Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nỗi Niềm

Chuyện xảy ra trong một tầng lớp mà ta quen gọi là tri thức. Bốn nữ nhân vật chính gồm một nhà văn, hai giáo sư giảng dạy ở một trường đại học nổi tiếng của nước Mỹ và một minh tinh màn bạc vang bóng một thời. Hẳn chúng ta đã quen nhìn tầng lớp của những con người này bằng con mắt ngưỡng mộ – họ là những con người khả kính, có trình độ uyên thâm, có học vấn sâu rộng và làm việc nghiêm túc với những quy tắc bất di bất dịch của giới…trí thức. Nhưng trong tác phẩm Nỗi Niềm, Paule Constant đã lội ngược dòng, bà đi sâu tìm hiểu vạch vòi đến tận chân tơ kẽ tóc, qua đó, thực chất đã được phơi bày. Thì ra trong tầng lớp cấp tiến này của xã hội cũng tồn tại muôn vàn những thứ cỏn con mà ta không dám gọi là tệ nạn, hay ganh ghét, hay đố kỵ, hay hiềm khích… vì sợ làm vấy bẩn những con người khả kính ấy. Chỉ giữa họ với nhau thôi, giữa bốn nhân vật chính trong truyện, ngoài việc cùng một tầng lớp « trí thức », họ còn là bạn vong liên, còn là những kẻ ngưỡng mộ nhau… Vậy mà chỉ trong có vài ngày chung sống dưới cùng một mái nhà, thì giữa họ đã nảy sinh bao mấu thuẫn, tư tưởng trái nghịch nhau. Lòng ghen ghét đố kỵ, chứng học đòi làm sang, chuyện đạo văn trong giới văn chương, rồi dè bửu lẫn nhau…đã phơi trần ra hết. Paule Constant đã rất thành công vạch trần bộ mặt thật ấy, và tác phẩm đã xứng đáng nhận giải thưởng Goncourt năm 1998. Và do Hiệu Constant đã giới thiệu và chuyển thể sang tiếng Việt, do Nhà XB Hội nhà văn cùng với sự giúp đỡ của Trung tâm văn hoá Việt – Pháp thuộc ĐSQ Pháp tại HN ấn hành đầu năm 2005. *** Với những bạn đọc quan tâm nhiều tới sách dịch, đặc biệt là văn học Pháp đương đại, hẳn đã rất quen thuộc với các tác phẩm như: Nỗi niềm của Paule Constant - tác phẩm được giải Goncourt năm 1998 (NXB Hội Nhà văn), Rừng thẳm của Julien Gracq, tác giả đã từ chối giải Goncourt năm 1951 (NXB Đà Nẵng), Tổng thống François Mitterrand là như thế của Jacques Attali (NXB Công an Nhân dân), Bi kịch của Tổng thống Jacques Chirac của Frank-Olivier Giesbert (NXB Công an Nhân dân), Những điều chưa biết về cố đệ nhất phu nhân Hoa kỳ Jackie Kennedy (NXB Công an Nhân dân), Bóng đen của vầng ánh dương của Christelle Maurin (NXB Công an nhân dân) - tác phẩm được giải thưởng Tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của Quai des Orfèvres 2006, Người đàn bà thứ bảy của F. Molay (NXB Đà Nẵng) tác phẩm được giải thưởng Tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của Quai des Orfèvres 2007, Người trả thù cho các hầm mộ (NXB Đà Nẵng) - Tác phẩm được giải thưởng Tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của Quai des Orfèvres 2008, Bạn tôi tình tôi của Marc Levy (NXB Đà Nẵng),… Vâng, những đầu sách được tôi nhắc tới đều do chị Hiệu dịch và giới thiệu với bạn đọc Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi muốn đề cập tới Lê Thị Hiệu với tư cách một tác giả sáng tác, sống và làm việc ở hải ngoại mà chất văn vẫn mang đậm nguồn văn hóa Việt chảy trong cơ thể, qua mỗi câu văn, lời kể. Trong các tác phẩm dịch, dịch giả không chỉ dùng ngôn ngữ của mình, còn phải dùng cách kể, kết cấu nghệ thuật của tác phẩm dịch. Nhưng ở tác phẩm viết, tác giả có thể “tung hoành trong vùng đất của mình”, thỏa sức sáng tạo, thể hiện, và bộc lộ mình. Ở trong tác phẩm đầu tay này cũng vậy, bằng bút lực cuốn hút, hấp dẫn, Lê Thị Hiệu cố gắng thể hiện mình qua lời kể và lời tâm tình tự sự. Tác phẩm “Côn trùng” chính là những trăn trở, suy tư, khát vọng yêu và được yêu. “Côn trùng” dùng lối viết độc đáo về nhân tình cuộc sống và những mảng đời thực ngoài xã hội. Truyện được giãi bày một cách xa xót và nuối tiếc, một cách dũng cảm và day dứt về một mối tình không bao giờ tàn lụi. Vẻ đẹp của mối tình không bao giờ được xã hội công nhận này vừa như ánh sáng lung linh soi rọi, vừa như loài côn trùng rỉ rả gặm nhấm; vừa làm hồi sinh cõi sống tinh thần, vừa làm héo úa vẻ đẹp của hạnh phúc. Tiểu thuyết này là câu chuyện tình yêu giữa “tôi” và N.V. “Tôi”, một người con gái sinh ra trong chiến tranh và lớn lên trong thời bình, nuôi dưỡng tình yêu thầm lặng, nhiều khi nồng cháy với một người con trai đã kinh qua trong lửa đạn, dạn dày nơi trận mạc  là một chỗ dựa, một nơi tìm về của “tôi”. Và bên cạnh đó, còn một tình yêu khác, không rõ ràng hiện hữu, nhưng thực sự tồn tại là tình yêu, nỗi khắc khoải của một người con xa xứ luôn hướng về đất mẹ, dù nhiều khi chỉ trong tâm thức. Tình yêu của hai con người thuộc hai thế hệ như một định mệnh. Lần gặp gỡ đầu chỉ thoảng qua khi N.V giúp đỡ H (đó là tên của nhân vật tôi) lắp lại xích cho chiếc xe đạp của cô. Cuộc gặp này bình thường như bao cuộc gặp gỡ khác của những con người hàng ngày đối diện nhau. Sau lần đó, phải ba năm sau hai người mới gặp lại. Họ dễ dàng nhận ra nhau giữa biển người, những cô sinh viên hâm mộ vây quanh N.V. Lần gặp này cũng đi qua như một kỷ niệm trong đời, để đến lần thứ ba, hai người gặp nhau thì H không còn là sinh viên năm thứ ba nữa mà đã là một cử nhân. Quan hệ của họ lúc này chỉ như những người bạn xa lâu ngày nay gặp lại. Nào ai có thể rõ trong lòng họ đang nghĩ tới những gì!? Tới lần gặp kế tiếp, cách lần gặp trước tới mấy năm liền, khi mà H cũng đã có gia đình. Hai người đến với nhau, qua nụ hôn thoảng chốc mà H thấy lâu như cả thế kỷ, để rồi khi ra đi, bay về phương trời Tây, “tôi” còn “để lại một trời tình cảm vương vấn”. Tình yêu trong lòng H, cái mối tình cảm đơn phương đeo đẳng bao nhiêu năm giờ bùng cháy thiêu đốt tâm can cô. Sau nhiều lần gặp gỡ đứt đoạn như vậy, hai con người đã tìm đến nhau, để rồi bao ý nghĩ, bao luân thường đạo lý cứ trôi trượt đi. Từ lúc đó trở đi, tình yêu của họ không thể bị ngăn cản bởi không gian nửa vòng trái đất, thời gian dặc dài của năm tháng, thậm chí cả cái chết cũng không chia lìa được tình yêu của họ. Bởi N.V vẫn luôn tồn tại, trong mỗi hơi thở, trong mỗi bước đi, trong mỗi kỷ niệm đọng trong không gian thiên nhiên cây cỏ. Chắc hẳn, N.V trước khi nhắm mắt đã phóng ánh mắt ra xa, về phía phương trời Tây xa xôi – nơi có người phụ nữ anh yêu, và tự nhủ rằng nàng là một phần của cuộc đời ta, là thiên thần, là cả vũ trụ lúc rạng rỡ, lúc đam mê, ngay cả khi biết mình sắp lìa đời vì bệnh tật (Không biết rằng lúc đó, những hình ảnh ngay trước mắt là vợ anh, là con anh có in dấu được vào đáy mắt anh không?). Khi mất đi rồi, anh vẫn muốn H đừng khóc, hãy coi như anh đi có chút việc sang phía bên kia cuộc đời, và có thể gọi anh khi muốn, tâm sự với anh khi cần. N.V mất rồi, tình yêu của cô với anh vẫn không suy suyển. Những dấu hiệu của chứng trầm cảm, những bài nhật ký, những việc H làm để thoát ra, vươn tới cuộc đời thực chỉ càng chứng tỏ tình yêu của cô với N.V. Tình yêu của họ nồng cháy, thăng hoa trong mỗi cảm xúc, trong mỗi lúc được gần nhau, dù N.V đã có gia đình và vẫn luôn yêu quý trân trọng gia đình nhỏ bé đó. Và cả H nữa, H yêu N.V bằng cả tấm lòng, dù bao khó khăn cách trở trong cuộc đời, bao gồm cả trách nhiệm với gia đình, hay bất cứ vì một lý do gì khác, cô vẫn yêu N.V cháy lòng. Nhiều người sẽ nghĩ rằng, cuốn sách này không trọn vẹn vì kết cuộc 2 người yêu nhau không đến được với nhau, theo tôi, nếu đến được với nhau, liệu họ có hạnh phúc không hay tình yêu tôn thờ cao đẹp của H lại bị tan vỡ như “giấc mộng yêu đương” của cô sinh viên mắc nghiện mà N.V có lần kể cho H nghe. Cuối cùng, N.V và H không thể đến bên nhau nhưng lại càng không thể rời bỏ nhau. Đến tận khi, N.V vĩnh viễn ra đi, H mới nhận biết rằng mình yêu anh biết bao. Nước mắt cô rơi bao lần trên trang nhật ký, tâm tình cô trút vào bác sĩ tâm lý. Tất cả những điều đó có thể ích gì nữa khi N.V đã về với cuộc đời khác. Những việc làm lúc đó, chắc chỉ có thể cứu vãn mình H với cuộc sống thực đời thường mà thôi. Bằng lối văn phong mới mẻ của mình, tác giả đã cuốn hút người đọc ngay từ những dòng chữ đầu tiên, để rồi cứ bị lời văn cuốn đi mãi. Tất cả lời kể chuyện, tâm tình giãi bày trong đoạn văn dài, với những sự kiện, chi tiết, không chỉ liên quan đến N.V mà còn nhiều những sự lý thú trong cuộc sống trên khắp hành tinh này. Cách kể chuyện của Lê Thị Hiệu có thể đưa ta tới nhiều vùng đất, không chỉ là những miền đất quê hương như Hòa Bình, nơi có bà mẹ già sống neo đơn mà nhất định không chịu về quê hương bản quán, muốn ở lại vùng đất nơi in dấu những hình ảnh, kỷ niệm của con mình; Đó là vùng đất Huế với sự tự hào của Việt Nam trước thế giới - di sản phi vật thể: Nhã nhạc cung đình; Đó là bản làng Ve, nơi cứu chữa, chở che, nuôi dưỡng những con người vào sinh ra tử hiến mình cho lý tưởng cao đẹp. Còn nhiều vùng đất lạ trên khắp thế giới. Vùng đất với cuộc sống như trong một nghìn lẻ một đêm, những giá trị văn hóa Hồi giáo tồn tại, những sự kiện kỳ bí tại vùng đất này. Hay có thể đó là những vẻ đẹp của nước Pháp cổ kính… Lê Thị Hiệu có lối văn thật lạ lùng, nhưng cũng thật hấp dẫn. Cả câu chuyện chỉ là tâm sự dài, không bị ngắt quãng bởi bất cứ điều gì. Câu chuyện cứ đều đều diễn ra, các sự kiện đan xen, gối lên nhau nối tiếp, lúc rõ ràng, lúc mờ mờ ảo ảo vô thực. Thực ra, nếu không chịu làm quen với một lối viết văn mới lạ như vậy, bạn đọc thật khó tiếp cận và hiểu câu chuyện. Lối văn của chị sống động như một con cá đang bơi, bên trong là một khung xương vững chãi, nơi xương dăm, xương lồng ngực nối kết với xương cột sống - là tình yêu của H với N.V. Với kiểu văn như vậy, nếu ta không tập trung chọn lọc sẽ thấy thật lúng túng khi tiếp cận, thấy chúng thật lủng củng xa lạ. Nhưng khi gắn kết toàn bộ những chi tiết đó thì câu chuyện mới hoàn thiện, cuốn hút người đọc. Bạn đọc trẻ giờ đây, rất nhiều người dễ dàng chấp nhận và cho là hay những câu chuyện tình yêu nhàn nhạt, hoặc những tình yêu với xung đột mãnh liệt, hay thích tìm kiếm, chấp nhận những câu chuyện như cổ tích. Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận những tác phẩm như nó vốn có, là cuộc sống đời thường. Tình yêu trong tác phẩm là một tình yêu có thể hiện diện trong cuộc sống. Những nhân vật như H, N.V, B và H.H (con gái của H), C (chồng H), nhà văn TDA, nếu ai quen Lê Thị Hiệu sẽ dễ dàng luận ra những cái tên đó trong cuộc đời. Tuy nhiên, cách làm như vậy cũng không cần thiết, bởi văn chương chỉ phản ảnh một phần hiện thực qua lăng kính chủ quan của nhà văn mà thôi. H vẫn là H, và N.V vẫn là N.V với tình yêu nồng cháy, luôn bên nhau ngay khi một người chỉ còn là ký ức. T.V (nguồn: TCSH số 239 - 01 - 2009)   ***   Paule Constant sinh năm 1944 tại xứ Gan, Pyrénées-Anlantiques.   Bà tốt nghiệp trường Đại học Paris-Sorbonne với văn bằng Tiến sĩ.     Giải thưởng:   Năm 1988, bà đoạt giải Goncourt cho tác phẩm Confidence pour confidence (Nỗi niềm).   Năm 1989, bà đoạt giải thưởng lớn cho tiểu thuyết Académie française (Học viện Pháp).     Những tác phẩm chính:   Ouregano, 1980, NXB Gallimard   Propriété privée, 1981, NXB Gallimard   Balta, 1983, NXB Gallimard   Un monde à l'usage des demoiselles, 1987, NXB Gallimard   White Spirit, 1989, NXB Gallimard   Le Grand Ghâpal, 1991, NXB Gallimard - Prix Jackie Bouquin   La Fille du Gobernator, 1994, NXB Gallimard   Confidence pour confidence, 1998, NXB Gallimard   Sucre et secret, 2003, NXB Gallimard   La bête à chagrin: roman, 2007, NXB Gallimard   Mời các bạn đón đọc Nỗi Niềm của tác giả Paule Constant.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cẩm Chướng Đỏ
Trúc Anh là một phần rất quan trọng trong cuộc đời Thuyên. Vừa là bạn, Trúc Anh vừa là người anh lo lắng cho Thuyên đủ điều. Không bao giờ Trúc Anh để Thuyên buồn hay bị ai ăn hiếp. Có lẽ cũng bởi vậy mà Thuyên càng ngày càng thêm yêu lạ lùng những bông cẩm chướng đỏ. Gần như bữa nào tới Thuyên chơi, Trúc Anh cũng thấy nơi bàn học của Thuyên có sẵn một lọ cẩm chướng đỏ lung linh… *** Con người thường hay trân trọng quá khứ, không phải vì nó đáng quý, mà bởi vì nó không còn tồn tại nữa. Bất kể bạn nỗ lực như thế nào, những giây phút đáng nhớ sẽ chẳng bao giờ cho phép bạn lội ngược dòng và tận hưởng nó một lần nữa, hoặc, có những sự kiện bạn sẽ không thể có cơ hội trải nghiệm vì bạn chưa từng tồn tại ở quãng thời gian đó. Ấy là lúc sách và văn học sẽ giúp ta kết nối giữa không gian, thời gian và những con người. Bạn thấy mình lang thang trong quá khứ không phải để so sánh sự hơn kém giữa các thời đại, mà có thể chỉ để tìm những giá trị đã vô tình bị mất đi theo dòng chảy cuộc sống. Đôi khi, thứ ta thấy trong văn học là sự lãng mạn vô cùng tận, nhưng rõ ràng, sự lãng mạn đó đã từng tồn tại, rất tự nhiên, cho tới khi trái tim con người đóng hẹp lại dần, nhường chỗ cho những điều thực dụng và hợp thời hơn. Phải có lý do mà những bài  hát thời thập niên 80, 90 về học trò toàn là những cô bé trong tà áo dài  trắng thướt tha đạp xe, bên cạnh cậu bạn mặc áo đồng màu như thế, sân trường rợp thắm hoa phượng đỏ, những trang lưu bút quyến luyến, những trò nghịch ngợm láu lỉnh đáng yêu. Phải có lý do mà một con số không nhỏ những người trẻ bây giờ lần tìm về những giá trị cũ, những cuốn truyện học trò trong trẻo thơ ngây như những viên ngọc thô của thời trước. Phải có lý do mà thời cha mẹ ta, mối liên kết giữa người với người qua cấp ba mặn mà đến mức để rồi cuộc họp lớp nào ta cũng thấy đầy đủ những mái đầu thân quen đã điểm bạc. Chắc chắn, chúng ta, những người trẻ đọc đến đây không khỏi giật mình, hoảng sợ vì đã đánh mất cái gì đó. Cẩm chướng đỏ là một lát cắt rất nhỏ trong cuộc đời của mỗi con người thời kỳ ấy. Và trong lát cắt ấy, mỗi nhân vật, mỗi con người mang một màu sắc rất riêng nhưng luôn bên nhau và đồng hành với nhau. Khi giáo viên đi vắng, cả lớp quậy tưng bừng treo giày nhau lên bảng và phạt nhau hát những lời bài hát củ chuối để thách thức, bị giám thị nhắc, mọi người càng quậy dữ hơn. Mỗi khi thấy bạn thân buồn là y rằng sẽ rủ người đó đi ăn kem, ngồi bờ sông ngắm hoàng hôn tâm sự, mua một vài món lưu niệm nho nhỏ. Thảng hoặc sẽ gặp nhau trong thư viện thành phố rợp bóng cây mát, trao đổi sách để khám phá những thứ bạn mình đọc hay ho đến mức nào… Những mối liên hệ vô hình cứ được mọi người đan kết theo thời gian để nó bện chặt lại trong tim, tồn tại mãi, không thể quên. Lần lại những dòng của nhà văn, ta ngỡ ngàng vì nó bỗng dưng đẹp quá. Một câu chuyện hết sức bình thường của những người bạn thân ở trung học thời trước, cách họ học cùng nhau, giúp đỡ nhau, yêu thương nhau. Bình dị và mộc mạc. Sẽ có người cho rằng cuốn sách này không có thật. Vì cái cách con người đối xử với nhau thật khác. Những người trẻ ngày xưa được lớn lên trong một bầu không khí chân thực và hết sức đơn giản. Họ trân trọng cái tình ở trong từng mối quan hệ. Họ nỗ lực đến cùng để theo đuổi ước mơ. Họ rất vụng về trong việc che giấu những nỗi buồn và nhận diện những biến chuyển vô cùng tinh vi trong mỗi cung bậc cảm xúc. Thế nhưng, tất cả đều có thật, sống động và mạnh mẽ. Thứ mà thế hệ của chúng ta, sau này, chẳng thể nào có được. Và cuối cùng, rời chiếc ghế nhà trường, ai cũng có những bước đường riêng. Những ước mơ đã trở thành sự thật. Những tình cảm mới đã nảy sinh. Những đổ vỡ sâu xa trong tâm hồn nay đã được lành lại. Vài trang truyện cuối không còn đẹp, mơ mộng, trong trẻo nữa. Tất cả những nhân vật Thuyên, Trúc Anh, Thiện, Trang – họ đều lớn lên với định hướng của riêng họ. Câu chuyện có những thăng trầm nhưng trong sáng, tươi vui, mộc mạc được kết thúc với những cánh cửa mở hờ. Cũng như bộ phim “Phía trước là bầu trời” được đóng lại với phân cảnh mỗi người bạn chia tay nhau, quay về phương trời của riêng họ sau những kỷ niệm tươi vui và những vấp váp trong đời. Không gì có thể tồn tại vĩnh viễn, cuộc sống sẽ luôn thay đổi theo cách nó vận hành. “Con người chỉ sống có một lần, hãy sống một cuộc đời đáng nhớ” – một cố nhạc sỹ từng viết như vậy.  Và cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà thơ La mã cổ đại Horace từng ngân nga chữ “carpe diem” trong những vần thơ của mình, nhắc nhở loài người, rằng hãy biết nắm bắt từng khoảnh khắc, sống trong nó và biến nó thành vĩnh cửu. Tình cảm tuổi học trò thường mong manh như những lát nắng thanh thanh cuối hạ, vẫn còn vương vấn đâu đây trong không gian mà họ từng học tập, từng đi qua, trong chiếc hộc bàn của thư viện thành phố. Giây phút nhận ra những bí mật, những điều đã mất, tiếc nuối liệu có còn kịp nữa không?                                                                    Tác giả:H.Phuong – Nguồn: Văn Học 365 *** - M ẹ ơi, con gái yêu của mẹ đi học về rồi nè! Thuyên vừa nói vừa đặt chiếc cặp to đùng xuống chiếc bàn chung của cả nhà, mỉm cười với cô nữ sinh lớp 12 tóc dài óng có đôi mắt ướt trong gương. Ý nghĩ: "Mình cũng… xinh đó chứ!", khiến Thuyên thoáng đỏ mặt… - Đói bụng chưa con? Thuyên giật mình quay lại, nũng nịu: - Mẹ làm con giật cả mình. Ba chưa về hả mẹ? - Ừa, bữa nay chắc ba con ăn trưa ở chỗ làm. Mà sao con lại giật mình? - Mẹ vuốt tóc Thuyên - Chà, con gái mẹ biết soi gương làm điệu rồi phải không? - Mẹ này… - Thuyên lại đỏ bừng mặt. Mẹ mỉm cười dợm bước vào bếp dọn cơm, chợt dừng lại như nhớ ra điều gì, nhìn Thuyên, nói: - À, con có thư gởi từ Nha Trang đó. Coi của ai. Thuyên nghĩ ngay đến người anh họ tên Sang, trong mười ngày Thuyên nghỉ hè ở Nha Trang đã rất thân thiết với Thuyên. Thuyên mừng rỡ xé bì thư. Không phải là anh Sang rồi, chữ của anh Sang, Thuyên biết mà. Vậy thì ai? Thuyên vội vã lật hết lá thư để xem chỗ ký tên. Cái tên đập vào mắt khiến Thuyên không kềm được, ồ lên ngạc nhiên: Huỳnh Thanh Dũng! Trong đầu Thuyên hiện lên gương mặt hơi rám nắng, cương nghị, còn mái tóc thì lại đầy chất lãng tử của người bạn thường đi chung với anh Sang. Một con người hơi có vẻ pha trộn! "Sao anh ta lại gởi thư cho mình?". Thuyên chưa hết thắc mắc thì mẹ đã gọi vào ăn cơm. Cô nhét lá thư vào trong cặp và đặt vào ngăn tủ. Trong bữa cơm, mẹ hỏi Thuyên về lá thư, Thuyên không biết trả lời sao, đành nói dối là của anh Sang. Thật ra, Thuyên đang rất hồi hộp. Một người chưa trò chuyện lần nào thì có gì để viết trong thư nhỉ? Thuyên ăn nhanh bữa cơm, giúp mẹ rửa chén rồi chạy vào phòng riêng giở lá thư ra đọc. Càng đọc, Thuyên càng thấy bồi hồi bởi những lời lẽ của Dũng viết, giọng điệu nghe sao ngọt ngào và êm dịu quá! Những "nhớ nhung", "lưu luyến" Dũng viết trong thư và hai chữ "love" ở cuối thư đã làm Quỳnh Thuyên muốn vỡ cả lồng ngực. "Chao ôi, anh ta ngỏ ý… thích mình!". Trái tim bé nhỏ của Thuyên đập vội vã. Cô run rẩy nhét lá thư sâu vào trong cặp như sợ nó sẽ lao ra mà cắp cô bay đi thật xa. Mười ngày, không là ít, cũng chẳng là nhiều, nhưng chưa đủ để cho hai người xa lạ hiểu nhau. Vậy thì tại sao "hắn ta" lại dám…? "Hắn ta" là người thế nào, Thuyên không rõ. Mỗi lần đi chơi với anh Sang và bác Tường đều có "hắn" đi theo, chẳng biết xưng hô thế nào, Thuyên gọi đại là "cậu Dũng". Anh Sang và bác Tường chỉ cười mà không nói gì. Ra biển ngắm sao, vào quán karaoke với những dãy bàn ngập người hay ngồi trò chuyện trong nhà, Thuyên nhớ trước sau "hắn" chỉ im lặng nhìn Thuyên cười cười. Thuyên cứ vô tư nói chuyện, vô tư đối đáp với anh Sang. Một hôm, nghe mọi người nói tiếp viên nữ bán các quán nước ở đây nếu là người miền Nam sẽ được trả lương rất cao, người ta bảo con gái miền Nam nói tiếng dễ thương! Thuyên nghe mà cứ thấy mắc cười hoài. Bất ngờ, "hắn" nói: - Đúng rồi, đến giờ Dũng mới biết con gái miền Nam nói chuyện dễ thương nhất đó. Anh Sang và bác Tường lại nháy nhau cười, Quỳnh Thuyên chẳng để ý là "hắn" có ý nói đến mình. Bây giờ nghĩ lại thật tức cành hông, nhưng có điều cũng… vui vui. Tệ nhất là lần anh Sang chọc, hỏi: "Người yêu của Thuyên sau này phải thế nào?". Thuyên không đắn đo: - Người yêu của em hả, đương nhiên là phải hơn em một cái đầu. Nhưng nói trước, nếu yêu thiệt thì phải chờ em tới… 30 tuổi, tới lúc đó em mới lấy chồng à nghen! Nói rồi lại le lưỡi ra mà cười. Chao ơi, 18 tuổi mà bảo người ta chờ… mười hai năm, chẳng ra làm sao cả! Lúc đó, Thuyên chỉ nghĩ là "người trong nhà" cả nên đùa một chút cho vui. Còn bây giờ, Thuyên tự trách mình thật khờ. Dũng! Dũng! Dũng! "Hắn" đã khiến Thuyên mất nhiều thời gian suy nghĩ bâng quơ quá rồi. Bực mình, Thuyên mở cửa phòng bước ra ngoài, gặp ngay lúc Trúc Anh vừa đến… - Dì ơi, có Quỳnh Thuyên ở nhà không dì? - Trúc Anh hỏi mẹ Thuyên. - Nó ở trong phòng đó con. Không biết sao mà từ trưa đến giờ cứ nằm mãi ở trỏng[1] - Thấy Thuyên vừa bước ra, mẹ quay trở vào bếp - Trúc Anh ở chơi nghe con! Trúc Anh dạ ran như con nít rồi phồng má lên với Thuyên. Thuyên cười: - Trúc Anh ngoan quá ta! - Còn phải nói. Trúc Anh mà! Vừa nói, tên bạn trai thân thiết từ hồi chập chững biết đi của Thuyên vừa ngồi xuống ghế với lấy trái mận ăn ngon lành. Trúc Anh bây giờ đã lớn phổng, rắn chắc hơn và không còn giống… con gái nữa. Hất mái tóc mỏng ra sau một cách nhẹ nhàng, Trúc Anh hỏi: - Thuyên làm bài tập toán hết chưa? Có cần học chiều nay không? - Thuyên chưa làm, nhưng thấy cũng dễ mà. Có gì sao mà Trúc Anh hỏi vậy? - Chiều nay Trúc Anh đi coi ca nhạc - Trúc Anh rút trong túi ra hai tấm vé - Cho "công nương" một vé, đi hén! Quỳnh Thuyên vỗ hai tay vào nhau, reo lên: - Thì ra hồi trưa Trúc Anh về trễ là vì đi mua vé đó hả? Thích há! Chiều nay Thuyên sẽ khao Trúc Anh ăn bắp rang bơ, chịu không? - Ừa. Nhưng nhớ học bài cho xong đó nghe! - Biết rồi,"nhũ mẫu" à! Nghe giọng điệu trêu chọc của cô bạn, Trúc Anh xoay nắm tay ra vẻ như muốn cho Quỳnh Thuyên một trận. Thuyên ngoéo hai ngón tay vào tay áo của Trúc Anh. Hai đứa cùng cười rộ lên. Đó là giao ước hòa bình mà chúng đã cùng "thiết lập" với nhau từ hồi học lớp một. Thời thơ ấu của mỗi người đều là khoảng thời gian không thể nào quên. Hạnh phúc biết bao khi ta có một người bạn luôn ở bên cạnh ta, cùng chia sẻ buồn vui, cùng nhìn nhau trưởng thành. Trúc Anh là một phần rất quan trọng trong cuộc đời Thuyên. Không phải ruột thịt nhưng tình cảm Trúc Anh dành cho Thuyên còn hơn cả anh em. Vừa là bạn, Trúc Anh vừa là người anh lo lắng cho Thuyên đủ điều. Không bao giờ Trúc Anh để Thuyên buồn hay bị ai ăn hiếp. Thuyên biết mình chịu ơn trời phật vì điều đó. Có lẽ cũng bởi vậy mà Thuyên càng ngày càng thêm yêu lạ lùng những bông cẩm chướng đỏ. Gần như bữa nào tới Thuyên chơi, Trúc Anh cũng thấy nơi bàn học của Thuyên có sẵn một lọ cẩm chướng đỏ lung linh… Mời các bạn đón đọc Cẩm Chướng Đỏ của tác giả Bùi Đặng Quốc Thiều.
Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát
Sáu triệu bản bán ra trên toàn thế giới 58 tuần trong danh sách bán chạy của New York Times Dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019 Trong nhiều năm, những tin đồn về "Cô gái đầm lầy" đã ám ảnh Barkley Cove, một thị trấn yên tĩnh trên bờ biển Bắc Carolina. Vì vậy, khi nơi này rúng động với cái chết đầy bí ẩn của Chase Andrew, người dân địa phương ngay lập tức đổ dồn nghi ngờ vào cô. Nhưng Kya Clark – cô gái hoang dã ấy có phải là thủ phạm? Thông minh và nhạy cảm, cô đã sống sót sau nhiều năm cô đơn trong đầm lầy, trú ẩn trong lòng mẹ thiên nhiên, kết bạn với mòng biển và học những bài học đắt giá trên bờ cát. Khi trái tim tuổi mới lớn mở ra, cô cũng chạm vào yêu thương với hai chàng trai, bắt đầu một cuộc sống mới cho đến khi điều bất ngờ xảy đến… “Một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên với một cú ngoặt chết người.” — REFINERY29 “Đầy chất thơ… Sức hấp dẫn của cuốn sách đến từ sự liên kết sâu sắc giữa Kya với vùng đất đã là nhà cô, và với mọi sinh vật của vùng đất đó.” — BOOKLIST *** Cuốn sách "Xa ngoài kia nơi loài tôm hát" của Delia Owens là một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên đẹp đẽ và đau đớn. Cuốn sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát (Tên gốc: Where the Crawdads Sing) lấy bối cảnh những năm 1950 về cô gái trẻ Kya Clark ở Bắc Caroline, nước Mỹ. Kya được biết với cái tên "Cô gái đầm lầy" bởi cô sống một mình giữa thiên nhiên, chỉ kết nối với một vài người. Nhưng khi một vụ án mạng xảy ra, tất cả đổ dồn vào cô bé hoang dã và đơn độc ấy. Lấy vụ án làm trung tâm cuốn sách, tác giả Delia Owens dẫn dắt người đọc khám phá vùng ngập nước hoang sơ và vắng vẻ của bờ Bắc Carolina qua đôi mắt của một đứa trẻ bị bỏ rơi. Đây là tiểu thuyết đầu tay của Delia Owens, được xuất bản lần đầu năm 2018, nhưng đã nhanh chóng chiếm được sự yêu mến của đông đảo độc giả. Cuốn sách đạt được 6 triệu bản bán ra trên thế giới, liên tục đứng trong danh sách bán chạy của New York Times suốt 58 tuần và dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019. Trên Goodreads, cuốn sách nhận được gần một triệu đánh giá khi 88% độc giả nói rằng mình yêu thích cuốn sách. Trên Amazon, tác phẩm của Delia Owens cũng nhận được hơn 111.000 đánh giá, trong đó có hơn 86.000 đánh giá 5 sao. Delia Owens sinh năm 1949, là tác giả, nhà động vật học người Mỹ. Bên cạnh cuốn tiểu thuyết Xa ngoài kia nơi loài tôm hát, bà còn cùng chồng cũ viết ba cuốn sách về thế giới hoang dã tại châu Phi. Tại Việt Nam, Xa ngoài kia nơi loài tôm hát được dịch giả Trương Hoàng Uyên Phương chuyển ngữ. Theo cô, việc chuyển ngữ tựa đề của cuốn sách là một thách thức lớn, khó nhất là làm sao để người đọc hình dung được một không gian hoang vu và xa vắng, văng vẳng âm thanh rất nguyên sơ của các loài hoang dã. Cuốn sách được viết bằng thứ văn phong đặc biệt, đầy sức sống và hoang dại như tự nhiên, nhưng cũng đầy chất thơ và có sức gợi mãnh liệt. Từ chính nội dung tuyệt đẹp đó, tên sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát đã được ra đời. Dịch giả Uyên Phương cũng đánh giá cuốn sách nổi bật nhất với hai điểm: Cuộc sống khắc nghiệt mà cũng đầy chất thơ của Kya ở đầm lầy và bí ẩn vụ án mạng. Vì Kya gần như phải đơn độc sinh tồn nơi hoang dã, tự nhiên đã trở thành người bạn, người mẹ, người thầy của cô bé. Đó là một thiên nhiên rất đẹp, tráng lệ và huyền bí, trù phú mà khắc nghiệt, tàn nhẫn nhưng lại dịu dàng. Người đọc sẽ dễ dàng bị cuốn hút, ngỡ ngàng, rung động và có lúc rùng mình với những bài học từ thiên nhiên đó. Còn về vụ án mạng trong cuốn sách, dịch giả bật mí rằng, có lẽ độc giả sẽ phải suy nghĩ rất lâu về định kiến cũng như sự phán xét của con người. *** MỞ ĐẦU 1969 Đồng lầy chẳng phải đầm lầy. Đồng lầy là một không gian tràn ánh sáng, nơi cỏ vươn lên trong nước, và nước trôi vào trong bầu trời. Dòng chảy chầm chậm quanh co, mang theo quả cầu mặt trời ra đến biển, và lũ chim chân dài lêu nghêu cất mình vụt lên với sự uyển chuyển không ai ngờ đến – thân hình chúng dường như không được tạo ra để bay lượn – trên nền âm thanh cả ngàn con ngỗng tuyết kêu ran. Rồi trong chính đồng lầy, ở đó đây, đầm lầy đích thực len lỏi vào những vùng trũng thấp, ẩn khuất giữa ẩm ướt đại ngàn. Nước đầm lầy tĩnh lặng và tối tăm, nuốt chửng ánh sáng trong cổ họng bùn nhớp nháp. Trong cái hang đó, cả những loài chuyên lẩn lút về đêm cũng hoạt động ban ngày. Nơi đây cũng có tiếng động, tất nhiên, nhưng so với đồng lầy thì đầm lầy tĩnh mịch hơn hẳn vì sự phân hủy là hoạt động chế ngự tất cả. Sự sống mục nát, bốc mùi và trở về thứ mùn thối rữa; một chốn trầm mình sầu bi của cái chết cho sự sống vươn lên. Vào buổi sáng ngày 30 tháng Mười năm 1969, xác của Chase Andrews nằm trong đầm lầy, cái đầm hẳn sẽ nuốt chửng nó dần dần, lặng lẽ. Vĩnh viễn che giấu nó. Đầm lầy tường tận mọi điều về cái chết, và không nhất thiết coi đó là thảm kịch, chắc chắn chẳng phải là tội ác. Thế nhưng buổi sáng này, hai cậu bé từ ngôi làng đạp xe đến chỗ tháp phòng cháy cũ, và từ chỗ ngoặt thứ ba trên cầu thang đã trông thấy chiếc áo khoác denim của cái xác kia. *** 1952 Sáng ngày hầm hập cái nóng trời tháng Tám, hơi thở ẩm ướt của đồng lầy giăng màn sương mờ lên những nhánh sồi với cành thông. Trảng cây cọ đứng im đến lạ lùng, chỉ có tiếng vỗ cánh trầm trầm, chậm chạp của lũ diệc cất mình lên từ phá nước. Và rồi Kya, bấy giờ chỉ mới sáu tuổi, nghe tiếng cửa lưới sập lại. Đứng trên chiếc ghế cao, con bé ngừng cọ bợn cháo ngô bám trên nồi và để nồi xuống bồn đầy bọt xà phòng đã xẹp. Chẳng còn tiếng động nào nữa ngoài tiếng thở của con bé. Ai vừa ra khỏi lán vậy nhỉ? Không phải má. Má có bao giờ để cửa sập lại đâu. Ấy vậy mà khi chạy ra hiên, Kya lại thấy má trong bộ váy dài nâu, những nếp xếp li nhịp nhịp víu vào mắt cá khi bà bước xuôi dải đường cát trong đôi giày cao gót. Đôi giày mũi bầu giả da cá sấu. Đôi duy nhất để bà mang ra ngoài. Kya muốn gọi to nhưng biết khôn hồn thì chớ có đánh thức ba dậy, vậy là nó mở cửa ra đứng trên bậc thềm gạch ván. Từ chỗ đó, con bé thấy chiếc vali nhỏ màu xanh lam má xách theo. Mọi ngày thì với sự tin tưởng của một chú chó con, Kya biết má sẽ quay về với chút thịt gói trong giấy nâu dính mỡ hoặc một con gà, đầu lủng lẳng chúc xuống. Thế nhưng bà chưa bao giờ mang đôi giày da cá sấu, chưa bao giờ xách theo hành lý cả. Má luôn luôn nhìn lại từ chỗ lối đi nhỏ gặp đường mòn, một tay giơ lên cao, lòng bàn tay trắng nõn nà vẫy vẫy trước khi bà quay lưng bước tiếp, len lỏi qua những khu rừng đầm lầy cùng phá nước khin khít cỏ đuôi mèo, rồi có lẽ nếu con nước gia ơn, cuối cùng bà sẽ ra đến phố. Thế nhưng hôm nay bà không ngoảnh lại mà cứ dấn bước, loạng choạng giữa những vết lún trên đường. Dáng vóc cao của bà thỉnh thoảng hiện ra qua những lỗ hổng giữa rừng, cho đến khi chỉ còn thấy thấp thoáng màu trắng chiếc khăn choàng qua kẽ lá. Kya vụt chạy đến chỗ nó biết con đường sẽ lộ ra; chắc chắn má sẽ dừng lại vẫy tay từ đó, nhưng tới nơi, con bé chỉ kịp thoáng thấy màu lam của chiếc vali trước khi nó mất hút – cái màu sao mà chỏi giữa cánh rừng mướt rượt màu xanh lục. Một cảm giác nặng nề dày đặc như bùn gòn đen chèn lên ngực con bé khi nó quay lại đợi ở bậc thềm. Kya là đứa nhỏ nhất trong đám anh em nhà này, mấy anh chị lớn hơn nó nhiều, mặc dù sau này con bé không nhớ tuổi của họ nữa. Bọn trẻ sống với ba và má, chen chúc nhau như bầy thỏ nhốt chuồng, trong cái lán thô sơ tạm bợ, hàng hiên có lưới che lỏ mắt dòm ra dưới những tán sồi. Jodie, thằng anh gần Kya nhất nhưng vẫn lớn hơn nó bảy tuổi, bước từ trong nhà ra và đứng sau con bé. Jodie có cùng cặp mắt và mái tóc đen của em gái; thằng nhỏ đã dạy con bé bài hát của lũ chim, tên gọi những vì sao và cách lái thuyền qua đám cỏ răng cưa. “Má sẽ về thôi,” thằng anh nói. “Em hông biết. Má mang đôi dày cá sấu đó.” “Một bà má hông bỏ mấy đứa con nhỏ đâu. Điều đó hông nằm trong bản tính của họ.” “Anh kể với em là cáo cái bỏ con của nó mà.” “Ừ, nhưng con cáo đó bị toạc hết chân rồi. Nó xẻ chết đói nếu cố nuôi cả mình dới bầy con nhỏ. Tốt hơn là nó bỏ đám này, dưỡng thương cho lành lại, rồi đẻ thêm khi có thể nuôi tụi nhóc ra hồn. Má thì đâu có đói, má sẽ quay lại.” Jodie không chắc chắn như nó ra vẻ thế, nhưng vẫn nói vậy vì Kya. Cổ họng nghèn nghẹn, con bé thì thầm, “Nhưng má xách theo cái vali xanh như xắp đi xa lắm.” Cái lán nằm tựa vào trảng cọ lùn, vô số cụm cọ mọc rải rác, tỏa khắp bãi cát tới chỗ chuỗi những phá nước xanh, và ở xa xa là toàn bộ vùng đồng lầy sau đó. Hàng dặm lưỡi cỏ cứng cáp đến độ chúng mọc lên cả trong nước mặn, chỉ bị ngắt quãng bởi những thân cây uốn cong đến nỗi chúng mang hình hài cơn gió. Rừng sồi dồn lại quanh những phía khác của cái lán nhỏ, bao bọc lấy phá nước gần đó nhất, nơi mặt nước giàu sự sống đến sục sôi. Bầu không khí trĩu muối và bài ca mòng biển tràn qua hàng cây dạt tới từ biển cả. Từ thế kỷ 16, việc khẳng định quyền sở hữu một vùng lãnh thổ chẳng thay đổi gì mấy. Những khu đồng lầy có chủ rải rác đó đây không được mô tả trên giấy tờ pháp lý, chỉ được vạch ranh giới tự nhiên – một cây sồi chết ở kia, một con lạch đằng này – bởi những kẻ trốn chạy. Người ta đâu có tự dưng dùng cọ dựng chốn nương thân ở đầm lầy, trừ phi đang trốn kẻ nào đó hay đã cùng đường tận lối. Đồng lầy được bao bởi một đường bờ biển bị xé nham nhở, mà những nhà thám hiểm ngày trước gán cho cái tên “Nghĩa địa của Đại Tây Dương” vì dòng chảy rút xa bờ, những luồng gió dữ và bãi cạn sẽ đánh cho tàu thuyền vỡ nát như mấy chiếc nón giấy dọc vùng bờ sẽ trở thành bờ Bắc Carolina. Nhật ký một thủy thủ viết, “vòng quanh bờ biển… nhưng không thấy lối vào… một cơn bão dữ dội ập tới… chúng tôi buộc phải quay ra để giữ cho mình và con tàu được an toàn, và bị xô đẩy dồn dập bởi một cơn sóng dữ… Đất liền… toàn đồng lầy nối đầm lầy, chúng tôi quay về tàu… Làm nản lòng tất cả những ai sau này tìm tới đây cư ngụ.” Những người tìm đất an cư bỏ qua chốn này, và vùng đồng lầy nổi tiếng đây trở thành một tấm lưới, vớt lên một mớ lộn xộn những tay thủy thủ nổi loạn, nạn nhân đắm tàu, con nợ và bọn người trốn chạy khỏi chiến tranh, thuế má hay luật lệ mà họ không ưa. Những kẻ mà bệnh sốt rét không giết chết hay đầm lầy không nuốt chửng sinh ra một bộ lạc người rừng thuộc nhiều chủng tộc và nền văn hóa, mỗi người có thể đốn trụi một khu rừng nhỏ với một cái rìu và vác một con hươu đi hàng dặm. Như lũ chuột sông, mỗi người có riêng một lãnh thổ, nhưng họ phải hòa nhập với cảnh sống ngoài rìa hoặc đơn giản là một ngày biến mất trong đầm tối. Hai trăm năm sau, nhóm này kết nạp thêm những nô lệ bỏ trốn vào đồng lầy và các nô lệ được trả tự do, không xu dính túi và cùng quẫn, tản mát vào vùng đất ngập nước vì chẳng còn bao nhiêu lựa chọn khác. Có lẽ đó là vùng hiểm ác, nhưng không một tấc đất nào nghèo. Tầng tầng lớp lớp sự sống – cua rù rì ngoe nguẩy, tôm hùm đất sủi bùn, hằng hà chim nước, cá, tôm, sò, hươu béo xị, ngỗng mập núc – chất chồng trên đất hay trong nước. Kẻ không ngại lùng sục tìm bữa ăn sẽ không đời nào chết đói được. Bấy giờ là năm 1952, nên đã bốn thế kỷ liền vùng đất bị giành quyền sở hữu bởi một chuỗi rời rạc những người không có sổ sách nào ghi lại. Hầu hết là trước cuộc Nội chiến. Một vài kẻ khác đến chiếm dụng đất gần đây, đặc biệt là sau hai cuộc chiến tranh thế giới, khi những người đàn ông trở về trong tan nát và túng quẫn. Đồng lầy không giam giữ mà định nghĩa con người họ, và như tất cả những vùng đất linh thiêng, chúng giữ cho bí mật của họ được vùi sâu. Họ chiếm đất mà chẳng ai quan tâm vì không ai thèm muốn nó. Dù sao, nó cũng chỉ là thứ bãi lầy hoang. Cũng như cách họ làm lậu rượu whiskey, cư dân đồng lầy đặt ra luật lệ của riêng mình – không giống kiểu luật khắc vào đá hay ghi lên giấy, mà là thứ luật sâu xa hơn, in hằn trong gen họ. Tự nhiên và cổ xưa, như nở ra từ trứng diều hâu với bồ câu. Khi bị dồn vào đường cùng, bí bách, tuyệt vọng hay bị cô lập, con người trở lại với thứ bản năng nhằm thẳng tới sinh tồn. Nhanh gọn và đích đáng. Chúng luôn là những lá chủ bài vì được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thường xuyên hơn loại gen hiền. Đó chẳng phải đạo lý gì, chỉ là phép toán đơn giản. Giữa đồng loại, bồ câu cũng đánh nhau thường xuyên chẳng kém diều hâu. Hôm đó má không về. Chẳng ai đả động gì tới chuyện đó. Ba lại càng không. Bốc mùi cá và nước dùng, ông khua nắp nồi loảng xoảng. “Bữa tối có gì hả?” Mắt cụp xuống, mấy anh chị em chúng nó nhún vai. Ba chửi thề rồi khập khiễng đi ra, trở vào rừng rậm. Đã có nhiều vụ cãi cọ trước đó; má thậm chí đã bỏ đi một hai lần, nhưng lần nào bà cũng quay về, vơ lấy bất kỳ đứa nhỏ nào để ôm ấp. Hai cô chị lớn nấu bữa tối gồm bánh ngô với đậu đỏ, nhưng không đứa nào ngồi vào bàn ăn như chúng sẽ ngồi với má. Mỗi đứa xúc vội đậu từ nồi, trút đại bánh ngô lên trên, rồi lảng đi ăn ở góc của chúng trên thảm trải sàn hay cái sô-pha sờn cũ. Kya không ăn được. Nó ngồi trên bậc thềm trước hiên nhìn xuống con đường. Người cao so với tuổi, gầy trơ xương, con bé có nước da rám thẫm và mớ tóc đen, thẳng, dày như cánh quạ. Màn đêm buộc nó ngừng trông ngóng. Tiếng ếch ồm ộp sẽ vùi đi tiếng bước chân; dẫu vậy, con bé vẫn nằm trên cái giường ngoài hiên, dỏng tai nghe ngóng. Mới sáng hôm đó, nó hãy còn thức dậy trong tiếng mỡ lợn xèo xèo trên chảo sắt và mùi bánh mì sạm nâu trong lò. Kéo cái quần yếm lên người, con bé xộc vào bếp để bày dĩa và nĩa. Nhặt mấy con mọt trong cháo bỏ ra. Hầu như sáng nào cũng vậy, tươi cười, má sẽ ôm lấy nó – “Chào buổi sáng, con gái đặc biệt của má” – và hai má con sẽ làm hết việc này tới việc nọ, thoăn thoắt như múa. Thỉnh thoảng má còn cất giọng hát dân ca hay đọc vài đoạn thơ cho con trẻ: “Chú heo nhỏ đi chợ lon ton.” Hoặc má sẽ đẩy đưa Kya theo điệu jitterbug nhịp dồn, chân họ giẫm bùm bụp lên sàn gỗ dán cho đến khi tiếng nhạc từ cái radio chạy pin dần tắt ngỏm, nghe như nó đang tự hát cho mình nghe dưới đáy một cái thùng tròn. Vào những buổi sáng khác, má lại nói mấy chuyện người lớn mà Kya không hiểu, nhưng con bé đoán rằng lời nói của má cần có chỗ để thoát ra, nên nó thấm lấy từng lời qua da, trong khi tay nhét thêm củi vào lò. Gật gù làm như hiểu rõ. Sau đó là cái nhốn nháo ngược xuôi khi mọi người thức dậy và ăn sáng. Ba không ở đó. Ông chỉ có hai chế độ: im lặng và gào thét. Nên cũng tốt khi ông cứ ngủ, hoặc không về nhà. Thế nhưng sáng nay, má im lặng; nụ cười đánh mất, mắt đỏ hoe. Bà cột thấp ngang trán một cái khăn màu trắng theo kiểu hải tặc, nhưng cái viền thâm tím vàng của một vết bầm vẫn lộ ra. Ngay sau bữa sáng, trước khi chén dĩa được rửa sạch, má đã cho vài món tư trang vào vali và theo lối nhỏ mà đi mất. Sáng hôm sau, Kya lại tới chỗ cũ của nó trên bậc cửa, cặp mắt đen hun hút xoáy xuống con đường như một đường hầm đợi tàu qua. Đồng lầy phía xa bị màn sương bao phủ, sương sà thấp đến nỗi cái gót mềm của nó chạm hẳn xuống bùn. Chân trần, Kya nhịp nhịp ngón chân, xoay xoay ngọn cỏ chọc vào đám ấu trùng kiến sư tử, nhưng một đứa nhỏ sáu tuổi nào có ngồi yên được, chẳng mấy chốc con bé đã la cà tới bãi triều, tiếng nước vỗ liếm láp ngón chân nó. Ngồi xổm bên rìa nước, con bé dõi theo lũ cá tuế vọt qua vọt lại giữa chỗ nắng với chỗ có bóng râm. Jodie cất tiếng gọi Kya từ đám cọ lùn. Con bé nhìn chăm chăm; có lẽ anh nó tới đưa tin mới. Nhưng trong lúc thằng anh len lỏi qua mấy tán lá đầy gai, con bé nhìn dáng đi lững thững của anh và biết má không có ở nhà. “Em muốn chơi thám hiểm hông hả?” Jodie hỏi. “Anh nói anh quá tuổi chơi hám hiểm rồi mà.” “Đâu, anh nói vậy thôi. Hông bao giờ quá tuổi cả. Đua đi!” Hai đứa ùa chạy qua bãi triều, băng rừng cây lao ra bờ biển. Kya ré lên khi thằng anh vọt qua mặt nó và cười nắc nẻ cho tới khi chúng chạy đến chỗ cây sồi lớn chìa ra trên cát những cánh tay khổng lồ. Jodie và anh cả Murph đã đóng vài miếng ván lên cành cây làm đài quan sát và phòng thủ. Giờ thì hầu hết ván gỗ đã sụp xuống, đong đưa một cách nguy hiểm, chỉ dính vào thân cây nhờ mấy cây đinh sét. Thường ngày, nếu Kya có được cho chơi đoàn thám hiểm thì nó cũng phải đóng vai nô lệ, đưa tới cho các anh bánh mì còn nóng lén lấy từ chảo của má. Thế nhưng hôm nay Jodie nói, “Em có thể làm thuyền trưởng.” Kya giơ cao tay phải trong tư thế xông lên. “Đuổi bọn Tây Ban Nha đi!” Hai đứa nhỏ bẻ cây làm kiếm, xộc qua những bụi mâm xôi um tùm, hét váng lên và đâm kẻ thù lia lịa. Rồi – màn tưởng tượng chợt đến chợt tan – Kya bước lại chỗ một khúc cây phủ đầy rêu và ngồi xuống. Im lặng, Jodie đến ngồi cạnh em. Thằng bé muốn nói gì đó để đứa em gái thôi nghĩ về má, nhưng từ ngữ tắt nghẹn, thế là hai đứa lặng ngắm cái bóng loang loáng bơi bơi của lũ gọng vó. Sau khi quay về, Kya trở lại chỗ bậc thềm và đợi thật lâu, nhưng trong lúc nhìn đăm đắm về phía cuối đường, nó không hề khóc. Gương mặt nó bất động, môi mím lại thành một đường mỏng dưới đôi mắt khắc khoải kiếm tìm. Nhưng ngày hôm đó má cũng không trở lại. Mời các bạn đón đọc Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát của tác giả Delia Owens & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch).
Bay Bằng Đôi Cánh Gãy
Willem 12  tuổi sống với bà ngoại ở tầng 18, Chung cư Beckham, London. Do mắc một dạng rối loạn tự kỷ, Willem hơi ngô nghê trong giao tiếp, ai nói sao cậu hiểu đúng y nghĩa đen vậy, không hiểu người ta nói đùa, với bất cứ việc gì cậu cũng hết sức nghiêm túc, từ làm bài tập về nhà cho đến thức ăn phải để riêng từng đĩa, đến quần áo mặc đúng ngày, và rất nhiều chuyện đặc biệt kỳ lạ (và kỳ cục) khác... Tất nhiên Willem không chỉ rất khó có bạn, mà còn là đối tượng để đám lêu lổng trong trường lẫn trong chung cư bắt nạt. Thế mà, cô Hubert, giáo viên Toán đồng thời là chủ nhiệm lớp, lại không giao cho Willem bài tập về nhà giải 10 phương trình như những đứa khác trong lớp; cô bảo Willem phải kết được hai người bạn cùng tuổi. Vậy nên Willem không được tính bà ngoại, chú bán burger vào được rồi! Lớp học nào cũng có mấy đứa "xóm nhà lá" chuyên nghề quậy phá. Nhưng lũ học trò nhất quỷ nhì ma của lớp Willem còn hơn vậy nhiều, có tới hai băng đảng xưng hùng xưng bá. Một phe là băng Giang hồ Phố Beckham - nghe là biết lũ trẻ trâu trong chung cư của Willem rồi. Phe kia là Băng Tarkey, mà tụi nó khoái xưng là Băng T hơn, đích thị lũ trẻ choai bên Chung cư Tarkey gần đó.  Cầm đầu mấy đứa Giang hồ Phố Beckham trong lớp Willem là thằng Finn. Hai đứa "tà lọt" cho thằng Finn là thằng Laurence và TJ. Ba thằng ôn con này gặp Willem đâu là bắt nạt đó, cái trò thằng Finn khoái nhất là bắt Willem leo lên bàn, leo lên kệ... leo lên bất cứ gì và nhảy xuống theo tiếng hô của nó! Nhưng bữa đó thật bá đạo quá quắt, ba thằng dí Willem trèo lên bờ tường bao khuôn viên trường và bắt thằng nhỏ phải nhảy xuống. Cái tường cao thế kia, lại còn găm đầy miểng chai trên bề mặt...  Giữa lúc ba thằng Finn, Laurence và TJ thi nhau hú hét, chế nhạo, khủng bố tinh thần Willem, chợt có tiếng kêu khóc can ngăn của Sasha Barton. Sasha và Finn là bạn từ hồi chơi hố cát nhà trẻ. Gần đây, thằng Finn nắm tay Sasha làm con bé thấy bủn rủn kỳ cục! "Cảm nắng" thằng Finn ư? Lẽ nào! Nhưng khi Willem liều mạng nhảy từ trên tường xuống, vẫy hai tay như cánh chim và té "rắc" một phát, gãy chân, thằng Finn nắm tay Sasha lôi tuột đi thì con nhỏ răm rắp làm theo, bỏ mặc Willem nằm rên la trên đất.  Willem được đưa đi bệnh viện, cái chân gãy bó bột to đùng. Và cô Hubert quét ánh mắt tia laser nhìn cả hai băng trẻ trâu trong lớp, nghi ngờ không biết ai là thủ phạm vụ kinh thiên động địa này! Trong khi Sasha đang bứt rứt hối hận, cô Hubert lại hỏi ai có thể thay mặt cả lớp đến bệnh viện thăm nom Willem, tỏ tình bằng hữu không. Mặc kệ thằng Finn tức lồi mắt, Sasha đứng bật dậy xung phong.  Đến bệnh viện và chăm một cậu bạn tự kỷ, giao tiếp ngô nghê, nói năng nghiêm trọng như ông cụ non... không phải là phiền phức và chán òm sao? Dĩ nhiên rắc rối chẳng phải dạng vừa! Và Finn đời nào để yên.  Nhưng câu chuyện "tay ba" Finn - Sasha - Willem lọt thỏm giữa câu chuyện lớn hơn nhiều trong cuộc sống ở trường và ở chung cư của chúng. Lũ vô công rỗi nghề đàn anh - đại ca - của hai băng đảng Phố Beckham và Băng T bắt tay nhau chơi lớn: bạo động, cướp phá cửa hàng, thiêu rụi ô tô, đập vỡ kính cửa sổ, choảng nhau đến đổ máu... Những tháng ngày mà nơi này nơi kia ở London bùng lên những cuộc nổi loạn của thanh niên thất nghiệp và bọn trẻ mới lớn a dua, vào hùa... Tuy nhiên, tình bạn bắt đầu từ chiếc xe lăn đẩy Willem chân bó bột, Sasha tả xung hữu đột qua đám bạo loạn đưa bạn về nhà, và thằng Finn thoắt ẩn thoắt hiện, lúc là bạn lúc là kẻ làm loạn - hết sức khó hiểu - dẫn đến nhiều cơ duyên khác cho cuộc đời của ba đứa trẻ. Đầu tiên chúng được gặp Ông già phép màu Archie và Dự án Cộng đồng sửa ô tô ông mở ở tầng hầm chung cư Beckham. Cơ duyên thứ hai, hết sức phi thường, chạm đúng giấc mơ thầm kín - được bay - của Willem và Sasha là gặp gỡ nàng Tiêm kích Spitfire Maisy - một trong những chiến đấu cơ anh hùng của Không quân Anh trong Thế chiến II còn sót lại. Ba là: bài tập thuyết trình nhóm do cô Hubert giao, dẫn đến việc ba đứa Finn - Sasha - Willem và chú chó Buster của Finn lập Hội Spitfire. Và cuối cùng: Đôi cánh bằng gỗ Willem tự chế tạo theo bản vẽ của danh họa đồng thời cũng là nhà sáng chế người Ý Leonardo da Vinci - và lần tung cánh chim trời của cậu ta từ tầng mái chung cư Beckham... hạ cánh nơi chảo ăngten cửa sổ phòng thằng Finn ở tầng 11!  Hồi hộp, cuốn hút theo sự phát triển của từng nhân vật... Bay bằng đôi cánh gãy là câu chuyện cảm động tuyệt vời về tình bạn, tình yêu, những tổn thương tâm lý của trẻ em là nạn nhân bạo hành gia đình; lòng tốt giữa người và người; và dành tặng cho những bóng hồng cánh gió của nước Anh trong Thế chiến II. Cuộc sống đương đại của thành phố London, những vấn đề của giới trẻ ngày nay hiện lên sống động và xúc động trong từng câu chữ! Bay bằng đôi cánh gãy sẽ đưa trí tưởng tượng của các em không chỉ đến những tầng mây đẹp của trời cao mà còn đến những cảm xúc tinh tế nhất trong tâm hồn để làm một con người tự do, dám ước mơ và dám theo đuổi ước mơ... đến vô cùng và xa hơn nữa! *** WILLEM Khi thằng Finn Mason gào ‘nhảy đi’, tức là phải nhảy bật lên cao hết sức bình sinh, bằng không thì chết chắc. Tôi hít một hơi sâu. ‘Nhảy đi, thằng ngu,’ Finn hét lên, một cục nước bọt bắn ra khỏi mép nó. Đứng hai bên thằng Finn là TJ và Laurence. Bọn nó nhìn tôi chằm chằm. Miệng chúng há hốc. Tôi nhích nhích ngón chân ra gờ tường bao khuôn viên trường. Một miếng mảnh chai do thầy Patricks, thầy giám thị, cắm lên trên bậu tường để giữ lũ học trò bất xuất và lũ trộm bất nhập, nghiến lạo xạo dưới chân tôi. Chẳng có tên trộm nào thèm đột nhập vào cái trường này vì đâu còn gì mà chôm chỉa. Thằng Finn Mason đã vét sạch sành sanh rồi. ‘Nhảy đê! Nhảy đê! Nhảy đê!’ Laurence và TJ hô vang. Laurence cười ha hả. Còn TJ trông như thể sắp đổ bệnh đến nơi. Mấy ngón tay tôi bắt đầu run. Tôi thò tay vào túi phải tìm con máy bay mô hình Spitfire Mark 1 của mình. Nó đã biến đâu mất! Xoay xoay cánh quạt ở mũi con máy bay mô hình này thường giúp tay tôi bớt quýnh quáng và đầu óc tôi có thể tập trung giải quyết những bài toán khó nhằn, ví dụ như lần này, khi tôi đang bị ép phải nhảy từ trên bờ tường cao chót vót xuống. Tôi sục tay qua túi trái, dù biết chắc mình luôn cất con mô hình Spitfire Mark 1 ở túi bên phải thôi. Nó cũng không có ở đó. Mất rồi. Mấy ngón tay tôi run bần bật. Lẽ ra tôi không nên đứng trên gờ tường bao khuôn viên trường mới phải. Lẽ ra giờ này tôi đang làm bài tập về nhà. Cô Hubert dạy toán đã giao riêng cho tôi một bài tập khác với cả lớp. Chúng nó phải giải 10 phương trình. Còn tôi phải kết được hai người bạn. Cô Hubert nói bà tôi thì không tính vì là người nhà. Chú Bernie ở Quầy Burger Bernie cũng không được vì chú ấy là người bán hàng. Tôi hỏi cô Hubert có phải là bạn tôi không thì cô trả lời không, cô là cô giáo dạy môn toán của tôi thôi. ‘Em phải kết bạn với hai người cùng tuổi em,’ cô nói. ‘Nhảy đi!’ thằng Finn gào. Nó không phải là bạn tôi. Tôi nhích tới thêm một chút. Một miếng miểng chai đâm xuyên qua vạt đế giày mỏng lét, đôi giày đi học tôi ưa thích thứ nhì, màu đen cột dây, và cứa vào ngón cái chân trái. Thầy Patricks không nên gắn miểng chai lên bậu tường, vì lý do sức khỏe và an toàn mới phải chứ. Thầy Patricks không nên làm giám thị. Thầy ấy nên làm gián điệp ám sát của SAS[1] mới đúng. Thật tức cười, phải không, những chuyện như vậy lại hiện lên trong đầu khi bạn sắp phải nhảy xuống khỏi bậu tường và chết ngắc. Có tiếng máy bay bay ù ù trên trời. Tôi ngước lên. Hình như là một chiếc Boeing 747-400, nhưng cũng khó mà nói trúng được khi bạn đang cố giữ thăng bằng trên gờ tường cao chót vót thế này. Loại máy bay đó có thể bay một mạch không ngừng đến 7.670 hải lý. Mấy thông số máy bay giúp tôi bình tĩnh một chút. ‘Nhảy đi,’ thằng Finn quát. Thằng Finn có quả đầu tóc vàng loăn xoăn. Nó không chải đầu. Mũi nó có bảy nốt tàn nhang. Tôi đã nhẩm đếm tàn nhang trên mũi thằng ấy khi nó bắt tôi nhảy từ bàn học xuống đất giờ ra chơi ngày hôm qua. Từ trên tường cao nhìn xuống, thằng Finn, TJ và Laurence trông bé xíu. ‘Tao đã bảo NHẢY!’ Finn gào. Tôi nhìn xuống. Tôi, Willem Edward Smith, xin tuyên bố ở đây rằng tôi không hề sợ độ cao. Gia đình tôi sống ở tầng 18 Chung cư Beckham. ‘Chúng ta ngủ cao hơn cả lũ chim,’ bà tôi vẫn thường nói. Nếu đúng là tôi sắp chết thật thì tôi sẽ xin vị thánh nào phụ trách trên ấy - Chúa chẳng hạn, hoặc nếu ngài bận thì có thể phụ tá của ngài Thánh Phêrô cũng được - cho tôi đầu thai thành một chú chim vì tôi không thích làm Willem Edward Smith cho lắm. Bà tôi dạy phải luôn vươn tới đỉnh cao. Nên tôi hy vọng Chúa sẽ có mặt ở đó khi tôi đưa lời thỉnh cầu. Có lẽ tôi nên đặt lịch hẹn gặp ngài. Bà còn dạy tôi một điều nữa là phải luôn lên kế hoạch cho mọi chuyện, có như vậy mới đối phó được những bất ngờ quái gở trong đời. Thế nên mỗi khi nhìn thấy Finn đi trên hành lang trong trường là tôi sẽ bắt đầu nhảy lên nhảy xuống tại chỗ trước cả khi nó bảo tôi làm vậy. Tôi vò tóc bù xù và kéo đứt một chiếc cúc áo và tự tát vào mặt mình cho đến khi má tôi hằn một vệt đỏ. Kế hoạch của tôi là lừa thằng Finn tin nó đã đánh tôi rồi. Finn là thằng não cá vàng nên đôi khi kế hoạch này thành công, nhưng những lần còn lại nó toàn bắt tôi nhảy cao hơn nữa và đạp vào bụng tôi. ‘Nhảy đi! Nhảy đi! Nhảy đi!’ Chúng nó đồng thanh gào mỗi lúc một to hơn. Ngón tay tôi run rẩy hơn nữa. Nếu tôi nhảy xuống bờ tường này rồi chết đi thì mỗi sáng ai sẽ pha trà và bưng cho bà tôi đĩa bánh quy ăn nhẹ đây? Mà tiện thể, tôi cho rằng chấm dứt cuộc đời ngắn ngủi mới 12 năm của tôi như này là hết sức ngớ ngẩn, và tôi bắt đầu nhẩm đếm số ngày, phút và giây mình có mặt trên Trái Đất. ‘Nhảy đi, cái thằng rác rưởi thảm hại,’ Finn cắt ngang phép tính nhẩm trong đầu tôi. Tôi hít sâu một hơi và nhích mấy ngón chân ra khỏi gờ tường thêm nữa. Mặt đất bắt đầu xoay mòng mòng. Tôi lảo đảo. TJ đưa tay lên che mắt. Một đứa con gái nào đó hét lên. Sasha Barton chạy bổ đến chỗ chúng tôi. ‘Finn, cậu đang làm gì đấy? Cậu làm hại Willem thì sẽ bị tống cổ ra khỏi trường lần nữa là cái chắc! Và đừng hòng gặp lại nhau. Vĩnh viễn luôn nha. Rồi bố tớ sẽ cấm cậu xuất hiện trong đời tớ luôn, lần thứ sáu trong năm nay rồi đó.’ Sasha ngước nhìn tôi và lén nháy mắt một cái cực khẽ. Một cái chớp nhẹ, nhưng tôi đã kịp thấy. Nếu ai đó nháy mắt với bạn, có phải họ là bạn của bạn không? Thế rồi con nhỏ hất mái tóc đen dài ra sau tai, lắc lắc đôi khuyên vàng và phẩy tay với thằng Finn. ‘Để yên cho Willem đi Finn, làm ơn mà,’ Sasha nói, nhìn thẳng vào mắt Finn. Thằng Finn không thèm nhìn vào mắt Sasha. Nó nhìn chằm chằm ngực con bé. Có điều ngực con nhỏ không lớn lắm - không đủ để ngăn Finn muốn giết tôi. ‘NHẢY XUỐNG!’ nó gầm lên. Thế là tôi NHẢY XUỐNG. Tôi vờ như mình đang ở trong một chiếc máy bay và dù không cố ý nhưng hình như tôi đã đập đập hai cánh tay như cánh chim khi lao xuống và thế là làm lộ bí mật. Và khi chân tôi gãy rắc một cái, tôi thét lên đau đớn. Nhưng tôi đã không chết. Tôi vẫn là Willem Edward Smith sống ở tầng 18, Căn hộ 103 Chung cư Beckham, Phố Beckham, Tây bắc London, NW1 7AD. Thằng Finn cười phá lên. Rồi cả đám bắt đầu cười hùa theo thằng đó. Nó cúi sát xuống, rít vào mặt tôi, ‘Nó nghĩ nó là chim cơ đấy. Bay đi, con, bay đi.’ ‘Này các em kia! Mấy đứa đang làm gì thế?’ Là thầy giám thị Patricks đang lao về phía chúng tôi. ‘Chuồn thôi!’ thằng Finn thét lên. Finn chộp lấy tay Sasha lôi tuột đi và cả đám bỏ chạy theo, để mặc tôi nằm đó với một chân bị gãy. Có cái gì lấp lánh trong đám cỏ. Là một chiếc khuyên tai của Sasha. Tôi với tay chộp lấy, dù về lý thuyết thì người mới bị thương không nên cử động. Đau điếng. Tôi lén giấu chiếc khuyên vào túi. Nó là bằng chứng tố cáo Sasha đã có mặt ở đây khi tôi nhảy từ trên tường xuống đất, mà tôi thì không muốn một người có thể là bạn mình phải gặp rắc rối. ‘Đợi đấy,’ tôi gào với theo chúng nó. ‘Một ngày nào đó nhất định tao sẽ bay được.’ Mời các bạn đón đọc Bay Bằng Đôi Cánh Gãy của tác giả Jane Elson & Nhung Nhung (dịch).
Dĩ Vãng
Chúng tôi, buổi này, cho ra mắt cuốn Dĩ Vãng, là có ý giới thiệu với các bạn cuốn văn đầu tiên của thi sĩ Hồ Dzếnh (mà những bài thơ trong tờ Tiểu Thuyết thứ bẩy đã khiến các bạn để ý từ lâu). Đây không phải là một câu chuyện biến ảo, ly kỳ đầy những sự hội hộp. Đây chỉ là một câu chuyện dĩ vãng của một thi nhân nhiều tình mộng. …Năm tháng trôi qua, cỏ đã bao nhiêu lần úa và mọc xanh trên những nấm mồ. Một thi nhân, giữa một đêm lành lạnh, nướng sợi tóc bạc vào ngọn lửa một chiếc đèn leo lét, trạnh nhớ đến thời xưa. Thi nhân buồn rầu đọc một lá thư của người mà mười lăm năm trước, chàng đã mất bao nhiêu nước mắt ước ao. Thư ấy có câu: …(Đến bây giờ…người yêu ông đã mất, tôi mới lại dám ngỏ chút lòng oan khổ mà đằng đẵng bao lâu nay tôi từng chép nó bằng nước mắt của một thiếu phụ có chồng, con)… Thi nhân thoáng thấy hình ảnh một người hiền phụ đợi chồng, thấy tất cả một giấc một mộng đương trôi về quá khứ… Tất cả, tất cả cuốn văn chỉ gợi cho ta niềm nhớ, thương một cái gì đẹp đẽ lắm đã mất từ lâu. Nhà Xuất Bản. Á Châu. *** Hồ Dzếnh (1916–1991), tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh (ghi theo giọng Quảng Đông là Hồ Dzếnh) là một nhà thơ của Việt Nam. Ông được biết nhiều nhất qua tập thơ Quê ngoại với một giọng thơ nhẹ nhàng, siêu thoát, phảng phất hương vị thơ cổ Trung Hoa. Ngoài ra, Hồ Dzếnh còn là một nhà văn với nhiều tác phẩm, tiêu biểu là tập truyện ngắn Chân trời cũ (1942), Thạch Lam đề tựa. Ông sinh năm 1916 tại làng Đông Bích, xã Quảng Trường, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là Hà Kiến Huân, người gốc Quảng Đông sang sinh sống ở Việt Nam từ khoảng 1890, mẹ Đặng Thị Văn là người Việt, quê ở bến Ghép, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Ông học trung học, dạy tư, làm thơ, viết báo từ năm 1931 tại Hà Nội. Năm 1953 ông vào Sài Gòn làm báo, năm 1954 trở về Hà Nội tiếp tục viết báo, làm thơ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ngay từ buổi đầu thành lập (1957). Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 1991 tại Hà Nội do xuất huyết dạ dày và viêm thận[1]. Hồ Dzếnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. Hồ Dzếnh là một tín hữu Công giáo Rôma, tên thánh của ông là Phaolô Têrêsa.   Nhà thơ Bùi Giáng trong nhiều tập thi thoại đã cho rằng Hồ Dzếnh là người làm thơ lục bát cực hay, nhưng bù lại thơ thất ngôn chỉ ở mức bình thường. Bài "Rằm tháng giêng", theo Bùi Giáng trong cuốn Thi ca tư tưởng thì: "Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia của Hồ Dzếnh". Nhà văn Kiều Thanh Quế viết: "Ngòi bút Hồ Dzếnh đã có được lắm đặc tánh khả quan trong khi phô diễn. Nó nên tỏ ra có sức mạnh trong những tiểu thuyết dày dặn, thì tên tuổi của người Minh Hương ấy – Hồ Dzếnh là người Minh Hương, văn học quốc ngữ không nề hà chẳng đón tiếp như đã đón tiếp bao nhiêu nhà văn Việt Nam hữu tài." (Tạp chí Tri Tân số 67, 13/6/1942) "Lời giới thiệu" Tuyển tập Hồ Dzếnh – Tác phẩm chọn lọc, Nhà xuất bản Văn Học 1988, nhận định: "Tác phẩm của Hồ Dzếnh không nhiều, lại không tập trung ở một tờ báo hay đặc san nào. Với bản chất trầm lắng, ông luôn luôn khiêm tốn tự cho mình là người mới bắt đầu bước vào nghề viết. Tuy nhiên, với hai tập văn thơ Chân trời cũ và Quê ngoại, Hồ Dzếnh được biết đến như một nhà thơ có chân tài. " Nhà thơ Hoài Anh viết về Hồ Dzếnh: "Phần đóng góp quan trọng nhất cho văn học Việt Nam của anh lại là tập Chân trời cũ, thể hiện nếp sinh hoạt, tính cách, tình cảm, tâm lý của bà con gốc Hoa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hồ Dzếnh chỉ kể chuyện về người cha mình, các anh, chị, em mình, con ngựa của cha mình... mà làm cho người đọc Việt Nam rung động tận đáy lòng." (Chân dung văn học, Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2001) Nhà văn, giáo sư Đặng Thai Mai đánh giá tập truyện Cô gái Bình Xuyên (Nhà xuất bản Tiếng Phương Đông, 1946) viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của người dân Nam bộ thời 1945-1946 như là một trong những tín hiệu đầu tiên của văn học kháng chiến. Mời các bạn đón đọc Dĩ Vãng của tác giả Hồ Dzếnh.