuyện mang đầy màu sắc u ám, kinh dị như thế này.  Tội ác chiến tranh được vạch trần  Số người chết tại Nam Kinh khi ấy là bao nhiêu? Là mười hay năm nghìn người? Tất cả rất mơ hồ khi thống kê số liệu lúc ấy còn gây nhiều tranh cãi. Người Nhật phủ nhận rằng họ không giết nhiều người đến thế, còn người Trung Quốc thì ngược lại. Thế nhưng ở Nam Kinh khi ấy đã có một cuộc thảm sát thật sự, và tác phẩm này là lời tố cáo tội ác đó.  Mo Hayder đã dành rất nhiều thời gian nghiên cứu về lịch sử, văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản để có thể viết nên một quyển tiểu thuyết xuất sắc, lay động trái tim người yêu văn chương trên khắp thế giới. Bà dùng con chữ của chính mình để vạch trần tội ác của quân Nhật cũng như chiến tranh đã gây ra. Một tổn thương rất lớn. Những thông điệp trong tác phẩm này được bà lồng ghép vào rất tài tình khiến cho người đọc dễ nhận ra và trầm trồ thán phục.  Câu chuyện hư cấu mà Hayder viết ra là một sự kiện có thật ngoài đời. Nỗi kinh hoàng ở Nam Kinh năm 1937 với những cột người chết, với những quả đồi thây người, với những người phụ nữ bị hãm hiếp, những nạn nhân bị thiêu cháy, những trẻ em bị giết chóc dã man, tàn nhẫn, … đã tạo ra một làn sóng phẫn nộ của người dân trên khắp thế giới. Tấm bi kịch ấy tưởng chừng bị lãng quên lại được đánh thức và kết quả tốt lành nhất: sự thật phũ phàng cuối cùng cũng được trả lại cho lịch sử. Gấu Mèo *** Mo Hayder là một tác giả người Anh của tội phạm và tiểu thuyết ly kỳ. Cô là tác giả của mười cuốn tiểu thuyết. Tác phẩm đầu tay của cô, Birdman, được xuất bản vào tháng 1 năm 2000 và là một cuốn sách bán chạy quốc tế. Mời các bạn đón đọc Ác Quỷ Nam Kinh của tác giả Mo Hayder.
Bóng Ma Nhà Mệ Hoát - Vũ Bằng
Đời sống tâm linh là phần sâu lắng trong tâm hồn con người, khó mà giải đáp theo khoa học. Đó là sự tiếp cận với một thế giới thiêng liêng, huyền ảo, có phần mơ hồ nhưng lại cụ thể, thậm chí trở nên gần gũi, tạo cho con người có một niềm tin huyền bí nhưng thiết thực trong cảm nghiệm – đi tìm chỗ dựa ở những giá trị đã ổn định trong quá khứ. Con người tìm đến một thế lực linh thiêng để cầu mong được an ủi và phò trợ. Trong đời sống tâm linh của dân tộc Việt Nam, trời, chúa, phật, thần linh, thành hoàng và tổ tiên là những đấng tối cao mà người dân có thể tìm đến. Bóng ma nhà mệ Hoát là những sáng tác mà trong đó, Vũ Bằng thể hiện rõ quan niệm về linh hồn, về con người ở cõi âm. Đó là những truyện được viết theo lối huyền thoại, vừa có yếu tố tâm linh, vừa mang yếu tố hiện thực, mang tính chất bí ẩn khoa học dường như chưa lí giải được và có khi còn được xem là truyện ma quái. Nó là tiếng nói riêng của Vũ Bằng về những điều kỳ bí của thế giới tâm linh. *** Quả tình đến tận lúc bấy giờ tôi mới biết Trần Hữu Lăng là người Nhật .   Giao thiệp với ông ta mười một năm trời, tôi cũng như bao nhiêu bạn bè khác đều yên trí Lăng là người Miên lai các chú, rồi làm ăn giàu có ở Cam Bốt, rồi vì lý do gì đó trở về đây để sống một cuộc đời yên ổn. Chính vì thế điệu bộ hơi ngờ nghệch, cái giọng lơ lớ không ra Tàu không ra Việt của ông không làm cho người nào trong bọn chúng tôi phải lấy làm ngạc nhiên.   Lăng ít nói, ngồi chuyện trò ở chỗ đông người thường thường chỉ cười tán thành, ít khi chống đối ai. Nói cho đúng ai cũng thương ông và công nhận ông là người thật thà. “Mà lại hiền lành tệ!”. Nhưng cũng như hầu hết người hiền lành khác, Lăng có tính cộc. Tôi còn nhớ một hôm ngồi nhậu với nhau ở hàng hiên nhà một người bạn, chỉ vì một câu đùa cợt không đâu, Lăng không tiếc lời chửi rủa một người bạn đã nói rằng y mê gái và định lấy con gái một chủ vựa cá ở Cầu Ông Lãnh.   Lăng trợn mắt la lên:   - Tôi lấy con gái một người bán cá? Không đời nào. Nhất định là anh lầm rồi!   Thấy Lăng đỏ mặt, tía tai, tỏ ra tức giận, người bạn chọc thêm:   - Thôi mà, chỗ anh em thân cả, việc gì mà phải giấu. Chính bố cô ta đã nói thế với bà con họ hàng. Thêm một lẽ nữa, nói ra anh phải chịu, không cãi vào đâu được. Ba Quẫy, tức là bố cô gái, làm gì có tiền để mở vựa cá? Tiền ấy, cả làng biết là của anh ...   Tuyệt nhiên không biết là bạn bè chọc mình trong lúc ngà ngà say rượu để anh em vui vẻ với nhau, Lăng cầm ly rượu ném xuống đất, đứng lên, nhất định không uống nữa.   - Tôi không thể ngồi với một người vu cáo tôi như thế. ... Mời các bạn đón đọc Bóng Ma Nhà Mệ Hoát của tác giả Vũ Bằng.
Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt
Có rất nhiều truyền thuyết lưu truyền về những kẻ sát nhân hàng loạt. Chúng thường có mặt trong hồ sơ của những chuyên gia tâm lý. Những kẻ sát nhân hàng loạt này thường có cùng một kiểu nạn nhân, hoặc cùng một kiểu giết người. Như thể họ thông minh hơn người thường, không thể cưỡng lại ham muốn hay dục vọng giết người. Sự thật không đơn giản như vậy, có rất nhiều kiểu sát nhân hàng loạt. Cuốn sách đưa ra những ví dụ về nhiều kiểu sát nhân hàng loạt. Những kẻ sát nhân hàng loạt sống hai cuộc đời, trốn tránh giữa xã hội và sống cuộc đời ác thú của mình. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt không chỉ miêu tả lại những tội ác rùng rợn mà còn miêu tả sâu sắc và khách quan những biến đổi tâm lý của những Jack Đồ Tể, Ted Bundy... Cuốn sách được dịch bởi nhóm dịch Tâm Lý Học Tội Phạm. *** Rất nhiều người vẫn cho rằng Jack Đồ Tể_tên sát nhân nổi tiếng ở Luân Đôn_chính là kẻ giết người hàng loạt đầu tiên trên thế giới. Quan niệm sai lầm này xuất phát từ việc điều tra và xâu chuỗi lại một loạt án mạng xảy ra tại thời điểm đó. Năm tội ác được quy cho “Jack bất trị” trong suốt sáu tuần lễ kinh hoàng của hắn ở Whitechapel, Luân Đôn; đây cũng là loạt tội ác liên hoàn đầu tiên diễn ra ở một thành phố lớn một cách quá nổi bật khiến nó thu hút sự chú ý của truyền thông trên toàn thế giới. Tuy nhiên, hãy đặt nó trong một bối cảnh phù hợp, có vậy chúng ta mới nhận thức đúng đắn về sự phổ biến của những tên sát nhân liên hoàn cũng như mức độ đa dạng trong phương thức và động cơ của chúng xuyên suốt chiều dài lịch sử. Một điểm chắc chắn là yếu tố văn hóa có ảnh hưởng nhất định đến biểu hiện của sát nhân liên hoàn, vì vậy việc nghiên cứu bối cảnh xảy ra vụ việc là vô cùng quan trọng. .. Mời các bạn đón đọc Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt của tác giả Katherine Ramsland.
3 Đêm Trước Giao Thừa - Ryu Murakami
Được độc giả Việt Nam biết tới qua một số tác phẩm tiêu biểu như 69, Xuyên thấu, Màu xanh trong suốt hay gần đây nhất là Thử vai, cái tên Ryu Murakami đã ngày trở nên quen thuộc và gắn liền với những cuốn sách về đề tài xã hội Nhật đương đại. Chính giọng văn điềm tĩnh, tỉnh táo và có đôi khi còn hơi lãnh đạm nhưng lại thấm đẫm hơi thở cuộc sống đã đưa tên tuổi Ryu Murakami vươn lên tầm cỡ văn đàn thế giới, không hề kém cạnh người đồng nghiệp – đồng hương Haruki Murakami. *** 3 Đêm Trước Giao Thừa: Đằng sau câu chuyện về chuyến hành trình 3 đêm trước giao thừa qua các chốn ăn chơi quanh Kabukicho của hai nhân vật chính: Kenji, chàng thanh niên người Nhật vừa bước sang tuổi 20, hướng dẫn viên và Frank, ông khách ngoại quốc có khuôn mặt kỳ dị, một kẻ giết người máu lạnh... là hình ảnh đa diện của xã hội Nhật Bản và ý nghĩa của những điều thức tỉnh con người... Cuối cùng Frank đã đưa cho Kenji cả "cánh của con thiên nga". Có vẻ như cái mà ông ta nhận được không đơn giản hòa tan vào văn hóa Nhật Bản, thế giới của xúp Miso một cách dễ dàng. Và còn rất nhiều điều đang bỏ ngỏ... *** Tên tớ là Kenji. Tên tôi là Kenji. Tôi là Kenji. Mình là Kenji. Tôi tự hỏi sao trong tiếng Nhật lại có nhiều cách nói như thế làm gì? Tôi đã quyết định nói với ông khách người Mỹ bằng câu tiếng Anh: "My name is Kenji". Người khách Mỹ đó đã nhìn tôi rất vui vẻ và nhắc lại tên tôi một cách thích thú. Sau đó tôi cũng đã bắt tay người khách du lịch đến từ Mỹ có vóc dáng hơi mập ấy. Ông ta ở khách sạn nằm ngay gần nhà ga Seibu-Shinjuku đạt tiêu chuẩn giữa hai sao và ba sao. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Frank. Sau này tôi nhớ mãi không quên. Tôi vừa tròn hai mươi tuổi nên trình độ tiếng Anh chưa thể coi là thành thạo nhưng cũng đủ để có thể làm hướng dẫn viên du lịch. Với lại, làm hướng dẫn viên du lịch fuzoku (nơi mua bán dâm) nên cũng không cần tiếng Anh phải siêu sao cho lắm. Từ sau đại dịch AIDS, ở các fuzoku, gaijin (người mua dâm) không được chào đón, hay nói một cách khác nặng nề hơn là tẩy chay. Tuy vậy, người nước ngoài đến với mục đích du lịch hay vui chơi lành mạnh vẫn rất đông. Tôi thường giới thiệu cho họ địa chỉ hộp đêm, phòng mát xa, quán bar SM có độ an toàn cao. Và mỗi lần như vậy tôi lại kiếm được chút ít. Tôi không trực tiếp đi làm thuê cho một ai mà cũng không có cả văn phòng riêng, thực ra là tôi chỉ đăng những mẩu tin “tự-quảng-cáo" trên các tạp chí du lịch dành cho người nước ngoài. Chỉ thế thôi mà tôi cũng đã có thể vừa trả được tiền thuê một căn hộ nhỏ ở quận Meguro, vừa dẫn được bạn gái đi ăn thịt nướng, hay mua những bản nhạc tôi thích, những cuốn sách tôi mê. Mẹ tôi, hiện đang làm việc tại một cửa hàng bán âu phục ở tỉnh Shizuoka, vẫn cứ tưởng rằng tôi đang học dự bị ở một trường nào đó. Bà đã phải một thân một mình nuôi tôi kể từ khi bố tôi mất, hồi đó tôi đang học lớp Sáu. Mấy đứa bạn tôi thường cãi lại hay thậm chí còn đánh cả mẹ chúng nhưng tôi thì không bao giờ. Tôi biết bà rất buồn khi tôi không có ý định vào đại học. Tôi không đủ khả năng học để tìm được việc liên quan tới khoa học hay toán học, còn nếu học văn không thi ra trường thì đi làm những việc đơn thuần là làm công ăn lương tẻ nhạt. Không biết có thực hiện được hay không nhưng tôi vẫn muốn kiếm thật nhiều tiền để có thể sang Mỹ. "Văn phòng của Kenji phải không? Tôi là Frank đến từ Mỹ." Ngày 29 tháng 12 năm ngoái, lúc đã rất khuya, tôi nhận được một cú điện thoại với câu giới thiệu đó. Khi ấy, tôi đang đọc tờ báo có đăng tin một nữ sinh cấp III bị sát hại. Chân và tay của cô gái bị cắt rời, rồi bị vứt vào một bãi rác ở Kabukicho ... Mời các bạn đón đọc 3 Đêm Trước Giao Thừa của tác giả Ryu Murakami.