Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gót Sen Ba Tấc - Phùng Ký Tài

Sau năm 1977, văn học Trung Quốc bước vào một thời kì mới, thời kì nhà văn dám viết sự thật về những mất mát sâu xa do “đại cách mạng văn hóa” và những chính sách quá tả trước đó gây ra. Cả một thế hệ đông đảo các nhà văn trẻ ra đời: thế hệ thứ năm, và lập tức trở nên nổi tiếng. Họ chẳng những là nhân chứng mà còn là nhân vật chính trong tấn bi kịch khủng khiếp rộng lớn khắp Trung Hoa. Cơn lốc Hồng vệ binh đã cuốn họ vào các cuộc kiểm điểm, phê bình, đấu tố, cải tạo tư tưởng bằng học tập “trước tác” hoặc bằng lao động khổ sai. Chính trong thời gian mười năm đó (1966-1976), họ đã có dịp hòa nhập vào thực tế, có dịp suy ngẫm lại về cuộc đời và về số phận con người, đã thai nghén hoặc phác thảo xong những tác phẩm tâm huyết chỉ chờ dịp công bố cùng bạn đọc.  Phùng Ký Tài là một nhà văn "ngẫu nhiên" và "tất nhiên" trong cả loạt nhà văn nói trên. Ông sinh năm 1942 ở thành phố Thiên Tân. Năm 1960, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông tham gia đội bóng rồi chuyển sang làm giáo viên dạy mĩ thuật. Trong thời gian cách mạng văn hóa, những lần bị đưa ra đấu tố và lao động cực nhọc ở nông thôn đã làm giàu cuộc đời sáng tác của ông. Năm 1978 ông bắt đầu sáng tác và liên tiếp có truyện in từ bấy đến nay. Về truyện dài có Nghĩa hòa quyền (viết chung với Lý Định Hưng), Đèn thần; về truyện vừa có Ngả đường nở đầy hoa, A! (giải truyện vừa ưu tú toàn quốc năm 1977-1980), Trên cả tình yêu, Dấn mình trong mưa gió, Roi thần (giải truyện vừa ưu tú toàn quốc 1983-1984), Cảm tạ cuộc đời (giải ưu tú của tạp chí Tuyển chọn truyện vừa), Gót sen ba tấc v.v..; về truyện ngắn có Chiếc tẩu thuốc khắc họa (giải Truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978-1984), Người đàn bà cao lớn và anh chồng lùn, v.v...  Một loạt tác phẩm trên đây cho thấy Phùng Ký Tài không chỉ sở trường về đề tài hiện thực đương đại mà cả về đề tài phong tục, lịch sử. Ở đề tài thứ hai, văn phong của ông thiên về dí dởm, hài hước, tươi vui; còn ở đề tài thứ nhất, ông viết nghiêm túc, sâu sắc, chân thực, cảm động, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong người đọc. Bới vậy một số truyện tuy không được giải thưởng song vẫn được giới lí luận chú ý nghiên cứu về nghệ thuật dẫn truyện và hình tượng nhân vật của ông. Năm 1987, Trung tâm truyện ký Mĩ tặng ông huy chương danh dự Danh nhân thế giới trong năm. Ông còn có tên trong cuốn Người trí thức nổi tiếng thế giới của Anh và Nhân vật kiệt xuất thế giới của Mĩ.  Gót sen ba tấc là chuyện chương hồi "hiện đại" viết về số phận Qua Hương Liên, một cô gái con nhà nghèo có đôi bàn chân bó xinh đẹp, qua đó cho thấy một tập tục kì cục, tàn nhẫn, dã man. Tập tục này không bắt nguồn từ tôn giáo như nhiều tập tục kì lạ của nhiều dân tộc trên thế giới, mà bắt nguồn từ một quan điểm thẩm mĩ quái gở của người khác giới với chị em, những người đàn ông có quyền thế ngang trời là vua chúa Trung Quốc, sau khi đã chơi chán các kiểu "búp bê" - như sau này nhà văn lớn Na Uy Henrik Ibsen đã gọi đúng tên những người phụ nữ bị coi là đồ chơi cho đàn ông - có dung nhan chim sa cá lặn, liền chuyển ánh mắt thích thú sang hình thể của họ, hết kiểu "búp bê" thắt đáy lưng ong, thon thả, nhẹ nhàng để có thể đứng trên tay, trên mâm mà múa như Triệu Phi Yến, sủng phi của Hán Thành Đế, lại đến kiểu "búp bê" bụ bẫm, mũm mĩm đến mức thị tì nâng dậy mà cứ mềm oặt, không đứng lên được như Dương Quý Phi của Đường Mạnh Hoàng. Rồi không biết tự lúc nào, cái thú chơi bệnh hoạn của họ lại chuyển xuống đôi chân của chị em, muốn bàn chân trời sinh của các nàng cung phi cũng phải biến thành những mầm măng, ý hẳn để cho xứng với búp măng là những ngón tay thon thon trắng xinh của họ chăng? Hay là để cho chị em, dù đã có người xốc nách, mỗi khi bước đi, vẫn còn chập chững, chệnh choạng như say, thảng thốt, kinh hoàng như chim hồng mất vía - như dáng đi đứng của người đẹp từ lâu được ca ngợi trong thơ? Có lẽ cả hai và chắc là còn nhiều thú vị khác nữa, mà những người đàn ông quyền thế tìm thấy ở những đôi gót sen nọ. Chỉ có một điều là những người đàn ông đó không một ai nghĩ đến nỗi khổ của chị em khi bị bó chân nhỏ lại chỉ còn ba tấc ta, nỗi đớn đau khôn tả cả về tinh thần và thể xác buộc phải làm cho đôi chân mình biến dạng. chẳng khác nào nỗi đau đớn khi muốn biến cái đuôi mình thành đôi chân để được yêu như nàng tiên cá trong truyện Andersen.  Gót sen ba tấc chẳng những chỉ viết về những điều kể trên mà còn cho thấy bi kịch của con người khi không làm chủ được mình, để cho hoàn cảnh xô đẩy trở nên tha hóa, dẫn tới một cái ta khác hẳn với cái tôi ban đầu. Qua Hương Liên ngây thơ, hiền lành từ nạn nhân đáng thương của tục bó chân, của thú chơi đồ cổ, dần dần cũng bị chôn vào các cuộc xâu xé, tranh giành quyền lực để rồi trở thành tội nhân đáng tàn nhẫn, ngoan cố, song cũng đầy mâu thuẫn. Phần chìm này trong Gót sen ba tấc cũng giống như phần chìm trong phim Đèn đỏ treo cao của đạo diễn Trương Nghệ Mưu sau này - một phim viết cùng về đề tài búp bê, dù rằng do đặc điểm thể loại và bút pháp, Gót sen ba tấc đề lại ấn tượng cho bạn đọc một cách khác. Gót sen ba tấc đăng lần đầu trên tạp chí văn học cỡ lớn Thu Hoạch số 3 năm 1986. Đây là truyện vừa thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết viết về chủ đề suy ngẫm lại về văn hóa của Phùng Ký Tài mà tập đầu là Roi thần (1984) và tập ba là Âm dương bát quái (1988). Cả ba đều đã được dịch ở Nhật, riêng Gót sen ba tấc còn được dịch ở Mĩ và ở Đức. *** Người ta bảo trong đôi chân bó nhỏ xíu ẩn giấu cả một pho lịch sử Trung Quốc, câu ấy thật sâu sắc! Bàn chân nhỏ dài chừng ba tấc,1 chỉ dài hơn điếu thuốc lá một tẹo, mà quanh năm, suốt đời vải bó kín mít, ngoài cái mùi bốc lên, phỏng còn có gì trong đó nữa? Lịch sử trải qua từng chặng từng chặng một. Triều này hưng thịnh, triều khác suy vong. Hưng hưng suy suy làm cho dân chúng sống không yên, trở ngại việc ăn uống, trở ngại cả việc mặc áo quán, cư trú, nhưng không trở ngại đến việc bó chân. Từ Lí Hậu chủ đến ngài Tuyên Thống,2 sự bó chân của đàn bà đã được một ngàn năm, giữa chừng thay đổi biết bao triều đại, thay đổi biết bao niên hiệu, chân chẳng cứ bó mãi đó sao? Lịch sử can thiệp đến nó mà làm gì? Trên từ thái hậu, cung phi, dưới đến gái quê, nhà chài, văn như Lí Thanh Chiếu,3 võ như Lương Hồng Ngọc,4 ai chẳng bó? Chỉ có khỉ là không bó, tôi tin vậy. Khi người Mãn Thanh tràn qua biên ải, họ ra một đạo lệnh bắt người tộc Mãn không được bó chân, lại còn bắt người Hán phải cởi chân đã̃ bó ra. Cái đận ấy nhà Thanh làm dữ lắm, nhưng dù dữ cũng dữ không nổi với chân bó. Vả lại, dữ hay không, không thể chỉ nhìn vào một lúc. Rốt cuộc, người tộc Hán vẫn bó theo lệ rồi con gái tộc Mãn cũng giấu cha giấu mẹ, lẳng lặng lấy vải bó chân thành "lát dưa". Như vậy là trong bàn chân bó hẳn phải có phép ma nào đó. Ma hay không, khoan hãy nói. Chỉ riêng bàn về quy củ, tài nghệ, độ tinh xảo mức công phu, kiểu cách, biện pháp, kĩ xảo, bí mật của cái trò đó, ít ra cũng phải nói vài ba ngày trời. Đó là cả một môn học vấn. Tôi không hề muốn giấu một vị nào, trong những chương sau đây đều có chép cả. Nếu vị nào chưa hề nghiên cứu, ngàn lần xin đừng góp chuyện bừa. Vị bảo bó chân thật khổ, nhưng bó rồi cũng thật đẹp đấy! Vị chửi chân bó xấu, hừm, chân bó lại mắng vị mới xấu kia! Nếu triều Thanh không đổ, làm sao có khóc có cười, muốn sống muốn chết, bó rồi cởi, cởi rồi bó, lại bó lại cởi, lại cởi lại bó? Người thời bấy giờ thật sự coi chân bó hơn cả đầu óc. Nhưng các vị chớ có tưởng bây giờ tiệt nòi chân bó thì vạn sự đại cát. Không bó chân thì có thể bó tay, bó mắt, bó tai, bó óc, bó lưỡi, rồi cũng lại có khóc, có cười, muốn sống, muốn chết, bó bó cởi cởi, cởi cởi bó bó, cởi bó bó cỏ, bó cởi cởi bó. Chuyện này mà tiếp tục nói thì còn kéo đi xa nữa. Ở đây chỉ kể một câu chuyện về bó chân thôi. Câu chuyện vốn kèm theo bốn câu sau đây:  Bảo giả toàn là giả,  Bảo thật, thật cả thôi. Đọc tới khi hứng thú, Thật giả chẳng đôi hồi. Các vị cứ việc pha một ấm trà nhài, cùng với kẹo vừng làm bằng đường củ cải đỏ vừa ăn vừa uống, giở một chương, đọc một chương coi như trò vui vậy. Nếu bỗng nhiên vị nào vỗ trán, tự cho giác ngộ một điều gì, thì chớ vội nói bừa, không chừng vì bốc máu lên đầu, nghĩ lầm đấy! * * *   Hôm ấy, vệ Thiên Tân như bị ma làm. Vào ngày ấy, tất cả những việc lạ lùng bình nhật không được thấy, không được nghe đều đua nhau xảy ra, chẳng ai ngăn cản được. Trời vừa mới rạng còn chưa sáng hẳn, không mưa không gió, thế mà góc thành phía Đông Nam đang yên lành bỗng ầm ầm lở một mảng lớn như bị đại bác bắn trúng vậy. Chuyện lạ lùng cứ từng việc từng việc nối tiếp nhau.  Trước hết, bậc đại thiện họ Lí xã Bị Tế, am Địa Tạng ở Hà Đông, đầu bỗng bốc hỏa, sai nấu một trăm nồi cháo hoa bố thí cho người tàn tật khắp thiên hạ. Lời vừa nói ra, tiếng chưa tan hết, hầu như tất tật người nghèo túng trong toàn thành, nào mù, điếc, câm, thọt, bại liệt, dở hơi, cho chí rụng tóc, rách môi, chột, gù, sẹo mắt, nói lắp, vẹo cổ, chân vòng kiềng, tay sáu ngón, rỗ trắng, rỗ đen đều kéo đến. Cả đau mắt đỏ, má sưng cũng chen vào, như rừng hoa vây chặt lấy nhà nấu cháo của họ Lí, chẳng khác gì lũ quỷ trong bức tranh người chết cạn, kẻ chết đuối kéo nhau ùn ra. Cả một vùng khiếp vía chẳng ai dám ra đường, trẻ con nín khóc, chó không dám sủa, gà chẳng đậu bờ tường, mèo chẳng lên nhà trên. Vệ Thiên Tân chưa bao giờ có cảnh lạ lùng như thế.  Cùng ngày, tại nhà ông lớn họ Viên, lí trưởng cửa Bắc có chân trong Ty vận chuyển muối cũng xảy ra một việc lạ lùng. Bà cả ăn táo răng ngựa bị hột táo chẹn ngang họng, nuốt bánh, chiêu nước, uống dấm, khạc khan, vừa nhẩy lò cò vừa xách một tai đều chẳng ăn thua. May nhờ một người bán thuốc ê cho con rắn nhỏ dài chừng hơn một gang chui vào cổ đẩy hột táo rơi xuống bụng. Ông lớn họ Viên thưởng cho năm chục lạng bạc. Nào ngờ chẳng bao lâu chú rắn giở trò trong bụng bà lớn, đau đến nỗi bà lớn lăn từ trên giường xuống dưới đất, rồi đấm bụng, đập đầu vào tường. Tìm đến người bán thuốc ê thì gã đã mất hút. Một bà già hiểu biết nhiều chuyện vội vàng bảo người mang kiệu khiêng bà lớn đến Ngũ Tiên đường ở tận đầu phía Tây. Ngũ Tiên đường thờ năm vị đại tiên là Hồ, Hoàng Bạch, Liễu, Xám. Hồ là hồ li, Hoàng là chồn vàng, Bạch là nhím, Xám là chuột, Liễu là rắn. Bà lớn vừa chổng mông rập đầu được ba cái, bỗng thấy hậu môn ngưa ngứa, rồi loạt xoạt con rắn tuồn tuột chui ra. Thế có lạ lùng không? Nghe đâu chỉ vì bà lớn sớm ngày hôm ấy dẫm chết một con rắn nhỏ bên bờ giếng và người bán thuốc ê chính là vị đại tiên, tinh loài rắn biến ra. Chuyện lạ lùng không chỉ có hai việc trên. Ngày hôm ấy, có người ăn món cua bể ở nhà hàng Tụ Hợp thành phố Bắc Cũng, khi lật mai cua nóng hôi hổi ra, bên trong thấy ngay một hạt ngọc, tròn chằn chặn, sáng chói mắt. Từ xưa tới nay, ngọc chỉ có trong trai, chứ ai nghe ngọc có trong mai cua bao giờ? Hạt ngọc ấy không biết béo bở cho con cái nhà nào, chỉ biết nhà hàng buôn may bán lớn. Người kéo đến ăn cua nhiều hơn cả cua. Việc ấy lạ nhưng chưa phải là nhất. Việc lạ hơn còn ở đằng sau. Có người kể thấy một con cá chúa, mình bạc mắt vàng dài một trượng hai (có người nói dài ba trượng sáu) men theo sông đào ở phía Nam để xuôi về Nam, trưa ngày hôm ấy sẽ bơi qua ngã ba sông, vào sông Bạch Hà để ra biển Đông. Tới giữa trưa đã có mấy nghìn người đứng trên đê chờ cá chúa. Người đông, sức nặng đê chịu không nổi, ầm một tiếng sạt một mảng; hơn trăm người rơi xuống sông như thả bánh trôi. Một đứa bé bị sóng cuốn đi, chưa ai kịp nhảy xuống cứu đã không thấy chỏm đầu đâu nữa, hẳn là chết đuối. Không ngờ, một ông chài quăng lưới đánh cá trước cửa cũng Đức Bà, lưới vừa kéo lên thấy cái gì trăng trắng hồng hồng, ngỡ là cá chép bự, hóa ra thằng bé vẫn còn thở, xóc vài ba cái đã chớp mắt đứng dậy được rồi. Những ai có mặt đều ngẩn người ra, chuyện này lạ hết mực rồi còn gì nữa? Ngờ đâu đến trưa chuyện lạ lùng không những không giảm mà còn tăng thêm, xảy ra ngay tại phủ đường.  Số là bọn cân quấy ở góc thành Đông Bắc và ở phố Hà Bắc đánh nhau, thuận tay phá tan bốn mươi tám cửa hàng buôn bán ở phố Hàng Nồi, làm kinh động đến ngài Quan sát trưởng đạo binh bị. Ngài bèn cử những người giỏi trong đội săn bắt tóm ngay hai thằng đấu sỏ là tên Phùng Xuân Hoa và tên Đinh Lạc Nhiên giam trong cui đứng, đặt ở cửa công đường, hai bên tả hữu mỗi bên một đứa. Lập tức bốn năm trăm thằng lỏi càn quấy kéo đến, đứa nào cũng cầm một bản Bài ca sám hối của lũ càn quấy. Bài ca này do ngài Quan sát trưởng phát cho mỗi thằng càn quấy ở trong thành một bản vào dịp ngài đến Thiên Tân nhậm chức ngày hai mươi lăm tháng Mười năm ngoái, để cho đứa nào cũng thuộc lòng mà bỏ ác theo thiện. Hôm ấy, chúng kéo đến quỳ đen đặc cả cổng nha môn, cầm giấy đồng thanh đọc: Bọn càn quấy, đến phủ quan, nhờ ơn giáo huấn,  Bọn càn quấy, nay về sau, sửa loại đổi mình. Nghĩ kĩ rồi, việc trước đây, nhiều điều ngang ngạnh, Đánh đập người, sống hay chết, chẳng thèm ngó ngàng. Dù ngẫu nhiên, trốn pháp luật, may mắn một lúc,  Sẽ có ngày, bị tróc nã, trói đến cửa quan. Bị đóng gông, bị xiềng xích, cực hình chịu đủ, Ngàn lần khổ, trăm thứ tội, chống đỡ khó đành. Đọc đến đây, mấy trăm thằng lỏi đổi sắc mặt, gân xanh trên trán nổi lên, mắt bắn ra những tia dữ tợn, răng nghiến kèn kẹt chẳng khác gì bốn năm trăm con chuột cùng gặm đồ. Ngài Quan sát trưởng ngồi ở nhà sau nghe thấy tiếng đó thì run từ trong lòng run ra, khắp người nổi da gà. Quan vốn là người to gan lớn mật nhưng chống không nổi âm thanh ghê rợn đó, đến nỗi run lẩy bẩy như phát sốt phát rét. Ba chén rượu mạnh xuống đến dạ dầy cũng không át nổi nỗi sợ, quan đành gọi người ra tháo cũi mở lồng. Bọn càn quấy vừa tản ra về, da gà trên mình quan cũng lập tức lặn hết. Lại nói, nha môn trên huyện có việc còn lạ lùng hơn nữa. Mười bảy nhân vật vốn có máu mặt, có tên tuổi, bình nhật cũng là những kẻ hiếu sự, hôm ấy liên danh làm đơn tố cáo những việc làm bậy bạ của bọn hút thuốc lá ở chợ đằng Tây. Bao thuốc vẽ toàn những con đầm hở tay, hở cổ, hở nửa đùi, câu khách thanh niên du đãng. Bọn này ngỏng cổ trợn mắt lên nhìn như chỉ muốn đâm đầu vào bao thuốc lá. Lời lẽ trong tờ trình rất hùng hồn, nói rằng đó là do bọn Tây cố ý làm hư hỏng dân Trung Quốc chúng ta, "làm bẩn mắt ta là làm bẩn lòng ta; hại đến lòng ta tức là làm mất nước ta vậy." Lại còn nói: "Độc hại của thuốc lá còn hơn thuốc phiện, không nghiêm ngặt cấm tiệt là không xong!" Lệ xưa nay, võ biền gây sự bên ngoài, văn nhân gây rối bên trong! Cho nên văn nhân gây rối lại càng dữ, mà lần này là gây với người nước ngoài. Chuyện lạ lùng dính cả với Tây. Vệ Thiên Tân có câu tục ngữ:  Ai mà động đến người Tây, "Trò vui" ắt có mai này cho coi.  Rồi xem, vạ lớn đến nơi rồi! Quả nhiên, ngay ngày hôm ấy có người từ tô giới đến báo rằng việc lớn bất lợi to rồi. Các phố ở tô giới đều dán tờ Lệ cấm ở tô giới gồm tám khoản sau đây: 1. Cấm gái điếm. 2. Cấm ăn mày. 3. Cấm tụ tập đánh bạc, uống rượu, ẩu đả nhau. 4. Cấm đổ rác, đồ bỏ, đất bẩn ra đường. 5. Cấm đái ven đường. 6. Cấm trèo cây bắt chim. 7. Cấm lừa, ngựa, xe, kiệu tùy tiện đỗ lại. 8. Cấm cưỡi ngựa phi, phóng, hoành hành đuổi bắt, đua nhau trên đường.  ... Mời các bạn đón đọc Gót Sen Ba Tấc của tác giả Phùng Ký Tài.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mãi Yêu Em
Một câu chuyện '' kinh dị '' khoác áo diễm tình, kể về Judith - cô chủ tiệm bán đèn thông minh, xinh đẹp, song bị xếp vào diện ''quá lứa lỡ thì'' tình cờ gặp được một chàng kiến trúc sư lịch lãm với hành tung bí ẩn. Tác phẩm đã để lại ấn tượng đẹp với độc giả về giọng văn hóm hỉnh của Daniel Glattauer, khắc họa câu chuyện tình yêu giữa nàng Judith 37 tuổi, chủ hiệu bán đèn với chàng kiến trúc sư Hannes, 42 tuổi. Phía sau câu chuyện tình yêu ấy là nỗi sợ tình yêu cưỡng áp, dẫu nó được ngụy trang bằng muôn vàn yên ấm, để rồi qua đó, tác giả truyền tải thông điệp trong tình yêu phải có sự tôn trọng từ cả hai phía, không được trói buộc. *** Cuốn tiểu thuyết “Mãi yêu em” của nhà văn Daniel Glattauer không phải là kiểu truyện tình yêu lãng mạn thông thường, mà nó còn ẩn chứa những chi tiết kì bí, lạ lùng, khiến độc giả không thể rời mắt khỏi cuốn sách. Nàng: Judith, 37 tuổi, đơn thân, chủ hiệu bán đèn. Chàng: Hannes, 42 tuổi, “không phải độc thân trở lại mà xưa nay vẫn độc thân”, kiến trúc sư. Chàng đã bước vào cuộc đời nàng thông qua cú giẫm gót đau điếng. Anh: “Xin lỗi chị lần nữa vì giẫm phải chân chị.” Cô: “Ồ, quên lâu rồi mà.” Anh: “Không, không, tôi biết, chỗ ấy đau khủng khiếp lắm.” Cô: “Cũng không đến nỗi.” Anh: “Vâng, vâng.” Cô: “Vâng.” Anh: “Chào chị nhé.” Cô: “Vâng.” Anh: “Chúc chị ngày lễ vui vẻ.” Cô: “Anh cũng thế.” Vẫn vậy, Daniel Glattauer dẫn chuyện như-không, cây bút này có tài đẩy những chi tiết nho nhỏ trong đời thành hàng trang “diễm tình” rất duyên, khiến người đọc khó mà ngừng cười tủm tỉm. Mở chuyện chẳng có gì lạ, song ta không thể đặt cuốn sách xuống được, bởi bằng một cách nào đó, Daniel Glattauer tạo cho độc giả linh tính rằng cú xoay chuyển còn ẩn kĩ ở những trang sau. Hannes: cao 1,90 mét, nặng 85 kg - về ngoại hình chàng rắn rỏi, đầy nam tính. Hannes: “cùng lúc vừa nhút nhát vừa liều mạng, ngượng nghịu và trơ trẽn, tự chủ và bộc phát, bền bỉ một cách hậu đậu. Và anh biết anh muốn gì: gần cô.” - về tính cách chàng quả là dễ thương, hấp dẫn. Nhìn chung, Judith đã phải thừa nhận: “Anh là một dạng người khác hẳn những người khác từ xưa đến nay.” Nàng (và cả các độc giả) đều ngây ngất, đều tin tưởng vào tương lai ấm áp và hạnh phúc mà chàng mang lại. Dĩ nhiên sẽ là như thế nếu Judith không rơi vào... chứng loạn thần bởi chính tình yêu nồng cháy của Hannes. Judith đáng thương phát rồ phát dại trước sự hoàn hảo nơi Hannes, điều mà cả gia đình lẫn bạn bè cô đều không tài nào hiểu nổi (thậm chí họ đứng tuốt về phe anh), trừ Bianca - con bé học nghề trong cửa hiệu bán đèn - là đứng về phía cô: “Trời ơi, hãm thế cơ chứ, cháu hiểu cô. Cháu cũng không ưa ai bám theo mình, khi cháu không yêu người ấy nữa. Và cháu chuột rút cực nhanh, khi có đứa nào làm cháu nhức đầu.” Nhưng chuyện đâu chỉ “thường thường” như vậy, Daniel Glattauer khiến bạn đọc cảm thấy rờn rợn khi đột ngột hé lộ một chi tiết đáng ngờ ở quý ông Hannes, biến tình sử thành thước phim kinh dị: Đèn nhà chàng không bao giờ sáng – điều đó chẳng phải rất bất thường trong mắt cô chủ hiệu bán đèn sao? Rốt cục, việc Hannes gặp gỡ Judith có đúng là tình cờ? Liệu anh cần gì ở cô và ở hiệu bán đèn? Nếu đã quen với những câu chuyện mang hương vị lãng mạn như “Con sóng thứ bảyhay “Cưỡng cơn gió bấc”, ta sẽ tìm thấy Daniel bản-mới trong cuốn tiểu thuyết “Mãi yêu em”: tác giả khá “tinh quái” dẫn dụ độc giả đến với nỗi sợ - nỗi sợ tình yêu đầy cưỡng áp đầy trói buộc, dẫu nó được ngụy trang bằng muôn vàn yên ấm. Vậy hạnh phúc là gì? Nhân vật Judith đã phải trở đi trở lại bệnh viện tâm thần, đấu tranh với tiếng nói ma quái của chàng Hannes vang trong đầu cô, ngụp lặn giữa hàng vốc thuốc hãm phanh thần kinh... để trả lời câu hỏi đó. Đi tới cùng, hạnh phúc nên là và phải là tự tại; nó sẽ bước ngay sang địa hạt ác mộng nếu bị gắn với một dây xích bọc đường. “Mãi yêu em” của tác giả Daniel Glattauer, được chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi dịch giả Lê Quang, do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành trên toàn quốc từ tháng 5 năm 2017. Lan Phương Review *** Khi anh bước chân vào đời Judith, gót chân cô đau buốt, nhưng rồi đỡ ngay. Anh: “Xin lỗi”. Cô: “Không sao”. Anh: “Đông kinh khủng”. Cô: “Vâng”. Judith nhìn lướt qua mặt anh, tựa như đó là tít tin thể thao hằng ngày. Cô chỉ muốn biết sơ sơ mặt người đã giẫm nát bét gót chân người khác trước quầy phô-ma đông kín hôm thứ Sáu Tuần Thánh. Cô hơi ngạc nhiên, anh ta trông bình thường, như mọi người ở đây, không hơn mà cũng không kém, cũng không đặc biệt. Tại sao cả thế giới phải đổ đi mua phô-ma dịp Phục sinh? Tại sao chỉ vào một cửa hàng và cùng một lúc? Ở quầy thu ngần, anh ta, lại anh ta, xếp đồ lên băng chuyền cạnh đồ của cô. Cô nhận ra anh ta nhờ tay áo da lộn nâu đỏ có mùi da đặc trưng. Khuôn mặt anh ta thì cô quên từ lâu, à không, có nhớ đâu mà quên, nhưng cô thấy ưa động tác khéo léo, chính xác và uyển chuyển của tay anh. Kể cả trong thế kỷ hai mốt thì quả là kỳ lạ khi một đàn ông trạc bốn chục tuổi biết sắp xếp và gói ghém hàng mua trong siêu thị cứ như đã từng làm việc đó rồi. Ở cửa ra vào thì hầu như không còn tình cờ, khi lại là anh ta đứng đó để giữ cánh cửa mở ra cho cô và khoe tài nhớ mặt người của mình. Anh: “Xin lỗi chị lần nữa vì giẫm phải chân chị”. Cô: “Ồ, quên lâu rồi mà”. Anh: “Không, không, tôi biết, chỗ ấy đau khủng khiếp lắm”. Cô: “Cũng không đến nỗi”. Anh: “Vâng, vâng”. Cô: “Vâng”. Anh: “Chào chị nhé”. Cô: “Vâng”. Anh: “Chúc chị ngày lễ vui vẻ”. Cô: “Anh cũng thế”. Cô thích kiểu nói chuyện như thế ở siêu thị, nhưng bây giờ thì thế là đủ cho phần đời còn lại. Ý nghĩ, tạm gọi là ý nghĩ cuối cùng dành cho anh, là năm, sáu hoặc bảy quả chuối, một nải vàng ươm mà anh ta gói vào trước mắt cô. Ai mua năm đến bảy hoặc tám quả chuối, người ấy ắt có hai, ba đến bốn đứa trẻ đói bụng ở nhà. Dưới cái áo khoác da chắc anh ta mặc áo thun kẻ ca-rô lớn nhiều màu như cầu vồng. Một ông chủ gia đình đích thực, cô nghĩ bụng, một người biết giặt giũ phơi phóng quần áo cho bốn đến năm hoặc sáu người, có lẽ treo bít tất thành một hàng, chập từng đôi một, ai phá hỏng trật tự ấy trên dây phơi thì cứ liệu hồn. Về đến nhà, cô dán một miếng băng dính dày cộp lên gót chân đỏ ửng. May mà gân gót không hề hấn gì, mà nói chung Judith luôn cảm thấy không ai có thể làm tổn thương mình. Lễ Phục sinh như mọi năm. Sáng thứ Bảy: thăm mẹ. Mẹ: “Bố khỏe không?” Judith: “Con không biết, chiều con đến bố”. Chiều thứ Bảy: thăm bố. Bố: “Mẹ khỏe không?” Judith: “Khỏe ạ, con ở chỗ mẹ ban sáng”. Trưa Chủ nhật: về nông thôn thăm em trai Ali. Ali: “Bố mẹ khỏe không?” Judith: “Khỏe, hôm qua chị thăm bố mẹ”. Ali: “Bố mẹ lại về với nhau à?” Sáng thứ Hai sau lễ Phục sinh Judith mời các bạn đến nhà mình ăn. Thực ra mời ăn tối, nhưng từ khi ngủ dậy cô đã bắt tay vào chuẩn bị. Sáu người cả thảy: hai đôi và hai người độc thân (một người độc thân vĩnh viễn, còn người kia chính là cô). Giữa các đợt đồ ăn bưng lên, câu chuyện diễn ra ở trình cao, xoay quanh các chủ đề như cách nấu ăn không làm mất vitamin và các diễn biến mới nhất trong nghiên cứu chống cặn kết tủa trong rượu vang. Nhóm này rất thuần, thậm chí có những chủ đề mà họ sống chết không rời (chống chiến tranh, xóa đói giảm nghèo, và gan ngỗng nhồi). Bộ đèn chùm kiểu Art Nouveau tỏa sáng ấm áp lên các khuôn mặt vui vẻ. CD mới nhất của nhóm The Divine Comedy tựa như kịp thời ra đời để phục vụ dịp này. Thậm chí Ilse còn có lần mỉm cười với Roland, và anh xoa bóp vai phải của cô, phải đến hai giây chứ không ít - dù họ đã cưới nhau mười ba năm và có với nhau ba mặt con trong niềm đam mê đang chết dần chết mòn mỗi ngày. Đôi kia trẻ hơn, Lara và Valentin, vẫn trong chu kỳ tay nắm tay say đắm. Thỉnh thoảng cô lại nắm các ngón tay anh bằng cả hai tay, có lẽ để giữ anh chặt hơn khả năng thực sự của cô xét về lâu dài. Tất nhiên Gerd lại là nhân vật nhộn nhất, luôn nổi bật ở bất cứ đám nào và ngày càng nổi hơn cùng với trách nhiệm làm cho những người khô khan phải vui vẻ và lắm mồm lên. Tiếc là anh ta không đồng tính để Judith tiếp xúc riêng nhiều hơn và tâm sự những chuyện cá nhân hơn, vốn bất khả thi trong một nhóm có nhiều đôi. Cuối những buổi tối tương tự, khi khách khứa đã ra về và chỉ còn không khí đặc quánh gợi nhớ đến sự hiện diện của họ, Judith luôn thẩm định tình trạng của mình trong khung cảnh thân thuộc và giữa một núi bát đĩa rếch. Ồ có chứ, rõ ràng đó là chất lượng sống vượt trội khi đầu tư một tiếng vào bếp, mở toang cửa sổ để không khí trong lành vào phòng, hít một hơi thật sâu, uống vội một viên thuốc đề phòng nhức đầu, để rồi rốt cục được ôm cái gối thân thương và chỉ buông nó ra vào tám giờ sáng hôm sau. Rõ ràng như thế còn hơn thâm nhập vào tâm lý của một gã “bạn đời” - có khả năng (cũng) phê phê, móc mồm cả ngày không ra một tiếng, không ưa bị giữ ở nhà, lười dọn dẹp nhà cửa - để dò xem hắn ta đang nuôi hi vọng hay run rẩy lo sợ sắp lên giường. Judith tránh được tình trạng xì-trét đó, trừ một vài buổi sớm mai cô thấy thiếu một người đàn ông cạnh mình trong chăn. Nhưng đó không được phép là một người đàn ông bất kỳ, người đàn ông nào đó, mà phải là một người nhất định. Vì vậy, buồn thay, người đó không trong số những người cô quen. Judith yêu công việc của mình. Và nếu không - thường là sau các ngày lễ - cô cố mọi cách tự huyễn hoặc là mình yêu công việc. Ít nhất thì cô cũng là sếp của chính mình, dù hằng ngày cô luôn mong có một bà sếp khác xông xênh hơn, ví dụ như Bianca, con bé học nghề của cô. Bianca chỉ cần một cái gương là có đủ việc cho cả buổi. Judith có một doanh nghiệp nhỏ ở phố Goldschlag, quận 15. Nghe chữ “doanh nghiệp” có hơi hướm kinh doanh hơn thực tế, song cô yêu cửa hiệu bán đèn của mình và không đổi nó lấy bất cứ cửa hiệu nào trên thế giới. Từ nhỏ, cô thấy đó là những căn phòng tuyệt diệu nhất trần gian, bao la giữa vô vàn vì sao nhấp nhánh và những quả cầu chói lọi. Trong bảo tàng ngoài trời lấp lánh của ông ngoại, ngày nào Judith cũng được vui lễ Phục sinh.   ​​Mời các bạn đón đọc ​Mãi Yêu Em của tác giả Daniel Glattauer & Lê Quang (dịch).
Đường Hầm Ôđetxa
- Tên sách : Đường hầm Ôđetxa Tập 1+2         - Tác giả : Valentin Kataep                         Trần Lê Huy, Thương Thục, Hoài Dân dịch         - Nhà xuất bản Văn học         - Năm xuất bản : 1968         Dịch theo bản dịch Pháp văn LES CATACOMBES D'ODESSA của Esfir Berstein và Olga Wormsber — (Nhà xuất bản Ngoại văn Mạc-tư-khoa — Nhà xuất Editeurs Franẹaís Réunis — Paris) Đ ường hầm Ôđetxa của Valentin Kataep[1] cho ta một khái niệm về chiến tranh nhân dân ở Liên-xô và chứng minh qui luật chiến tranh nhân dân nhất định thắng lợi. Ôđetxa là một thành phố cảng lớn của Liên-xô, nằm trên bờ Hắc-hải, có truyền thống lâu đời chống ngoại xâm, đã từng chứng kiến cuộc thất trận thảm hại của quân Thổ-nhĩ-kỳ, cũng như đã từng đập vỡ cuộc can thiệp của mười bốn nước đế quốc vào nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười. Trong lòng đất dưới thành phố và miền phụ cận, có một hệ thống hầm, hào chằng chịt, có từ lâu đời, tạo nên cả một thành phố ngầm với hàng trăm ngàn đường, ngõ ngoắt ngoéo, được mệnh danh là những hầm mộ ở Ôđetxa. Hệ thống hầm ngầm ấy đã từng được sử dụng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đã từng là cơ sở bí mật của các chiến sĩ bônsêvich hồi Cách mạng tháng Mười. Đến chiến tranh thế giới lần thứ hai, trước khi đội thiết giáp Đức tiến vào thành phố, những hầm mộ ấy lại trở thành những căn cứ vững chắc của các đội du kích, các đội công tác bí mật, các cơ quan kháng chiến nằm trong lòng địch để bám đất, bám dân. Bọn phát-xít chiếm đóng có biết điều ấy không? Biết. Nhưng không phải bất kỳ lúc nào chúng cũng dám sục xuống cái mê hồn trận ấy. Những tên liều mạng đã phải trả bằng một giá rất đắt vì nhưng quả mìn tự động, vì những tràng đạn rất chính xác từ các ngóc ngách tối om bắn ra. Những vòm hầm đổ ụp xuống làm hàng đơn vị địch bị tan xác, thậm chí những đống xác chết chồng chất của chính bọn chúng cũng tạo nên những vật chướng ngại vít hẳn đường vào. Bọn phát xít dùng đủ mọi cách, đại bác, bom, mìn, hơi độc, chẹn kín các cửa lên, xuống... Nhưng kết quả không hoàn toàn như ý đồ đen tối của chúng. Trong suốt thời kỳ phát-xít chiếm đóng, đội công tác bí mật của Secnôivanenkô, cũng như bao nhiêu đội khác, vẫn tồn tại và phát triển, vẫn phá hoại có kết quả trong lòng địch, vẫn đánh cho địch những đòn ác liệt làm cho chúng điên cuồng lồng lộn, ăn không ngon ngủ không yên. Họ vẫn nắm được nhân dân và gắn bó với nhân dân, vẫn đem được luồng sinh khí của Đảng đến thổi cao ngọn lửa căm thù, chiến đấu trong lòng nhân dân. Những ai đã nhảy vào cuộc vật lộn gay go, dai dẳng trong lòng địch như vậy? Đó là Secnôivanenkô, một cán bộ Đảng lãnh đạo trực tiếp đội công tác bí mật, người chỉ huy rất sáng suốt, kiên quyết, không khoan nhượng với địch, đồng thời yêu thương đồng đội một cách sâu sắc. Đó là bác công nhân già Xiniskin Jêleznư, con người “bằng sắt”, tuy mắc bệnh lao phổi nhưng có một ý chí chiến đấu không gì lay chuyển nổi. Đó là Kôletnisuc, một cán bộ ngoài Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh dưới ngọn cờ của Đảng, cùng vợ là Raitxa Lvôpna, một phụ nữ gốc Do-thái, muốn ở bên chồng để chia sẻ nỗi gian nguy. Đó là bà Matriôna Têrenchiepna, vợ người chủ tịch một ngư trang tập thể ở vùng phụ cận thành phố, một phụ nữ rất kiên cường, sôi nổi. Đó là đại úy Hồng quân Drujinin với những hoạt động táo bạo và tinh thần bất khuất đáng kính. Đó là anh thanh niên dũng cảm và rất yêu đời Xviatôxlap. Đó là Batsây trầm tĩnh, từ Mạc-tư-khoa xuống, ngẫu nhiên tham gia và tham gia kiên trì vào cuộc chiến đấu trong mấy năm ròng rã. Đó là nhà tri thức Xêrêđôpxki khảng khái nhất định không chịu cộng tác với quân thù. Đó là các em thiếu niên tiền phong Pêchya và Valentin. Các em đã góp phần không nhỏ vào việc tết vòng hoa chiến thắng cho thành phố Ôđetxa thân yêu. Tính chất nhân dân trong cuộc chiến tranh giữ nước của Liên-xô là như vậy. Nhiều người đã hy sinh. Những “hầm mộ“ từ bao đời đã trở thành hầm mộ thực sự của những người con bỏ mình vì sự nghiệp vinh quang bảo vệ đất nước xô-viết. Khó khăn gian khổ, nhưng họ vẫn giữ vững một niềm tin tưởng lạ lùng ở chiến thắng. Những ngày cuối cùng ở dưới hầm mộ, nhóm của Secnôivanenkô bị lạc trong cái mê hồn cung trăm ngàn ngõ ngách ấy, họ không tìm được lối lên mặt đất trong khi bi-đông của họ chỉ còn một giọt dầu cuối cùng. Họ đã kiệt sức, hấp hối trong cơn khát, nhưng vẫn tin là “không thể chết được“. Chúng ta hãy nghe Secnôivanenkô truyền niềm tin tưởng say sưa đó cho người bạn chiến đấu Batsây trong hoàn cảnh nguy nan: “Chúng ta sẽ tiêu diệt được bọn chúng, vì chúng ta làm một cuộc chiến tranh chính nghĩa, một cuộc chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh kiểu mới. Một cuộc chiến tranh vì tương lai của tất cả nhân loại cần lao, một cuộc chiến tranh vì chủ nghĩa cộng sản!“. Cuộc chiến tranh nhân dân đã tôi luyện cho họ một nhân sinh quan cách mạng chân chính, một tình đoàn kết sâu sắc, một tinh thần dũng cảm đầy sáng tạo và một lòng tin tưởng vô bờ bến. Đó là những nền tảng không thể thiếu được của chiến thắng. * Valentin Kataep có một phong cách nghệ thuật độc đáo khi thể hiện chủ đề của mình. Trước hết là vấn đề nhân vật. Trong các tác phẩm của ông, các em thiếu niên thường đóng một vai trò quan trọng. Một nhà phê bình văn học viết: “Trong tâm hồn nhà văn Kataep, vẫn còn một thằng bé ẩn náu ở đâu đó!“ Đúng. Lần này, “thằng bé“ đáng yêu đó lại xuất hiện và hoạt động dưới hình dạng của chú thiếu niên tiền phong Pêchya Batsây với nhiệm vụ mở đầu và kết thúc cuốn sách. Trong suốt câu chuyện chú bé không phải chỉ là người chứng kiến thời đại mà còn là một thủy thủ trên con tàu thời đại. Hành động tham gia chiến đấu đầu tiên của chú bé là nhận lá cờ đẫm máu của một chiến hạm Liên-xô từ tay anh thủy binh hấp hối Lavrôp. Tác giả đã miêu tả một cách lý thú sự diễn biến tâm lý của chú bé, từ trạng thái rụt rè sự hãi chuyển sang thái độ can đảm, hăng say. Tâm hồn lãng mạn cách mạng của tuổi thiếu niên được miêu tả rất đúng qua cử chỉ giơ tay tuyên thệ trước xác anh thủy thủ Hồng quân. Lá cờ thiêng liêng được cất giấu giữa đêm đoàn xe tăng phát-xít tiến vào chiếm đóng Ôđetxa. Từ đó Pêchya đi vào cuộc chiến đấu, cùng chia nỗi vui, buồn, gian khổ với các bạn đồng đội vào tuổi cha, chú. Cuốn truyện chấm dứt bằng cuộc “khải hoàn” của chú bé từ thành phố Ôđetxa giải phóng trở về Mạc-tư-khoa, với tấm huân chương chiến công chói lòa trên ngực bộ quân phục nhỏ bé. Chú đã giữ đúng lời thề của thiếu niên tiền phong hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu cuối cùng khi tìm ra và trao lá cờ nói trên cho bộ tư lệnh Hồng quân. Tác giả gắn vào hình tượng thiếu niên tất cả tấm lòng ưu ái và tin tưởng, quí trọng lớp măng non tương lai của đất nước. Trong truyện, chúng ta gặp lại nhiều nhân vật trong các tác phẩm trước của ông. Hai chú bé Pêchya và Gavrick trong Cánh buồm trắng tham gia sôi nổi vào làn sóng Cách mạng từ đầu thế kỷ đã trở nên bác Batsây rất trung thành và đồng chí Secnôivanenkô giàu nghị lực. Thế là lớp trước trưởng thành, lớp sau bước tiếp. Niềm hy vọng nồng nhiệt, thiết tha của thế hệ trước gửi lại thế hệ sau được gói ghém trong bức thư của Đrujinin trước giờ bị hành quyết, ghi trên bức tường của ngục tối gửi cho con gái yêu quí của mình. Sức sống của chủ nghĩa xã hội, của Tổ quốc xô-viết thực là bất diệt. Tuy cấu trúc và nội dung tác phẩm dành cho tuổi trẻ một địa vị quan trọng, nhưng tác phẩm của ông không phải chỉ viết riêng cho thiếu niên. Pêchya cũng như Valentin đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là cả một tập thể chiến đấu. Tâm hồn, ý chí, cảm nghĩ của mỗi người được ngòi bút sắc sảo của Kataep phân tích tỉ mỉ, đúc thành những dạng điển hình. Tác phẩm ông không phải chỉ có con người bàng bạc trong thời gian và không gian rộng rãi, ta luôn thấy hình ảnh thành phố quê hương thân yêu của ông, với đường phố, lâu đài, bến cảng, cầu tàu, cần trục, bờ dốc đứng, thảo nguyên... khi ẩn khi hiện, với tất cả buồn, vui, thương, giận. Không phải chỉ có con người xô-viết đánh giặc mà cả thiên nhiên xô-viết cũng vùng lên, tiêu diệt bọn cướp nước hung tàn. Phong cách sáng sủa, cách bố cục chặt chẽ, chia chương ngắn gọn, khiến câu chuyện tuy dài mà vẫn dễ theo dõi, tiếp thu. * Đường hầm Ôđetxa đến với chúng ta giữa lúc cả nước ta đang quyết liệt tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước. Những hầm ngầm chiến đấu nổi tiếng của thành phố Ôđetxa khiến chúng ta liên tưởng đến hệ thống địa đạo vô cùng vĩ đại của đồng bào miền Nam đánh giặc. Tất nhiên hoàn cảnh lịch sử, địa lý mỗi nơi mỗi khác, phương thức chiến đấu cũng không hẳn giống nhau, nhưng có một khía cạnh có thể cung cấp cho chúng ta nhiều suy nghĩ bổ ích. Ấy là vấn đề con người trong chiến tranh nhân dân. Con người được giác ngộ sâu sắc, được lãnh đạo tốt, được tổ chức tốt, nhất định sẽ làm nên những sự nghiệp thần kỳ. Với ý nghĩ ấy, chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc Đường hầm Ôđetxa.   Hà-nội, 16-3-1967 LÊ HUY Mời các bạn đón đọc Đường Hầm Ôđetxa của tác giả Valentin Petrovich Kataev.
Cõi Mê
Chủ đề mà tác giả hướng tới là sự phân rã trong gia đình, trong cơ cấu xã hội và sự tha hóa khó kìm hãm của con người. Gia đình ông Hoàng, gồm ông và các con trai là những người có năng lực, có tâm huyết với sự đổi mới nhưng nhiều lúc đã chịu thất bại cay đắng bởi cỗ máy bảo thủ và sự tranh giành quyền lực của những kẻ xấu. Gia đình ông Nguyễn Kỳ Hòa, hay là gia đình cụ Nguyễn (bố ông Hòa, tuổi đã tròn trăm) là một gia đình yêu nước có truyền thống, đời đời theo Trương Ðịnh, Nguyễn Tri Phương chống thực dân Pháp xâm lược. Ông Hòa là bộ đội tập kết, lên đến chức đại tá. Anh em ông, các con trai ông đều là liệt sĩ, chỉ để lại đứa cháu nội là thằng Thăng. Do sự cưng chiều và dựa cậy thần thế, thằng Thăng, cái hạt giống duy nhất của một gia đình yêu nước, trượng nghĩa, chưa đến tuổi mười lăm đã đua xe cán chết người, đã làm nát đời con gái người ta rồi tiếp đó là du nhập băng đảng xã hội đen, lao vào dòng đời thác loạn. Sự sa ngã, đúng hơn là lối sống mất dạy, rất nguy hiểm cho xã hội của bọn choai choai như thằng Thăng không chỉ vì sự cưng chiều mà còn vì xã hội còn có mảnh đất cho lối sống ấy. Cái tha hóa của ông Hòa lại ở dạng khác: vì không xin việc được cho thằng Thăng, vì thấy ông Hoàng không tiếp mình, khinh mình nên đã lạm dụng cương vị công tác và uy tín hùa nhau khép tội cho cha con ông Hoàng, những người trung thực và có nhiều tư tưởng đổi mới, đẩy xã hội tiến lên. Cụ Nguyễn đã trụ vững qua nhiều giai đoạn lịch sử để giữ lấy trung nghĩa, nhân đức, sự thanh khiết kể cả dưới chế độ Mỹ - ngụy, cuối cùng đã gục ngã. Sự gục ngã của một trụ cột gia đình, sự thối rữa của một hạt giống duy nhất còn sót lại khiến người đọc bàng hoàng. Liệu rồi dòng máu yêu nước, những đạo lý truyền thống sẽ chảy từ đâu, về đâu? Chỉ ra những chiều hướng xấu trong xã hội, miêu tả sự tha hóa, băng hoại đến tột cùng và những nguy hại nhãn tiền, nguy hại lâu dài cho cả một dân tộc, với tinh thần trách nhiệm và tính chiến đấu cao, tiểu thuyết “Cõi mê” của Triệu Xuân đã góp một tiếng nói thức tỉnh, cảnh giác đối với một thời đoạn lịch sử, đối với tương lai. Dường như nhiều người, nhiều khi chúng ta đang rơi vào cõi mê, đang bị sự quyến rũ chết người nhấn xuống tận đáy của nhơ nhớp lại cứ ngỡ mình đang thăng hoa, đang vinh quang, đang khôn  khéo hoặc tuyệt vời sung sướng. Văn học Việt Nam đang tìm đường để tự đổi mới mình, đang hướng tới những tác phẩm làm tròn thiên chức cao cả của mình là góp phần cải biến xã hội. Có những nhà văn viết về lịch sử, viết về một cuộc sống nào đó trong tư duy chủ quan của mình, nhưng tôi coi trọng hơn những nhà văn viết về cái hôm nay. Triệu Xuân là một nhà văn như vậy. Anh có hiểu biết am tường về lịch sử lẫn mọi ngóc ngách của cuộc sống hôm nay, biết đặt vấn đề hôm nay trong một tiến trình để các sự kiện, vấn đề được soi sáng hơn có ý nghĩa hơn. Tác phẩm “Cõi mê” ngồn ngộn chất liệu đời thực, với những chi tiết chính xác của báo chí, các sự kiện và nhân vật như vừa gặp đâu đó, như đang sống, đang vây lấy người đọc, đòi hỏi anh phải bộc lộ thái độ chứ không chỉ “thưởng thức”... “Cõi mê” đã thật sự thành công khi nói  về sự tha hóa của một số người, sự phân rã trong một số cơ tầng xã hội, đưa ra những vấn đề  bức xúc về lối sống, về giáo dục gia đình, quản lý xã hội, sử dụng con người nhưng chưa mấy thành công khi nói về tương lai, về cái mới với sự mỏng mảnh của  những nhân vật đại diện cho cái mới như Ngọc Bắc, Phương Thảo. Tôi cũng không thích đoạn kết có hậu: mọi người trong hai gia đình “thù địch” lại giảng hòa, vui vẻ ềcả làngể, lại bắt tay cùng xây dựng một cuộc sống mới và sự thanh khiết một cách quá dễ dàng, không đúng ềtôngể với các phần trước đó của cuốn sách, cũng không đúng quy luật của cuộc sống. Cái chết của Ngọc Tiên, sự trả giá của thằng Thăng đã là cái chết của một lối sống trục lợi, chụp giật, thiếu lý tưởng, đã là sự chiến thắng của cái thiện, không cần viết thêm đoạn kết gượng ép. Review Nguyễn Sĩ Đại. *** Nhà văn Triệu Xuân quê Ninh Giang, Hải Dương. Năm 1973, sau khi tốt nghiệp Khoa Ngữ văn ÐHTH Hà Nội, anh vào nam làm phóng viên mặt trận, trải qua đời làm báo dài nhất tại Ðài phát thanh Giải Phóng, sau đó là Ðài Tiếng nói Việt Nam. Hiện công tác tại Nhà xuất bản văn học. Trực diện với cuộc sống, mong muốn được đứng ở hàng đầu của những xung đột và tham gia giải quyết những xung đột ấy là thế sống, là điểm đích của ngòi bút Triệu Xuân trong văn chương cũng như báo chí. Tính từ 1985 đến nay, Triệu Xuân đã có sáu tiểu thuyết: “Giấy trắng” (1985); “Ðâu là lời phán xét cuối cùng” (1987); “Nổi chìm trong dòng xoáy” (1987); “Trả giá” (1988); “Bụi đời” (1990); “Sóng lừng” (1991); “Cõi mê” (2004) và “Hồn rừng” (2005). Anh đã được Giải thưởng văn học giai đoạn 1986-1990 của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam bằng tiểu thuyết “Trả giá”.  *** Cuộc đời có quá nhiều sự quyến rũ! Xưa nay sự quyến rũ có quyền năng vô hạn. Nó có thể làm người ta bừng sáng, thăng hoa đến tót vời, nó cũng có thể đè người ta bẹp dí, nghiền nát, hoặc nhấn xuống tận đáy của sự nhơ nhớp. Nhưng quyền năng vô hạn đó không chỉ có hai mặt, mà mặt thứ ba mới là thực tế: Có những kẻ đang bị sự quyến rũ chết người nhấn xuống tận đáy của nhơ nhớp lại cứ ngỡ mình đang thăng hoa, đang vinh quang, tuyệt vời sung sướng. Thằng Thăng cháu nội ông Nguyễn Kỳ Hòa là kẻ như thế. Nó đang sung sướng lắm! Trời ban cho nó vóc dáng cao lớn, vạm vỡ, điển trai, mắt to đuôi dài rất đa tình. Hồi nó mới mười ba tuổi, đã thèm xe Honda, ông bà nội mua cho liền! Nó cúp cua đi chơi Thủ Đức, Biên Hòa, Vũng Tàu, Đà Lạt, đi bằng xe Honda, và đua với bạn. Cuộc đua nào nó cũng về nhất. Rồi nó mê bơi lội, mê tennis. Nó kiếm được chân nhặt banh trên sân tennis Tri Âm sát sông Sài Gòn. Tại đây, nó nhanh chóng học được môn thể thao này. Nó quan sát những người chơi, nghe họ trò chuyện về những chốn ăn chơi, những cô gái đẹp ở những chốn ấy và hiểu ra rằng những người đàn ông trong nhà nó không là… cái đinh gì, bởi họ không hề biết thưởng thức cuộc đời (câu mà nó thường được nghe đại ca X.O nói)! Chú Hùng Tâm của nó xem ra cũng máu ăn chơi, thế nhưng thằng Thăng ghét Tâm, nó coi Tâm chẳng ra ký lô nào bởi cái tội chảnh chọe với cháu! Chỉ có ông Ba Đào, người mà đàn em tôn vinh là đại ca X.O, và những người bạn của ông ta trên sân Tri Âm mới hiểu đời, biết thưởng thức cuộc sống… Thằng Thăng lớn nhanh như Phù Đổng Thiên Vương sau khi được dân làng góp gạo thổi cơm cho ăn. Mười lăm tuổi mà đã có ria mép, thân hình lực lưỡng như trai mười bảy bẻ gãy sừng trâu. Sừng trâu thì nó chưa bẻ gãy, nhưng nó đã hơn một lần làm nát đời con gái người ta. Không phải nó ác, mà bởi nó đam mê, nó bị sự quyến rũ ngự trị; và nhất là tại các em choai choai thèm lăn xả với nó. Con gái nhìn nó một lần là muốn được lao vào vòng tay nó, dù có chết cũng cam lòng! Bước vô tuổi mười lăm, nó đã cao một mét bảy mươi lăm, người nở nang cân đối và rắn như thép cường độ cao. Nó thông minh, nhưng chán học, triền miên trốn học vì… bị nhiều cô gái đẹp quyến rũ, hay chính nó tạo ra sự quyến rũ không biết. Các cô gái được nó cho thưởng thức mùi đời, biến thành đàn bà thời ấy là bạn học cùng lớp, cùng trường, cùng tuổi choai choai, cùng khao khát ăn chơi, cùng biết xài tiền như nước và cùng thích tốc độ. Băng của thằng Thăng có tám cặp, chỉ có nó đang học lớp tám, còn những đứa kia học lớp mười đến lớp mười hai. Tất nhiên thằng Thăng được tôn làm thủ lãnh. Không làm thủ lãnh sao được khi mà nó chơi bạo nhất, đẹp trai nhất, to cao nhất, nhiều tiền nhất, đa tình nhất, nhiều ý tưởng sáng tạo điên rồ nhất! Ngoài những cái nhất ấy, thằng Thăng còn mang vào chốn giang hồ những tư chất của một kẻ được gia đình chăm sóc, giáo dục kỹ lưỡng: không bao giờ nói tục, không bao giờ chửi thề, ngày đánh răng ba lần, sau khi đi cầu là phải tắm rửa, sau khi đi tiểu dứt khoát dùng giấy vệ sinh thấm… thằng nhỏ, và rửa tay thật kỹ trước khi rời toilet!… Những điều vừa kể đã ngấm vào máu thằng Thăng. Nó thực hiện như một phản xạ bản năng. Bởi thế mà đám đệ tử thấy thằng Thăng như một người của thế giới khác lạ, chúng rất khâm phục. Không biết vì sao Nguyễn Quốc Thăng lại được đám choai choai kêu bằng biệt danh Rồng Xanh? Có lẽ ngẫu nhiên chăng? Vào sinh nhật thứ mười sáu của thằng Thăng, ngày 30 tháng Tư, sau khi ăn chơi nhảy nhót từ sáng tới tối, rồi lao vào chuyện chăn gối đến rã rời cơ bắp, chúng nó vào cuộc đua mới. Không biết là cuộc đua thứ bao nhiêu rồi? Trời cũng chịu, không nhớ nổi! Đêm ấy, băng Rồng Xanh đua với băng Ó Trắng. Tất nhiên là xe phân khối lớn. Tất nhiên là tháo bỏ dây thắng. Tất nhiên là tay đua nào cũng có một em mặc mini jupe khoe cặp chân dài như chân Julia Robert ngồi quặp chặt sau lưng. Điểm xuất phát và đích là cầu Sài Gòn. Rồng Xanh về đích trước tiên. Hai giờ sáng, đúng vào lúc xe thằng Thăng bay tới điểm đích thì bất ngờ xuất hiện chiếc xe đạp của một nữ công nhân đi làm ca đêm về… Người đàn bà xấu số ấy chết không toàn thây! Cả nhà ông Hòa như vừa bị khủng bố. Ai nấy mặt mày dớn dác, cắt không ra giọt máu. Mùa Xuân 1985, đại tá Hòa - nổi tiếng hào hoa, giao thiệp rộng - nhận được quyết định: không trực tiếp chỉ huy đơn vị pháo binh nữa, ông được điều về giữ một trọng trách ở Quân khu. Khi nhận quyết định này, Hòa vừa khấp khởi mừng, vừa lo. Ông hy vọng cấp trên giao cho ông phụ trách thanh tra để rồi thăng lên cấp tướng?! Nhưng, nếu không phải vậy thì… ông lo vì mình đã bước vào tuổi sáu mươi rồi, không được lên tướng thì chỉ còn nước lên làng nướng mà nhậu, nghĩa là về hưu! Quân đội luôn luôn là nguồn cung cấp cán bộ cho các ngành khác. Sau năm 1975, tại miền Nam, hầu hết những cán bộ khung của các ngành công an, kiểm sát, tòa án, thanh tra, thuế, hải quan… đều xuất thân quân đội. Trong đội ngũ ấy, có rất nhiều người là bạn thân hoặc là cấp dưới của Hòa. Hòa làm việc ở Quân khu được hai năm, lập được một vài công tích thì tiếng tăm bay tới cấp trên. Nạn tham nhũng đã và đang hiển hiện. Đại tá Hòa, chưa được lên tướng, nhưng được trên cử làm Phó Ban chống tham nhũng! Mời các bạn đón đọc Cõi Mê của tác giả Triệu Xuân.
An
An là cuốn sách gây xúc động mạnh nhất Nhật Bản về tình người năm 2015 với một diện mạo vô cùng xinh đẹp. C uốn sách best seller: AN của tác giả đa tài Durian Sukegawa đã được đạo diễn nổi tiếng người Nhật Naomi Kawase chuyển thể thành phim điện ảnh vào năm 2015 với tựa đề AN.  Cùng năm, bộ phim được công chiếu ở lễ khai mạc tại Liên hoan phim Cannes trong hạng mục Un Certain Regard Certain Regard. Cuối năm đó, bộ phim được phát hành tại Đức và thiết lập nên những kỉ lục phòng vé đáng tự hào. Cuốn tiểu thuyết cũng đồng thời được xuất bản bằng tiếng Đức vào năm 2016 và tạo được tiếng vang lớn trong lòng bạn đọc với ố lượng bản in tiêu thụ khổng lồ. An là một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn được viết bởi Durian Sukegawa kể về cuộc đời của những con người trong một xã hội Nhật Bản đương thời theo một cách không ngờ đến. Từ những cái cái chạm nhẹ diễn tả những mối liên hệ giữa những con người ở từng độ tuổi khác nhau, tới một bài học bất ngờ về định kiến, AN như thể là một câu chuyện cổ tích không thể nào quên về tình bạn vừa đắng chát vừa ngọt ngào. Nằm trên một con hẻm bị lãng quên chạy dọc theo đường ray xe lửa, một cửa hàng Dorayaki nhỏ với tấm biển tìm người làm thuê treo phía trước. Sau bao nhiêu ngày anh chủ tiệm Sentaro ngóng chờ với niềm hy vọng dần mờ nhạt thì một ngày nọ Yoshii Tokue, một bà cụ ngoài 70 tuổi mang khuyết tật ở bàn tay đến xin làm. Ngạc nhiên trước hương vị ngon lành của món mứt đậu đỏ mà bà Tokue làm, Sentaro đã thuê bà và cửa hàng bắt đầu trở nên đắt khách. Một bà cụ Tokue với cuộc đời bị đóng kín bởi những định kiến, một Sentaro mất đi niềm tin vào cuộc sống. Hai con người với những tổn thương mang trong mình  dần bước đến một cuộc sống mới với những giá trị mới. Một kết thúc sẽ khiến bất kỳ ai nghẹt thở bởi sự kỳ diệu và đẹp đẽ của đời người… Bằng cách sử dụng cách thức làm bánh truyền thống của Nhật Bản - bánh dorayaki, Sukegawa đã khéo léo kể một câu chuyện rất đời và rất người về bản chất tự nhiên của định kiến và những con người bị định kiến bủa vây. Thêm vào đó là những câu chuyện lịch sử được tìm thấy qua những trang sách của AN, những khía cạnh văn hóa truyền thống của Nhật Bản được lồng ghép hiện lên thật chân thực và mang nét đặc trưng văn hóa riêng nơi nghề thủ công và chế biến thực phẩm được tôn vinh và lan tỏa tinh hoa ra khắp châu Á. Cuốn sách này sẽ khiến bạn rơi lệ nhưng đồng thời cũng sẽ khiến bạn mỉm cười lấp lánh với những giá trị nhân văn sâu sắc. Một món quà ý nghĩa chắc chắn không thể bỏ lỡ trong mùa xuân – mùa của những khởi đầu mới. Hãy tìm đọc AN để tìm thấy những bình yên giữa thế gian hỗn loạn các bạn nhé !  cuốn sách gây xúc động mạnh nhất Nhật Bản về tình người năm 2015 với một diện mạo vô cùng xinh đẹp. C uốn sách best seller: AN của tác giả đa tài Durian Sukegawa đã được đạo diễn nổi tiếng người Nhật Naomi Kawase chuyển thể thành phim điện ảnh vào năm 2015 với tựa đề AN.  Cùng năm, bộ phim được công chiếu ở lễ khai mạc tại Liên hoan phim Cannes trong hạng mục Un Certain Regard Certain Regard. Cuối năm đó, bộ phim được phát hành tại Đức và thiết lập nên những kỉ lục phòng vé đáng tự hào. Cuốn tiểu thuyết cũng đồng thời được xuất bản bằng tiếng Đức vào năm 2016 và tạo được tiếng vang lớn trong lòng bạn đọc với ố lượng bản in tiêu thụ khổng lồ. An là một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn được viết bởi Durian Sukegawa kể về cuộc đời của những con người trong một xã hội Nhật Bản đương thời theo một cách không ngờ đến. Từ những cái cái chạm nhẹ diễn tả những mối liên hệ giữa những con người ở từng độ tuổi khác nhau, tới một bài học bất ngờ về định kiến, AN như thể là một câu chuyện cổ tích không thể nào quên về tình bạn vừa đắng chát vừa ngọt ngào. Nằm trên một con hẻm bị lãng quên chạy dọc theo đường ray xe lửa, một cửa hàng Dorayaki nhỏ với tấm biển tìm người làm thuê treo phía trước. Sau bao nhiêu ngày anh chủ tiệm Sentaro ngóng chờ với niềm hy vọng dần mờ nhạt thì một ngày nọ Yoshii Tokue, một bà cụ ngoài 70 tuổi mang khuyết tật ở bàn tay đến xin làm. Ngạc nhiên trước hương vị ngon lành của món mứt đậu đỏ mà bà Tokue làm, Sentaro đã thuê bà và cửa hàng bắt đầu trở nên đắt khách. Một bà cụ Tokue với cuộc đời bị đóng kín bởi những định kiến, một Sentaro mất đi niềm tin vào cuộc sống. Hai con người với những tổn thương mang trong mình  dần bước đến một cuộc sống mới với những giá trị mới. Một kết thúc sẽ khiến bất kỳ ai nghẹt thở bởi sự kỳ diệu và đẹp đẽ của đời người… Bằng cách sử dụng cách thức làm bánh truyền thống của Nhật Bản - bánh dorayaki, Sukegawa đã khéo léo kể một câu chuyện rất đời và rất người về bản chất tự nhiên của định kiến và những con người bị định kiến bủa vây. Thêm vào đó là những câu chuyện lịch sử được tìm thấy qua những trang sách của AN, những khía cạnh văn hóa truyền thống của Nhật Bản được lồng ghép hiện lên thật chân thực và mang nét đặc trưng văn hóa riêng nơi nghề thủ công và chế biến thực phẩm được tôn vinh và lan tỏa tinh hoa ra khắp châu Á. Cuốn sách này sẽ khiến bạn rơi lệ nhưng đồng thời cũng sẽ khiến bạn mỉm cười lấp lánh với những giá trị nhân văn sâu sắc. Một món quà ý nghĩa chắc chắn không thể bỏ lỡ trong mùa xuân – mùa của những khởi đầu mới. Hãy tìm đọc AN để tìm thấy những bình yên giữa thế gian hỗn loạn các bạn nhé !  *** Tiệm bánh dorayaki Doraharu. Sentaro suốt ngày dài cứ nhìn vào bàn nướng. Từ đoạn đường dọc theo tuyến đường ray xe lửa cắt ngang một con hẻm, có cửa tiệm nằm ở khu phố chợ tên là “đường hoa anh đào”. Đó là một con đường có những tấm cửa cuốn đóng kín còn nổi bật hơn cả những cây anh đào trồng lác đác. Dù vậy không biết có phải vì bị hoa quyến rũ hay không mà vào mùa này lượng người qua lại dường như tăng lên chút ít. Khi nhận ra có người phụ nữ cao tuổi đứng bên đường, Sentaro lập tức quay mắt nhìn vào cái bát anh đang dùng để nhào bột. Ở trước cửa tiệm có cây hoa anh đào. Khi hoa nở rộ, tựa như có một vùng mây trắng nhỏ xíu đang rực lên. Sentaro nghĩ chắc hẳn bà là người đến ngắm hoa. Tuy nhiên, vào lần tiếp theo Sentaro ngẩng đầu lên, người phụ nữ đội nón màu trắng ấy vẫn đang đứng đó. Hơn nữa, bà dường như đang nhìn Sentaro chứ không phải ngắm hoa. Theo phản xạ tự nhiên, Sentaro gật đầu chào. Ngay lập tức, người phụ nữ ấy chầm chậm tiến lại gần cửa tiệm, trên khuôn mặt bà hiện lên nụ cười phảng phất sự gượng gạo. Sentaro nhớ ra đã từng trông thấy bà. Vài ngày trước đây, người này đã đến cửa tiệm một lần với tư cách là khách hàng. “Cái này,” bà đột nhiên chỉ tay vào tờ giấy dán ở cửa kính. Ngón tay bà cong như một cái móc. “Thực sự là không giới hạn tuổi tác sao?” Bàn tay đang cầm cái sạn nhựa của Sentaro dừng lại. “Bà hỏi cho ai, cháu bà phải không?” Không hồi đáp lại, bà chỉ hấp háy một bên mắt. Gió nổi lên. Cây anh đào rung rinh. Len qua khung cửa kính, những cánh hoa anh đào rơi xuống bàn nướng. “À…” Bà ưỡn người về phía trước. “Tôi thì có lẽ không được phải không?” “Hả?” Sentaro đáp lại bằng một câu hỏi. Bà đang chỉ ngón tay vào mũi mình. “Tôi rất muốn thử làm công việc như thế này.” Trong phút chốc, Sentaro bật cười mà không kịp cảm thấy rằng điều đó là thất lễ. “Bà bao nhiêu tuổi rồi?” “Tôi tròn bảy mươi sáu tuổi.” Phải trả lời lại như thế nào để không làm bà tổn thương đây. Trong lúc lựa lời, Sentaro đảo tới đảo lui cái sạn nhựa. “Ừm… ở đây, thấp lắm. Bây giờ, chỉ có 600 yên.” “Hả? Cậu nói gì cơ?” Bà đặt bàn tay lên lỗ tai. Sentaro khom người thấp xuống. Đây là tư thế mỗi khi anh đưa bánh dorayaki cho trẻ con hay người lớn tuổi. “Ở đây trả lương theo giờ thấp lắm. Mặc dù cháu rất muốn thuê người phụ việc nhưng người có tuổi thì…” “À. Cái này.” Ngón tay cong của bà chỉ vào mấy chữ trên tờ giấy. “Lương theo giờ có thể giảm phân nửa cũng được. Cậu trả tôi 300 yên cũng được.” “300 yên?” “Vâng,” từ bên dưới chiếc mũ, đôi mắt bà như mở to hơn. “Không… quả thực là, cháu nghĩ không thể đâu. Xin lỗi. Mong bà thông cảm.” “Tôi tên là Yoshii Tokue.” “Hả?” Không biết có phải vì lãng tai hay không mà người phụ nữ cao tuổi này đã hiểu nhầm gì đó rồi. Sentaro đan chéo hai tay trước ngực làm thành hình dấu X. “Cháu thật sự xin lỗi.” “Hả, vậy là?” Yoshii Tokue cứ nhìn chằm chằm vào khuôn mặt Sentaro. Mắt trái và mắt phải của bà có hình dáng khác nhau. “Đây là công việc lao động chân tay khá nhiều, vậy nên quả thực là…” Yoshii Tokue há miệng như thể muốn nuốt cả không khí vào trong, bà đột nhiên chỉ tay về phía sau lưng mình. “Cây anh đào này, ai trồng vậy nhỉ?” “Hả?” Hướng mặt về phía cây anh đào, Tokue lặp lại: “Cây anh đào này.” Sentaro ngẩng lên nhìn những nhành hoa nở rộ sum sê. “Ai nhỉ?” “Phải có ai đó đã trồng chứ đúng không cậu?” “Xin lỗi, cháu không phải là người lớn lên ở đây ạ.” Khuôn mặt Tokue dường như còn muốn nói điều gì, nhưng khi nhìn Sentaro đã chỉnh lại tư thế cầm sạn nhựa, bà bước ra trước cửa kính chào tạm biệt anh: “Tôi sẽ đến đây nữa nhé!” Bà đi về hướng ngược lại với nhà ga. Dáng đi của bà lóng ngóng tạo cảm giác như thể những khớp xương đã trở nên khô cứng. Sentaro thôi không nhìn bà nữa, anh quay trở lại việc nhào bột. Mời các bạn đón đọc An của tác giả Durian Sukegawa & Kodaki (dịch).