Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Luận Về Lửa Càn Khôn - Tập 1 (Alice Bailey)

LỜI GIỚI THIỆU

[vi] Câu chuyện trong nhiều năm về công tác viễn cảm của Chân Sư Tây Tạng với bà Alice A.Bailey được tiết lộ trong tập sách Tự Truyện Chưa Hoàn Tất của bà được xuất bản năm 1951. Sách này nêu ra các trường hợp về lần tiếp xúc đầu tiên của bà với Chân Sư trên cõi trần, xảy ra ở California vào tháng 11 năm 1919. Công việc của ba mươi năm đã được hoạch định. Khi công việc này đã được hoàn tất, trong vòng ba mươi ngày sau giai đoạn đó, bà Bailey được giải thoát khỏi các hạn chế của thể xác.

Quyển Tự Truyện cũng chứa đựng một số phát biểu của Chân Sư Tây Tạng về công việc của Ngài, và một số thông tin về các lý do tại sao công việc đó được tiến hành. Vào các giai đoạn ban đầu, công việc bao hàm sự quan tâm cẩn thận vào các điều kiện của cõi trần vốn có thể trợ giúp tốt nhất cho tiến trình viễn cảm (thần giao cách cảm) thành công hơn. Nhưng trong các năm sau, kỹ thuật được hoàn thiện và cơ cấu dĩ thái của bà A. A. B. được điều hợp và hiệu chỉnh một cách khéo léo đến nỗi toàn bộ tiến trình thực tế không cần một chút nỗ lực nào, còn thực tại và sự hữu ích thực tiễn của sự tương tác viễn cảm đã được chứng tỏ là đạt đến một trình độ độc nhất vô nhị.

Các chân lý thiêng liêng được bàn đến bao hàm nhiều trường hợp mà cách diễn tả bằng hạ trí cụ thể (thường là với các hạn chế không thể vượt qua của Anh ngữ) đối với các ý tưởng trừu tượng và cho đến bây giờ là các khái niệm hoàn toàn không được biết về các thực tại thiêng liêng. Giới hạn không thể vượt qua này của chân lý đã thường được kêu gọi sự chú ý của các độc giả của các quyển sách được tạo ra như thế, nhưng tất cả rất thường bị quên đi. Việc luôn luôn nhớ lại điều đó sẽ tạo ra trong các năm sắp đến một trong các yếu tố chính trong việc ngăn chận sự kết tinh của giáo lý khỏi việc tạo ra một sự sùng bái có tính giáo điều và bè phái hơn.

Quyển sách này, bộ Luận Về Lửa Càn Khôn, được xuất bản lần đầu năm 1925, là quyển thứ ba được ra đời bằng cách kết hợp, và đưa ra bằng chứng cố hữu rằng nó sẽ đóng vai trò là phần chủ yếu, và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của các giáo lý trong ba mươi năm qua, bất kể sự sâu sắc và sự hữu ích của các quyển sách được xuất bản trong loạt sách [vii] có tựa đề Luận về Bảy Cung hay của bất cứ sách nào khác. Tìm mua: Luận Về Lửa Càn Khôn - Tập 1 TiKi Lazada Shopee

Trong quá trình lâu dài của công tác, thể trí của Chân Sư Tây Tạng và A.A.B. đã trở nên được điều hợp rất mật thiết đến nỗi chúng đã là − trong phạm vi liên quan đến việc sản xuất giáo lý − một cơ cấu hợp tác đơn thuần được dự trù có hiệu quả. Ngay cả đến lúc cuối, A.A.B. thường nói đến sự ngạc nhiên của bà ở những cái nhìn thoáng qua mà bà đã có qua sự tiếp xúc với thể trí của Chân Sư Tây Tạng, về các viễn cảnh vô giới hạn của các chân lý thiêng liêng mà bà không thể tiếp xúc cách nào khác, và thường có một tính chất mà bà không thể diễn đạt. Kinh nghiệm này đã là căn bản của sự xác quyết thường được bà công bố nhưng thường thường ít được hiểu biết, rằng mọi giáo lý mà bà đang giúp để tạo ra, thực ra chỉ là A B C của kiến thức huyền bí, và rằng trong tương lai, bà rất sẵn lòng từ bỏ bất luận tuyên bố nào trong giáo lý hiện hữu, khi bà tìm thấy có giáo lý huyền bí nào tốt đẹp hơn và thâm sâu hơn. Dù trong sáng và sâu sắc như là giáo huấn hiện tại trong các sách được xuất bản dưới tên của bà, các chân lý được truyền đạt chỉ là một phần và phụ thuộc vào sự mặc khải và mở rộng sau này, đến nỗi, nếu được ghi nhớ thường xuyên, sẽ cho chúng ta một sự bảo vệ thứ hai rất cần thiết để chống lại tính chất của thể trí cụ thể vốn thường có khuynh hướng tạo ra tinh thần bè phái.

Vào ngay lúc bắt đầu của nỗ lực hợp tác, và sau khi xem xét cẩn thận, một quyết định giữa Chân Sư Tây Tạng (D.K.) và A.A.B. rằng bà với tư cách là một đệ tử hoạt động ở ngoại cảnh giới, sẽ gánh vác càng nhiều càng tốt trách nhiệm về nghiệp quả trên cõi đó, và rằng giáo lý sẽ đến với quần chúng với chữ ký của bà. Điều này bao hàm cái gánh nặng ở vị thế lãnh đạo trong lãnh vực huyền bí, và sự tấn công và lên án được kết tụ từ những người và các tổ chức mà các vị thế và các hoạt động của họ có tính cách Song Ngư hơn và độc đoán.

Toàn bộ nền tảng mà giáo lý huyền môn dựa vào trước quần chúng ngày nay đã được giải thoát khỏi các giới hạn và các dại dột của sự bí mật, sự mê hoặc, sự yêu sách và tính không thực tế, bởi địa vị mà Chân Sư Tây Tạng và A.A.B đã có được. Lập trường đã có được chống lại sự khẳng định có tính cách giáo điều đã giúp thiết lập một kỷ nguyên mới của sự tự do về trí tuệ cho các môn sinh về sự mặc khải đang khai mở dần dần Minh Triết Ngàn Đời.

[viii] Phương pháp xưa cũ để đạt đến chân lý bằng tiến trình chấp nhận các thẩm quyền mới và so sánh chúng với các giáo lý đã được lập ra trước đây, trong khi giáo lý có giá trị chắc chắn trong việc luyện trí đang dần bị qua mặt. Trong cả hai thế giới tôn giáo và triết lý, đang xuất hiện một năng lực mới để chiếm giữ một vị thế khoa học hơn. Giáo lý thiêng liêng sẽ ngày càng được chấp nhận như là một giả thuyết phải được chứng thực ít hơn bởi triết học kinh viện, nền tảng và thẩm quyền của lịch sử, và nhiều hơn bởi các kết quả của hiệu quả của nó trên sự sống đã trải qua và sự hữu ích thực tiễn của nó trong việc giải quyết các vấn đề của nhân loại.

Trước đây, giáo lý huyền môn tiên tiến hầu như luôn luôn có thể có được chỉ bởi sự chấp nhận của môn sinh về thẩm quyền vị huấn sư, các mức độ khác nhau về sự phục tùng cá nhân đối với vị huấn sư đó, và các lời thề giữ bí mật.

Khi thời hưng thịnh của kỷ nguyên mới Bảo Bình phát triển, thì các giới hạn này sẽ biến mất. Mối quan hệ cá nhân của đệ tử với Chân Sư vẫn tồn tại, nhưng việc dạy dỗ đệ tử đã được cố gắng trong sự hình thành Nhóm. Việc ghi nhận một thử nghiệm như thế và nỗ lực sử dụng phương pháp của kỷ nguyên mới này đã được đưa ra cho công chúng trong quyển sách có tựa Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới, sách này đưa ra các giáo huấn cá nhân trực tiếp của Chân Sư Tây Tạng cho một nhóm đệ tử được chọn.

Trong bộ Luận Về Lửa Càn Khôn, Chân Sư Tây Tạng đã đưa ra cho chúng ta những gì mà bà H.P. Blavatsky đã tiên đoán là Ngài sẽ đưa ra, cụ thể là chìa khoá tâm lý học cho Sự Sáng Tạo Vũ Trụ. H.P.B. đã phát biểu rằng trong thế kỷ 20, một đệ tử sẽ xuất hiện, người đó sẽ đưa ra chìa khoá tâm lý học cho tác phẩm vĩ đại của chính bà, bộ luận mà Chân Sư Tây Tạng đã cộng tác với bà (bộ Giáo Lý Bí Nhiệm - ND); và Alice A. Bailey đã làm việc trong sự nhận thức hoàn toàn về nhiệm vụ của chính bà theo trình tự này.

Foster Bailey

Tunbridge Wells

Tháng 12 - 1950Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Alice Bailey":Ảo Cảm Một Vấn Đề Thế GianSự Hiển Lộ Của Thánh ĐoànChiêm Tinh Học Nội MônCung Và Điểm ĐạoLuận Về Huyền Linh ThuậtLuận Về Lửa Càn Khôn - Tập 1Luận Về Lửa Càn Khôn - Tập 2Sáu Giai Đoạn Trên Đường ĐạoSự Tái Lâm Của Đức ChristTâm Lý Học Nội MônTâm Thức Của Nguyên TửTham Thiền Huyền LinhTrị Liệu Huyền MônViễn Cảm Và Thể Dĩ TháiTừ Trí Tuệ Tới Trực GiácTự Truyện Chưa Hoàn Thành

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Lửa Càn Khôn - Tập 1 PDF của tác giả Alice Bailey nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh (Samuel Huntington)
Chính trị thế giới đang bước vào một thời kỳ mới, và các học giả vội vã dội vào chúng ta những kiến giải về diện mạo tương lai của nó: sự cáo chung của lịch sử, sự phục hồi những cuộc cạnh tranh truyền thống giữa các nhà nước dân tộc, sự sa sút của nhà nước dân tộc trước sức ép của các khuynh hướng khác của chủ nghĩa phân lập bộ lạc, chủ nghĩa toàn cầu… Mỗi cách kiến giải này đều nắm bắt những khía cạnh riêng biệt của hiện thực đang hình thành. Nhưng tất cả chúng đều bó qua một khía cạnh cơ bản cốt yếu nhất của vấn đề. Tôi cho rằng nguồn gốc cơ bản của các xung đột trên thế giới này sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa. Các ranh giới quan trọng nhất chia rẽ loài người và nguồn gốc bao trùm của các xung đột sẽ là văn hóa. Nhà nước dân tộc vẫn là nhân vật chủ yếu trên sân khấu thế giới, nhưng các xung đột cơ bản nhất của chính trị toàn cầu sẽ diễn ra giữa các dân tộc và các nhóm người thuộc những nền văn minh khác nhau. Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ trở thành nhân tố chi phối chính trị thế giới. Ranh giới giữa các nền văn minh sẽ là chiến tuyến tương lai. Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ là giai đoạn diễn biến cuối cùng của các xung đột toàn cầu trên thế giới hiện đại. Trong một thế kỷ rưỡi sau sự ra đời của hệ thống quốc tế hiện đại với Hòa ước giữa các ông vua: các hoàng đế, quốc vương, các nhà quân chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến, những người ra sức mở rộng bộ máy quan liêu; tăng cường quân đội, củng cố sức mạnh kinh tế của mình, mà Cái chính là liên kết các vùng đất mới vào lãnh thổ của mình. Quá trình này đẻ ra các nhà nước dân tộc, và bắt đầu từ cuộc Ðại Cách mạng Pháp, các tuyến xung đột cơ bản kéo ra không hẳn là giữa những người cầm quyền, mà đúng hơn là giữa các dân tộc. Như R.R. Palmer đã nói năm 1793: „Những cuộc chiến tranh giữa các ông vua đã chấm dứt, và những cuộc chiến tranh giữa các dân tộc đã bắt đầu.“ Cái mô hình này kéo dài suốt thế kỷ Tìm mua: Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh TiKi Lazada Shopee 19 cho tới tận Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Rồi do kết quả của cuộc cách mạng Nga và phản ứng chống lại nó, xung đột giữa các dân tộc nhường chỗ cho xung đột giữa các hệ tư tưởng. Các bên xung đột lúc đầu là chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc xã và chế độ dân chủ tự do, rồi sau đó là chủ nghĩa cộng sản và chế độ dân chủ tự do. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, xung đột này thể hiện qua cuộc đọ sức giữa hai siêu cường, mà cả hai đều không phải là nhà nước dân tộc theo nghĩa cổ điển của Châu Âu. Mỗi siêu cường đều tự xác định mình bằng các phạm trù hệ tư tưởng. Xung đột giữa các ông hoàng, các nhà nước dân tộc và các hệ tư tưởng chủ yếu là xung đột trong nền văn minh phương Tây. William Lind gọi đó là „những cuộc nội chiến Phương Tây“. Ðây là bản chất của Chiến tranh lạnh cũng như của các cuộc chiến tranh thế giới và các cuộc chiến tranh hồi thế kỷ 17, 18 và 19. Với sự kết thúc Chiến tranh lạnh, giai đoạn Phương Tây của sự phát triển của chính trị quốc tế cũng kết thúc. Trọng tâm xung đột chuyển thành tác động qua lại giữa Phương Tây và các nền văn minh phi Phương Tây. Trong giai đoạn mới này, các dân tộc và các chính phủ của các nền văn minh Phi Phương Tây không còn đóng vai trò như là các đối tượng của lịch sử mục tiêu của chính sách thực dân Phương Tây nữa, mà cùng với Phương Tây, chúng bắt dầu khởi động và sáng tạo ra lịch sửĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh PDF của tác giả Samuel Huntington nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh (Samuel Huntington)
Chính trị thế giới đang bước vào một thời kỳ mới, và các học giả vội vã dội vào chúng ta những kiến giải về diện mạo tương lai của nó: sự cáo chung của lịch sử, sự phục hồi những cuộc cạnh tranh truyền thống giữa các nhà nước dân tộc, sự sa sút của nhà nước dân tộc trước sức ép của các khuynh hướng khác của chủ nghĩa phân lập bộ lạc, chủ nghĩa toàn cầu… Mỗi cách kiến giải này đều nắm bắt những khía cạnh riêng biệt của hiện thực đang hình thành. Nhưng tất cả chúng đều bó qua một khía cạnh cơ bản cốt yếu nhất của vấn đề. Tôi cho rằng nguồn gốc cơ bản của các xung đột trên thế giới này sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa. Các ranh giới quan trọng nhất chia rẽ loài người và nguồn gốc bao trùm của các xung đột sẽ là văn hóa. Nhà nước dân tộc vẫn là nhân vật chủ yếu trên sân khấu thế giới, nhưng các xung đột cơ bản nhất của chính trị toàn cầu sẽ diễn ra giữa các dân tộc và các nhóm người thuộc những nền văn minh khác nhau. Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ trở thành nhân tố chi phối chính trị thế giới. Ranh giới giữa các nền văn minh sẽ là chiến tuyến tương lai. Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ là giai đoạn diễn biến cuối cùng của các xung đột toàn cầu trên thế giới hiện đại. Trong một thế kỷ rưỡi sau sự ra đời của hệ thống quốc tế hiện đại với Hòa ước giữa các ông vua: các hoàng đế, quốc vương, các nhà quân chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến, những người ra sức mở rộng bộ máy quan liêu; tăng cường quân đội, củng cố sức mạnh kinh tế của mình, mà Cái chính là liên kết các vùng đất mới vào lãnh thổ của mình. Quá trình này đẻ ra các nhà nước dân tộc, và bắt đầu từ cuộc Ðại Cách mạng Pháp, các tuyến xung đột cơ bản kéo ra không hẳn là giữa những người cầm quyền, mà đúng hơn là giữa các dân tộc. Như R.R. Palmer đã nói năm 1793: „Những cuộc chiến tranh giữa các ông vua đã chấm dứt, và những cuộc chiến tranh giữa các dân tộc đã bắt đầu.“ Cái mô hình này kéo dài suốt thế kỷ Tìm mua: Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh TiKi Lazada Shopee 19 cho tới tận Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Rồi do kết quả của cuộc cách mạng Nga và phản ứng chống lại nó, xung đột giữa các dân tộc nhường chỗ cho xung đột giữa các hệ tư tưởng. Các bên xung đột lúc đầu là chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc xã và chế độ dân chủ tự do, rồi sau đó là chủ nghĩa cộng sản và chế độ dân chủ tự do. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, xung đột này thể hiện qua cuộc đọ sức giữa hai siêu cường, mà cả hai đều không phải là nhà nước dân tộc theo nghĩa cổ điển của Châu Âu. Mỗi siêu cường đều tự xác định mình bằng các phạm trù hệ tư tưởng. Xung đột giữa các ông hoàng, các nhà nước dân tộc và các hệ tư tưởng chủ yếu là xung đột trong nền văn minh phương Tây. William Lind gọi đó là „những cuộc nội chiến Phương Tây“. Ðây là bản chất của Chiến tranh lạnh cũng như của các cuộc chiến tranh thế giới và các cuộc chiến tranh hồi thế kỷ 17, 18 và 19. Với sự kết thúc Chiến tranh lạnh, giai đoạn Phương Tây của sự phát triển của chính trị quốc tế cũng kết thúc. Trọng tâm xung đột chuyển thành tác động qua lại giữa Phương Tây và các nền văn minh phi Phương Tây. Trong giai đoạn mới này, các dân tộc và các chính phủ của các nền văn minh Phi Phương Tây không còn đóng vai trò như là các đối tượng của lịch sử mục tiêu của chính sách thực dân Phương Tây nữa, mà cùng với Phương Tây, chúng bắt dầu khởi động và sáng tạo ra lịch sửĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh PDF của tác giả Samuel Huntington nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đức Phật Đã Dạy Những Gì (Walpola Rahula)
Mục lục BẢNG VIẾT TẮT (các kinh Pàli được trích dẫn) ÐỨC PHẬT Chương Một: THÁI ÐỘ TINH THẦN PHẬT GIÁO Chương Hai: TỨ DIỆU ÐẾ Chân lý thứ nhất: DUKKHA (Khổ) Tìm mua: Đức Phật Đã Dạy Những Gì TiKi Lazada Shopee Chương Ba: DIỆU ÐẾ THỨ HAI: TẬP (Samudaya): Nguyên nhân của khổ Chương Bốn: DIỆU ÐẾ THỨ BA: DIỆT (Nirodha) Sự chấm dứt khổ Chương Năm: DIỆU ÐẾ THỨ TƯ: ÐẠO (Magga): Con Ðường Chương Sáu: VÔ NGÃ (ANATTA) Chương Bảy: QUÁN TƯỞNG Sự đào luyện tâm ý: Bhàvanà Chương Tám: PHẬT GIÁO VÀ THẾ GIỚI NGÀY NAY Phụ lục: KINH NIỆM XỨ Satipatthànasutta Lời giới thiệu Ðại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Ðại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Ðại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Ðại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Ðại đức qua Ðại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Ðại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Ðại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Ðại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản. Nói một cách khác, không có Đại thừa hay Tiểu thừa, không có Nam tông hay Bắc tông. Sở dĩ có phân chia tông phái là vì sự diễn biến của lịch sử và sự truyền bá của đạo Phật qua nhiều truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, quốc độ khác nhau và tông phái nào cũng chấp thuận một số giáo lý căn bản chung cho tất cả truyền thống. Quyển sách này là một sự cố gắng của tác giả để giới thiệu những giáo lý căn bản ấy và những ai muốn tìm hiểu đạo Phật cũng cần phải hiểu biết ít nhất số giáo lý căn bản ấy. Riêng đối với Phật tử Việt Nam một số lớn được học ngay vào kinh điển Ðại thừa, lại cần phải hiểu giáo lý căn bản này để soi sáng lại sự hiểu biết của mình và để tìm lại sự liên tục của quá trình phát triển tư tưởng Phật giáo. Riêng đối với sinh viên Ðại học Vạn Hạnh, tài liệu của tập sách này cần được xem là tài liệu căn bản và tối thiểu để xây dựng nền tảng Phật học của mình. Quyển sách này viết cho giới trí thức Âu Mỹ, một giới trí thức có một bối cảnh khoa học và văn minh Cơ đốc giáo, nên các vấn đề thảo luận, phương pháp trình bày rất thiết thực, linh động, sát với thực tế và liên hệ ngay đến đời sống và những thắc mắc hiện đại. Giá trị quyển này phần lớn nhờ ở điểm này. Tác giả dẫn chứng rất nhiều lời dạy trong kinh điển PÀli để chứng minh cho sự trình bày của mình, một thái độ và một phương pháp khoa học đáng được hoan nghênh và bắt chước. Thường chúng ta trình bày đạo Phật ngang qua sự hiểu biết của chúng ta, và điều nguy hại hơn ngang qua cảm tình và sở thích của chúng ta, và vì vậy nhiều khi tư tưởng và thái độ của đức Phật bị bóp méo, rạn nứt rất nhiều. Ðể bớt tệ hại này, phương pháp hữu hiệu nhất là dẫn chứng trong kinh điển những lời dạy của chính đức Phật để xác chứng quan điểm của mình trong khi trình bày, một thái độ mà tác giả tập sách này đã theo rất trung thành. Dịch giả quyển sách này là cô Trí Hải, một tên quá quen thuộc với giới học giả với tài dịch thuật và sự hiểu biết giáo lý căn bản của cô để cần phải giới thiệu dài dòng về cô. Tên của cô cũng đủ bảo đảm cho giá trị dịch thuật của tập sách này rồi. Saigon, ngày 9-1-1966 Tỳ-kheo Thích Minh Châu Viện trưởng Viện Ðại Học Vạn HạnhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đức Phật Đã Dạy Những Gì PDF của tác giả Walpola Rahula nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đức Phật Đã Dạy Những Gì (Walpola Rahula)
Mục lục BẢNG VIẾT TẮT (các kinh Pàli được trích dẫn) ÐỨC PHẬT Chương Một: THÁI ÐỘ TINH THẦN PHẬT GIÁO Chương Hai: TỨ DIỆU ÐẾ Chân lý thứ nhất: DUKKHA (Khổ) Tìm mua: Đức Phật Đã Dạy Những Gì TiKi Lazada Shopee Chương Ba: DIỆU ÐẾ THỨ HAI: TẬP (Samudaya): Nguyên nhân của khổ Chương Bốn: DIỆU ÐẾ THỨ BA: DIỆT (Nirodha) Sự chấm dứt khổ Chương Năm: DIỆU ÐẾ THỨ TƯ: ÐẠO (Magga): Con Ðường Chương Sáu: VÔ NGÃ (ANATTA) Chương Bảy: QUÁN TƯỞNG Sự đào luyện tâm ý: Bhàvanà Chương Tám: PHẬT GIÁO VÀ THẾ GIỚI NGÀY NAY Phụ lục: KINH NIỆM XỨ Satipatthànasutta Lời giới thiệu Ðại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Ðại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Ðại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Ðại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Ðại đức qua Ðại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Ðại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Ðại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Ðại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản. Nói một cách khác, không có Đại thừa hay Tiểu thừa, không có Nam tông hay Bắc tông. Sở dĩ có phân chia tông phái là vì sự diễn biến của lịch sử và sự truyền bá của đạo Phật qua nhiều truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, quốc độ khác nhau và tông phái nào cũng chấp thuận một số giáo lý căn bản chung cho tất cả truyền thống. Quyển sách này là một sự cố gắng của tác giả để giới thiệu những giáo lý căn bản ấy và những ai muốn tìm hiểu đạo Phật cũng cần phải hiểu biết ít nhất số giáo lý căn bản ấy. Riêng đối với Phật tử Việt Nam một số lớn được học ngay vào kinh điển Ðại thừa, lại cần phải hiểu giáo lý căn bản này để soi sáng lại sự hiểu biết của mình và để tìm lại sự liên tục của quá trình phát triển tư tưởng Phật giáo. Riêng đối với sinh viên Ðại học Vạn Hạnh, tài liệu của tập sách này cần được xem là tài liệu căn bản và tối thiểu để xây dựng nền tảng Phật học của mình. Quyển sách này viết cho giới trí thức Âu Mỹ, một giới trí thức có một bối cảnh khoa học và văn minh Cơ đốc giáo, nên các vấn đề thảo luận, phương pháp trình bày rất thiết thực, linh động, sát với thực tế và liên hệ ngay đến đời sống và những thắc mắc hiện đại. Giá trị quyển này phần lớn nhờ ở điểm này. Tác giả dẫn chứng rất nhiều lời dạy trong kinh điển PÀli để chứng minh cho sự trình bày của mình, một thái độ và một phương pháp khoa học đáng được hoan nghênh và bắt chước. Thường chúng ta trình bày đạo Phật ngang qua sự hiểu biết của chúng ta, và điều nguy hại hơn ngang qua cảm tình và sở thích của chúng ta, và vì vậy nhiều khi tư tưởng và thái độ của đức Phật bị bóp méo, rạn nứt rất nhiều. Ðể bớt tệ hại này, phương pháp hữu hiệu nhất là dẫn chứng trong kinh điển những lời dạy của chính đức Phật để xác chứng quan điểm của mình trong khi trình bày, một thái độ mà tác giả tập sách này đã theo rất trung thành. Dịch giả quyển sách này là cô Trí Hải, một tên quá quen thuộc với giới học giả với tài dịch thuật và sự hiểu biết giáo lý căn bản của cô để cần phải giới thiệu dài dòng về cô. Tên của cô cũng đủ bảo đảm cho giá trị dịch thuật của tập sách này rồi. Saigon, ngày 9-1-1966 Tỳ-kheo Thích Minh Châu Viện trưởng Viện Ðại Học Vạn HạnhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đức Phật Đã Dạy Những Gì PDF của tác giả Walpola Rahula nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.