Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lính Trơn - Khoa Học Lạ Kỳ Về Loài Người Trong Chiến Tranh

Từ Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, chúng ta đã luôn chứng kiến một quân đội Hoa Kỳ hùng mạnh, tinh nhuệ và uy hiếp bậc nhất hoàn cầu. Chúng ta thấy bom nguyên tử, tên lửa hành trình, hàng không mẫu hạm, máy bay trực thăng, xe tăng tối tân hay những đơn vị đặc nhiệm SEAL sát thủ…. Nhưng có lẽ hiếm khi người ta có thể có cái nhìn vào đằng sau cỗ máy chiến tranh đó như trong cuốn sách này. Bên dưới tấm màn sắt của khoa học quân sự chính là những thứ khoa học kỹ thuật rất nhân bản, rất đời thường, với trung tâm là “lính trơn”. Tác giả Mary Roach sẽ dẫn chúng ta trải qua một hành trình khám phá và trải nghiệm thực sự lạ kỳ về hậu cần chiến tranh, từ cách người ta lo cái ăn cái mặc cho binh lính, cho đến cách giúp các quân nhân đối phó với “Tào Tháo đuổi” trong khi làm nhiệm vụ, hay những nỗ lực của các bác sĩ quân y trong việc phục hồi khả năng “yêu” của thương binh, hay cách họ “hỏi chuyện” những tử sĩ để cải thiện an toàn cho những người sống… Chiến tranh vẫn gắn liền với sự tàn khốc và cái chết, nhưng nó cũng có thể rất đời thường, đầy ắp hơi thở của sự sống cùng những vấn đề dở khóc dở cười vô cùng sinh động, dưới góc nhìn của một người Mỹ. “Một cái nhìn vui vẻ, đầy ắp thông tin vào sau bức màn khoa học quân sự.” – Washington Post “Roach là một nhà báo điều tra ngoan cường và rất thích nhằn những thứ khó nhằn Lính trơn thuộc hàng đầu trong các tác phẩm của Roach.” – USA Today *** VÀO ĐỀ Pháo bắn gà nòng dài 18m, đủ điều kiện để được xếp vào loại vũ khí của pháo binh. Dù một con gà nặng gần 2kg bắn đi với tốc độ lên tới 644 km/h, là một vật thể phóng có tính sát thương, pháo bắn gà được chế tạo không phải để giết chóc. Ngược lại, nó được thiết kế với mục đích thử nghiệm các biện pháp bảo vệ sinh mạng con người. Xác gà được bắn vào các máy bay trống hoặc được xếp sẵn “tổ bay mô phỏng” để kiểm tra khả năng chịu sự tác động của máy bay, trước thứ được Không lực Mỹ và ngành công nghiệp hàng không, với cách gọi phô trương “nam tính” đặc trưng, gọi là “chim đâm”. Những con gà được sử dụng thay cho ngỗng, hải âu, vịt trời hay chim chóc vốn va chạm với các máy bay quân sự khoảng 3.000 vụ mỗi năm, với mức thiệt hại từ 50 triệu tới 80 triệu đô la Mỹ và cứ vài năm lại cướp đi sinh mạng của tổ bay. Lấy gà “đại diện” cho tất cả các loài chim là một lựa chọn lạ lùng vì chúng không biết bay. Chúng cũng không đâm vào máy bay theo tư thế của vịt trời hay ngỗng - cánh dang rộng, chân duỗi thẳng. Chúng đâm vào máy bay theo đúng kiểu đồ thực phẩm bị ném. Thêm nữa, gà nhà thường có khối lượng riêng lớn hơn mấy loại chim trời thường bay hay bơi ở các vùng đất ngập nước. Với khối lượng riêng là 0,92g/cm3, loài Gallus gallus domesticus (gà nhà) lớn hơn 33% so với hải âu hay ngỗng Canada. Nhưng dù sao thì gà cũng là “vật liệu” được Bộ Quốc phòng Mỹ cho phép sử dụng trong hoạt động thử nghiệm kiểm tra độ bền của kính buồng lái máy bay phản lực. Gà không những dễ dàng kiếm được và chuẩn hóa, chúng còn được coi là một kiểu tình huống tồi tệ nhất trên lý thuyết. Thực tế lại không như vậy. Một con chim nhỏ, chắc gọn như chim sáo, có thể đâm xuyên qua kính buồng lái như một viên đạn, và điều đó xảy ra thường xuyên đến mức một số người thấy cần phải đưa ra một loại thuật ngữ hàng không nào đó (“hiện tượng đạn bọc lông vũ”). Bạn sẽ nghĩ: “Có khi không cho lũ chim bén mảng đến gần đường băng thì dễ hơn?” Tuy nhiên, chim là loài thích nghi cao. Chúng sẽ nhanh chóng tự điều chỉnh để quen dần với bất kỳ âm thanh mô phỏng kẻ săn mồi hay cảnh báo nào, thậm chí là âm thanh của những vụ nổ nhỏ mà bạn tạo ra, chỉ bằng cách “kêu to hơn”* và tiếp tục sống như bình thường. Hãy tham gia với Malcolm Kelley và Đội nghiên cứu/ quản lý nguy cơ chim đâm vào máy bay (BASH) trong Không lực Mỹ. Kelley và cộng sự của mình sử dụng phương pháp tiếp cận xuyên ngành. Kỹ thuật xây dựng kết hợp với sinh học. Điểu học kết hợp với xác suất thống kê. Chúng ta hãy phân tích vấn đề bằng cách bắt đầu với kền kền, họ nói. Dù số vụ đâm máy bay của lũ chim ăn thịt nặng ký này chỉ chiếm khoảng 1%, nhưng lại gây ra 40% thiệt hại trong tổng thiệt hại do chim đâm gây ra. Kelley và nhóm của mình đã gắn các máy phát sóng vào tám con kền kền, theo dõi đường bay và thói quen di chuyển của chúng, kết hợp với các dữ liệu khác để tạo ra một Mô hình Tránh chim (BAM) cho phép những người điều khiển không lưu có thể lên lịch bay tránh những thời điểm và khu vực có nguy cơ cao. Chỉ một nghiên cứu đơn giản “hiểu thêm về chim kền kền”, theo Kelley, đã tiết kiệm được cho Không lực Mỹ 5 triệu đô la mỗi năm cũng như cứu mạng sống của nhiều phi công (và cả chim kền kền nữa). Chắt lọc dữ liệu, Kelley phát hiện ra rằng khi dải tần số âm thanh động cơ máy bay chồng lấn dải tần số âm thanh mà một loài chim nào đó phát ra khi gặp nguy hiểm thì xác suất chim đâm sẽ thấp hơn. Anh đã viết trong một bài báo năm 1998, “Liệu có phải chúng ta đang nói chuyện với lũ chim mà không hề hay biết không?” Liệu có cách nào tạo ra một giải pháp dựa trên cơ chế này không? Anh đã biết có một vấn đề là cả máy bay và chim đều cất cánh ngược gió. Và bởi vậy chim thường không thể nhận ra máy bay đang lao tới từ phía sau. Chính Kelley đã nảy ra ý tưởng thêm một tín hiệu có nghĩa vào dải sóng radar của máy bay, một thứ tín hiệu có thể cảnh báo nguy hiểm cho lũ chim sớm hơn để chúng kịp phản ứng và bay ra khỏi đường bay của máy bay. Câu chuyện dạng này đã khiến tôi hứng thú với khoa học quân sự - những trận chiến thầm lặng, ít người biết, với những kẻ thù ít được chú ý: sự kiệt sức, sốc, vi khuẩn, cơn hoảng loạn, những con vịt. Thật ngạc nhiên, đôi khi những thứ làm thay đổi cục diện trận chiến xuất hiện khi những chuyến bay chở các ý tưởng dị thường* va chạm với nguồn kinh phí nghiên cứu lớn gần như bất tận. Mọi người thường nghĩ rằng khoa học quân sự là nghiên cứu về chiến lược và vũ khí - đánh nhau, thả bom, tiến quân. Tất cả những thứ đó tôi nhường những người viết hồi ký và nghiên cứu lịch sử quân sự. Tôi hứng thú hơn với những điều sẽ không có ai đưa lên phim ảnh - những thứ không phải để giết chóc mà là để cứu mạng binh lính. Dù là những người được cứu cũng chỉ để tiếp tục chiến đấu và lấy mạng người khác. Hãy tạm bỏ qua điều này. Cuốn sách này xin dành để tri ân những nhà khoa học, bác sĩ phẫu thuật, đã xông lên cùng những đoàn quân chiến đấu, vạt áo phòng thí nghiệm bay phấp phới, để chế tạo những cỗ xe tăng an toàn hơn, chiến đấu với loài ruồi nhặng hay cố gắng hiểu rõ hơn lũ kền kền. Pháo bắn gà gần như là tất cả những gì tôi sẽ nói về súng đạn trong cuốn sách này. Nếu như bạn muốn đọc về khoa học kỹ thuật khí tài quân sự, đây sẽ không phải là quyển sách bạn mong ngóng. Đây cũng không phải là truyện 30 phút sau nửa đêm*. Tôi có thảo luận với lính đặc nhiệm - cả lính SEAL Hải quân và Rangers Lục quân - tuy nhiên không phải về việc chiến đấu chống lại quân nổi dậy. Chủ đề của chúng tôi là chiến đấu chống lại cái nóng cực điểm, tiếng ồn chói tai và bụng dạ trở chứng không đúng lúc. Sau lưng mỗi tướng tá hay một người được Huân chương danh dự, có hàng trăm nhà khoa học quân sự, những người mà bạn sẽ không bao giờ nghe danh. Tác phẩm này của tôi chỉ viết về một phần nhỏ của 1% những gì vẫn đang diễn ra. Tôi cũng đã bỏ qua rất nhiều lĩnh vực vốn đầy những nỗ lực đáng trân trọng. Chẳng hạn, không có một chương nào trong quyển sách này nói về các biện pháp đối phó với hậu sang chấn tâm lý (PTSD), không phải vì PTSD không xứng đáng được nói đến mà do đã có quá nhiều tác phẩm viết về nó, trong đó lại có quá nhiều tác phẩm viết tuyệt hay. Những quyển sách và bài viết ấy đã chiếu rọi ánh đèn sân khấu vào đúng chỗ. Còn tôi, về chuyên môn hay tính cách, không phải là một người rọi đèn sân khấu. Tôi chỉ là một kẻ vô tự lự với chiếc đèn pin, đang mò mẫm trong các ngóc ngách và xó xỉnh, không biết đích xác mình cần tìm thứ gì nhưng lại luôn nhận ra ngay khi tìm thấy nó. Dũng cảm không phải luôn là cầm súng, cầm cờ, hay thậm chí là khênh cáng nơi trận địa. Người dũng cảm là bác sĩ không quân của Hải quân Angus Rupert, bay trong tình trạng bịt mắt và lộn ngược đầu để kiểm nghiệm bộ đồ rung cho phép phi công có thể bay nhờ cảm giác khi họ bị mù tạm thời hoặc rối loạn phương hướng. Hoặc như Thiếu tá Hải quân Charles “Swede” Momsen, nghiêm chào những người quan sát khi ông được nhấn chìm xuống dòng Potomac để kiểm nghiệm hệ thống hỗ trợ thở thoát hiểm đầu tiên cho tàu ngầm, hoặc như Đại úy Herschel Flowers, làm việc tại Phòng Nghiên cứu Y khoa Lục quân, tự tiêm nọc độc rắn hổ mang vào cơ thể của mình để kiểm nghiệm khả năng tạo sức đề kháng. Có những lúc, sự dũng cảm chỉ đơn thuần là ý chí dám nghĩ khác biệt với những người xung quanh bạn. Trong một môi trường kỷ luật cao như quân đội, đó là điều dũng cảm hơn nhiều so với những gì bạn tưởng tượng. Dũng cảm là hành động của người lính quân y William Baer trong Thế chiến I, đã cứu được nhiều mạng sống và giúp nhiều người giữ được chân tay khi sử dụng dòi để làm sạch vết thương. Đó là hành động của bác sĩ Herman Muller, tình nguyện tiêm máu từ các tử thi vào cơ thể để kiểm nghiệm độ an toàn của kỹ thuật truyền máu từ tử sĩ cho các thương binh, một kỹ thuật đã được thực hiện trên chiến trường trong cuộc chiến giữa Tây Ban Nha và Mỹ. Các anh hùng không phải lúc nào cũng cần lập được chiến công chói lọi. Đôi khi, những thành tựu nhỏ cùng với những trái tim lớn đã thay đổi cả diễn trình lịch sử. Cũng có khi, một con gà có thể cứu mạng được một con người. Mời các bạn đón đọc Lính Trơn - Khoa Học Lạ Kỳ Về Loài Người Trong Chiến Tranh của tác giả Mary Roach & Nguyễn An Thái (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kỵ Sĩ Và Ma Thuật (Amazake No Hisago)
Một tay Otaku mê Mecha được đầu thai vào một thế giới khác với cái tên Ernesti Echevalier (Eru). Ở đây tồn tại những cỗ máy to lớn mang hình dáng con người gọi là “Ám Hiệp Sĩ”. Mơ tưởng trở thành người điều khiển những con Robot đó, Eru cùng hai người bạn thời thơ ấu của mình: Archid và Adeltrud Olter nhắm đến mục tiêu trở thành Hiệp Sĩ Vận Hành, phi công của những cỗ máy “Ám Hiệp Sĩ”Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kỵ Sĩ Và Ma Thuật PDF của tác giả Amazake No Hisago nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kỷ Niệm Đàn Bà (Đào Hiếu)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kỷ Niệm Đàn Bà PDF của tác giả Đào Hiếu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kitchen Nhà Bếp (Yoshimoto Banana)
Dù các nhân vật trong “Kitchen” (Nhà Bếp) của Banana Yoshimoto luôn chìm đắm trong buồn bã và cô độc thì cuốn sách vẫn tỏa ra hơi ấm đặc biệt, rất dịu dàng và bình yên. Banana Yoshimoto mang vào cuốn sách của bà hai câu chuyện gồm Kitchen và Moonlight Shadow. Hai câu chuyện có vẻ như chẳng liên quan nhưng chính bầu không khí uể oải, vị cô đơn toát ra từ các nhân vật đã gắn kết chúng lại. Như 2 thực thể sống luôn cùng song hành nhưng không thể bủ đắp đủ đầy cho nhau, từng người lại tự kể những câu chuyện riêng mình. Câu chuyện đầu tiên có cùng tên gọi với cuốn sách - Kitchen kể về Mikage, cô gái mồ côi sống một côi sau khi bố mẹ, ông bà lần lượt ra đi. Tuyến nhân vật thứ hai là Yuichi, cậu chàng sống với người mẹ chuyển giới (mà thực ra người đó là bố cậu).. Kitchen là những dòng tự sự của Mikage, cô gái yêu bếp và tìm đến sự ấm áp trong gian bếp. Sau cái chết của bà, Mikage trở thành một người mồ côi đúng nghĩa khi không có bất cứ người thân nào ở bên, chỉ còn mình cô "với bếp". Cô khám phá ra giữa tất cả mọi phòng trong căn nhà rộng lớn, gian bếp là nơi Mikage cảm thấy được ngủ ngon nhất. Cô thấy bớt cô quạnh khi được nhắm mắt bên cạnh tiếng ro ro của chiếc tủ lạnh. Mikage yêu bếp dù đó nó sạch bong kin kít hay cáu bẩn lộn xộn. Trong khi cô độc giữa căn nhà lớn, Mikage nhận được lời mời dọn về sống cùng từ Yuichi - bạn của người bà đã mất, một chàng trai ít nói nhưng có trái tim ấm áp. Yuichi sống cùng với mẹ (là một người đàn ông chuyển giới) tên là Eriko. Thế rồi cả ba người họ sống cùng nhau trong một mối quan hệ khó gọi tên. Tìm mua: Kitchen Nhà Bếp TiKi Lazada Shopee Kitchen chứa bầu không khí buồn man mác nhưng dịu dàng khó tả. Sự cô đơn của các nhận vật cứ dài ra bất tận nhưng không ai trong số họ nhìn nó là… sự bất hạnh. Tất cả đều cố gắng sống và cố gắng hạnh phúc. Mikage tìm hơi ấm, niềm vui trên chiếc ghế sô pha đặt ngoài phòng khách, trong gian bếp… Cô đi tìm sự bình yên trong mỗi món ăn mà cô làm, trong những cuộc nói chuyện nhẹ nhàng với Eriko vào mỗi sớm mai.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kitchen Nhà Bếp PDF của tác giả Yoshimoto Banana nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kira Kira (Cynthia Kadohata)
Cuốn sách có thể dễ dàng được đọc bởi một người 41 tuổi hay một đứa bé 14 tuổi. Nó thật xuất sắc và lay động lòng người. Đó là những lời mà báo chí Mỹ dành cho Kira - Kira, tiểu thuyết đoạt giải thưởng đóng góp xuất sắc cho Văn học thiếu nhi Mỹ 2005 của nhà văn Cynthia Kadohata. Kira - Kira mở đầu với cuộc sống tuổi thơ yên ả của hai chị em người Nhật sống cùng cha mẹ tại tiểu bang Iowa (Mỹ), nơi có những ruộng bắp trải dài ngút ngàn, nơi hằng đêm, khi hai chị em nằm chơi ngắm nhìn bầu trời đầy sao ở con đường vắng trước nhà. Và chị Lynn của Katie Takeshima đã dạy cô bé từ đầu tiên mà theo chị Lynn là tuyệt diệu nhất thế gian Kira - Kira. Trong tiếng Nhật, Kira - Kira nghĩa là sáng lấp lánh:...Tôi dùng từ Kira - Kira để miêu tả tất cả những thứ mà tôi thích: bầu trời xanh trong trẻo, lũ chó con, mèo con, lũ bướm, những tấm khăn giấy nhiều màu sắc. Và chị Lynn cũng nói với em gái mình: Màu xanh của bầu trời cũng là màu xanh đặc biệt nhất trên thế gian, bởi vì nó vừa xanh thẳm lại vừa trong vắt... biển cũng vậy và mắt con người cũng vậy. Trên cái nền chủ đạo là thứ ánh sáng lấp lánh ấy, bằng giọng văn trong sáng, chứa chan tình cảm, Kira - Kira dẫn người đọc vào chuỗi hồi ức thơ mộng, nghịch ngợm và buồn bã đến nao lòng của cô bé người Nhật Katie về tuổi thơ nghèo khó của gia đình, về người chị thông minh, xinh đẹp, giỏi giang nhưng vắn số. Do nghèo khó, mất việc làm, cha mẹ cô bé Katie dắt díu gia đình dời nhà từ bang Iowa đến sống tại một thị trấn nhỏ ở Georgia. Nơi đây, họ sống trong một căn hộ xập xệ, cũ kỹ. Khi người lớn bán sức lao động, cật lực làm việc ở các nhà máy hòng trang trải cuộc sống, thì trẻ con, với tâm hồn và cái nhìn ngây thơ, vẫn có cuộc sống thú vị của riêng chúng. Nhưng rồi một ngày, sự bạc bẽo của cuộc đời vén bức màn tuổi thơ lên: bệnh tật, nghèo đói, sự đàn áp về chính trị, tệ kỳ thị sắc tộc... Cô chị Lynn đã làm một phép tính: Chỉ có mỗi 31 người Nhật trong toàn thị trấn này, mà thị trấn này lại có hơn 4.000 người lận, và 4.000 chia cho 31 là... họ đông hơn mình quá trời. Từ phép tính đơn giản đó là tiếng kêu phản kháng thảng thốt của đứa bé: Em có để ý là bạn bè của ba mẹ chỉ toàn là người Nhật thôi không? Đó là vì đám người kia coi mình như không. Họ khinh mình - họ coi bọn mình giống như giẻ rách - hoặc như sâu như kiến gì đó. Nước Mỹ trong câu chuyện là nước Mỹ những năm 1950, đời sống của những gia đình người Nhật trên đất Mỹ hậu kỳ Đại chiến thế giới lần 2 được miêu tả rất trung thực: những xưởng làm việc với guồng máy công nghiệp xem con người chỉ là những công cụ sản xuất. Sự vùng dậy của những người công nhân như thành lập công đoàn, đấu tranh đòi giảm giờ làm... được khéo léo lồng vào câu chuyện với liều lượng vừa phải, qua cái nhìn của một cô bé đã giúp độc giả nhí dù thuộc quốc gia nào cũng đều có thể cảm và hiểu được sự bất công, phi lý đến lạnh lùng, tàn nhẫn của một xã hội ích kỷ. Sáng sớm 17/1/2005, nhà văn Cynthia Kadohata nhận được điện thoại từ Ủy ban trao giải thưởng Newbery (lấy theo tên của John Newbery, một người bán sách nổi tiếng ở Anh thế kỷ 18 - giải thưởng được trao tặng từ năm 1922 cho đến nay) thông báo cuốn Kira - Kira của cô được trao tặng giải thưởng Newbery. Trong bối cảnh xã hội nước Mỹ luôn có những xung đột về sắc tộc, sự chia cách giàu nghèo, nạn khủng bố, bạo động, tội ác... thì Kira - Kira chính là bài ca đẹp về niềm hy vọng, tin tưởng vào cuộc sống, tình yêu thương, quý trọng, san sẻ giúp đỡ lẫn nhau giữa những người trong cùng một gia đình và giữa con người với con người trong cùng nhau một xã hội. Và trên tất cả, thông điệp đằng sau Kira - Kira là: cuộc sống này rất phức tạp nhưng kỳ diệu biết bao. Bạn không nên đánh mất khả năng cảm nhận điều kỳ diệu đó dù là ở những điều nhỏ bé nhất trên đời. Tôi muốn những đứa trẻ biết rằng thế giới này tràn ngập niềm hy vọng và cái đẹp, Cynthia Kadohata đã nói như thế. Tìm mua: Kira Kira TiKi Lazada Shopee Sau khi được dịch và phát hành thành công ở Nhật, Trung Quốc, Đức, Italy, Phần Lan, Đức, Serbia và Montenegro, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ. Tháng 12 này, quyển Kira - Kira, vừa đến Việt Nam với tên gốc là Kira - Kira do dịch giả Lưu Anh chuyển ngữ, NXB Trẻ phát hành. Nhìn lại dòng văn học thiếu nhi ở Việt Nam và trên thế giới, có một điều thú vị phải thừa nhận: một tác phẩm văn học thiếu nhi thành công và nổi tiếng không giới hạn độ tuổi độc giả. Bạn đọc Việt Nam thuộc mọi lứa tuổi từng say mê và háo hức thưởng thức những tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi (hay nói về thiếu nhi) của tác giả nước ngoài, điển hình như: Hoàng tử bé của St.Exuypéry, truyện cổ Andersen, truyện cổ Grim và gần đây là loạt truyện Harry Potter của J.K. Rowling, Nhật ký Mã Yến của cô bé Trung Quốc Mã Yến... Vì thế, sự xuất hiện của Kira - Kira tại Việt Nam hứa hẹn sẽ gây ấn tượng mạnh với độc giả Việt và góp phần làm phong phú những góc nhìn về dòng văn học thiếu nhi trong nước. Đọc Kira - Kira lại nhớ đến Mắt biếc - tác phẩm đem lại giải Nobel Văn học 1992 cho nhà văn Toni Morisson, Vừa nhắm vừa mở cửa sổ của Nguyễn Ngọc Thuần, Harry Potter của J.K. Rowling. Tất cả các cuốn sách đó đều viết về nội tâm cũng như thế giới của những đứa trẻ, về cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác, cái bất công trong cuộc sống. Điểm độc đáo của Kira - Kira còn là sự kết hợp hài hòa giữa chất phương Đông và phương Tây trong câu truyện. Nét hóm hỉnh, tinh nghịch, hài hước tình huống kiểu Mỹ lẫn cái nhẹ nhàng, thâm trầm, sâu kín của Nhật; sự lãng mạn, mơ mộng đứng bên cạnh hiện thực nghiệt ngã; niềm hạnh phúc dâng tràn bên cạnh sự chia ly, mất mát; cái ngô nghê, trong trẻo trẻ thơ bên cạnh sự trưởng thành, già dặn của những tâm hồn bé con đang dần lớn lên theo từng ngày. Tôi giấu những giọt nước mắt của mình không cho ba mẹ thấy. Nhưng mặt biển bắt đầu làm tôi thấy hạnh phúc trở lại. Ở nơi đây từ mặt biển - đặc biệt là từ mặt biển - tôi có thể nghe thấy giọng nói của chị mình trong tiếng những làn sóng vỗ: Kira - Kira! Kira - Kira. Cái kết thúc đẹp này chẳng khác nào một khúc đồng dao bất tận lấp lánh niềm tin trẻ thơ. ***CHỊ TÔI, LYNN, đã dạy cho tôi nói cái từ đầu tiên: kira-kira. Tôi đã phát âm nó thành ra ka a-a, nhưng chị chẳng hiểu nổi tôi muốn nói gì. Trong tiếng Nhật, kira-kira có nghĩa là “sáng lấp lánh”. Lynn kể là khi còn nhỏ, chị thường dắt tôi đi trên con đường trống vắng của bọn tôi vào ban đêm, rồi hai đứa tôi nằm ngửa xuống, nhìn lên những ngôi sao trên trời và chị cứ nhắc, “Katie, nói kira-kira, kira-kira xem nào.” Tôi rất thích từ này! Khi tôi lớn thêm, tôi dùng từ kira-kira để miêu tả tất cả những gì mà tôi thích: bầu trời trong trẻo, lũ chó con, mèo con, lũ bướm, những tấm khăn giấy nhiều màu sắc. Mẹ bảo chúng tôi đã lạm dụng từ đó nhiều quá, người ta không thể gọi một tấm khăn giấy là kira-kira được. Mẹ rất rầu về việc hai đứa tôi không giống người Nhật một chút nào và thề là sẽ đưa chúng tôi về Nhật một ngày nào đó. Tôi không quan tâm mẹ sẽ đưa chúng tôi tới đâu, một khi tôi có chị Lynn bên cạnh. Tôi sinh ra ở Iowa năm 1951. Tôi biết khá nhiều chuyện về mình hồi nhỏ, bởi vì chị Lynn có ghi nhật kí. Bây giờ tôi vẫn giữ cuốn nhật kí đó trong ngăn kéo cạnh giường. Tôi rất thích cái việc những kí ức của chị vừa giống y hệt tôi, nhưng cũng lại vừa khác. Ví dụ như một trong những kỉ niệm đầu tiên của tôi là cái ngày chị Lynn cứu tôi. Tôi gần lên năm, và chị gần lên chín. Bọn tôi đang chơi trên con đường vắng gần nhà. Những cánh đồng bắp cao tít trải dài ngút tầm mắt, nhìn đâu cũng thấy bắp. Một con chó lông xám, dơ dáy từ cánh đồng gần bọn tôi chạy ra, rồi lại chạy vào. Lynn vốn yêu thích những con vật. Và mái tóc dài đen mượt của chị cứ mất hút sau đám lá xanh sau khi chị đuổi theo con chó. Bầu trời mùa hè xanh biếc và trong vắt. Tôi thoáng thấy sợ khi Lynn biến mất vào trong mấy bụi bắp. Lynn luôn ở bên cạnh tôi mỗi khi chị không đi học. Cả ba mẹ tôi đều đi làm. Trên lý thuyết thì tôi được gởi suốt ngày ở nhà một người phụ nữ ở cuối đường, nhưng trên thực tế thì Lynn mới là người trông nom tôi. Sau khi Lynn chạy vào trong cánh đồng, tôi chẳng còn thấy gì khác ngoài bắp.Tôi kêu to “Lynnie!.” Bọn tôi chơi không xa nhà lắm, nhưng tôi cảm thấy sợ. Tôi khóc òa lên.Rồi thì Lynn bỗng ló ra sau lưng tôi và “Hù!” một cái, và tôi lại khóc to dữ hơn nữa. Chị bật cười, rồi ôm lấy tôi và nói “Em là đứa em dễ thương nhất thế giới!.” Tôi rất thích nghe chị nói như vậy, và tôi nín khóc. Con chó chạy đi mất. Bọn tôi ngả lưng xuống nằm ngay giữa mặt đường, nhìn lên bầu trời xanh ngắt. Có những ngày mà chẳng có ai chạy xe qua con đường nhỏ của chúng tôi. Bọn tôi có thể nằm ngửa suốt cả ngày mà chẳng hề bị xe cán.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kira Kira PDF của tác giả Cynthia Kadohata nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.