Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Warcross Thợ Săn Tiền Thưởng

Warcross Thợ săn tiền thưởng. Cuốn tiểu thuyết viễn tưởng nằm chiễm chệ ở top đầu danh sách những cuốn sách bán chạy trên New York Times trong 16 tuần. Điều gì đã làm nên kì tích này? Đầu tiên về thể loại tiểu thuyết: Một thể loại hết sức là thú vị bởi nội dung cuốn hút, ý đồ, tư tưởng tác giả gửi gắm vào trong đó qua từng câu, từng chữ, từng cuộc hội thoại, từng nhân vật, từng bối cảnh,… Chúng hòa quyện với nhau một cách hài hòa để cô đọng lại trong một cuốn sách vài trăm trang. Để rồi người đọc phải tò mò, đoán này đoán kia, tư duy, nghiền ngẫm, lật đi lật lại từng trang sách xem là tác giả muốn nói gì thông qua những hình tượng đó. Và rồi ta có hiểu thì dường như cũng chỉ hiểu theo tư duy của ta, một phần nào đó là cái đồ, tư tưởng lớn lao kia của người viết. Bởi nó là tiếng nói sâu thẳm của cả một giai cấp, một thời đại, một bối cảnh lịch sử thu nhỏ trong cuốn sách! Dù thời gian có trôi thì những giá trị ấy vẫn còn nguyên, có khi còn vượt cả thời đại, làm nên những cuốn tiểu thuyết kinh điển! Về cuốn sách WARCROSS có lẽ tác giả trọn thể loại tiểu thuyết viễn tưởng để lột tả cái xã hội tương lai của con người khi bối cảnh chính trong cuốn sách là thời kì công nghệ số, con người đắm chìm trong những trò chơi, trong thế giới ảo. Chỉ cần che đe đôi mắt nhìn đời hiện thực bằng một cặp kính là ta có thể sống trong thế giới mơ ước với những cảm xúc thật đến khó tin. Để rồi ta quên đi hiện tại, quên đi những nỗi đau, quên đi áp lực cuộc sống,…thật cám dỗ phải ko nào? Nhân vật chính trong cuốn sách Emika Chen lớn lên trong hoàn cảnh éo le, thiếu thốn tình thương từ mẹ, mất đi nốt người ba cũng là người duy nhất thương yêu chăm sóc cho cô. Ôm những mất mát đó cùng sự xa lánh, bắt nạt trong môi trường giáo dục tạo nên hình ảnh một cô gái vừa mạnh mẽ nhưng cũng đầy sự yếu đuối. Một biến cố lạ lùng đã đưa cô gái này từ New York tới thành phố Tokyo hoa lệ, nơi có một giải đấu Warcross hoành tráng, một âm mưu phá hoại nham hiểm, và cả Hideo Tanaka – chàng CEO tỷ phú điển trai, lạnh lùng đứng đằng sau trò chơi đình đám kia. Emika ngay lập tức vướng vào một mạng lưới đan xen những bí mật và cảm xúc mà cô không thể ngờ tới.Với sự tài tình trong việc sử dụng ngôn từ, khéo léo trong việc sắp xếp bố cục, tác giả đã biến từng câu chữ thành những dòng cảm xúc đan xen, lúc vui lúc buồn, lúc nghẹn ứ, lúc dâng trào trong lòng người đọc. warcross tho san tien thuong Đâu đó, ta thấy mình trong nhân vật, thấy cảm xúc, kí ức của ta rung lên đồng cảm với họ. Ta và Emika Chen như hòa làm một, cùng chung những ước mơ, sở thích, cùng lý tưởng sống cao đẹp muốn vượt lên chính bản thân mình, thoát ra khỏi tình trạng buồn chán hiện tại. Để ta nín thở, dõi theo từng bước đi, từng hành động của cô, tò mò, hồi hộp đoán xem cô sẽ sống và thể hiện tình yêu, bản chất con người mình ra sao?Warcross của Marie Lu quá khác biệt so với những cuốn sách tôi từng đọc — tài tình, thông minh, lãng mạn — nhưng cũng bùng nổ đầy màu sắc, hành động và tốc độ.” Sabaa Tahir, tác giả của An Ember in the Ashes, tiểu thuyết bán chạy số 1 trên New York Times. Nguồn Facebook: Hải Lit *** Marie Lu là nhà văn người Mỹ chuyên viết dòng tiểu thuyết phiêu lưu kỳ ảo dành cho giới trẻ. Trước khi trở thành một nhà văn toàn thời gian, cô là chỉ đạo nghệ thuật ở một công ty sản xuất trò chơi điện tử. Bên cạnh Warcross, các tác phẩm nổi bật của cô gồm có loạt truyện Legend, loạt truyện Young Elites, tiểu thuyết truyện tranh Batman: Nightwalker,… *** Đúng hôm trời rét kinh khủng thế này thì phải đi săn. Tôi rùng mình, kéo khăn choàng che miệng rồi lau đi một vài bông tuyết trên mi mắt. Đoạn, tôi giậm mạnh lên tấm ván trượt điện. Như mọi món đồ khác của tôi, tấm ván này đã cũ và mòn quá rồi. Tuy lớp sơn xanh gần như đã bị trầy hết cả, để lộ ra một lớp nhựa màu bạc rẻ tiền bên dưới, nhưng nó vẫn còn tạm dùng được. Khi tôi nhấn gót ủng thật mạnh, nó rốt cuộc cũng khởi động, kéo tôi bất thình lình về phía trước, len lỏi giữa hai hàng ô tô. Mái tóc sáng, màu cầu vồng của tôi theo gió quất lên trên mặt. “Ê!” Một tài xế hét lên khi tôi vọt qua chiếc xe của ông ta. Tôi ngoái lại về phía cửa kính xe đang mở và thấy ổng đang dứ dứ một nắm đấm về phía tôi. “Tí thì tông vào tao rồi!” Tôi cứ ngoảnh mặt đi và mặc kệ. Thường thì tôi không xấu tính thế này, hoặc ít nhất là cũng hét lên một câu xin lỗi thật to, nhưng sáng nay khi tôi vừa tỉnh dậy, đập vào mắt tôi đã là một tờ giấy thông báo có dòng chữ được in bằng phông chữ lớn nhất từng có: THANH TOÁN TRONG 72 GIỜ TỚI! KHÔNG THÌ BIẾN! Nghĩa là: Tôi đã chậm tiền thuê nhà ba tháng rồi. Thế nên tôi phải có 3.450 đô la ngay và luôn, không thì đến cuối tuần này sẽ phải ra đường ngủ. Thông báo ấy làm tôi nẫu hết cả ruột. Má tôi lạnh buốt vì gió rét. Bầu trời phía trên những tòa nhà vốn đã xám xịt nay ngày càng xám hơn, báo hiệu cơn mưa tuyết bất ngờ này sẽ rơi dày hơn trong vài giờ nữa. Xe ô tô tắc nghẽn cả đường phố, tạo ra một dãy dài toàn đèn phanh và tiếng còi xe, suốt từ đây đến tận Quảng trường Thời đại. Thỉnh thoảng, tiếng còi từ người kiểm soát giao thông lại nổi lên trên nền những âm thanh hỗn loạn. Không khí dày đặc mùi khí thải ô tô, hơi nước bốc lên cuồn cuộn từ một lỗ thông hơi mở gần đó. Từng dòng người đổ xô hết lên lại xuống vỉa hè. Rất dễ nhận ra đám sinh viên tan trường lẫn trong đám đông nhờ những chiếc ba lô và tai nghe nhạc cỡ bự. Đáng ra tôi phải là một trong số đó. Đáng lẽ ra năm nay là năm đầu ở đại học của tôi. Nhưng tôi đã bắt đầu trốn tiết sau khi bố qua đời và bỏ học hẳn từ cách đây vài năm. (Rồi, thực ra, là tôi bị đuổi học, nhưng đằng nào tôi cũng bỏ học mà thôi. Sẽ bàn vụ đó sau.) Tôi ngó xuống điện thoại một lần nữa và tâm trí tôi ngay lập tức trở về với cuộc săn. Hai ngày trước, tôi đã nhận được tin nhắn sau: ... Mời các bạn mượn đọc sách Warcross Thợ Săn Tiền Thưởng của tác giả Marie Lu & Nhóm TownH (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuổi Thơ Dữ Dội - Phùng Quán
Tuổi thơ dữ dội là tác phẩm dài bảy phần của Nhà văn Phùng Quán. Cuốn truyện xoay quanh cuộc sống và chiến đấu của các em thiếu niên tuổi 13, 14 trong trung đoàn Trần Cao Vân tại Huế. Từ khi đọc cuốn truyện này, nhắc đến Huế, nói đến Huế là tôi nhớ đến chợ Đông Ba, nhớ đến cây cầu nơi Tư dát mải bắn chim để Lượm bị bắt vô ngục, nơi Quỳnh sơn ca được cõng trên lưng với lời nựng "nặng như con gà con" rồi vẻ mặt đanh lại của em khi quyết không nhận quà từ gia đình gửi lên, nhà ngục nơi có Lượm lanh lẹ, nhân hậu cảm hóa Lép-sẹo rồi cánh đồng lúa rập rờn lẩn khuất bóng hình trốn chạy nhà ngục tụi Tây của Lượm, của Thúi, của Lép-sẹo... Câu chuyện xoay quanh cuộc đấu tranh tư tưởng, cách ứng xử của Mừng, Quỳnh sơn ca, Lượm, Bồng da rắn, Kim điệu, Vịnh sưa... Bao nhiêu năm rồi tôi vẫn khắc ghi câu nói trước khi chết của Mừng "Anh ơi, đừng nghi em là Việt gian nữa anh hí!" Một lời khẩn cầu của em được gửi đến Trung đội trưởng, không biết người mẹ vừa nằm xuống của em có nghe thấy câu nói đó không! Em gia nhập Vê-cu-đê, Vệ quốc đoàn là vì trong sân của khu này có cây tầm gửi có thể chữa được bệnh hen suyễn cho mẹ em. Em không dám hỏi xin, chưa dám trèo lên cây để hái lá cho mẹ! Em thật thà, ngô nghê, thương mẹ hết mực, nghe lời cấp trên hết mực nhưng tội cho em, em không biết em bị một đồng ngũ của em đã phản bội lý tưởng các em đi theo - Kim điệu - đã cài bẫy để đồng đội nghĩ em là Việt gian và đối xử với em theo cách đối xử với Việt gian. Không bị khuất phục bởi người cha tệ bạc là Việt gian dùng mơ tưởng về giàu sang, em chạy trốn. Nhưng hoàn cảnh không chiều người. Nơi kia, Kim điệu đã trở về, Kim điệu và kẻ địch đã lập mưu và trung đoàn mắc bẫy địch. Mẹ Mừng đi tìm Mừng, nghe tin con đi theo Việt gian, người mẹ đau xót quyết tâm theo kháng chiến để chuộc tội cho con mình. Em trở về. Tất cả bằng chứng chống lại em. Mẹ em giận em, không tin em. Em vẫn không khuất phục, vẫn cố hết sức để hoàn thành nhiệm vụ của một Vệ quốc đoàn. Mất mát lớn nhất trong cuộc chiến có lẽ là mẹ con em Mừng! Hai mẹ con em Mừng ra đi để lại trăn trối thiết tha "Anh ơi, đừng nghi em là Việt gian nữa anh hí!" và đỉnh đồi 96 ngày ấy được mang tên mới là núi mẹ con em Mừng. Quỳnh "sơn ca" là con trai cưng duy nhất của Phó tổng trấn Trung Kỳ, giỏi đàn piano, nhẹ nhàng như con gái. Yêu những bài hát của Vệ quốc đoàn và con người trong đó, em bỏ nhà đi theo Vệ quốc đoàn. Giẫm phải mảnh chai, bị nhiễm trùng, phải nằm Viện quân y em vẫn mang tiếng đàn của mình đi phục vụ bệnh nhân khác, vẫn sáng tác bài ca "Sông Ô Lâu kháng chiến", vẫn viết bản nhạc kịch Đi tìm thuốc cho mẹ,... em đã sống như con chim kia trong rừng - trước khi chết nó bay vụt lên hát một bài ca tuyệt hay rồi rơi xuống. "Mà em thì thích sông Ô Lâu, thích xê-ca, thích bạn em hơn. Còn ba thứ đồ ni - em ngẩng lên, khoát tay chỉ đống đồ lề bày ngổn ngang trên sạp nứa - vú với chị dẹp hết vô bị mang về, một viên thuốc em cũng không uống, một cái bánh em cũng không ăn mô!". Tinh thần em kiên quyết, thư em gửi về cho ba mạ em cho Phó tổng chấn Trung kỳ là tinh thần của em, là quyết tâm của em ngày đó, là "sông Ô Lâu kháng chiến". Có người nói rằng em đã uất ức vì những hành động của cha, đã vỡ tim mà chết ở tuổi 13. Còn đó Lượm, Châu - sém, Bồng da rắn... xin để các bạn đọc cùng tôi viết tiếp cảm xúc về thế hệ thiếu niên bất tử của ngày ấy! Mời các bạn đón đọc Tuổi Thơ Dữ Dội của tác giả Phùng Quán.
Tình Trong Chiến Hào - Lev Tolstoy
Trận chiến tranh Crimea diễn ra trong hai năm, từ 1854 đến 1856, nơi được nhà văn Tolstoï đến tận nơi, sống, nhìn cảm... và viết thành tác phẩm Sebastopol, là một trận chiến gây ra bởi chính sách hiếu chiến của Nga hoàng Nicholas I. Vị quân chủ Nga La Tư này là vị vua độc tài nhất trong tất cả những vị vua độc tài của lịch sử quân chủ Nga. Nga hoàng Nicholas I luôn luôn tìm cách bành trướng thế lực và biên giới nước Nga về phía biển Balkans và Bosporus. Để chống lại sự bành trướng này của Đế quốc Nga, hai nước Anh Pháp phải đồng minh với nhau và dùng quân lực ngăn cản.  Về phía Anh và Pháp, mặc dầu họ mở chiến tranh với Nga để bảo vệ những quyền lợi riêng của đất nước họ, nhưng họ vẫn gọi cuộc chiến tranh này với danh hiện cao đẹp là "cuộc chiến tranh của văn minh chống lại man dã". Như vậy một bên là quân Nga, một bên là Liên quân Anh-Pháp, bắn giết nhau ở biển Crimea. Rồi quân Nga bị vây trong thành phố hải cảng Sebastopol. Cả hai phe đều vi phạm những lỗi lầm quan trọng về chiến thuật, chiến lược. Con số tổn thất của hai phe đều lên cao. Ngưới ta ước lượng rằng sau hai năm chiến đấu trong Sebastopol bị bao vây và tấn công, quân đội Nga thiệt hại khoảng hơn 100.000 binh sĩ thương vong trong khi Liên quân Anh-Pháp mất tới 500.000 binh sĩ. Hậu quả quan trọng nhất của trận chiến tranh Crimea, là quân đội Nga bị tiêu tan huyền thoại bách chiến bách thắng, đánh đâu được đấy, đồng thời trận chiến này cũng trình bày với thế giới tình trạng lạc hậu của nền kinh tế và hành chảnh của Đế quốc Nga. Trận chiến này gây thiệt hại lớn cho chế độ quân chủ Nga La Tư. Nó làm cho những người Nga bảo thủ nhất, bảo hoàng nhất, cũng phải nghĩ rằng xã hội Nga nằm dưới chế độ quân chủ độc tài tuyệt đối của Nga Hoàng Nicholas I là một xã hội bị bóp nghẹt, chết cứng, không có tương lai và việc cần thiết phải làm ngay là việc cải tạo xã hội ấy. Phong trào đòi cải tạo xã hội nổi lên mạnh ở trong lãnh thổ Nga sau trận Sebastopol. Nga hoàng Nicholas I tuy độc tài và tàn bạo nhưng cũng phải chiều theo phong trào này. Cải cách lớn nhất của xã hội Nga sau trận Sebastopol là quyết định giải phóng nông nô Nga vào năm 1861. Tolstoï vừa đúng hai mươi lăm tuổi khi ông tới thành phố pháo đài Sebastopol bị bao vây vào tháng Mười năm 1854. Khi ấy, tuy còn trẻ nhưng Tolstoï đã là một sĩ quan nhiều kinh nghiệm chiến trường, bởi vì trước đó ông từng phục vụ trong một đơn vị pháo binh ở miền Cossack và từng lập được nhiều quân công, được thưởng nhiều huy chương. (Về sau Tolstoï lấy những kỷ niệm trong thời gian ông chiến đấu ở miền Cossack để viết thành truyện dài The Cossacks). Đầu năm 1851 Tolstoï tình nguyện gia nhập quân đội Nga đang chiến đấu với quân Thổ Nhĩ Kỳ ở mặt trận Wallachia. Rồi khi quân đội Nga phải rút lui từ những thành phố dọc theo sông Danube về nước và pháo đài Sebastopol bị địch quân bao vây, cần tiếp viện, Tolstoï lại tình nguyện đến Sebastopol. Khi đã nhận rõ sự phi lý của chiến tranh, Tolstoï bắt đầu ca ngợi sự hiền hòa của tinh thần Thiên Chúa giáo, tinh thần này ngự trị tâm hồn ông suốt từ đó cho tới phút ông nhắm mắt lìa đời. Điều đáng nói nhất về Truyện Ký Sebastopol là cách nhận xét, diễn tả chiến tranh trong truyện này của Tolstoï đã ảnh hưởng, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đến những nhà văn viết về chiến tranh hay nhất thế giới sau này như Stephen Crane và Ernest Hemingway. Và chính Tolstoï cũng bị ảnh hưởng của Stendhal, ông tự nhận rằng Stendhal đã dạy cho ông biết chiến tranh là gì và làm ông hiểu được chiến tranh. Có lần, Tolstoï nói với một người bạn văn: "Hãy đọc kỹ đoạn Stendhal tả trận Waterloo trong La Chartreuse de Parme. Trước Stendhal, làm gì có ai tả chiến tranh như thế? Tôi muốn nói là tả chiến tranh theo đúng sự thực. Bạn hãy nhớ lại cảnh anh chàng Fabrice cưỡi ngựa chạy trên chiến trường mà hoàn toàn ‘không hiểu gì cả’..." Trong những năm cuối cùng của đời ông, ông viết bản Tôi Thú Tội và quyết định từ bỏ tất cả những lạc thú ở đời, viết chúc thư chia gia sản cho người nghèo và bỏ nhà đi nằm chết lạnh lẽo trong một nhà ga vắng vẻ, tiêu điều. Nhưng giữa thời gian nhà văn sống trong thành phố Sebastopol bị bao vây và viết tập Tôi Thú Tội, còn có khoảng thời gian văn tài của ông lên tột độ khi ông viết Anna Karenina và Chiến Tranh và Hòa Bình. Tuy sống và viết, không lúc nào ông quên hoài bão thành lập một tôn giáo mới, thực tế, đem hạnh phúc đến cho con người ở ngay kiếp này đến với ông ở Sebastopol, vì tinh thần hiền hòa, yêu thương nhân loại, phản đối chiến tranh vẫn chan hòa trong hai tác phẩm lớn trên đây của ông. Mời các bạn đón đọc Tình Trong Chiến Hào của tác giả Lev Tolstoy.
Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống - Jean Teulé
Jean Teulé, một con người có nhiều tính cách và tài năng. Ông là người giới thiệu nhiều chương trình khác nhau trên truyền hình. Nhưng trên hết, ông vẫn thích viết. Thoạt đầu, ông cho xuất bản những cuốn tiểu thuyết như “Rainbow pour Rimbaud” (1991), tác phẩm này sau đó được dựng thành phim ngay. “L’oell de Pâques” (1992), “Ballade pour un père oublié” (1995), và “Bord cadre” (1999). Tiếp đến là cuốn “Darling” (1998), tác phẩm này cũng được dựng thành phim và được trình chiếu tại rạp vào tháng 11 năm 1997. Sau đó đến “Les Lois de la gravité” (2003), “Ô Verlain!” (1994), “Je, François Villon” (2006). Cuốn “Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống” xuất hiện năm 2007. Năm sau, 2008 ông lại trầm mình vào văn học và dâng hiến cho bạn đọc một cuốn tiểu thuyết dài và được bạn đọc chào đón rất nồng nhiệt “Chuyện tình của Bá tước Montespan”, một thiên tình sử thấm đẫm nước mắt nhưng không kém phần châm biếm mai mỉa một xã hội thượng lưu, quý tộc thối nát, đê tiện. Quan sát sâu rộng, ngòi bút sắc bén, Jean Teulé luôn luôn lao vào tận hang cùng ngõ hẻm những ngóc ngách của tâm hồn con người, để chắt chiu, nâng niu từng dòng cảm xúc, để truyền tới bạn đọc những tâm tư, nỗi niềm sâu kín luôn ẩn chứa đằng sau những tòa biệt thư xa hoa, những khuôn mặt đẹp, những bộ quần áo óng ả… *** Chúng ta hãy cùng nhau hình dung ra một cửa hàng, một doanh nghiệp gia đình đã thịnh vượng từ mười đời nay chuyên bán các loại dụng cụ tự sát. Họ ăn nên làm ra từ nỗi buồn và thất vọng của những người khác. Cho đến tận ngày họ gặp phải một kẻ thù cạnh tranh sinh tồn: đó là niềm vui được sống. Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống, tựa hồ như một lời quảng cáo “Bạn đã sống dở trong cuộc sống ư? Vậy với chúng tôi, bạn sẽ chết thành công!” Nhưng trong tác phẩm của mình Jean Teulé đã rất thành công. Chết và đặc biệt là tự sát, những câu nói và hành động này dường như là cấm kỵ trong xã hội chúng ta và không ai dám nhắc đến. Trong tác phẩm, điểm phán xét thường đặt ra rất sơ sài một cách cố ý… và nó ngay lập tức đã khiến chúng ta phá lên cười, đúng là chẳng có gì mang màu xanh hòa bình êm ả trong cửa hàng này cả, ngược lại là khác, nhưng chúng ta chỉ có thể bật cười trước những con số đánh dấu thứ tự các dụng cụ để có thể tự hủy hoại cuộc sống của mình, từ chiếc dây thừng bện bằng tay cho thật chắc đến món cốc-tai pha độc dược, rồi đến quả táo chứa chất cyanure hay trọn bộ kimono với thanh bảo kiếm dành cho một buổi hara-kiri truyền thống của Nhật Bản! Tất cả những phương tiện này được doanh nghiệp Tuvache gợi ý và cố vấn kiểu chết thật phù hợp cho mỗi khách hàng của mình. Họ thường thủ thỉ hỏi khách hàng có chuyện gì muộn phiền để đưa ra dụng cụ thích hợp… Một quy định vàng của cửa hàng: không bao giờ được chào “tạm biệt” với khách hàng mà phải nói “vĩnh biệt”. Trong gia đình doanh nghiệp điển hình này có năm dạng nhân vật: cha mẹ, những nhà chuyên môn, kỹ thuật viên, thương gia. Đứa con đầu lòng, trầm cảm kinh niên nhưng cực kỳ “sáng tạo” trong vị trí được đảm nhiệm, đứa con gái, hình mẫu lý tưởng của tuổi vị thành niên có tâm hồn xáo trộn dễ xúc động, và cậu con út cuối cùng, một viên cát thực sự trong ngành thương mại ủ dột này: Cậu bé nhìn đâu cũng toàn thấy màu hồng, đó là một đứa trẻ lạc quan muôn thuở, chính nó sẽ không ngừng đưa hạt cát lạc quan của mình vào trong công việc bán buôn của cha mẹ để dần dần giúp họ khuynh gia bạn sản trong ngành này. Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống là một tiếng cười sảng khoái thực sự, giúp chúng ta quên đi những lo toan, những bấn loạn mỗi khi gặp trắc trở trong cuộc sống hàng ngày. Mời các bạn đón đọc Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống của tác giả Jean Teulé.
Những ngôi sao Eghe Tập 2 - Gardonyi Geza
Trong hơn ba trăm năm (từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 17) chống lại những đạo quân viễn chinh và ách đô hộ của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, nhân dân Hung đã bền bỉ chiến đấu và lập nên nhiều chiến công oanh liệt, trong đó có cuộc kháng chiến của quân dân thành Eghe năm 1552.   Eghe là cửa ngõ của vùng Thượng địa Đông bắc, đứng trấn giữ cho cả một vùng đất nước khá rộng lớn. Khi vòng vây của hai đạo quân Thổ khổng lồ, đầy nhuệ khí đã khép lại, trong thành chỉ có độ hai ngàn người già, trẻ, trai, gái. Quân Thổ không tính đến một sức kháng cự đáng kể. Viên pasa Ali, thống soái một đạo quân Thổ, cho thành này chỉ là một “cái chuồng cừu xộc xệch” và quân trong thành chỉ là một “bầy gia súc”. Nhưng cuộc chiến đấu chẳng bao lâu đã chỉ cho hắn thấy rõ ràng những người bảo vệ thành Eghe đại diện cho một sức mạnh mà đạo quân Thổ không tài nào đè bẹp nổi. Những chiến sĩ phần lớn là con em vùng Thượng địa Đông bắc đang bị chiếm đóng đe dọa và những nông dân các làng lân cận chạy vào thành tị nạn, đã nghiến chặt răng đánh lui tất cả mọi đợt công kích của quân Thổ. Sau năm tuần rưỡi sống mái với quân thù, thành Eghe đã tự giải phóng mình khỏi cuộc vây hãm khốc liệt và cứu miền đất nước phía sau khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Quân Thổ bị thiệt hại nặng nề dưới chân thành Eghe và phải bỏ dở kế hoạch hành quân xâm lược của chúng.   Cuộc chiến đấu của Eghe từ đó đã trở thành đề tài của nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật. Ngay sau khi quân Thổ tháo chạy, Tinôđi Sebétchên, thi sĩ kiêm ca công nổi tiếng nhất của Hung trong thế kỷ 16, đã đến tận nơi sưu tầm tài liệu và sáng tác Truyện thơ về cuộc chiến đấu của thành Eghe. Nhưng tác phẩm thành công nhất về đề tài này là Những ngôi sao Eghe của Gardonyu Geza.   Gardonyu Geza (1863-1922) xuất thân từ một gia đình thợ rèn, là một nhà văn có tên tuổi ở Hung. Trước khi bước vào nghề viết văn, ông đã dạy học nhiều năm ở nông thôn. Thời kỳ này, ông có tinh thần chống lại nền thống trị của triều đình Hápxbua (Áo) và đã viết tác phẩm Ngọn đèn (1894) là một tác phẩm tốt. Trong cuốn tiểu thuyết này, ông đã vẽ nên một bức tranh đáng kinh ngạc về cuộc sống nghèo nàn và bị ngược đãi của lớp giáo học ở nông thôn, đã tấn công trào lưu tôn giáo hóa xã hội và tấn công vào ách thống trị của nền đế chế Áo – Hung phản dân tộc, phản tiến bộ; gợi lại những kỷ niệm vẻ vang về cuộc chiến đấu giành tự do của nhân dân Hung thời kỳ 1848. Nhưng dần dần về sau, con đường văn học của ông khuất khúc và đầy mâu thuẫn. Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông, Những ngôi sao Eghe là tác phẩm tươi sáng và giàu sức sống nhất. Ở Hung không có một tiểu thuyết lịch sử nào khác lại được cả bạn đọc, người lớn lẫn trẻ em, yêu thích đến thế. Cuốn truyện được xuất bản lần đầu tiên năm 1901, và từ đó đến năm 1963 đã được tái bản hơn 21 lần, chỉ riêng từ 1945 đến 1963 đã được các nhà xuất bản khác nhau tái bản hơn 16 lần với số lượng hơn nửa triệu cuốn (trong một nước 11 triệu dân). Đó là chưa kể đến những bản dịch ở nước ngoài.   Trong quá trình sáng tác, Gardonyu Geza đã sưu tầm nghiên cứu rất nhiều nguồn tài liệu, kể cả gia phả của các nhân vật chính trong truyện. Mùa xuân năm 1899, trước khi bắt tay vào viết, ông đã lên đường đi Côngxtăngtinốp để nghiên cứu tận nơi những phong tục, tập quán ở nước Th đã vào tận ngục Bảy Tháp, tham dự những ngày hội tôn giáo, bơi thuyền trên vịnh Bốtxpôrat, tham quan các viện bảo tàng v.v… Nhờ tác phong làm việc cẩn thận đó, tác giả đã để lại cho chúng ta nhiều trang sách chính xác và sinh động về những cuộc hành quân đầy nghi vệ của đội quân Thổ, về cuộc vây hãm thành Eghe, về nhiều cảnh sinh hoạt của xã hội thời xưa.   Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là chú bé Bônemixo Gergey, đại biểu của tầng lớp nông dân nghèo, giàu lòng yêu nước và đa mưu túc trí, đã từ một chú bé chân đất làm lên đến chức đại úy, chủ tướng một thành trì. Qua bước trưởng thành của nhân vật chính, tác giả còn vẽ nên trước mắt người đọc cả một bức tranh xã hội rộng lớn từ thôn xóm đến cung đình. Ngay từ những trang đầu tiên, tác giả đã cho ta thấy tình hình chính trị rối như mớ bòng bong của nước Hung thời đó: “… và chúa công của bạn đang là Xopôlo Gianốt, hoặc quân Thổ, hoặc Pheđinan đệ nhất.”   Hồi đó giai cấp phong kiến ở Hung phân hóa nặng nề. Bọn quý tộc lãnh chúa và quý tộc giáo hội có những lãnh địa rộng lớn, có quân đội riêng, có thành quách trong tay, thực tế là đã trở thành những ông chúa cát cứ. Nhà vua ở Buđa không đủ sức để thâu tóm quyền bính, tổ chức đất nước thành một quốc gia vững mạnh. Nhân dân bị đè nén nặng nề dưới hai tầng tròng phong kiến và giáo hội, đời sống rất khổ cực. Họ oán ghét bọn quý tộc chẳng kém gì bọn ngoại xâm. Tất cả những nhân tố đó đã dẫn tới cuộc chiến tranh nông dân do Đôjo Giơrgiơ lãnh đạo năm 1514 và chiến bại thảm hại ở Môhát năm 1526. Sau Môhát không còn ai tổ chức được cuộc kháng chiến chống quân Thổ trong phạm vi toàn quốc. Giai cấp thống trị vốn đã không thống nhất, giờ đây lại phân hóa thành hai phe đối địch. Một phe, gồm chủ yếu tầng lớp quý tộc trung và tiểu, bầu Xopôio Gianốt, công vương vùng Êrơđêi, lên làm vua; một phe khác, gồm phần lớn bọn đại quý tộc, lại tôn Pheđinan đệ nhất của triều đình Hápxbua (Áo) làm vua. Hai tên vua đó đem quân đánh lẫn nhau để tranh giành ngôi báu, mặc kệ quân Thổ ngấp nghé ở biên giới. Thậm chí Xopôio Gianốt, sau khi bị thua Pheđinan I và phải chạy sang Ba-lan, còn cầu cứu hoàng đế Thổ giúp hắn chiếm lại ngai vàng, và để đền ơn, hắn bỏ mặc vùng đất nước phía nam cho quân thổ tha hồ cướp bóc. Trước tình hình hai vua khuynh loát lẫn nhau như thế, bọn lãnh chúa hết theo phe vua này lại theo phe vua khác, tùy theo chỗ ở với vua nào có thể kiếm chác được nhiều hơn. Chúng ta sẽ thấy tình hình này được phản ánh một phần qua hai nhân vật Xexey và giáo sĩ Balin hoặc qua nhân vật Tơrơc Balin. Nhưng mặc dù tất cả những điều kiện bi thảm đó, nước Hung vẫn không dễ dàng lọt vào tay bọn ngoại xâm. Trước sự bất lực và phản bội của triều đình và giáo hội, nhân dân nhiều nơi đã vùng lên kháng chiến mạnh mẽ khi quân Thổ kéo đến. Những “kẻ nổi loạn” đó – như các sử gia của triều đình Thổ cũng phải thừa nhận – “trong tình thế tuyệt vọng cũngchiến đấu với súng hỏa mai và cung tên, với gậy gộc và đá”. Bên cạnh họ, tuy ít ỏi nhưng trong hàng ngũ tướng lĩnh vẫn có những người yêu nước chân thành, đặc biệt là những võ quan xuất thân từ những tầng lớp dưới. Những viên tướng này cùng những đội quân vốn là nông dân nghèo chạy nạn khỏi các vùng bị giặc Thổ tàn phá, chiếm đóng hoặc trốn khỏi cuộc sống khổ nhục ở các điền trang, đã lập nên cả một hệ thống biên thành dọc theo vùng giáp ranh với quân Thổ để báo tin và ứng cứu lẫn nhau. Họ đã đánh tan hết bao nhiêu đội quân Thổ kéo đi ăn cướp. Hơn nữa, những viên tướng này nhiều khi cùng với một đội quân nhỏ nhưng đồng lòng, trong một tòa thành đơn độc không có sự cứu viện của triều đình, đã có thể chặn đứng cả một đạo đại quân Thổ trong nhiều ngày, đôi khi còn giữ vững được đến cùng, bẻ gãy cả cuộc viễn chinh của địch. Những kỳ công đó nổi bật trên nền trời đen tối của xã hội Hung thời bấy giờ như những ngôi sao, trong đó Eghe là ngôi sao sáng nhất. Chúng ta thấy dường như tác giả đã dành doàn bộ tâm hồn mình cho việc mô tả lại toàn bộ cuộc chuẩn bị chiến đấu và hơn năm tuần quyết chiến ở Eghe. Có thể nói ít có cuốn tiểu thuyết lịch sử mô tả được tỉ mỉ, chính xác và sinh động như vậy. Gấp cuốn sách lại chúng ta vẫn như nghe vang trong tai lời thề quyết tử và tiếng đại bác vang rền, tiếng gương giáo chạm nhau, tiếng hô “Giết! Giết!”, và tự nhiên chúng ta liên tưởng đến khí phách anh hùng và lời thề “sát Thát” của quân dân đời Trần.   Chiến công của quân dân Eghe hồi đó đã vang lừng trong nước và cả ở nước ngoài. Sau ngày chiến thắng, biết bao chính khách ở châu Âu đã kéo đến Viên để chúc mừng Pheđinan I – kẻ không hề có chút công lao nào, thậm chí còn có tội với miền đất đai Hung mà hắn cai trị - và để ngắm nghía những lá quân kỳ cướp được của giặc Thổ mà quân dân Eghe đã gửi về triều. Nhưng chỉ với cuốn tiểu thuyết của Garđônhi, chiến tích Eghe mới thực sự trở thành một điển hình bất hủ, trước công luận, trước lịch sử, về tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm của nhân dân Hung hồi thế kỷ 16. Mời các bạn đón đọc Những ngôi sao Eghe Tập 2 của tác giả Gardonyi Geza.