Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cách Nghĩ Để Thành Công - Napoleon Hill

Cách nghĩ để thành công là một trong những cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại. Đã hơn 60 triệu bản được phát hành với gần trăm ngôn ngữ trên toàn thế giới và được công nhận là cuốn sách tạo ra nhiều triệu phú hơn, một cuốn sách truyền cảm hứng thành công nhiều hơn bất cứ cuốn sách kinh doanh nào trong lịch sử. Tác phẩm này đã giúp tác giả của nó, Napoleon Hill, được tôn vinh bằng danh hiệu "người tạo ra những nhà triệu phú". Đây cũng là cuốn sách hiếm hoi được đứng trong top của rất nhiều bình chọn theo nhiều tiêu chí khác nhau - bình chọn của độc giả, của giới chuyên môn, của báo chí. Lý do để Cách nghĩ để thành công có được vinh quang này thật hiển nhiên và dễ hiểu: Bằng việc đọc và áp dụng những phương pháp đơn giản, cô đọng này vào đời sống của mỗi cá nhân mà đã có hàng ngàn người trên thế giới trở thành triệu phú và thành công bền vững. Điều thú vị nhất là các bí quyết này có thể được hiểu và áp dụng bởi bất kỳ một người bình thường nào, hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào. Qua hơn 70 năm tồn tại, những đúc kết về thành công của Napoleon Hill đến nay vẫn không hề bị lỗi thời, ngược lại, thời gian chính là minh chứng sống động cho tính đúng đắn của những bí quyết mà ông chia sẻ. Sinh ra trong một gia đình nghèo vùng Tây Virginia, con đường thành công của Napoleon Hill cũng trải qua nhiều thăng trầm. Khởi đầu bằng chân cộng tác viên cho một tờ báo địa phương lúc 15 tuổi, đến năm 19 tuổi Hill trở thành nhà quản lý mỏ than trẻ tuổi nhất, sau đó bỏ ngang để theo đuổi ngành luật. Napoleon Hill còn kinh qua nhiều nghề như kinh doanh gỗ, xe hơi, viết báo về kinh doanh... Đó là những công việc ông từng nếm trải trước khi 25 tuổi! Song khác với những người thành đạt khác, ông cẩn thận phân tích từng sự kiện trọng đại trong đời mình, rút ra những bài học, rồi tiếp tục rút gọn chúng thành các nguyên tắc căn bản, tổ chức các nguyên tắc ấy thành triết lý sống và rèn luyện... Cơ hội đặc biệt đã đến với Hill trong một lần phỏng vấn để viết về chân dung Andrew Carnegie - ông "vua thép" huyền thoại của Mỹ đã đi lên từ hai bàn tay trắng. Từ lần phỏng vấn đó, Napoleon Hill có dịp tiếp cận với những con người thành đạt và có quyền lực nhất tại Mỹ để tìm hiểu và học hỏi những bí quyết thành công của họ, trong thế so sánh và kiểm chứng với những công thức thành công của Andrew Carnegie. Ông muốn qua đó có thể đúc kết và viết nên một cuốn sách ghi lại những bí quyết giúp biến các cá nhân bình thường thành những người thành công trong xã hội. Để thực hiện cuốn sách này, Napoleon Hill dành hầu như toàn bộ thời gian và công sức trong suốt gần ba mươi năm để phỏng vấn hơn 500 người nổi tiếng và thành công nhất trong nhiều lĩnh vực khác nhau, cùng hàng ngàn doanh nhân khác - cả những kẻ thất bại và những người thành công. Kết quả của những nghiên cứu không mệt mỏi đó là Cách nghĩ để thành công - công thức, hay "cẩm nang" để trở thành vượt trội và được xã hội nể trọng. Cuốn sách cũng đưa Napoleon Hill vào danh sách một trong những tác giả có tác phẩm bán chạy nhất thế giới từ trước đến nay. Được viết ra từ vô số những câu chuyện có thật, tác phẩm có một sức thuyết phục và lay động rất lớn. Bạn không chỉ được biết bí quyết về sự thành công của các tên tuổi như Edison - nhà phát minh lỗi lạc mà thời gian rèn luyện trong trường học chỉ... vỏn vẹn 3 tháng; như Henry Ford - người bị coi là không có học vấn nhưng đã trở thành ông trùm trong nền công nghiệp xe hơi với một gia tài kếch xù... mà còn của rất nhiều cá nhân trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã đi lên từ con số không. Chẳng hạn, Darby, một người thành công sau khi đã bước qua cánh cửa của "trường đại học thất bại" là bài học sâu sắc về việc kiên định với mục tiêu. Trong một dự án tìm kho báu dưới lòng đất, Darby và đồng sự đã nản lòng sau một chuỗi ngày tháng dài đào bới cật lực mà không chạm được tới vàng. Họ bán hết máy móc cho một người thu gom phế liệu, nhưng người này đã quay lại mỏ vàng, nhờ một kỹ sư hầm mỏ tư vấn và ông đã tìm được kho báu khổng lồ cách nơi Darby đào khoảng gần 1 thước. Sau khi tâm niệm bài học sâu sắc đừng bao giờ bỏ cuộc giữa chừng và mọi thất bại chỉ là tạm thời, Darby đã thành công trong nghề bán bảo hiểm nhân thọ, với doanh số bán hàng trên 1 triệu đô-la mỗi năm.... Câu chuyện về con trai của chính Napoleon Hill - một cậu bé không có đôi tai ngay từ khi mới chào đời song đã vượt lên số phận để thành công là một bài học cho chúng ta hãy biết khát khao. Cậu bé không thể nghe được nhưng người cha đã gieo vào tâm hồn cậu một khao khát mãnh liệt là được nghe những âm thanh trong cuộc sống, cho cậu bé niềm tin rằng cậu không chỉ có thể nghe được mà sẽ thành công nếu biết tận dụng ngay cả điểm yếu của mình. Sự thành công của cậu bé như một minh chứng hùng hồn cho chân lý: những khát khao cháy bỏng rồi sẽ trở thành hiện thực.... Và còn rất nhiều những câu chuyện sinh động khác hé lộ cho chúng ta thấy những người bình thường đã đạt được thành công như thế nào... Cách nghĩ để thành công là cuốn sách đầu tiên đưa ra triết lý thành đạt - một triết lý đầy đủ và toàn diện về thành công của cá nhân, đồng thời cung cấp cho bạn phương pháp để tạo một ý thức thành công cũng như đưa ra kế hoạch sơ bộ và chi tiết để đạt được thành công đó. Các bí quyết thành công được đề cập đến trong cuốn sách này có thể được đúc kết ngắn gọn: tất cả bắt nguồn từ cách nghĩ. Do đó, cuốn sách này không chỉ thay đổi những điều bạn nghĩ mà còn có thể thay đổi cả cách nghĩ của bạn; không dừng lại ở việc chỉ ra cho bạn thấy bạn phải làm gì mà còn vạch cho bạn biết phải làm điều đó như thế nào để đạt được khát vọng của mình. - PACE và FIRST NEWS *** Bạn đọc đang cầm trên tay cuốn sách mà mỗi chương đều đề cập đến một bí quyết đã giúp hàng ngàn người trên thế giới thành công và trở thành triệu phú. Trong suốt một thời gian dài, tôi đã bỏ biết bao công sức để nghiên cứu tỉ mỉ tư tưởng cũng như con đường sự nghiệp của những người giàu có và thành đạt. Tôi nhận ra rằng không ai trong số họ thành công mà không áp dụng những bí quyết này cho dù họ có ý thức được điều đó hay không. Mọi chuyện bắt đầu khi ông "vua thép" của nước Mỹ Andrew Carnegie kể cho tôi nghe về những bí quyết thành công của ông. Những ý tưởng độc đáo đó đã ngay lập tức khiến tôi chú ý. Ông già người Scotland khôn ngoan và đáng mến ấy đã vô tình giảng giải cho tôi nghe về những bí quyết thành công đó khi tôi còn rất trẻ. Sau khi nói xong, ông ngồi dựa lưng vào thành ghế rồi nhìn tôi dò xét bằng ánh mắt tươi cười đầy ẩn ý, như muốn xét xem liệu tôi có đủ thông minh để hiểu đầy đủ ý nghĩa những điều ông vừa nói hay không. Khi dường như thấy tôi đã hiểu phần nào, ông mới hỏi liệu tôi có sẵn lòng dành hai mươi năm của cuộc đời mình hay thậm chí lâu hơn nữa để giúp ông giới thiệu những bí quyết đó ra thế giới, cho những người mà nếu không nắm được chúng có thể sẽ phải mãi sống một cuộc đời thất bại. Tôi trả lời với Carnegie rằng tôi rất sẵn lòng, và với sự giúp đỡ của ông, tôi đã thực hiện được lời hứa của mình. Cách nghĩ để thành công là cuốn sách viết về bí quyết thành công của Carnegie, những bí quyết đã được kiểm chứng qua thời gian bởi hàng ngàn (cho đến giờ có lẽ là hàng triệu) người trong khắp các ngành nghề khác nhau. Bí quyết kỳ diệu được viết trong cuốn sách đã giúp Carnegie có được một tài sản khổng lồ và ông muốn truyền bá kinh nghiệm đó cho những người không có đủ thời gian để tìm hiểu bí ẩn thật sự phía sau mỗi thành công. Ông hy vọng tôi có thể kiểm nghiệm và chứng minh tính đúng đắn của công thức đó qua cuộc đời và sự nghiệp của chính những người thành đạt. Carnegie cũng mong muốn bí quyết mà ông đúc kết được bằng cả cuộc đời mình sẽ được giảng dạy trong các trường phổ thông và đại học. Ông tin rằng bí quyết này khi được giảng dạy rộng rãi sẽ cách mạng hóa toàn bộ hệ thống giáo dục và thời gian sinh viên phải đến trường sẽ giảm xuống chỉ còn một nửa. Trong Chương 2 - "Niềm tin", bạn sẽ tìm hiểu câu chuyện về sự hình thành và phát triển vượt bậc của Tập đoàn Thép Hoa Kỳ khổng lồ. Điều đáng kinh ngạc là Tập đoàn đã được ra đời từ ý tưởng của một chàng trai còn rất trẻ. Qua câu chuyện đó, Carnegie muốn chứng minh rằng bí quyết của ông sẽ áp dụng thành công cho bất kỳ ai quyết tâm thực hiện ước mơ của mình. Một trong những người đã áp dụng thành công bí quyết đó là Charles M. Schwab. Bí quyết này đã mang lại cho ông một gia tài đồ sộ trị giá 600 triệu đô-la Mỹ. Những ví dụ thực tế đó sẽ giúp bạn hiểu được giá trị thật sự mà cuốn sách mang đến cho bạn, giúp bạn nhận thức rõ hơn điều mình thật sự mong muốn trong cuộc đời. Hàng ngàn người khác đã áp dụng bí quyết này và họ đã thành công. Một số người đã trở nên giàu có. Số khác chỉ đơn giản đã áp dụng thành công bí quyết này để tạo dựng một bầu không khí hòa thuận trong gia đình họ. Một giáo sĩ đã có mức thu nhập hàng năm 75.000 đô-la Mỹ (tương đương với khoảng 1,5 triệu đô-la bây giờ) nhờ vào bí quyết trên. Arthur Nash là một thợ may tại Cincinnati. Ông đã biến công việc kinh doanh đang trên bờ vực phá sản của mình thành "vật thí nghiệm" cho bí quyết của Carnegie. Chính nhờ bí quyết ấy mà việc kinh doanh hồi phục dần dần, không những vậy còn đem lại cho ông một tài sản rất lớn. Sự kiện đáng kinh ngạc này nổi bật đến mức giới báo chí đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để giới thiệu rộng rãi đến công chúng. Một ví dụ khác là trường hợp của Stuart Austin Wier, người thành phố Dallas, bang Texas. Sau khi được nghe giảng giải về bí quyết của Carnegie, ông cảm thấy thực sự bị lôi cuốn đến mức bỏ ngang công việc chuyên môn hiện tại của mình để theo học luật. Ông có thành công không? Bạn sẽ tìm thấy câu trả lời trong Chương 4 - "Kiến thức chuyên môn". Khi tôi còn làm điều hành cho bộ phận quảng cáo của trường Đại học mở LaSalle, tôi đã có dịp chứng kiến hiệu trưởng của trường - ông J. G. Chapline - sử dụng bí quyết của Carnegie để biến LaSalle thành một trong những trường đại học mở danh tiếng nhất nước Mỹ. Bí quyết mà tôi đề cập trên đây sẽ được nhắc đến hơn một trăm lần trong cuốn sách. Nhưng tôi sẽ không đặt cho nó một tên gọi cụ thể. Ý nghĩa đích thực của bí quyết tiềm ẩn ở bên trong. Chính vì thế, chỉ những ai thật sự sẵn sàng và quyết tâm tìm kiếm thì mới lĩnh hội được hết ý nghĩa và giá trị của nó. Carnegie khi giảng giải cho tôi về bí quyết cũng không gọi nó ra bằng một cái tên cụ thể. Nếu như bạn đã sẵn sàng tìm hiểu và ứng dụng bí quyết này, tự bạn sẽ cảm nhận được ý nghĩa đích thực của nó qua từng chương sách. Nhưng tôi sẽ không giải thích làm thế nào để bạn biết được mình đã sẵn sàng hay chưa. Nếu tôi làm thế thì đồng thời tôi đã tước đi của bạn rất nhiều giá trị hữu dụng mà đáng ra bạn có thể thu lượm được nếu tự khám phá, tư duy theo cách của riêng mình. Nếu như bạn từng thất vọng, nếu như bạn gặp phải những khó khăn thử thách khiến bạn cảm thấy gần như không đủ nghị lực để vượt qua, nếu như bạn đã cố gắng nhưng vẫn luôn thất bại, nếu như bạn thiệt thòi so với người khác do hoàn cảnh - vì ốm đau bệnh tật hay tai nạn..., thì câu chuyện về quá trình khám phá và áp dụng bí quyết Carnegie của con trai tôi có thể sẽ là một ốc đảo thực sự giữa Sa mạc Tuyệt vọng mà bạn đang gắng công kiếm tìm. Bí quyết này cũng được Tổng thống Woodrow Wilson áp dụng rộng rãi trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất và được Tổng thống Roosevelt áp dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Bí quyết được truyền đạt cặn kẽ tới từng người lính trong những buổi luyện tập trước khi ra mặt trận. Tổng thống Wilson nói với tôi rằng bí quyết còn góp phần quan trọng trong việc gây quỹ phục vụ cuộc chiến. Điểm đặc sắc của bí quyết này là ở chỗ bất kỳ ai lĩnh hội và ứng dụng được nó đều tự nhận thấy rằng mình đang lướt tới những bến bờ vinh quang. Tuy nhiên, mọi thứ đều có cái giá của nó. Không ai đạt được bí quyết này mà không phải trả giá, mặc dù cái giá đó kém xa giá trị thật khi đạt được. Một điểm thú vị khác là mặc dù bí quyết Carnegie không phải là thứ cho không, nhưng cũng không phải là thứ có thể mua bán bằng tiền. Những người không bỏ tâm huyết tìm kiếm sẽ không thể mua được nó dù với bất cứ giá nào. Bởi bí quyết này gồm hai phần, nếu như bạn khao khát tìm hiểu và thực hành nó thì phần thứ nhất đã nằm trong tay của bạn. Bí quyết này sẽ mang lại thành công cho tất cả những ai sẵn sàng tìm hiểu và ứng dụng nó cho dù trình độ học vấn của họ ở mức nào đi chăng nữa. Rất lâu trước khi tôi ra đời, Thomas A. Edison đã ứng dụng bí quyết này một cách tài tình và trở thành nhà phát minh tài năng hàng đầu thế giới mặc dù ông chỉ mới ngồi trên ghế nhà trường vẻn vẹn chưa đầy ba tháng. Edwin C. Barnes, trợ lý kinh doanh của Edison, cũng là một trường hợp điển hình trong việc ứng dụng thành công bí quyết Carnegie. Ông đã áp dụng bí quyết này để tích lũy được một gia sản kếch xù và từ bỏ sự nghiệp kinh doanh đang phát đạt khi còn rất trẻ. Câu chuyện về ông ở ngay chương đầu tiên sẽ chứng minh cho bạn thấy sự thành đạt và giàu có không nằm ngoài tầm tay của bạn. Bạn vẫn có thể trở thành người bạn hằng mong muốn cho dù bạn ai đi nữa. Tiền bạc, danh tiếng, hạnh phúc và sự thừa nhận của những người xung quanh đều là những điều có thể đạt được nếu như bạn thật sự sẵn sàng và quyết tâm đạt được những điều đó. Bạn có thể sẽ đặt câu hỏi làm sao tôi dám khẳng định như vậy? Bạn sẽ có câu trả lời khi đọc hết cuốn sách này. Bạn có thể tìm ra nó ở ngay chương đầu tiên hoặc cũng có thể là ở trang cuối cùng. Trong khi tiến hành công trình nghiên cứu về bí quyết thành công theo đề nghị của Carnegie, tôi đã tiến hành tìm hiểu, phân tích tư tưởng và con đường sự nghiệp của hàng trăm người nổi tiếng. Nhiều người trong số họ thừa nhận rằng sở dĩ họ tích lũy được lượng tài sản khổng lồ như vậy là do áp dụng bí quyết Carnegie. Tôi có thể liệt kê ra đây một vài tên tuổi trong số họ mà có lẽ nhiều người đã biết. Henry Ford (Người sáng lập Tập đoàn xe hơi Ford) William Wrigley Jr. (Người sáng lập công ty sản xuất kẹo nổi tiếng Wrigley) John Wanamaker (Người được gọi là "Ông Hoàng Lái Buôn" đã lập ra cửa hàng bách hóa bán lẻ đầu tiên trên thế giới) James J. Hill (Người được đặt danh hiệu "Người xây dựng Đế chế" ở nước Mỹ: Xây dựng tuyến đường sắt vĩ đại xuyên lục địa về phía Bắc; thiết lập hệ thống đường biển nối liền châu Mỹ với châu Á...) George S. Parker (Người sáng lập Công ty bút máy Parker) E. M. Statler (Người sáng lập chuỗi Khách sạn Statler nổi tiếng bởi sự sang trọng và phong cách "phục vụ với nụ cười") Henry L. Doherty (Người đạt được 140 bằng sáng chế về khí đốt thiên nhiên và cách sản xuất dầu) Cyrus H. K. Curtis (Người sáng lập các tờ tạp chí nổi tiếng thế giới: Ladies' Home Journal, Saturday Evening Post) George Eastman (Nhà phát minh và là người sáng lập Công ty Eastman Kodak) Charles M. Schwab (Chủ tịch Công ty thép Carnegie, sáng lập Công ty thép Bethlehem) Theodore Roosevelt (Tổng thống thứ 26 của nước Mỹ) John W. Davis (Luật gia, nhà lãnh đạo chính trị) Elbert Hubbard (Nhà triết học, người xuất bản tạp chí "The Fra") Wilbur Wright (Cùng với em trai là Orville trở thành người Mỹ đầu tiên phóng chiếc máy bay nặng-hơn-không-khí, là những người tiên phong trong ngành hàng không) William Jennings Bryan (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao dưới thời Tổng thống William McKinley, luật sư bảo vệ chủ nghĩa sáng tạo) David Starr Jordan (Tiến sĩ, nhà giáo dục - khoa học, tác giả của hơn 50 cuốn sách, chủ tịch đầu tiên của Đại học Standford) J. Odgen Amour (Chủ sở hữu của Chicago Cubs, giám đốc National City Bank) Arthur Brisbane (Nhà báo nổi tiếng được các hãng tin tức "săn đuổi", người viết xã luận được trả lương cao nhất và được đọc nhiều nhất trong thời đại ông) Frank Gunsaulus (Tiến sĩ, Chủ tịch Viện công nghệ Armour) Daniel Willard (Chủ tịch Đường sắt B&O trên 30 năm, được lấy tên đặt cho thành phố - Willard - bang Ohio) King Gillette (Người tạo ra loại dao cạo an toàn và sáng lập Công ty Gillette) Ralph A. Weeks (Chủ tịch hệ thống trường quốc tế Correspondence) Daniel T. Wright (Luật sư, Giảng viên Trường Luật Georgetown) John D. Rockefeller (Ông trùm về xăng dầu - là một trong những người giàu nhất thế giới) Thomas A. Edison (Nhà phát minh, sở hữu trên 1.000 bằng phát minh) Frank A. Vanderlip (Nhà báo, nhà cải cách xã hội, chủ tịch National City Bank, Thứ trưởng Bộ Tài chính Mỹ) F. W. Woolworth (Người đưa ra sáng kiến và làm thay đổi phong cách bán lẻ với hệ thống cửa hàng Woolworth kiểu "5 đô-la và 10 xu") Robert A. Dollar (Người thiết lập Công ty Tàu thủy Dollar - hãng tàu thủy chở khách hạng sang lớn nhất nước Mỹ) Edward A. Filene (Người sáng lập các cửa hàng ở Boston) Edwin C. Barnes (Cộng tác viên duy nhất của Thomas A. Edison, tỷ phú) Arthur Nash (Nhà sản xuất quần áo ở Cincinnati) Clarence Darrow (Luật gia chuyên bảo vệ những nạn nhân của sự bất công) Woodrow Wilson (Vị Tổng thống thứ 28 của nước Mỹ, 1913-1921) William Howard Taft (Vị Tổng thống thứ 27 của nước Mỹ, 1909-1913) Luther Burbank (Người làm vườn nổi tiếng khắp thế giới đã giới thiệu trên 800 loại cây mới trong nỗ lực cải thiện chất lượng các loại cây) Edward W. Bok (Người biên tập Tạp chí Ladies' Home Journal, phát triển nó thành tờ báo phát hành rộng khắp thế giới) Frank A. Munsey (Chủ một đế chế báo chí với các tờ: Argosy, Washington Times, New York Herald) Elbert H. Gary (Chủ tịch tập đoàn thép lớn nhất thế giới lúc đó - U.S. Steel) Alexander Graham Bell (Tiến sĩ, người phát minh ra điện thoại...) John H. Patterson (Chủ tịch hãng National Cash Register...) Julius Rosenwald (Cùng với Richard Sears biến công ty Sears, Roebuck & Co. thành một mẫu mực của nền kinh doanh Mỹ về dịch vụ đặt hàng qua thư) Stuart Austin Wier (Kỹ sư, tham gia vào việc xuất bản "Tạp chí của Napoleon Hill") Frank Crane (Tiến sĩ, Nhà tâm lý học - tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng) J. G. Chapline (Chủ tịch trường Đại học mở rộng LaSalle) Jennings Randolph (Thượng nghị sĩ nước Mỹ vùng Tây Virginia) Những tên tuổi được nhắc đến ở trên chỉ là một phần nhỏ trong số hàng ngàn người Mỹ nổi tiếng và thành đạt. Thành tựu mà họ đạt được xét về mặt tài chính hay các mặt khác đã chứng minh rằng bất kỳ ai thấu hiểu và áp dụng tốt bí quyết Carnegie đều thành công và có được địa vị cao trong xã hội. Tôi chưa từng biết ai được truyền cảm hứng từ bí quyết này mà không đạt được thành công đáng kể trong cuộc đời họ. Mặt khác, tôi cũng chưa từng biết ai nổi tiếng hay giàu có trong bất cứ ngành nghề nào mà không nhờ vào bí quyết này. Từ hai thực tế đó, tôi có thể rút ra kết luận rằng: Bí quyết Carnegie góp phần quan trọng giúp bạn tìm được hướng đi cho cuộc đời mình hơn bất cứ điều gì khác mà bạn có thể thu nhận được từ ghế nhà trường. Nếu bạn sẵn lòng đón nhận bí quyết Carnegie thì khi đọc đến một trang nào đó trong cuốn sách này, bí quyết sẽ tự hiển hiện rõ ràng trước mắt bạn. Vào lúc nó xuất hiện, bạn sẽ nhận ra ngay. Dù bạn nhận ra ngay ở chương đầu tiên hay chương cuối cùng, xin hãy dừng lại trong giây lát, hãy khắc ghi trong tâm trí bạn thời gian và cảm xúc đó, tư duy đó. Đây sẽ là thời khắc đánh dấu bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc đời bạn. Trong quá trình đọc cuốn sách này, bạn hãy nhớ rằng tất cả các câu chuyện được đề cập đến đều có thật chứ hoàn toàn không phải là hư cấu. Mục đích của cuốn sách là chuyển tải đến cho người đọc một chân lý phổ quát. Nếu bạn sẵn lòng đón nhận, bí quyết đó sẽ giúp bạn biết mình phải làm gì và làm như thế nào để ứng dụng nó trong thực tế. Bạn cũng sẽ nhận được sự khích lệ cần thiết để bắt đầu. Lời sau cùng, cho phép tôi được gợi ý đôi chút để bạn dễ dàng nhận ra bí quyết kỳ diệu này hơn. Lời gợi ý của tôi chỉ đơn giản thế này thôi: Thành đạt hay giàu sang đều bắt nguồn từ cách nghĩ! Nếu bạn sẵn sàng đón nhận bí quyết này thì bạn đã sở hữu được một nửa nó rồi đấy. Vì thế, chắc chắn bạn sẽ nhận ra ngay nửa còn lại trong giây phút đầu tiên mà bí quyết Carnegie chạm vào tâm hồn bạn. - Napoleon Hill Nghèo khó hay giàu sang đều là sản phẩm của tư duy. Mời các bạn đón đọc Cách Nghĩ Để Thành Công của tác giả Napoleon Hill.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Luận Ngữ Ứng Dụng Trong Kinh Doanh - Thiệu Vũ
Tôi được gặp Thiệu Vũ vào cuối năm 2007, không thể không thừa nhận một điều rằng, Thiệu Vũ là một nhà nghiên cứu luôn phấn đấu không ngừng. Trong khoảng thời gian gần bốn năm, việc tìm tòi và nghiên cứu của Thiệu Vũ đã trải qua mấy lần lột xác, từ nghiên cứu tư tưởng quản lý phương Tây mà cuối cùng Thiệu Vũ đã chọn đi theo con đường văn hóa truyền thống Trung Quốc. Trong khoảng thời gian này, với nghị lực và tốc độ làm việc cao, Thiệu Vũ đã cho ra đời mấy chục tác phẩm chuyên ngành nghiên cứu, thể hiện sức sáng tác đến khó tin. Khi rất nhiều người vẫn còn đang say sưa trò chuyện về khái niệm “Sức mạnh quản lý và điều hành” do Thiệu Vũ đưa ra năm 2008 thì Thiệu Vũ đã sớm đi vào nghiên cứu vấn đề mới. Sau khi đọc xong Luận Ngữ ứng dụng trong kinh doanh và Kinh Dịch ứng dụng trong kinh doanh, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng, tác giả hy vọng mỗi nhân viên đều có thể trở thành quân tử để xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp. Là một tập đoàn giáo dục đào tạo hàng đầu tại Trung Quốc, Quần Phong đã có bốn năm tổ chức lớp học thuật truyền thống. Trong bốn năm, chúng tôi đã được tiếp xúc với rất nhiều chuyên gia, học giả về lĩnh vực nghiên cứu học thuật truyền thống, trong đó có một số còn là những cây đại thụ ở Trung Quốc, thậm chí là cả những người đức cao vọng trọng. Những lớp học thuật truyền thống do chúng tôi tổ chức nhận được sự hoan nghênh của rất nhiều học viên, nhưng bên cạnh đó, các học viên cũng đưa ra một số vấn đề, trong đó, vấn đề quan trọng nhất và cũng là hay gặp nhất chính là: Làm thế nào để dễ học, dễ hiểu và vận dụng kiến thức quản lý trong học thuật truyền thống? Chính vì vấn đề này, chúng tôi cùng với các giảng viên trong lĩnh vực học thuật truyền thống đã tiến hành trao đổi rất nhiều, cho đến nay vẫn chưa có được phương án giải quyết hữu hiệu, công bằng xác đáng. Nhưng, vào mùa xuân năm 2010, Thiệu Vũ đưa ra Luận Ngữ ứng dụng trong kinh doanh, Kinh Dịch ứng dụng trong kinh doanh”, hai quyển này đã áp thuật lại những kiến thức quản lý trong Luận Ngữ và Kinh Dịch, đồng thời kết hợp với việc vận hành của doanh nghiệp, đưa ra kim chỉ nam cho hành động thiết thực. Tôi không thể nào dự đoán được sức mạnh của hai quyển sách này tạo ra sẽ lớn như thế nào, nhưng có một điểm có thể khẳng định là, hai quyển sách này đã mang đến một góc nhìn mới cho lĩnh vực nghiên cứu quản lý học thuật truyền thống. Điều quan trọng nhất là, chúng thực sự là một cuộc thử nghiệm đầy mạnh dạn, dễ học, dễ vận dụng về tri thức quản lý học thuật truyền thống. Lật mở từng trang của hai quyển sách này, các bạn nhất định sẽ có một cảm giác nhẹ nhàng khoan khoái, bạn chưa hề nghĩ rằng quản lý trong học thuật truyền thống lại được viết ra gần gũi, dễ hiểu đến thế, ở đó bạn không hề thấy bất kì hơi thở nào mang âm hưởng nghiên cứu Nho giáo, càng không hề thấy chỗ nào khó hiểu cả. Đáng quý hơn là, bạn sẽ thấy mỗi một điểm trong quyển sách này đều liên quan mật thiết đến công việc của bản thân mình, mỗi một quan điểm, mỗi một kiến giải trong đó đều giúp chúng ta thoát ra khỏi khó khăn và cản trở để trưởng thành trong công việc. Hoa Mẫn Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Giáo dục Quần Phong, Giang Tô *** Bắt đầu từ năm 2009, tôi quyết định giúp đỡ mọi người vận dụng những trí tuệ, tri thức có trong Luận Ngữ. Do đó, mới có cuốn Luận Ngữ - Nhật kí của nhà quản lý. Có điều tôi nhanh chóng nhận ra rằng, cuốn sách này vẫn không thể nào thực hiện được mục tiêu của tôi: đối tượng độc giả của cuốn sách này chỉ là những nhà quản lý cấp cao và cấp vừa trong các doanh nghiệp, có sự giới hạn nhất định; trong khi tôi hy vọng là có thể khiến nhiều người hơn nữa (đặc biệt là đông đảo mọi người) đọc hiểu Luận Ngữ, đồng thời ý thức được mối quan hệ mật thiết giữa việc đọc hiểu Luận Ngữ với cuộc sống và sự nghiệp của bản thân mình. Cho nên, trên cơ sở của Luận Ngữ - Nhật kí của nhà quản lý, tôi đã đào sâu phát triển thêm, cuối cùng đã tìm ra được quyển Luận Ngữ ứng dụng trong kinh doanh vừa gần gũi, vừa nhẹ nhàng. Thứ nhất, tôi muốn định nghĩa về “công sở”: Xã hội chính là một công sở lớn, mỗi người đều phải suy nghĩ và làm việc, mỗi người đều là người của công việc. Vì vậy, tôi cho rằng Luận Ngữ ứng dụng trong kinh doanh thích hợp với mọi độc giả. Thứ hai, những điều đáng học tập trong Luận Ngữ vô cùng nhiều, nhưng do Luận Ngữ có kết cấu chữ viết đặc biệt, khiến cho độc giả khó mà hình thành nên hệ thống lôgic nhất định, mà tôi thì mong muốn có thể tạo lập nên một hệ thống, hy vọng là những độc giả có tâm huyết sẽ hiểu được sự cố gắng của tôi. Thứ ba, hệ thống mà tôi tạo lập nên luôn xoay quanh một hạt nhân, đó là “phẩm chất”, tôi loại bỏ hết tất cả những nội dung không liên quan đến phẩm chất đi, nên quyển sách này mới ngắn gọn và đơn giản như vậy. Nhưng để chọn lọc ra được sáu phẩm chất từ trong đó, tôi đã bỏ ra rất nhiều thời gian, hơn nữa đã không ít hơn mười lần sửa đổi mục lục, mục đích thì rất rõ ràng: tôi hy vọng có thể tìm ra được sự tinh túy của Luận Ngữ. Còn về việc có làm được như vậy hay không, xin nhường lại cho độc giả đánh giá! Thứ tư, có rất nhiều “nhân sĩ” đã đưa ra cho tôi những kiến nghị xuất sắc, từ đó khiến cho việc đọc cuốn sách này trở nên nhẹ nhàng, dễ hiểu, thậm chí còn có một số điều rất gần gũi, giản dị nữa. Có lẽ như vậy lại đi ngược lại với những thưởng thức học thuật nhất quán của tôi, song đối với các độc giả, điều đó chắc chắn là một phương thức dễ chấp nhận. Phương thức này khiến tôi có thêm niềm tin vào việc phổ biến những quan điểm, tư tưởng của Luận Ngữ. Thứ năm, Luận Ngữ thực sự liên quan rất mật thiết đến cuộc đời và sự nghiệp của chúng ta, một khi thực sự hiểu được Luận Ngữ, cuộc đời và sự nghiệp của chúng ta sẽ đạt được sự vượt bậc và nâng cao về chất, đây là nhận thức của riêng tôi, hy vọng tất cả độc giả cũng nhận thức giống như vậy. Thứ sáu, chúc cho tất cả độc giả đều có thể tiếp thu được những tinh túy từ trong Luận Ngữ, cũng hy vọng tất cả độc giả đều có thể yêu thích cuốn Luận Ngữ ứng dụng trong kinh doanh này. Ngày 16 tháng 5 năm 2010. Thiệu Vũ Mời các bạn đón đọc Luận Ngữ Ứng Dụng Trong Kinh Doanh của tác giả Thiệu Vũ.
Luật của Warren Buffett - Jeremy C. Miller
Cuốn sách “Luật của Warren Buffett” là tuyển tập những lá thư cùng những nguyên tắc nền tảng trong đầu tư của Warren Buffett, một trong những nhà tỷ phú giàu nhất thế giới với khối tài sản không ngừng tăng lên từng ngày. Cuốn sách chứa đựng những kiến thức uyên tâm và tư duy của một nhà đầu tư thành công ngay cả khi bắt đầu bằng một nguồn vốn khiêm tốn. Những điều được chia sẻ trong cuốn “Luật của Warren Buffett” mang những giá trị vượt thời gian và không gian. Dù cho chàng thanh niên Buffett có khởi sự trong thời đại ngày nay, hẳn ông cũng có thể đạt được những thành quả to lớn như vậy. Mỗi chương trong cuốn sách này đều được xây dựng xung quanh một ý tưởng hoặc chủ đề riêng biệt từ những bức thư và có một bố cục đơn giản, bắt đầu là một bản tóm tắt nhằm cung cấp một số thông tin nền. Đồng thời, tất cả các trích đoạn quan trọng từ những bức thư trong từng chủ đề đều sẽ được trình bày đầy đủ. Khi mà Warren Buffett chưa từng xuất bản một cuốn giáo trình nào về đầu tư, có thể xem những bức thư được tập hợp trong cuốn sách này là một khóa học từ nhà tỷ phú thành công người Mỹ. Cuốn sách được chia làm ba phần: - Phần một là những phân tích của Warren Buffett về động lực thúc đẩy và cách lựa chọn người phù hợp để quản lý tài sản cũng như nhà đầu tư nên phân tích và lựa chọn cổ phiếu như thế nào. - Phần hai là những chia sẻ của Warren Buffett về ba phương pháp lựa chọn cổ phiếu chính mà ông áp dụng cho công ty của mình. - Phần ba cũng là phần cuối cùng của cuốn sách, là những bài học trong việc tránh một số sai lầm phổ biến trong đầu tư, và tầm quan trọng của việc duy trì những khối đầu tư quý giá của bạn. Cuốn sách là một khóa học của nhà tỷ phú đại tài dành cho không chỉ những nhà đầu tư non trẻ mà kể cả những chuyên gia lão làng. Mục lục: Lời giới thiệu Phần 1 Chương 1: Định hướng Chương 2: Lãi kép Chương 3: Đầu tư theo chỉ số: Lý do để “không làm gì” Chương 4: Đo lường: Chiến lược “không làm gì” so với chiến lược “có làm gì” Chương 5: Công ty Hợp danh: Một cấu trúc thanh lịch Phần 2: Chương 6: Cổ phiếu Tổng quát Chương 7: Cổ phiếu Tính toán Chương 8: Cổ phiếu Kiểm soát Chương 9: Dempster: Trò chơi chuyển đổi tài sản Phần 3: Chương 10: Thận trọng so với thông thường Chương 11: Thuế Chương 12: Quy mô so với thành tích Chương 13: Đi nhanh hay đi chậm Chương 14: Chia tay Lời kết: Hướng tới loại hình cao hơn Phụ lục A: Thành tích đầu tư của công ty hợp danh Buffett Phụ lục B: Thành tích đầu tư của công ty hợp danh Buffett so với các quỹ tín thác và quỹ tương hỗ hàng đầu Phụ lục C: Thành tích của quỹ Sequoia Phụ lục D: Dempster Mill *** Thông tin tác giả: Jeremy C. Miller là một nhà phân tích đầu tư cho công ty quỹ hàng đầu tại New York - Mutual Fund Company. Ông có hơn 15 năm kinh nghiệm trong ngành tài chính, cũng như từng làm việc ở các vị trí đặc biệt trong bộ máy Nghiên cứu và Bán hàng tại một số ngân hàng đầu tư hàng đầu thế giới. *** “Dù là một triệu đô la, hay mười triệu đô la, thì tôi đều đầu tư toàn bộ. Lợi suất cao nhất mà tôi đạt được là trong những năm 1950. Tôi đã đánh bại chỉ số Dow. Các anh nên xem lại những con số hồi ấy. Nhưng khi đó tôi chỉ đầu tư nhỏ lẻ. Không có nhiều tiền là một lợi thế lớn về cơ cấu. Tôi nghĩ tôi có thể mang về cho các anh lợi suất 50% một năm trên một triệu đô la. Không, tôi biết tôi có thể làm được. Tôi bảo đảm.” - WARREN BUFFETT, BUSINESSWEEK, 1999 Năm 1956, Warren Buffett làm việc tại New York với thầy dạy của mình, cũng là cha đẻ của đầu tư giá trị(1), Benjamin Graham. Khi Graham quyết định nghỉ hưu, ông ngỏ ý cho người học trò xuất sắc nhất của mình một phần vốn ở Công ty Hợp danh Graham-Newman, song chàng thanh niên Buffett 25 tuổi khi đó lại chọn phương án trở về quê nhà. Không lâu sau, theo yêu cầu của bốn thành viên trong gia đình và ba người bạn, một công ty hợp danh đầu tư mới – Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Buffett Associates – được thành lập. Tuy nhiên, trước khi nhận séc của họ, ông đề nghị họ tới ăn tối cùng ông tại Omaha Club. Tiền ăn chia đều cho tất cả. Buổi tối hôm đó, Buffett đưa cho mỗi người một vài trang tài liệu pháp lý về thỏa thuận hợp danh chính thức và bảo họ không cần phải lo lắng quá nhiều về việc trong đó viết những gì, bởi sẽ không có bất ngờ nào cả. Buổi tụ họp nhằm bàn luận về một điều mà ông cho rằng quan trọng hơn nhiều, đó là Những Nguyên tắc Cơ Bản. Ông đã phô-tô bản danh sách nguyên tắc này thành nhiều bản và nói kỹ về từng mục. Buffett kiên quyết yêu cầu có quyền tự quyết hoàn toàn. Ông không có ý định nói về những gì mà Công ty Hợp danh này thực sự sẽ làm; ông đưa ra rất ít thông tin về cổ phần thực tế của mình. Ông nói với họ: “Những nguyên tắc cơ bản này là triết lý hành động. Nếu các vị đồng ý thì chúng ta hãy tiến hành. Còn nếu các vị không đồng ý thì tôi cũng thông cảm.” Mời các bạn đón đọc Luật của Warren Buffett của tác giả Jeremy C. Miller.
Cuộc Chiến Disney - James B. Stewart
Đây là câu chuyện mê hoặc về một trong những công ty giải trí và truyền thông quyền lực nhất nước Mỹ, về những người lãnh đạo nó cũng như những người muốn lật đổ chế độ cai trị đó. Một câu chuyện đầy những nút thắt, những nhân vật để đời và đạt tới đỉnh cao ly kỳ, hồi hộp đến mức hoàn toàn có thể là chủ đề cho một bộ phim thần thoại về Disney, chỉ có điều chúng hoàn toàn là sự thật. Các bạn sẽ được chứng kiến quá trình ra đời của những bộ phim huyền thoại như Nàng tiên cá, Người đẹp và Quái thú, Vua Sư tử, Aladdin và cây đèn thần, Câu chuyện đồ chơi, Cướp biển vùng Ca-ri-bê. Các bạn sẽ được gặp lại những cái tên đình đám như Tom Hanks, Steve Jobs, Pixar, Johnny Depp. Cùng với đó là lịch sử hoạt động suốt 20 năm của Disney, từ năm 1984 đến năm 2003, dưới sự dẫn dắt của Michael Eisner, tràn đầy những thăng trầm, những cuộc chiến phe cánh, tranh giành quyền lợi, chức vụ, những chiến lược kinh doanh, v.v. Có thể nói, toàn bộ cuốn sách là một vở kịch bi tráng và sống động về quá trình phát triển của Disney, một trong những đế chế có ảnh hưởng nhất thế giới.         *** Roy E. Disney lái chiếc Ferrari đỏ đời 1999 vào bãi đỗ xe của quán rượu Bodega ở Pasadena. Đó là buổi chiều muộn ngày thứ Năm, 20 tháng Mười một năm 2003, một tuần trước lễ Tạ ơn. Roy thích chiếc Ferrari này. Nó là một trong số bằng chứng ít ỏi cho thấy cháu của Walt Disney huyền thoại, người đàn ông 73 tuổi giản dị và khiêm tốn này là một trong những người giàu có nhất nước Mỹ. Nó luôn là chiếc xe nổi bật nhất trên bãi đỗ của Disney, nơi Roy được dành riêng một chỗ cạnh Michael Eisner, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của công ty. Chính nhờ nó mà mọi người luôn biết khi nào Roy đang có mặt ở trụ sở. Roy căm ghét tòa nhà “Team Disney.” Nó được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi danh Michael Graves theo chỉ thị của Eisner để làm trụ sở của công ty Walt Disney. Dù mặt trước đồ sộ đã được làm nhẹ bớt bằng các bức phù điêu đắp nổi hình bảy chú lùn, nhưng đối với Roy, nó vẫn đại diện cho tất cả sự phô trương và kệch cỡm mà Eisner đã tạo ra ở đây. Cũng như với rất nhiều thứ khác, Roy luôn băn khoăn không biết liệu chú Walt của mình sẽ nghĩ sao. Văn phòng của Walt vẫn ở đó, trong tòa nhà cũ, giản dị của xưởng phim hoạt hình. Eisner cũng từng dùng nó làm văn phòng của ông ta trước khi chuyển tới trụ sở mới này. Giờ đây Roy lại chuyển về đó. Nó khiến ông cảm thấy thoải mái hơn tòa nhà đồ sộ và khô khan mà ông vẫn đùa là mỗi khi bước vào ông phải rải vụn bánh mì làm dấu đường thì mới tìm được lối ra. Vài tháng gần đây, Roy đã thực sự tách mình ra khỏi Eisner và các lãnh đạo cấp cao khác của công ty. Mặc dù gần 20 năm trước, chính ông là người đã đưa Eisner tới Disney, nhưng giờ đây ông cảm thấy mình đang bị người đàn ông này lừa dối và phản bội. Eisner đến với Disney sau thành công chói lọi trong ngành sản xuất chương trình truyền hình ở kênh truyền hình ABC và sau đó là sản xuất phim tại hãng phim Paramount Pictures. Nhưng giờ thì Roy cho rằng những thành công rực rỡ mà Eisner có được trước đó chẳng qua là nhờ may mắn gặp được những đối tác ăn ý: Barry Diller ở ABC và Paramount; sau đó là Frank Wells và Jeffrey Katzenberg trong những năm đầu thành công đáng kinh ngạc ở Disney. Kể từ khi Wells qua đời trong một tai nạn máy bay thương tâm vào năm 1994, còn Katzenberg phải ra đi trong cay đắng liền sau đó, trách nhiệm đối với Disney đổ dồn lên một mình Eisner. Theo cách nhìn nhận của Roy thì tình cảnh đó đã dẫn đến những hậu quả vô cùng tồi tệ. Khi cả sức mạnh tài chính lẫn năng lực sáng tạo của công ty đều đi xuống, Eisner lại khư khư giữ lấy quyền lực như một kẻ quẫn trí, cho rằng ông ta và chỉ mình ông ta là sở hữu khả năng sáng tạo thiên bẩm cùng những kỹ năng quản lý cần thiết để dẫn dắt Disney trở thành tập đoàn giải trí và truyền thông của thế kỷ XXI. Eisner còn tự cho mình là người thừa kế ngôi vị của Walt, xuất hiện hàng tuần trên màn hình ti vi trong phòng khách của các gia đình Mỹ với tư cách người dẫn chương trình “The Wonderful World of Disney” (Thế giới kỳ diệu của Disney), hệt như những gì Walt đã từng làm. Về phương diện này, Roy cảm thấy Eisner chỉ là mắt xích tiếp theo trong chuỗi dài những kẻ dám tự vỗ ngực cho rằng mình có thể ngồi vào ngôi vị của Walt. Đôi khi ông băn khoăn tự hỏi, tại sao lại có quá nhiều người muốn là hiện thân của Walt đến vậy? Chẳng ai lượn quanh Hollywood để rao giảng rằng mình là Louis B. Mayer(1) hay Cecil B. DeMille(2) cả. Điều gì khiến bọn họ ảo tưởng rằng mình là người phù hợp để thay thế Walt? Đầu tiên là E. Cardon Walker, rồi đến con rể của Walt, Ron Miller – chủ tịch và giám đốc điều hành của Disney, những kẻ lúc nào cũng lôi những kỷ niệm về Walt ra để làm bệ phóng. Sau đó lại đến Jeffry Katzenberg, kẻ tự cho mình là người thừa kế của Walt trong vai trò người đứng đầu xưởng phim Disney. Tất cả bọn họ đều đã đi quá giới hạn; mỗi lần như vậy Roy lại buộc phải ra tay can thiệp, và họ đã bị thay thế. Giờ thì tới lượt Eisner, ông ta lại đang lần lượt bỏ qua tất cả các giới hạn. Roy không tự cho mình là Walt, nhưng nếu có ai đó được quyền thừa kế di sản mà Walt để lại thì người đó phải là ông. Trước toàn thế giới ông vẫn là hiện thân của công ty Disney và những gì mà nó đại diện, là người lãnh đạo cuối cùng của công ty còn mang họ Disney. Chỉ một tháng trước đây, trong lễ khai trương trò chơi mới tại Walt Disney World mang tên “Misson: SPACE,” Eisner còn công khai thay mặt công ty ca ngợi những đóng góp của Roy và được tán thưởng bằng những tràng pháo tay vang rền. Dường như đám đông luôn hưởng ứng Roy, có lẽ là bởi, ở tuổi 73, ông có vẻ bề ngoài rất giống Walt. Thế nhưng ẩn sau những lời ca tụng công khai của Eisner lại là sự thù nghịch cá nhân ngày một dâng cao. Khi Jane, vợ của Eisner đi ngang qua Roy và vợ ông, Patty, ngay trước khi bài phát biểu của Eisner bắt đầu, họ đã cố tình lờ nhau đi. Từ lâu Roy đã thôi không tham dự các buổi họp giao ban hàng tuần của Eisner với các lãnh đạo cao cấp khác của Disney, hay những bữa trưa mà Eisner dành để thông báo với Roy về các kế hoạch và chiến lược của công ty nữa. Roy đã không còn tin tưởng Eisner sau khi biết rằng ông ta đã cài cắm một gián điệp để theo dõi mọi lời nói và hành động của ông ở xưởng phim hoạt hình. Gần đây họ còn tránh không nói chuyện với nhau tại buổi công chiếu bộ phim Brother Bear (Anh em nhà Gấu) – tác phẩm hoạt hình mới nhất của Disney, mà theo Roy là rất tầm thường. Tệ hơn cả, năm đó Eisner đã không xuất hiện trong buổi lễ trao giải Disney Legends mà Edna, mẹ của Roy, cùng Lillian, góa phụ của Walt được trao giải còn Roy là người thay mặt gia đình lên nhận giải. Đó là lần đầu tiên Eisner không tham dự sự kiện thường niên này. Liền sau đó, những lời đồn thổi lan đi khắp công ty rằng chủ tịch và phó chủ tịch của Disney đã không còn nói chuyện với nhau nữa. Roy chẳng hề trông đợi cuộc gặp gỡ sắp diễn ra tại quán rượu với John Bryson, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của Edison International, công ty mẹ của Southern California Edison. Bryson tham gia hội đồng quản trị của Disney vào năm 2000 và sau đó trở thành chủ tịch ủy ban đề cử và kiểm soát đầy quyền lực của công ty. Tại các cuộc họp của hội đồng quản trị, Roy hiếm khi lên tiếng. Nhưng đồng minh, đối tác, luật sư của Roy, đồng thời cũng là thành viên của hội đồng quản trị, Stanley Gold, đã bù đắp lại sự kiệm lời đó của ông. Suốt nhiều năm, Gold luôn kịch liệt phê phán phong cách điều hành cùng kết quả tài chính của công ty. Nhưng những lời chỉ trích của ông tại hội đồng giống như nước đổ lá khoai. Các thành viên hội đồng dường như luôn mù quáng ủng hộ Eisner. Những người không ủng hộ ông ta, như Andrea Van de Kamp và Reveta Bowers, đều đã bị thanh lọc. Những gì đã xảy ra với họ cũng là sự cảnh báo cho những người còn ở lại về những điều có thể xảy ra với những kẻ bất phục tùng. Roy đặc biệt nghi ngờ Bryson, bề tôi trung thành của Eisner, kẻ đã thay thế Gold làm chủ tịch ủy ban kiểm soát và sau đó đẩy ông ra khỏi ủy ban luôn. Bắt đầu từ tháng Chín năm ngoái, Gold đã gửi hàng loạt thư chỉ trích kết quả làm việc và chế độ lương thưởng của Eisner tới các thành viên hội đồng. Ông và Roy cho rằng những chỉ trích bằng văn bản sẽ khó mà bị tảng lờ, đồng thời cũng muốn làm rõ quan điểm của mình. Gần đây nhất, Gold và Roy đã phản đối khoản tiền thưởng 5 triệu đô la dành cho Eisner trong một năm mà thu nhập từ hoạt động kinh doanh của công ty giảm tới 25% còn giá cổ phiếu thì chạm mức đáy trong vòng 52 tuần. Vài ngày trước đó Bryson đã gọi cho Roy. “Tôi cần nói chuyện riêng với ông,” Bryson nói và khăng khăng đòi hẹn gặp tại một địa điểm kín đáo để không bị ai nhìn thấy. Roy đã đồng ý, dù cho rằng trong giọng nói của Bryson có âm vực của sự “chết chóc.” Ông lo sợ rằng những kẻ trung thành với Eisner đang cố loại trừ Gold. Không khí của các cuộc họp hội đồng gần đây đã trở nên ngày một căng thẳng. “Mình phải làm sao để bảo vệ ông ấy đây?” Roy băn khoăn về Gold khi bước vào quán rượu. Ông không thể hiểu nổi tại sao hội đồng lại muốn loại bỏ tiếng nói đối lập cuối cùng còn sót lại. Vừa gọi đồ uống xong, Bryson mở đầu ngắn gọn rồi đi thẳng vào vấn đề. “Ông biết đấy, Roy, ông đã quá tuổi nghỉ hưu rồi đó,” Bryson nói. Roy sửng sốt trước sự thẳng thắn của Bryson, ông lẩm bẩm điều gì đó không rõ nghĩa. Phải, về mặt nguyên tắc là như vậy, bởi tuổi về hưu quy định là 72, mà Roy thì đã 73. Nhưng nó không áp dụng với các thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm các chức vụ điều hành trong công ty, mà ông lại là trưởng bộ phận phim hoạt hình. Disney nổi tiếng một phần cũng vì rất nhiều nhân viên có tuổi đời cao. “Ủy ban đã họp,” Bryson tiếp lời, “Tom Murphy và Ray Watson sẽ rút lui.” Murphy, cựu chủ tịch Capital Cities/ABC, đã tham gia hội đồng quản trị sau khi Disney mua lại ABC vào năm 1995; còn Watson, chủ tịch của Disney trước khi Eisner nhận chức vào năm 1984, là thành viên thâm niên nhất tại hội đồng, chỉ sau Roy. Cả hai đều đã quá tuổi 72. Roy không ngạc nhiên về chuyện đó bởi họ đều đã cho ông biết trước kế hoạch nghỉ hưu của mình. “Chúng tôi đã cùng kết luận là ông không nên tái tranh cử nữa,” Bryson nói. Roy nhìn ông ta mà không tin nổi vào mắt mình. Ông không nói nên lời. Ông cảm thấy như có một mũi dao đang đâm thẳng vào tim. Chưa một giây phút nào ông thoáng có ý nghĩ rằng hội đồng sẽ đi xa tới mức này. Không chỉ bởi ông vẫn là một trong những cổ đông lớn nhất của công ty, mà còn bởi ông đã cống hiến 50 năm cuộc đời mình cho Disney. Ông là mối dây liên hệ trực tiếp duy nhất với Walt trong hội đồng. Chú Walt từng kể truyện cổ tích và đọc “Pinocchio” cho ông nghe khi ông còn nhỏ. Chính cha ông và Walt đã cùng nhau gây dựng Disney. Có một sự im lặng ngượng ngùng. Cuối cùng Bryson nói, “Tôi từng phải nói điều tương tự với Warren Christopher,” ý nói tới cựu ngoại trưởng của tổng thống Bill Clinton khi ông này đến tuổi về hưu trong khi đang là thành viên hội đồng quản trị của Edison. “Anh tốt thật nhỉ?” Roy nói. “Đương nhiên, ông có thể là thành viên danh dự suốt đời,” Bryson nói. “Chúng tôi vẫn muốn ông xuất hiện tại các công viên hay các sự kiện đặc biệt…” Roy cắt lời Bryson bằng tiếng cười lớn. Nghĩa là họ vẫn muốn phô trương ông giống như một nhân vật hoạt hình của Disney. Thật là một sự sỉ nhục! Lại một hồi im lặng kéo dài. Chẳng nghi ngờ gì là họ cho rằng ông sẽ ra đi lặng lẽ, ẩn giật tại lâu đài của mình ở Ai Len hay trên chiếc du thuyền cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng bất chấp tuổi tác, Roy vẫn thấy mình tràn đầy năng lượng cùng lòng quyết tâm. Suốt cuộc đời ông đã luôn bị đánh giá thấp. Chuyện này đã từng xảy ra rồi. Nhưng nó sẽ không thể lặp lại nữa. Ông chỉ còn một điều duy nhất để nói: “Anh đang mắc một sai lầm nghiêm trọng đấy,” ông nói khi nhìn thẳng vào Bryson. “Và anh sẽ phải hối hận vì đã làm thế.” Rồi ông đứng dậy và bước thẳng ra ngoài. Đó là một ngày cuối tháng Năm, trời rất trong xanh, ở trung tâm Florida. Mới 10 giờ sáng mà nhiệt kế đã chỉ đến 32 độ còn độ ẩm thì cũng ở mức tương tự. Chẳng cần vận dụng nhiều trí tưởng tượng thì cũng có thể tin rằng Disney’s Animal Kingdom, một trong bốn công viên giải trí theo chủ đề của Walt Disney World, thực ra đang nằm ở vùng châu Phi nhiệt đới. Goofy đang đứng ngay bên ngoài hàng rào, sẵn sàng tiến vào trong công viên. Giống như du khách tại các khu bảo tồn động vật hoang dã ở châu Phi mong mỏi được nhìn thấy một trong “Bộ Năm(3)” loài động vật nổi tiếng nhất nơi đây, khách tham quan Animal Kingdom cũng mong mỏi được trông thấy “Bộ Năm” ngôi sao của Disney – Mickey, Minnie, Donald, Pluto, và Goofy, các nhân vật hoạt hình nổi tiếng nhất và được xin chữ ký nhiều nhất. Goofy là một chú chó, đương nhiên, chú có lông, cái mõm dài, hai tai mềm mượt, bụng hơi phệ cùng đôi bàn chân lớn. Chú cũng là nhân vật cao lớn nhất trong Bộ Năm, những trên một mét tám. Hôm nay chú được hóa trang để trình diễn tại Animal Kingdom. Chú đội một chiếc mũ mềm vành rộng, giày đi bộ và tất, quần soóc màu vàng chanh in hình khủng long, áo sơ mi kẻ ca rô đỏ, dây đeo quần và khăn quàng cổ bằng vải ka ki. Điều mà nhiều người không nhận ra là tầm nhìn của Goofy rất hạn chế. Đôi tai dài khiến chú khó mà nhìn được sang hai bên, cái mũi quá khổ lại cản trở tầm nhìn phía trước. Thứ chú nhìn thấy nhiều nhất có lẽ là mặt đất ở quanh chân mình. May mắn thay, Goofy có hai người dẫn đường giúp chú bước vào trong công viên. Họ mở cửa và nhẹ nhàng đẩy chú về phía trước. Chú phải cúi thấp người mới bước lọt qua. Goofy không biết chắc mình đang ở đâu, nhưng chú nghe thấy những giọng nói vọng lại từ xa. Chú thấy hồi hộp. Chú có thể cảm thấy tim mình đang đập thình thịch. Chỉ vài giây sau, chú bắt đầu nghe thấy những tiếng reo hò: “Goofy kìa!” Chú nghe thấy nhiều giọng trẻ con hơn và còn thấy một vài đứa đang chạy lại phía mình. Chú vẫy vẫy tay và biểu diễn màn “đi bộ kiểu Goofy,”điệu bộ ngớ ngẩn vừa đi vừa nhảy cẫng lên đó là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của chú. Lũ trẻ lập tức bị mê hoặc! Chúng chạy tới đông hơn, các ông bố bà mẹ từ từ bắt kịp chúng ở đằng sau. Đột nhiên Goofy nhìn thấy một cô bé đang tiến dần về phía mình. Trông cô bé chỉ khoảng 5 hay 6 tuổi và có vẻ hơi sợ sệt. Khi tới nơi cô bé ngượng ngùng đưa ra cuốn sổ xin chữ ký và một cái bút. Goofy vụng về quặp lấy bút và ký vào một trang còn trống, cẩn thận kéo dài đuôi chữ f để nó luôn là nét nổi bật nhất làm nên chữ ký của Goofy. Thật là nhẹ nhõm khi chó không thể nói chuyện được. “Ôm Goofy đi con!” Một giọng người lớn cất lên. Cô gái nhỏ trông có vẻ hơi lo lắng, nhưng Goofy mở rộng cánh tay, và cô bé tiến đến sát gần chú. Chú trao cho cô bé một cái ôm dịu dàng. Thế rồi, trong một khoảnh khắc, Goofy nhìn thấy rõ gương mặt cô bé. Sự thẹn thùng tan biến, đôi mắt ánh lên niềm vui sướng và cả gương mặt như bừng sáng. Cô bé tựa vào lòng chú và đặt một nụ hôn lên cái mũi dài của chú. Ánh đèn dần tắt. Goofy ước mình có thể cởi bỏ đôi găng tay để gạt dòng nước mắt vừa chợt trào ra. Hay có lẽ đó chỉ là những giọt mồ hôi. Trong chốc lát, sự thẹn thùng của một đứa trẻ biến mất, thay vào đó là sự ngưỡng mộ và niềm vui sướng. Đó chính là thứ mà hầu hết các nhân viên của Disney đang nói đến khi họ dùng từ phép màu để mô tả công việc của mình. Đó cũng là lý do tại sao rất nhiều người đến đây làm việc từ khi còn là học sinh trung học hay sinh viên đại học, và rồi 20 năm sau vẫn còn ở lại. Đương nhiên, Goofy có thật. Đối với cô bé đó chú có thật, và đối với tôi thì giây phút ấy Goofy có thật. Tôi không còn là nhà văn hay nhà báo trong lớp hóa trang bằng đệm lót và bộ lông giả nữa. Tôi là Goofy. Mặc dù xuất hiện tại công viên giải trí trong vai trò một nhân vật hoạt hình là một phần của lớp học định hướng dành cho các nhà lãnh đạo cao cấp của Disney, nhưng chỉ sau khi chấp nhận vào vai Goofy tôi mới được biết rằng mình sẽ không được viết gì về chuyện đó, ít nhất không được tuyên bố hay ám chỉ rằng Goofy chỉ là một diễn viên được mặc bộ đồ hóa trang. Những người phụ trách các công viên giải trí đã áp đặt điều kiện này với tôi dựa trên nguyên tắc là ảo tưởng về sự tồn tại thực sự của các nhân vật hoạt hình của Disney không bao giờ được phép tiết lộ với bất kỳ ai. Lúc đầu tôi cho rằng chuyện này thật ngớ ngẩn. Bởi nó hiển nhiên như chuyện Ông già Noel không có thật và chắc chắn là tất cả mọi đứa trẻ khi lên 8 hoặc cùng lắm là 10 đều sẽ hiểu rằng bên trong những bộ đồ hóa trang đó là người thật. Nhưng những người làm việc trong các công viên giải trí vẫn cương quyết duy trì quy định đó, và đến khi gặp họ tôi mới hiểu tại sao. Gần như mọi thứ bên trong Disney World đều là ảo tưởng: xinh xắn hơn, sạch sẽ hơn, an toàn hơn, tốt đẹp hơn và vui vẻ hơn thế giới thực. Walt quả là thiên tài khi nhận ra rằng không chỉ có trẻ con mới muốn chạy trốn khỏi thực tại. Cũng giống như bất kỳ ảo thuật gia tài giỏi nào khác, bạn phải tin vào ảo tưởng, nếu không thì nó sẽ tan biến. Đó là niềm tin phổ biến mà rất nhiều người Mỹ vẫn say sưa ôm ấp, cho nên cái tên Disney mới có thể trở thành biểu tượng của văn hóa Mỹ được lý tưởng hóa trong đó những giấc mơ luôn trở thành sự thực. Nhưng cũng giống như rất nhiều thứ khác ở Disney, nguyên tắc này đã thay đổi trong vòng một năm rưỡi huyên náo sau buổi trình diễn đầu tiên của tôi tại Animal Kingdom. Sau khi Comcast Cooperation, một công ty truyền hình cáp khổng lồ có trụ sở ở Philadelphia tiến hành chiến dịch thù nghịch nhằm thâu tóm Disney vào tháng Hai năm 2004, Disney đã phải chịu đựng nhiều đòn tấn công ác ý của giới truyền thông. Một bài báo trên Wall Street Journal đã tiết lộ rằng tất cả các nhà lãnh đạo cấp cao của Disney đều đã xuất hiện tại các công viên giải trí trong trang phục của các nhân vật hoạt hình. Sau khi thông tin đó xuất hiện trên tờ tạp chí được phát hành rộng rãi trên toàn nước Mỹ, Eisner đã đồng ý là việc tôi giả vờ Goofy là có thật chẳng còn chút ý nghĩa nào nữa, và ông đã cho phép tôi mô tả trải nghiệm vào vai nhân vật hoạt hình này của mình. Tôi gặp Michael Eisner lần đầu tiên từ cách đây nhiều năm, trước khi tôi trở thành nhà báo. Năm 1978, tôi là một luật sư trẻ tại hãng luật lớn Cravath, Swaine & Moore có trụ sở ở New York, còn Eisner là chủ tịch hãng phim Paramount Pictures. Công ty của tôi đang đại diện cho kênh truyền hình CBS trong một vụ kiện chống độc quyền do Bộ Tư pháp khởi xướng, trong khi bên bị đơn là các kênh truyền hình cứ khăng khăng cho rằng họ chỉ phối hợp với nhau để giảm chi phí phải trả cho các chương trình mà các hãng phim Hollywood sản xuất. Các hãng phim Hollywood cũng chính là bên đã thúc đẩy vụ kiện và sẽ được hưởng lợi từ bất cứ thỏa thuận dàn xếp nào. Tôi được phân công phụ trách Paramount và giúp lấy lời khai của Eisner. Tôi vẫn nhớ hôm đến gặp ông tại xưởng phim Paramount ở Hollywood. Ông sở hữu một văn phòng rộng rãi trên tầng hai, có ban công phủ bóng mát của giàn dây leo. Dù bị một đám luật sư bao vây vặn hỏi, Eisner lại có vẻ tự tin và hài hước lạ thường, ông còn pha trò bằng những câu chuyện về mối quan hệ đôi khi căng thẳng của mình với chủ tịch của Paramount, Barry Diller. Ông tháo bỏ giày và ngồi thoải mái với đôi chân chỉ mang tất – cảnh tượng tôi chưa bao giờ thấy trong bất kỳ công ty luật nào ở New York. Mặc dù ở hai phía đối lập, Eisner vẫn tặng tôi vé tham dự buổi ghi hình chương trình “Mork & Mindy” tối hôm đó. Đây là một chương trình truyền hình đình đám của Paramount vào thời đó. Lần đầu tiên tôi được xem trực tiếp một buổi ghi hình của ngôi sao hài kịch Robin Williams. Trong thời gian giải lao khi các máy quay tạm nghỉ, Williams vẫn tiếp tục những đoạn độc thoại hài hước khiến khán giả trong trường quay cười ngất cho tới tận tờ mờ sáng. Tất cả những thứ đó hẳn đã gây ấn tượng lên tôi mạnh hơn nhiều so với lên Eisner. Cuối cùng chính phủ đã từ bỏ vụ kiện. Khi tôi hỏi Eisner ông có còn nhớ tôi cũng như buổi lấy lời khai đó hay không, ông đã không thể nhớ nổi chi tiết nào. Nhiều năm đã trôi qua, từ một nhà điều hành trẻ tuổi ở Paramount, ông đã trở thành vị chủ tịch đánh kính, thành công và giàu có của Disney. Khi ông gia nhập Disney vào năm 1984, cả công ty đang rệu rã, xưởng phim hoạt hình huyền thoại gần như hấp hối, còn tài sản của nó đang bị những kẻ thâu tóm dòm ngó hòng xé nhỏ để bán đi. Eisner không chỉ cứu vãn Disney, ông còn biến nó thành công ty giải trí hàng đầu thế giới và bảo vệ thương hiệu được công chúng vô cùng yêu mến. Tôi tiếp cận Eisner để đề nghị viết một cuốn sách về công ty vào năm 2001. Kể từ khi tham gia vào vụ kiện chống độc quyền chống lại các kênh truyền hình, ngành kinh doanh giải trí và Hollywood đã hấp dẫn tôi. Từng viết nhiều cuốn sách về thế giới tài chính phố Wall hay thế giới chính trị Washington, Hollywood dường như là trung tâm quyền lực và ảnh hưởng tiếp theo xứng đáng để tôi khai thác. Và với hình ảnh luôn được ngợi ca, những thành công nghệ thuật, chưa kể đến khá nhiều diễn biến kịch tính trong hoạt động kinh doanh thì dường như Disney là lựa chọn rõ ràng đối với tôi. Có thể đoán ngay là Eisner không hề hào hứng với ý tưởng đó. John Dreyer, khi đó là giám đốc quan hệ công chúng của Disney, thì lịch sự tiếp đón tôi nhưng không hề khuyến khích ý tưởng có một cuốn sách về Disney. Mặc dù vậy, khi tôi tiếp tục thu thập thông tin, Dreyer đã mời tôi tới gặp ông tại trụ sở của Disney ở Burbank. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Chiến Disney của tác giả James B. Stewart.
Cuộc Chiến Trong Phòng Họp - Al Ries & Laura Ries
Điều gì làm nên một CEO giỏi? Đó là người có tư duy mạnh về ngôn ngữ, logic và phân tích, những đặc điểm tiêu biểu của nhóm người chịu sự chi phối của bán cầu não trái. Điều gì làm nên một CMO giỏi? Đó là người có tư duy mạnh về hình ảnh, trực giác và tổng hợp, những đặc điểm tiêu biểu của nhóm người dễ chịu sự chi phối của bán cầu não phải. Từ sự khác biệt của 2 nhóm người này, hai doanh nhân nổi tiếng Al và Laura Ries mô tả chi tiết cuộc chiến giữa các nhà quản lý và nhà marketing, cùng những dẫn chứng cụ thể về cách quyết định của họ đã ảnh hưởng như thế nào sự phát triển của thương hiệu/ dòng sản phẩm, thậm chí là sự suy vong của nhiều thương hiệu/ dòng sản phẩm/ công ty/ tập đoàn. Bằng cách sử dụng những thương hiệu và sản phẩm nổi tiếng trên thế giới để minh hoạ cho lập luận của mình, hai tác giả đã thật sự thuyết phục người đọc trong việc chỉ ra lý do tại sao một số thương hiệu thành công (Nokia, Nintendo, và Red Bull) còn một số thương hiệu thất bại (Saturn, Sony và Motorola). Và như vậy, hai tác giả đã đưa ra một thông điệp rõ ràng: để tồn tại trong xã hội tràn ngập truyền thông ngày nay, nhà quản lý cần biết cách tư duy giống nhà marketing và ngược lại. Với lối viết phóng khoáng và lôi cuốn người đọc của Al và Laura Ries, cuốn sách Cuộc Chiến Trong Phòng Họp đã mang đến một cái nhìn hoàn toàn mới về một vấn đề muôn thuở, cũng như chỉ ra kế hoạch hành động cho những công ty muốn thoát khỏi bế tắc và bắt đầu gặp hái thành công. *** Sự khác biệt trong suy nghĩ của dân marketing & các giám đốc điều hành Trong kinh doanh hiện đại, thường xuyên xuất hiện sự xung đột về quan điểm giữa các giám đốc điều hành và giám đốc marketing. Tại Mỹ, hàng loạt chương trình marketing trong ngành ô tô, hàng không và nhiều ngành khác đều không hiệu quả, thậm chí sa lầy và thất bại. Còn tại Việt Nam, giới marketing thì phàn nàn về quyết định của những giám đốc khi không đánh giá cao sự sáng tạo của họ. Ngược lại, các giám đốc hay chỉ trích những người làm marketing hoạt động kém hiệu quả. Tại sao nhà quản lý và nhà marketing lại luôn xung đột như vậy? Họ không hiểu nhau bởi do cách suy nghĩ khác nhau. Các giám đốc thường là người có tư duy mạnh về ngôn ngữ, logic và phân tích – những đặc điểm tiêu biểu của nhóm người chịu sự chi phối của bán cầu não trái. Còn người làm marketing là người có tư duy mạnh về hình ảnh, trực giác và tổng hợp – những đặc điểm tiêu biểu của nhóm người chịu sự chi phối của bán cầu não phải. Đó là một lý giải thuyết phục của Al và Laura Ries trong cuốn sách rất hấp dẫn này. Al Ries và con gái Laura Ries là hai trong số các chuyên gia tư vấn tiếp thị nổi tiếng nhất thế giới hiện nay. Công ty Ries & Ries đang tư vấn cho nhiều công ty thuộc danh sách Fortune 500. Mới đây, Al Ries còn được đánh giá là một trong 10 bậc thầy về kinh doanh hàng đầu thế giới của Mạng điều hành Marketing Group. Laura là một bình luận viên truyền hình thường xuyên và đã xuất hiện trên các kênh Fox News và kênh Fox Business, CNN, CNBC, PBS, ABC, CBS… Tiếp theo các cuốn sách rất độc đáo, đầy ắp những lập luận và thông tin 22 quy luật bất biến trong xây dựng thương hiệu, Nguồn gốc nhãn hiệu, Tập trung để khác biệt, Alpha Books xin giới thiệu với độc giả cuốn sách mới nhất của hai cha con nhà Ries – những chuyên gia hàng đầu về thương hiệu trên thế giới. Bất cứ cuốn sách nào mang thương hiệu Ries cũng đều trở thành những cuốn sách được giới kinh doanh trên thế giới tìm đọc và Cuộc chiến trong phòng họp không phải là ngoại lệ. Cuốn sách viện dẫn rất nhiều câu chuyện về các thương hiệu trên thế giới nổi tiếng nhất và các sản phẩm để minh họa cho lập luận của mình: tại sao một số thương hiệu lại thành công (Nokia, Nintendo, và Red Bull) trong khi các thương hiệu đối thủ lại ngày càng suy giảm (Motorola, Sony, và Saturn). Hơn thế, các tác giả không ngần ngại đánh giá và đưa ra dự đoán về các thương hiệu nổi bật hiện nay như Google và Amazon... Thông điệp rất rõ ràng của cuốn sách là để tồn tại trong xã hội tràn ngập truyền thông ngày nay, nhà quản lý cần biết cách tư duy giống nhà marketing và ngược lại. Với lối viết phóng khoáng và lôi cuốn người đọc, câu văn ngắn gọn, đầy sự kiện của Al và Laura Ries, cuốn sách Cuộc chiến trong phòng họp đã mang đến một cái nhìn mới về một vấn đề muôn thuở, đồng thời chỉ ra kế hoạch hành động cho những công ty muốn thoát khỏi bế tắc và bắt đầu gặp hái thành công. Xin trân trọng giới thiệu tới độc giả cuốn sách rất thú vị này! Tháng 1/2011 CÔNG TY SÁCH ALPHA Mời các bạn đón đọc Cuộc Chiến Trong Phòng Họp của tác giả Al Ries & Laura Ries.