Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuốn Sách Tiên Tri

"Trong cuốn tiểu thuyết tuyệt vời này, một Erika Swyler đầy tài hoa  đã xuyên suốt qua nhiều thế hệ và nhiều thế kỷ, dịch chuyển một cách khéo léo và dệt các mạch truyện thành một tấm thảm tuyệt đẹp. Tôi ngay tức khắc hòa mình vào trong câu chuyện gia đình đầy thủ đoạn và bất hòa. Văn chương của Swyler hoa mỹ và thanh tao tới mức vô cùng dễ hiểu, tỏa sáng hệt như giọng nói đặc biệt của bà - cách miêu tả của bà về biển và vẻ hung hãn của nó có thể sánh ngang với Annie Proulx trong tác phẩm Shipping News. Tôi thực sự yêu thích cuốn sách này và đã ngấu nghiến đọc một mạch từ đầu đến cuối"  - Trích lời Sara Gruen, tác giả cuốn Water for Elephants; At the Water's Edge - *** Văn học giả tưởng, ma mị là một thể loại cực kỳ thu hút độc giả. Mời các bạn đón đọc review Cuốn sách tiên tri – một câu chuyện cực hot trong thể loại trên. “Trong khi Peabody vẽ và mơ ước, hàng xe vẫn đi theo con đường quanh co chạy theo chiều dài Catawba. Trục xe rên rỉ phản kháng, những cánh cửa xe đóng sập lại và bị kẹt, không khí ẩm ướt khác thường bao trùm lên cả gánh xiếc khi họ mù quáng đi vào trong sương mù.” Cuốn sách tiên tri có cái ma mị của ‘Rạp xiếc đêm’, cũng có chút bất cần tuổi trẻ của ‘Những thành phố giấy’. Cái ma mị bí ẩn trong hình ảnh ngôi nhà bên vách đá gắn với những kỉ niệm, hiệu sách cũ, lửa trại, những lá bài tarot, gánh xiếc, người cá, cuốn sách cổ, những cái chết.. tất cả góp phần tạo nên một không gian truyện bí ẩn và cuốn hút. Đan xen vào đó là những khao khát, ước mơ và cả tình yêu của những con người trẻ tuổi, những con người mang trong mình những đam mê nồng cháy và cảm xúc bùng nổ khi đối diện với người họ thương yêu. Bằng cách kể chuyện song song ở hai khoảng thời gian hiện tại và quá khứ, tác giả như đang thì thầm những bí mật về những con người xa lạ hóa ra lại có mối liên hệ gắn bó và bị thu hút về phía nhau vậy. Tớ rất thích cách viết gắn kết những con người tưởng chừng không chút liên quan, mà qua ngòi bút của tác giả, sợi dây liên kết giữa họ rõ ràng hơn và kì diệu hơn rất nhiều. Không chỉ có vậy, đây còn là câu chuyện về tình cảm gia đình gắn bó, những kỉ niệm đã qua vẫn còn lưu lại trong kí ức tuổi thơ của những kẻ trưởng thành cô đơn, hay những day dứt về sự bồng bột và những hành động trong quá khứ vẫn xuất hiện trong tâm trí họ. Liệu người thân hay chính bản thân họ có dám đối diện với những sai lầm ngày còn trẻ, có thể bằng lòng tha thứ hay không? Bên cạnh đó thì đôi lúc mạch truyện cũng hơi chậm, cảm giác như tác giả cũng đang băn khoăn tìm hướng đi cho nhân vật vậy. Tớ cũng không thích vài chi tiết tình cảm người lớn trong cuốn này, cứ thấy cái gì đó không hợp câu chuyện lắm đâu. Chung lại thì đây là một cuốn khá ổn, nếu anh em muốn thử một cuốn bí ẩn ma mị mà không thiếu đi sự sâu lắng của tình cảm con người thì tớ nghĩ đây sẽ là một câu chuyện phù hợp đó. Cuốn sách tiên tri xoay quanh Simon Watson, anh chàng thủ thư vừa mất việc, rơi vào chán chường vì mất việc đồng nghĩa với không có tiền sửa sang lại căn nhà thơ ấu với bao kỉ niệm cùng bố mẹ và em gái Enola. Một ngày, Simon nhận được cuốn sách cổ từ chủ hiệu sách Churchwarry&son mà trong đó, anh chợt nhận ra những mối liên hệ bất ngờ và một sự trùng hợp kì lạ về những con người đặc biệt từ nhiều năm về trước. Trích dẫn Cuốn sách tiên tri: “Trong khi Amos mơ những giấc mơ của một Cậu bé Rừng xanh – có những đầm lầy dồi dào muông thú, có những đám rong rêu mềm mại để anh ngủ ngon lành trên đó, có sự sảng khoái của những dòng sông mát lạnh áp vào da thịt, có một cô gái đáng yêu trong nước, mái tóc bồng bềnh xung quanh như thảm cỏ – thì những giấc mơ của Evangeline lại u ám hơn nhiều. Cô mơ đến việc bò ra khỏi ngôi nhà màu xám ở Kromeskill, đầu gối đẫm máu, bùn đóng cứng lại cùng với lá thông. Lúc nào bà cô cũng đi theo cô, khuôn mặt tím tái, cầu xin lòng nhân từ và sự cứu giúp. Tại sao? Tại sao? Bà rất yêu cháu. Gánh xiếc đang rời Philadelphia để đến những ngôi nhà gạch có đầu nhọn ở New Castle thì bầu trời nổi gió và mưa trút xuống đe doạ sẽ cuốn trôi cả bầy thú. Con ngựa nhỏ đá chân và lồng lên bên trong xe ngựa của mình, con lạc đà rít lên như một đứa trẻ bị thương. Lo sợ rằng việc cố gắng đi tiếp sẽ khiến chúng bị sa lầy, Peabody lệnh cho tất cả các cỗ xe dừng lại cho đến khi mưa tạnh. Màn đêm buông xuống với hơi nóng dày đặc buộc mọi người phải lên giường đi ngủ. Không khí nặng nề với những đám mây mưa, bầu trời như một quả cân kéo Evangeline xuống như bà của cô đã từng làm. Cô ngủ một giấc ngủ bồn chồn, không yên vì tội lỗi.” Với Cuốn sách tiên tri, tớ chấm 4/5 điểm. *** Ngôi nhà cheo leo bên rìa dốc thẳng đứng trông thật nguy hiểm. Cơn bão đêm qua đã cày tung đất, khuấy đảo vùng biển, khiến bãi biển đầy rẫy chai lọ, rong biển, mai cua hình móng ngựa. Mảnh đất tôi đã sống cả cuộc đời này không chắc có thể trụ qua được mùa bão. Eo biển Long Island rải rác tàn tích của những ngôi nhà và những mảnh đời, tất cả bị chôn vùi trong cái dạ dày tham lam của cát. Nó là một kẻ chết đói. Các biện pháp như xây vách ngăn, tôn nền cao đều không có. Sự thờ ơ của bố đã khiến tôi phải gánh chịu một vấn đề không thể giải quyết, một vấn đề quá tốn kém với một thủ thư ở Napawset. Nhưng, những thủ thư chúng tôi nổi tiếng là có tài xoay xở. Tôi đi về phía những bậc thang gỗ dẫn xuống vách đá. Chân tôi đau nhói ở nơi đá găm vào. Ở bờ biển Bắc này, có một vài thứ cần thiết hơn là bàn chân chai cứng. Vào mùa hè, tôi và em gái Enola thường chạy chân đất cho đến khi vỉa hè nóng ran đến nỗi ngón chân chúng tôi lún xuống nhựa đường. Người ngoài không thể đi bộ trên những bờ biển thế này. Frank McAvoy vẫy tay với tôi từ dưới chân bậc thang trước khi quay ra nhìn chằm chằm vào vách đá. Ông mang theo con thuyền nhỏ xinh xắn, trông như thể được đục đẽo từ một tấm gỗ duy nhất. Frank McAvoy là thợ đóng thuyền gỗ và là một người tốt bụng, đã quen biết gia đình tôi trước cả khi tôi chào đời. Khi cười, khuôn mặt ông hằn lên những nếp nhăn loang lổ của một người Ireland bao năm dãi dầm mưa nắng; cặp lông mày cong lên trên và mất hút dưới vành mũ cũ kỹ. Nếu bố tôi sống đến sáu mươi tuổi, có thể trông ông sẽ giống như Frank, với hàm răng vàng khè và những vết tàn nhang ửng đỏ. Nhìn vào Frank, tôi lại nhớ đến tôi hồi trẻ thơ, đang bò giữa những thanh củi được xếp để đốt lửa trại, bàn tay to lớn của ông kéo tôi khỏi một khúc gỗ đang lung lay. Ông khiến tôi nhớ lại những kỷ niệm về bố, khi ông đang loanh quanh với món lợn quay, ngô nướng, mùi vỏ khô cháy thành than và mùi lụa cháy, trong khi Frank tiêu khiển cho chúng tôi bằng những câu chuyện đi câu. Frank có biệt tài nói dối như thần, đó là điều rất rõ ràng. Mẹ tôi và vợ ông ấy giục ông kể tiếp, tiếng cười của họ khiến cho lũ mòng biển cũng phải khiếp sợ. Hai người họ giờ đã không còn nữa. Tôi nhìn Frank và thấy bố mẹ tôi, tưởng tượng rằng ông không thể nhìn tôi mà không thấy những người bạn đã mất. - Có vẻ như cơn bão đã ảnh hưởng nhiều đến cháu đó. - Ông nói. - Cháu biết. Cháu mất một mét rưỡi. - Một mét rưỡi là đã nói giảm nói tránh rồi. - Bác đã bảo bố cháu phải dựng kè, trồng thêm cây. - Nhà ông McAvoy cách nhà tôi vài trăm mét về phía tây, nằm xa biển, với một cái dốc đứng có bậc thang và cây trồng, được thiết kế để bảo vệ ngôi nhà trong bất cứ hiểm nguy nào. - Bố cháu không bao giờ biết lắng nghe cả. - Đúng thế. Ngoài ra thì một hay hai miếng che trên kè có lẽ đã có thể cứu cháu khỏi một biển rắc rối. - Bác biết bố cháu thế nào mà. - Sau đó là một khoảng lặng đầy cam chịu. Frank hít không khí qua kẽ răng, tạo ra một tiếng huýt sáo khô khốc. - Bác cho rằng bố cháu nghĩ ông ấy có nhiều thời gian hơn thế để sửa chữa mọi thứ. - Có lẽ vậy. - Tôi nói. Ai mà biết được bố tôi đã nghĩ gì. - Dù vậy, mấy năm nay, nước đã lên cao. - Cháu biết, cháu không thể để việc này tiếp diễn lâu hơn được nữa. Nếu bác quen một ai đó mà bác tin tưởng, cháu sẽ rất cảm kích nếu được bác cho biết tên của một nhà thầu. - Chắc chắn rồi. Bác có thể gửi người đến chỗ cháu. - Ông gãi đầu - Nhưng bác không muốn nói dối, tiền công sẽ không rẻ đâu. - Không còn gì khác nữa phải không bác? - Không, bác nghĩ là không. - Cháu có thể xem xét bán một số thứ. - Thật buồn khi thấy cháu làm việc đó. - Vầng trán Frank nhăn lại, khiến chiếc mũ sụp xuống. - Đất đai còn có chút giá trị ngay cả khi ngôi nhà biến mất. - Hãy suy nghĩ thêm. Frank biết vấn đề tài chính eo hẹp của tôi. Cô con gái Alice của ông cũng làm việc tại thư viện. Tóc hoe đỏ và xinh xắn, Alice có nụ cười của bố và cô ấy rất biết cách lấy lòng bọn trẻ. Alice biết cách giao thiệp với mọi người hơn tôi, đó là lý do tại sao cô ấy làm nhiệm vụ thiết lập chương trình, còn tôi làm công việc tra cứu. Nhưng chúng tôi không ở đây để nói về Alice, hay tình trạng nguy hiểm của căn nhà. Chúng tôi ở đây để làm công việc chúng tôi đã làm suốt một thập kỷ qua, thả phao để cách ly một vùng ngập nước. Cơn bão đủ mạnh để kéo phao và mấu neo vào bờ, để lại một đống những dây xích han gỉ và dây thừng bện màu cam, san sát những hàu. Tôi thấy hơi ngạc nhiên khi bị mất đất. - Chúng ta đi chứ? - Tôi hỏi. - Tại sao không? Thời gian không còn dài nữa. Tôi cởi áo, nhấc dây xích và dây thừng lên một bên vai, rồi chầm chậm bước xuống nước. - Có chắc là cháu không cần giúp một tay không? - Frank hỏi. Con thuyền đã chạm mặt cát khi ông đẩy nó xuống nước. - Dạ không, cảm ơn bác, cháu làm được. - Tôi có thể tự mình làm việc này, nhưng có Frank đi theo vẫn an toàn hơn. Ông ở đây không phải vì tôi, mà là vì cái lý do đã khiến tôi làm việc này vào mỗi năm: để tưởng nhớ mẹ tôi, Paulina, bà đã chết đuối ở vùng nước này. Eo biển thật lạnh lẽo vào tháng 6, bước xuống tôi hòa mình vào nó, bàn chân tôi quắp vào nhũng hòn đá bám đầy tảo biển. Dây xích có móc neo khiến tôi chậm lại, nhưng Frank vẫn duy trì tốc độ, xoay tròn mái chèo. Tôi bước đi cho đến khi nước ngập đến ngực, rồi đến cổ. Ngay trước khi lặn xuống, tôi thở hết ra, rồi hít vào, như mẹ tôi đã hướng dẫn tôi trong một buổi sáng ấm áp vào cuối tháng 7, như tôi đã hướng dẫn em tôi. Mẹo để nín thở là chịu khát. “Thở một hơi thật nhanh và mạnh,” mẹ tôi nói, giọng bà êm ái bên tai. Ở vùng nước nông, mái tóc đen dài của mẹ trôi quanh chúng tôi tựa một dòng sông. Hồi đó tôi năm tuổi. Bà ấn bụng tôi cho đến khi các cơ thắt chặt vào, rốn gần chạm xương sống. Bà đẩy mạnh, móng tay sắc nhọn chọc vào tôi, “Bây giờ con hãy hít vào, nhanh. Nhanh, nhanh, nhanh. Xương sườn căng ra. Nghĩ rộng ra.” Bà hít vào, lồng ngực mở rộng, những chiếc xương mảnh như xương chim bành ra cho đến khi bụng bà tròn như cái thúng. Bộ áo tắm của bà là một ánh sáng trắng rạng rỡ trong nước. Tôi nheo mắt nhìn. Bà xỉa một ngón tay vào xương ức tôi. “Con đang thở ra đấy, Simon. Nếu con thở ra, con sẽ chết đuối.” Một cái chạm khẽ khàng. Một nụ cười mỉm. Mẹ bảo tôi hãy tưởng tượng rằng tôi đang khát, cổ họng khô khốc và trống rỗng, rồi uống không khí vào. “Hãy thư giãn xương cốt và uống vào thật nhiều, thật sâu.” Khi bụng tôi đã tròn như chiếc trống cái, bà thì thầm, “Tuyệt, tuyệt. Bây giờ chúng ta lặn xuống nào.” Lúc này tôi lặn xuống. Những tia nắng mềm mại xuyên xuống quanh bóng chiếc thuyền của Frank. Thỉnh thoảng, tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi, đang trôi giạt trong làn nước, và thỉnh thoảng tôi thoáng thấy bà, phía sau lớp rong biển, mái tóc đen hòa lẫn với tảo bẹ. Hơi thở của tôi biến thành một màn sương đẹp đẽ bao phủ lên làn da. Mẹ tôi là một diễn viên ở rạp xiếc và lễ hội, người bói bài tarot, trợ lý ảo thuật gia, và người cá, chuyên sống bằng cách nín thở. Bà dạy tôi bơi như cá, và bà khiến bố tôi mỉm cười. Bà thường xuyên biến mất. Bà thường bỏ việc hoặc làm đồng thời hai hay ba việc một lúc. Bà ở khách sạn chỉ để thử những chiếc giường khác nhau xem chúng như thế nào. Bố tôi, Daniel, là một thợ máy và là một người chồng chung thủy. Ông ở nhà, mỉm cười, đợi vợ trở về, đợi bà gọi ông là anh yêu. Simon, con yêu. Bà cũng gọi tôi như vậy. Tôi lên bảy tuổi vào ngày bà gieo mình xuống nước. Tôi cố quên, nhưng nó đã trở thành kỷ niệm thân thương nhất của tôi về bà. Bà đã bỏ chúng tôi sau khi chuẩn bị xong bữa sáng. Trứng luộc chín phải được đập vào cạnh đĩa và phải dùng móng tay để bóc vỏ. Tôi đập và bóc trứng cho em gái, cắt chúng thành miếng cho vừa những ngón tay nhỏ xíu của đứa trẻ mới chập chững biết đi. Có bánh mì nướng khô và nước cam đi kèm. Những giờ đầu điên của mùa hè khiến bóng tối trở nên tối hơn, khuôn mặt trở nên sáng hơn và chỗ hõm trở nên góc cạnh hơn. Mẹ Paulina là một cảnh tượng đẹp trong sáng hôm đó, vô cùng duyên dáng, không ai sánh bằng. Bố tôi đang làm việc ở nhà máy. Chỉ có mẹ ở nhà với chúng tôi, quan sát, và gật đầu khi tôi cắt trứng cho Enola. - Con là một người anh tốt, Simon à. Con hãy trông chừng Enola. Con bé sẽ muốn chạy trốn khỏi con. Hãy hứa với mẹ rằng con sẽ không để em đi. - Con hứa. - Con là một chàng trai tuyệt vời, phải không? Mẹ không bao giờ trông chờ điều đó. Mẹ không trông chờ điều đó ở con một chút nào. Quả lắc trên chiếc đồng hồ chim cu tích tắc qua lại. Bà gõ một gót giày lên tấm vải son lót sàn nhà, yên lặng. Enola bôi đầy trứng và mảnh bánh mì vụn lên người. Tôi vật lộn với việc vừa ăn sáng, vừa giữ cho em gái tôi sạch sẽ. Một lát sau, mẹ đứng dậy và vuốt thẳng vạt trước của chiếc váy mùa hè màu vàng bà đang mặc rồi nói: - Gặp lại con sau nhé, Simon! Tạm biệt Enola! Bà hôn lên má Enola và áp môi lên đỉnh đầu tôi. Bà vẫy tay tạm biệt, mỉm cười và đi làm, tôi đã nghĩ như vậy. Làm sao tôi có thể biết được lời tạm biệt đó lại chính là lời vĩnh biệt. Những suy nghĩ khó khăn chất chứa trong những lời nói nhỏ bé. Khi bà quan sát tôi trong buổi sáng hôm đó, bà biết rằng tôi sẽ chăm sóc cho Enola. Bà biết chúng tôi không thể theo bà. Đó là thời gian duy nhất bà có thể đi. Không lâu sau đó, khi tôi và Alice McAvoy đang đua xe trên chiếc thảm trải sàn phòng khách nhà cô ấy, mẹ tôi đã trẫm mình xuống eo biển. Tôi lao xuống nước, đẩy nước bằng ngực, thọc chân sâu xuống. Sau khi đã lặn thêm vài mét nữa, tôi thả một cái neo, nó rơi xuống với một tiếng vang nghẹt lại. Tôi nhìn vào bóng của chiếc thuyền. Frank đang lo lắng. Mái chèo đập xuống mặt nước. Hít thở dưới nước sẽ như thế nào nhỉ? Tôi tưởng tượng khuôn mặt méo mó của mẹ tôi, nhưng vẫn tiếp tục đi cho đến khi tôi có thể thả một cái neo khác, và rồi tôi đẩy hết không khí ra khỏi phổi và bước về phía bờ, cố gắng ở phía dưới lâu nhất có thể - đó là một trò chơi mà tôi và Enola đã thường chơi. Tôi chỉ bơi khi không thể giữ nổi thăng bằng để bước đi, sau đó cánh tay tôi di chuyển thành những sải bơi ổn định, cắt qua eo biển như một trong những chiếc thuyền của Frank. Khi nước vừa đủ sâu để ngập đầu, tôi lại chạm xuống dưới đáy. Điều tiếp theo tôi làm là vì Frank. “Chậm thôi, Simon. Hãy mở mắt ra, ngay cả khi con thấy cay mắt. Không được chớp mắt.” Mẹ bảo tôi. Muối làm cho mắt đau nhói nhưng mẹ không bao giờ chớp mắt, không chớp mắt trong nước, không chớp mắt khi không khí bắt đầu đập vào mắt mẹ. Bà đang di chuyển như một bức tượng. “Đừng có thở, ngay cả khi mũi con đã ở phía trên mặt nước. Nếu con hít thở quá nhanh, miệng con sẽ đầy muối. Hãy đợi,” Mẹ nói, kéo dài từ này như một lời hứa. “Đợi cho đến khi miệng con đã lên khỏi mặt nước, nhưng hãy hít thở bằng mũi, hay trông như con bị mệt. Con không bao giờ có thể bị mệt. Rồi con mỉm cười.” Dù miệng nhỏ và môi mỏng nhưng nụ cười của bà luôn căng rộng ra như làn nước. Mẹ chỉ cho tôi cách cúi chào đúng đắn: cánh tay giơ cao, ngực ưỡn ra, như một con sếu chuẩn bị bay. “Đám đông thích những người rất nhỏ và rất cao. Đừng gập cong người như một diễn viên, điều đó sẽ ảnh hưởng đến con. Hãy để họ nghĩ rằng con cao hơn thực chất của mình. Mẹ mỉm cười với tôi khi đang giơ cao cánh tay bà. “Và con sẽ rất cao, Simon à.” Một cái gật đầu căng hết cỡ tới những khán giả vô hình. “Và con hãy thật duyên dáng, Hãy luôn luôn duyên dáng.” Tôi không cúi chào, không phải vì Frank. Lần cuối cùng tôi cúi chào là khi tôi dạy Enola và muối đâm vào mắt chúng tôi đau đến nỗi trông chúng tôi như thể mới đánh nhau. Dù vậy, tôi vẫn mỉm cười và hít một hơi thật sâu qua mũi, để cho xương sườn giãn ra và lồng ngực căng đầy. - Bác nghĩ là bác sẽ phải theo sau cháu. - Frank gọi. - Cháu ở dưới bao lâu rồi bác? Ông nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay bằng dây da đã rạn và thở ra: - Chín phút. - Mẹ cháu có thể làm được mười một phút. - Tôi giũ nước khỏi tóc, đập đập hai lần để nước ra khỏi tai. - Không bao giờ hiểu được điều đó. - Frank thốt lên khi lôi mái chèo ra khỏi khóa. Chúng kêu loảng xoảng khi ông ném chúng vào thuyền. Có một câu hỏi mà cả hai chúng tôi đều không hỏi: mất bao lâu để một người nín thở bị chết đuối? Khi tôi mặc áo, nó đầy cát, đó là hậu quả của việc sống ở bờ biển, cát luôn có trong tóc, dưới móng chân, trong những nếp khăn trải giường. Frank đi đến sau tôi, thở hổn hển vì kéo thuyền. - Lẽ ra bác nên để cháu giúp việc đó. Ông vỗ lưng tôi: - Nếu thỉnh thoảng bác không vận động thì bác sẽ chỉ có già đi thôi. Chúng tôi nói chuyện phiếm về mọi thứ ở bến du thuyền. Ông phàn nàn về sự thịnh hành của những chiếc thuyền bằng sợi thủy tinh, cả hai chúng tôi đều lan man về Windmind, chiếc thuyền đua mà ông và bố tôi cùng sở hữu. Sau khi mẹ tôi chết đuối, bố tôi chẳng nói chẳng rằng đã bán luôn chiếc thuyền đó đi. Ông thật tàn nhẫn khi làm vậy với Frank, nhưng tôi cho rằng Frank đã có thể mua được nó ngay tức khắc nếu ông muốn vậy. Chúng tôi tránh không nói chuyện về ngôi nhà, dù rõ ràng là ông buồn rầu với ý tưởng bán nó đi. Tôi cũng không muốn bán nó. Thế nên chúng tôi cùng trao đổi những lời nhận xét hài hước về Alice. Tôi nói tôi đang để ý đến cô ấy, dù điều đó là không cần thiết. - Thế còn em gái cháu thì sao? Nó đã ổn định ở đâu chưa? - Cháu không rõ. Thật ra mà nói, cháu không biết liệu nó có từng muốn vậy không. Frank khẽ mỉm cười. Cả hai chúng tôi đều nghĩ về điều đó: Enola cũng hoạt bát như mẹ tôi. - Vẫn đang bói bài tarot à? -Nó đang xoay sở với công việc đó. - Em tôi đã bỏ đi cùng với một gánh xiếc. Khi nói ra điều này, chúng tôi đã kết thúc cuộc hội thoại tất yếu. Chúng tôi lau khô và nhấc chiếc thuyền nhẹ trở lại cái kè. - Bác sẽ lên chứ? Cháu sẽ đi bộ về với bác. - Tôi nói. - Hôm nay trời thật đẹp. Bác nghĩ là bác sẽ ở đây thêm một lát nữa. - Nghi thức đã xong. Chúng tôi đi theo hai hướng khác nhau khi chúng tôi đã dìm chết hồn ma của chính mình. Tôi bước lên những bậc thang trở lại, tránh cây thường xuân độc leo lên rào chắn và mọc dày đặc trên dốc đứng - không ai kéo nó xuống, bất cứ thứ gì bám chặt vào cát xứng đáng với bất cứ tội lỗi nào nó đem lại - Và cắt qua đám cỏ biển, hướng về nhà. Giống như rất nhiều ngôi nhà ở Napawset, nhà của tôi là một thuộc địa thực sự, được xây dựng vào cuối những năm 100. Có một tấm bảng từ xã hội lịch sử được treo cạnh cửa trước cho đến khi nó bị thổi bay mất trong một cơn gió đông bắc vài năm trước. Ngôi nhà Timothy Wabash. Với màu sơn trắng bong tróc, bốn cửa sổ vặn vẹo, và một bậc thang dốc, vẻ bề ngoài của ngôi nhà cho thấy nó đã bị lãng quên từ lâu và thiếu tiền tu bổ trầm trọng. Trên bậc thang trước màu xanh lá bạc màu (phải nói đến điều đó) là một gói đồ được dựng mở trên cửa lưới. Người giao hàng luôn để cửa mở dù đã vô số lần tôi để lại lời nhắn là không được như vậy, tôi phải treo lại một cánh cửa vào một ngôi nhà đã không vuông vức kể từ ngày nó mới được xây. Tôi không đặt món hàng nào và không thể nghĩ được ai có thể gửi cho tôi món gì. Enola hiếm khi ở một nơi nào đủ lâu để gửi thư mà chỉ gửi một tấm bưu thiếp. Ngay cả nếu có vậy, chúng cũng thường trống trơn. Gói hàng nặng, kỳ cục, và được đề địa chỉ bằng những nét chữ nguệch ngoạc, khẳng khiu của một người lớn tuổi - một kiểu mà tôi đã quen thuộc, vì khách quen của thư viện chủ yếu là một nhóm những người lớn tuổi. Điều đó nhắc tôi rằng, cần phải nói chuyện với Janice về việc kiếm thêm một khoản trong ngân sách của thư viện. Mọi thứ sẽ không quá tồi nếu tôi có thể đắp kè. Không cần phải tăng lương, chỉ cần một khoản tiền thưởng vào một dịp nào đó, vì thâm niên làm việc. Người gửi là một ai đó tôi không biết, một người nào đó có tên là M. Churchwarry ở Iowa. Tôi dọn sạch một chồng giấy khỏi mặt bàn, đó là một vài bài báo về gánh xiếc và lễ hội, những thứ tôi đã sưu tầm trong những năm qua để bắt kịp cuộc sống của em gái tôi. Hộp đồ có chứa một cuốn sách khá lớn, được bọc cẩn thận. Dù chưa mở thì cái mùi mốc, hăng hăng cho thấy đó là mùi giấy, gỗ, da và keo dán cũ. Nó được gói trong tấm vải mỏng và giấy in báo, khi mở ra, nó là một bìa sách da màu tối trên đó có thể là những họa tiết xoắn phức tạp nếu nó không bị nước hủy hoại. Tôi cảm thấy hơi choáng váng. Nó rất cũ kĩ, không phải một cuốn sách có thể sờ mó bằng những ngón tay trần, mà nó như một thứ đã bị hư hỏng hoàn toàn, tôi hồi hộp chạm vào nó như chạm vào một cái gì đó của lịch sử. Mép trang giấy không bị hỏng mà còn thật mềm mại. Bộ sưu tập săn cá voi của thư viện đã khiến tôi lao mình vào công việc lưu trữ và phục chế, đủ để nói rằng quyển sách có cảm giác như đã tồn tại ít nhất từ những năm 1800. Đây là một sự sắp đặt, không phải một cuốn sách bạn chuyển đến mà không báo trước. Tôi xếp những tờ báo của mình thành hai chồng nhỏ để đỡ cuốn sách - sự thay thế đáng thương cho một cái giá sách nó đáng có được, nhưng như vậy cũng ổn. Có một lá thư được nhét bên trong bìa trước, được viết bằng mực nước cũng với nét chữ run rẩy đó. Cậu Watson thân mến, Tôi tình cờ thấy cuốn sách này tại một buổi đấu giá, nó nằm trong một mớ mà tôi đã mua để đầu cơ. Tình trạng hư hại của cuốn sách này cho thấy nó vô dụng với tôi, nhưng một cái tên bên trong nó - Verona Bonn - đã khiến tôi tin rằng nó có thể là mối quan tâm của cậu hay gia đình cậu. Đó là một cuốn sách thú vị và tôi hy vọng nó tìm được một ngôi nhà tuyệt vời với cậu. Làm ơn đừng do dự liên lạc với tôi nếu cậu có bất kỳ câu hỏi nào cậu cho rằng tôi có thể trả lời. Nó được ký bởi một ông Martin Churchwarry của Hiệu sách Churchwarry & Son nào đó, và có cả một số điện thoại đi kèm. Một người bán sách, chuyên về những cuốn sách cũ và sách cổ. Verona Bonn. Tên bà tôi xuất hiện trong cuốn sách này nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Là một người biểu diễn lưu động như mẹ tôi, bà sẽ không có thời gian cho một cuốn sách như thế này. Tôi khẽ lật một trang sách bằng mép ngón tay. Trang sách bên trong đầy những chữ viết phức tạp, một bản khắc đồng được trang trí với những nét cong bay bướm kì dị. Có vẻ như nó là một cuốn sách kế toán hay hành trình của một ông Hermelius Peabody nào đó, liên quan đến điều gì đó có chứa từ xách tay và phép màu. Bất cứ chi tiết nào khác để nhận dạng cũng rất khó đọc vì bị nước làm hư hại và vì sự cống hiến cho nghệ thuật viết chữ đẹp của ông Peabody. Tôi lướt qua thấy những bức phác họa về phụ nữ, nam giới, những tòa nhà, và những cỗ xe ngựa mái cong, tất cả đều màu nâu. Tôi chưa bao giờ biết mặt bà tồi. Bà mất khi mẹ tôi còn nhỏ, mà mẹ tôi thì chẳng bao giờ nói nhiều về bà. Tôi không rõ cuốn sách này có liên quan đến bà tôi không, tuy nhiên, điều đó cũng thật thú vị. Tôi quay số, lờ đi những âm thanh ám chỉ đó là một tin nhắn. Nó reo một hồi vô cùng lâu trước khi chuyển sang chế độ trả lời tự động và giọng nói già nua của một người đàn ông nói rằng tôi đã gọi đến Hiệu sách Churchwarry & Son, hướng dẫn tôi nhắn lại ngày và thời gian ngoài một lời nhắn chi tiết về bất kỳ cuốn sách cụ thể nào mà tôi đang tìm kiếm. Chữ viết tay không nói dối. Đây là một ông lão. Mời các bạn đón đọc Cuốn Sách Tiên Tri của tác giả Erika Swyler.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cây Bách Buồn - Agatha Christie
Agatha Christie được mệnh danh là "Nữ hoàng truyện trinh thám" với số lượng tác phẩm được xuất bản nhiều nhất mọi thời đại, chỉ xếp sau Kinh Thánh và Shakespeare. Tại Việt Nam, nhiều thế hệ độc giả đã đọc và say mê sách của bà. Sách của Agatha có mặt trong nhiều tủ sách gia đình, được thế hệ này truyền sang thế hệ khác. Điều đó cũng đủ để chứng minh các tác phẩm của bà có sức sống và sức hấp dẫn đến mức nào. Cô Elinor Carlisle đứng một cách bình thản ở vị trí bị cáo trước tòa với tội danh mưu sát tình địch của mình - cô Mary Gerrard. Bằng chứng đã mười mươi - chỉ có cô mới có động cơ, cơ hội và phương tiện giết người. Tuy nhiên, trong phòng xử án, chỉ có duy nhất một người tin rằng cô gái trẻ đẹp ấy vô tội: Thám tử Hercule Poirot là tất cả những gì đứng giữa Elinor và giá treo cổ. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Đi đi, thần chết kia ơi! Để tôi nằm dưới gốc cây bách buồn. Bay đi, hơi thở chập chờn! Cô nàng độc ác phủ phàng giết tôi. Chao ôi, chuẩn bị đi thôi, Trắng tinh vải liệm dính đầy kim thông. Hỡi ôi, cái chết não nùng. Đúng là tôi góp phần chung đây rồi. SHAKESPEARE - Elinor Katharine Carlisle. Cô bị khởi tố về vụ giết cô Mary Gerrard vào ngày 27 tháng Bảy trước. Cô có phạm tội hay không phạm tội? Elinor đứng rất thẳng, đầu ngước cao. Một mái đầu duyên dáng, khuôn xương rõ nét gọn gàng. Đôi mắt sâu thẳm, linh động, làn tóc đen nhánh. Lông mày tỉa thành một đường thon mờ nhạt. Hoàn toàn yên lặng, một sự im lặng hầu như thấy rõ được. Ngài Edwin Bulmer, luật sư biện hộ, cảm thấy rùng mình hồi hộp. Ông nghĩ "Lạy Chúa, cô ta sẽ kháng biện là có phạm tội mất thôi! Cô ta mất tinh thần rồi." Môi Elinor Carlisle mở ra. Cô nói: - Tôi không phạm tội. Luật sư rùng mình lại. Ông đưa khăn tay phớt lên lông mày, nhận thấy mình vừa thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Ngài Samuel Attenbury đứng lên, thay mặt cho Vương quyền trình bày những nét chính của vụ án. - Kính thưa quý vị trong bồi thẩm đoàn, vào ngày 27 tháng Bảy, lúc ba giờ rưỡi chiều, cô Mary Gerrard chết tại Hunterbury, Maidensford... Giọng ông lướt nhẹ, ngân vang êm đềm, hầu như ru Elinor vào cõi vô tri. Từ lời tường thuật đơn sơ ngắn gọn đó, thỉnh thoảng chỉ có một câu nói xuyên thấu vào tâm trí còn hiểu biết của nàng. -... Đây là một vụ án đơn giản lạ thường, chẳng có chi phức tạp cả... Trách nhiệm của vương quyền là... chứng tỏ động cơ nào đã thúc đẩy, cơ hội nào đã bày ra... Ta có thể thấy rằng, chẳng ai có động cơ nào để giết cô gái bất hạnh Mary Gerrard kia cả, ngoài bị cáo này ra. Mary là một thiếu nữ trẻ trung, tính tình tốt đẹp, được mọi người yêu mến - có thể nói rằng, cô không có đến một kẻ thù nào ở trên cõi đời này... Mary, Mary Gerrard! Bây giờ tất cả mọi sự dường như xa xôi cả rồi... Chẳng còn thật nữa... -... Xin quí vị đặc biệt lưu ý đến những nhận định sau đây: 1. Bị cáo đã có những cơ hội nào và những phương thế gì để đầu độc? 2. Động cơ nào đã khiến cô ta làm như vậy? -... Tôi có phận sự đòi đến trước quí vị những nhân chứng có thể giúp quí vị đi đến một kết luận chân thực về những vấn đề... -... Về vụ đầu độc cô Mary Gerrard, tôi xin cố gắng chứng minh để quí vị thấy rằng không một ai có cơ hội phạm tội ác này ngoại trừ bị cáo kia ra... Elinor cảm thấy như bị giam hãm trong một lớp sương mù dày đặc. Những tiếng rời rạc giạt trôi qua lớp sương đó. -... Báng Xăng-uých... Bột cá nhồi... Tòa nhà trống trải... Những tiếng ấy đâm thủng tấm mền dày cộm bao phủ ý nghĩ của Elinor - giống như những lỗ kim trên chiếc mạng choàng... Đây là phiên tòa. Những khuôn mặt. Hàng dãy, hàng dãy những khuôn mặt! Một khuôn mặt đặc biệt với hàng ria rậm đen và cặp mắt tinh anh, minh mẫn, Hercule Poirot, đầu hơi nghiêng, mặt trầm tư, đang chăm chú nhìn nàng. Nàng nghĩ, ông ta đang cố gắng xem xét vì cớ gì mình lại làm như vậy. Đang cố gắng đi sâu vào đầu óc mình để thấy rõ mình đã nghĩ gì - đã cảm thấy gì... Mình đã cảm thấy gì ư? Chỉ thấy một cảm tưởng sững sờ hơi nhạt nhòa - hơi tởm lợm... Kia là khuôn mặt của Roddy (tên gọi thân mật của Roderick) - vẫn khuôn mặt thân yêu ấy với sống mũi dài dài, cái miệng nhạy cảm... Roddy! Vẫn Roddy ấy - từ cái thuở mà nàng còn nhớ nổi - từ những ngày trước kia ở Hunterburry giữa rặng cây phúc bồn tử, trong bãi nuôi thỏ phía trên, trong lạch ngòi bên dưới. Roddy - Roddy - Roddy... Còn những khuôn mặt khác nữa! Cô điều dưỡng ở Brien, miệng he hé mở, mặt tàn nhang tươi tắn chẩu ra phía trước. Bà điều dưỡng Hopkins xem chừng đắc ý lắm, chẳng chi có thể mủi lòng. Rồi khuôn mặt của Peter Lord - Peter Lord - mới tử tế làm sao, đa cảm biết bao, ân cần an ủi biết bao! Nhưng bây giờ thì xem ra có vẻ như, có vẻ như bị mê mẩn rồi. Đúng thế - bị mê mẩn rồi! Chàng ta đối với tất cả vụ này, bận tâm lo lắng biết bao nhiêu. Trong khi nàng là vai biểu diễn chính, thì lại chẳng hề quan tâm chút nào cả. Giờ đây nàng, hoàn toàn điềm tĩnh lạnh lùng, đang đứng trước vành móng ngựa, bị kết tội sát nhân. Nàng đang phải hầu tòa. Có một vật gì lay động; những nếp chăn bao quanh trí não nàng bừng sáng lên - trở thành rặt những hồn ma bóng quế. Nàng đang hầu tòa, còn người ta thì... Còn người ta thì đang ngả người về phía trước, môi hơi hé, mắt thích thú đăm đăm nhìn nàng, Elinor, với một niềm khoái lạc tàn nhẫn khủng khiếp; họ đang nghe với một hứng vị độc ác, khoan thai, cái con người cao lớn kia đang nói về nàng. - Những sự kiện trong vụ này có thể theo dõi rất dễ dàng và chẳng có chi cần tranh luận. Tôi xin trình bày trước quý vị, rất là đơn giản. Thoạt tiên là... Elinor nghĩ. "Thoạt tiên... Thoạt tiên ra sao nhỉ? Đó là cái ngày mình nhận được bức thư nặc danh khủng khiếp ấy. Vụ này bắt đầu là như vậy..." Mời các bạn đón đón đọc Cây Bách Buồn của tác giả Agatha Christie.
Cái Chết Được Báo Trước - Agatha Christie
Trong làng Chipping Cleghorn, một án mạng đã được báo trước trong mục quảng cáo nhỏ của tờ báo địa phương. Khi các bạn cô Blacklock tụ tập để chơi trò chơi, một kế hoạch giết người âm thầm lên dây cót. Đây là truyện thứ 50 của Christie và giữ danh hiệu thành quả đẹp nhất của Bà Marple. Bối cảnh nước Anh sau chiến tranh cũng rất đáng chú ý (một điểm quan trọng của cốt truyện), đây có thể được coi là tác phẩm cuối cùng trong những truyện Christie gợi ý giỏi nhất và nhịp truyện vừa vặn nhất. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Vào khoảng thời gian giữa bảy giờ ba mươi và tám giờ ba mươi tất cả các buổi sáng, trừ chủ nhật, Johnnie Butt đi xe đạp vòng quanh làng Chipping Cleghorn. Huýt sáo to tướng giữa hai hàm răng, anh ta chống một chân xuống đất, trước cửa mỗi ngôi nhà, để tuồn vào thùng thư những tờ báo hàng ngày đã được đặt trước ở bưu điện trên phố High Street. Vậy là anh ta thả tờ Times và tờ Daily Worker vào nhà bà Swettenham, nhà cô Hinchliffe và cô Murgatroyd tờ Daily Telegraph và tờ News Chronicle, vào nhà cô Blacklock tờ Telegraph, tờ Times và tờ Daily Mail. Ở tất cả các nhà, hay gần như tất cả các nhà ở Chipping Cleghorn, anh ta để vào một tờ North Benham và Chipping Cleghorn Gazette, mà mọi người dân địa phương quen gọi đơn giản là Gazette, vào tất cả các ngày thứ sáu. Vì vậy, buổi sáng thứ Sáu, sau khi lướt mắt trên những tít lớn của tờ báo hàng ngày, phần lớn dân cư ở Chipping Cleghorn vội vã mở tờ Gazette ra để chăm chú đọc những tin tức của địa phương. Sau khi đọc qua mục “Trao đổi thư từ”, chín trên mười độc giả tấn công ngay vào mục “những thông báo cá nhân”, nơi đăng những vật để bán hoặc cho thuê, những nhu cầu vô vọng tìm người hầu, rất nhiều thông báo về chó, mèo, vật dụng làm vườn và tất cả các vụ việc thuộc loại rất thú vị đối với những người tạo nên cái cộng đồng nhỏ bé ở Chipping Cleghorn. 2 Cái ngày thứ sáu 29 tháng mười cũng không khác những thứ sáu khác. Bà Swettenham vén những lọn tóc màu tro xinh xắn rủ trên trán, mở tờ báo Times ra, liếc rnột cái nhìn thò ơ trên trang báo cầm ở tay trái, đọc qua cột viết về dân sự rồi sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đặt tờ Times sang một bên, bà vội vã cầm lấy tờ Chipping Cleghorn Gazette. Khi con trai bà, Edmund, đi vào phòng sau đó một lát, bà đang chăm chú đọc mục “những thông báo cá nhân”. - Chào con thân yêu - Bà nói - Nhà Smedley bán con chó Daimler của họ... nó sinh năm 1935... Đã già rồi! Edmund ậm ừ trả lời, rồi rót một tách cà phê, đặt hai khoanh cá trích vào đĩa, ngồi vào bàn và mở tờ Daily Worker ra để đọc mục “xây dựng”. Bà Swettenham đọc to : - Chó ngao, con chó đẹp... Mẹ cũng chẳng hiểu tại sao mọi người lại thích nuôi chó to đến thế, nhất là lúc này... Selina Laurence lại đăng thông báo tìm một cô đầu bếp. Mẹ có thể nói rằng, thời buổi này, đăng thông báo chỉ phí thời gian. Cô ấy cũng không đăng địa chỉ, mà chỉ có số hòm thư lưu thôi. Chó berger Đức. Mẹ chẳng bao giờ thích chó berger cả, không phải vì chúng là giống Đức, chúng ta chẳng còn câu nệ nữa, mà chỉ đơn giản bởi vì mẹ không thích chúng. Bà cần gì, bà Finch? Cánh cửa mở để cho nửa người và cái đầu phụ nữ dễ sợ thò vào với một cái mũ nồi nhung. - Chào bà! Tôi có thể dọn bàn được chưa? - Chưa được! Chúng tôi chưa ăn xong. Bà Finch liếc nhìn Edmund với tờ báo trong tay, hít hà rồi lui ra. - Con chỉ mới bắt đầu! - Edmund phản đối. - Mẹ mong con đừng đọc những tờ báo khủng khiếp ấy nữa! Bà Finch chẳng thích điều đó một tí nào! - Con không hiểu tại sao những ý kiến chính trị của con lại liên quan đến bà Finch! - Nếu con là công nhân đã đành! Nhưng con có làm việc đâu! Edmund bực bội phản đối. - Hoàn toàn không đúng. Con viết một quyển sách.! - Mẹ nói về một công việc thật sự cơ... Còn về bà Finch, chúng ta không thể chế nhạo điều bà ấy suy nghĩ! Nếu bà ấy bị ốm hoặc không đến nữa thì ai thay bà ấy phục vụ chúng ta? ... Mời các bạn đón đọc Cái Chết Được Báo Trước của tác giả Agatha Christie.
Bí Ẩn Vụ Song Sinh - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) 17. Bí Ẩn Vụ Song Sinh [Perry Mason #62 - The Case of the Duplicate Daughter] (1960) *** Muriell từ phòng ăn nhẹ nhàng bước qua nhà bếp, đưa tay giữ lại cánh cửa lửng chắn ngang giữa hai phòng, để tránh gây tiếng động vì sợ làm thức giấc bà mẹ kế là Nancy Gilman và cô em gái Glamis, con riêng của bà, họ thường ngủ trễ đến tận trưa mới dậy. Sáng nay, bố của Muriell cảm thấy đói hơn mọi khi nên muốn cô làm thêm một đĩa trứng và một miếng xúc xích nữa. Đây là một điều bất thường và Muriell nghĩ rằng thể nào bố cô cũng bảo thôi nếu cô tạo điều kiện để ông nghĩ lại, thành thử cô hơi chần chừ. Nhưng rồi thấy nét mặt quả quyết của bố và ông lại có vẻ hơi nôn nóng vì chờ đợi, cô bèn bước sang nhà bếp trong khi bố cô chăm chú đọc tờ báo buổi sáng, Muriell hiểu rất rõ bố mình, cô mỉm cười nhớ đến sự cố gắng ăn uống kiêng khem của ông vì sợ lên cân, nhưng có lẽ bữa ăn sáng nay là để bù lại bữa tối qua quá sơ sài? Cả hai bố con sống trong một căn biệt thự ba tầng to lớn kiểu cổ và đã được trang hoàng theo kiểu mới kể từ sau khi mẹ Muriell chết. Muriell sinh ra tại đây, cô biết tất cả mọi ngóc ngách và rất quyến luyến với nó. Đã có những lần Muriell cảm thấy ít nhiều xót xa khi căn phòng cũ của mẹ mình đã bị Nancy chiếm chỗ, nhưng những ý nghĩ ấy thường chỉ xẩy ra khi không có mặt Nancy ở nhà mà thôi. Nancy là một người đàn bà rất có tâm hồn và nhiều sáng kiến cũng như có những nét đặc thù trong cung cách nhìn đời và sự vật. Điều đó làm cho bà ta trở thành một con người đặc biệt và dễ mến. Không một ai có thể bực mình khi đối diện với bà ấy. Muriell đã cố tình chần chừ cho đến khi thấy bố có vẻ nôn nóng, cô mới vội vào bếp làm tiếp. Miếng xúc xích lấy trong tủ lạnh ra còn đóng băng nên phải chờ lâu thêm một chút. Sau đó cô đập trứng vào chảo và bớt lửa vì cô biết ông không thích ăn trứng chín quá. Bỏ trứng và xúc xích vào đĩa xong, cô bưng sang phòng ăn, lấy khuỷu tay đẩy nhẹ cánh cửa phòng để tránh tiếng kêu lớn rồi lách nhẹ người đi vào. — Xong rồi bố ơi! - Cô gọi - Bố... Cô chợt ngừng lại không nói tiếp khi thấy chiếc ghế trống trơn, tờ báo đang nằm trên sàn nhà, ly cà phê vẫn còn đầy và điếu thuốc đang hút dở đặt trên đĩa gạt tàn, khói thuốc vẫn tiếp tục bay lên cao. Muriell thay đĩa thức ăn mới cho bố, rồi bỏ một lát bánh mì vào hộp nướng bánh và nhấn nút. Cô đứng chờ bố trở lại bàn ăn, cặp mắt bất chợt để ý đến mục quảng cáo trên tờ báo. Cô cúi xuống nhặt tờ báo. Đó chỉ là mục quảng cáo về các loại quần áo may sẵn. Khi công tắc của bếp nướng bánh ngắt điện và lò xo đẩy miếng bánh lên trên nắp hộp, Muriell nhíu mày thắc mắc không hiểu sao bố cô chưa trở lại bàn ăn. Cô rón rén bước xuống phòng tắm dưới nhà, cửa mở nhưng bên trong không có ai. Cô đi vòng sang các phòng khác và gọi khẽ — Bố, thức ăn nguội rồi! Cô trở lại phòng ăn, vẫn không thấy ai và chợt cảm thấy có sự bất ổn. Cô xem xét kỹ dưới nhà một lần nữa. Liệu bố cô đã đi làm rồi mà không nói cho có biết chăng...? Ông biết rõ là Muriell đang làm trứng cho ông mà? Chính ông đã bảo cô làm thêm mà? Chắc chắn không thể nào ông rời khỏi nhà mà lại không nói cho cô hay. Kể cả trường hợp nếu có điều gì thật khẩn cấp ở văn phòng thì ông cũng phải cho cô biết chứ. Nhưng hẳn là không có gì khẩn cấp vì đâu có nghe thấy chuông điện thoại reo. Trong bếp luôn có đường dây điện thoại song song, có gì thì chuông đã kêu. Như vậy hẳn có chuyện gì ở trên lầu. Có thể Nancy bị ốm chăng? Muriell bước vội lên lầu nhưng vẫn cố giữ im lặng. Cô nhẹ nhàng vặn nắm cửa phòng ngủ và đẩy nhẹ. Nancy Gilman đã thức, nhìn thấy Muriell đứng ngơ ngác nép bên cánh cửa bèn hỏi: — Có gì vậy, Muriell? — Con tìm bố - Muriell đáp. Nancy quay đầu lại nhìn bên giường trống. — Bố đã rời khỏi buồng cả tiếng đồng hồ rồi - Bà nói với giọng hơi lộ vẻ khó chịu, nhưng rồi chợt ý thức liền mỉm cười và tiếp - Có chuyện gì vậy con? Bố lại trễ ăn sáng à? — Dạ không - Muriell nói - Bố muốn ăn thêm và con đã làm xong nhưng ... con sợ nguội. Nét mặt Nancy Gilman thoáng lộ nét lo âu nhưng rồi bà kéo gối tựa sau lưng, mỉm cười, nói: — Ồ, con quá quan tâm đến bố đấy! Bà cười với nụ cười kín đáo và quay sang ngủ tiếp. Như vậy là bố Muriell không có mặt ở tất cả mọi nơi trong nhà, ngoại trừ căn phòng để đồ trên gác. Bất chợt một ý tưởng bỗng khuấy động trong đầu óc Muriell. Gần đây bố cô thường tỏ vẻ khó chịu. Hai hôm trước ông có nói với cô: “Bố dặn con một điều là nếu có bất kỳ chuyện gấp gáp nào liên quan đến công việc làm ăn của bố, thì hãy nhớ rằng bố không muốn dính dáng đến cảnh sát. Con nhớ không? Bố không muốn dính dáng đến cảnh sát.” Muriell đã nhìn bố với cặp mắt ngạc nhiên, muốn ông giải thích rõ hơn, nhưng ông chỉ trả lời một cách đại khái và cố nhấn mạnh cái ý chính của mình là không muốn dính dáng đến cảnh sát. Cô chợt lo lắng nghĩ đến những vụ tự tử, những xác chết treo cổ trên trần nhà. Cô liền chạy như bay lên thang gác. Phòng chứa đồ với những rương thùng quần áo cũ, các bàn ghế cổ. Gian phòng vẫn còn ăm ắp cái hơi hướng của một thời quá vãng. Những căn phòng dưới nhà đang hòa nhập với nhịp độ đi lên của cuộc sống văn minh hiện đại, nhưng tại đây, trong căn phòng này hầu như đón nhận toàn bộ những đồ vật dư thừa, lỗi thời của những ngày đã qua. Nó mang một không khí trầm buồn và cách biệt. Nhìn bao quát xung quanh căn phòng, Muriell cảm thấy hơi yên tâm, nhưng dù sao cô cũng đi vòng khắp hết một lượt, để ý cả đến ngoài hàng hiên sát mái. Không có một ai. Cô thấy vững dạ hơn và bước xuống cầu thang. Vừa tới chân cầu thang, Muriell gặp ngay Glamis, con riêng của mẹ kế. Glamis mặc bộ đồ ngủ mỏng dính. Mái tóc vàng xõa trên khuôn mặt với đôi mắt xanh tỏ vẻ bất bình. — Chị làm gì ầm ĩ ở trên gác vào cái giờ còn sớm như thế này? — Ồ, xin lỗi Glamis - Muriell nói - Chị... chị đang tìm kiếm... — Chị kiếm cái gì vậy? - Glamis hỏi khi thấy Muriell tỏ ra ngần ngừ. — Ồ, chị có chút việc trên ấy - Muriell nói - Chị đã cố nhẹ nhàng. — Em tưởng như có một đàn ngựa chạy trên ấy! Đúng, chạy ngay trên phòng ngủ của em. — Ồ, chị xin lỗi. Glamis bỗng nhiên cười và nói: — Chị tha lỗi cho em. Bị thức giấc nên em cáu giận vô lý. Dưới nhà có cà phê không chị? Muriell gật đầu. — Em cảm thấy khó chịu khi chưa được uống ly cà phê vào buổi sáng - cô em nói - Em sẽ xuống dưới nhà uống một ly rồi trở lên ngủ tiếp. Chị đã xong việc trên phòng để đồ chưa? — Rồi - Muriell đáp - Thôi đừng quan tâm nữa, Glamis. Chị sẽ đem cà phê lên phòng cho em. Không có đường chứ? Glamis gật đầu. — Chị xin lỗi vì đã làm em thức. Chị đang lo ăn sáng cho bố - Muriell nói. — Ở trên phòng để đồ à? - Glamis vừa hỏi vừa cười. Muriell vỗ nhẹ lên vai cô em. —Thôi về phòng đi cưng. Chị sẽ mang cà phê lên cho. — Vâng, cảm ơn chị - Glamis nói - Bạn em là Hartley Elliott đã ở lại nhà mình hồi đêm, anh ta cũng cần được ngủ. — Bạn trai em à? - Muriell hỏi. — Vâng. Anh ta ngủ ở trên phòng Hoa Hồng. Chúng em về nhà đã hơn nửa đêm, rồi ngồi nói chuyện với nhau ngoài hàng hiên. Khi anh ấy mở máy xe tính đi về thì mới biết là quên rút chìa khóa xe trong ổ nên bình điện yếu không đề máy được. Vì vậy em đã bảo anh ấy ngủ lại. — Mẹ biết không? - Muriell hỏi. — Dĩ nhiên là không. Mẹ đang ngủ ngon mà. Chị nghĩ rằng em phải đánh thức mẹ dậy để báo với mẹ là em mời khách ngủ lại nhà mình sao? Em cũng đã lớn, hai mươi tuổi rồi. Và chị nghĩ... Glamis bỗng dưng ngừng lại rồi mỉm cười nói tiếp: — Chị thấy em giống như con ma dại vào buổi sáng như thế này phải không? Muriell vỗ vai cô em. — Thôi cưng, chị sẽ mang cà phê lên. Chui vô giường đi. Trông em trần như nhộng. — Em ấy à? - Glamis hỏi lại và đưa tay vuốt bộ áo ngủ mỏng dính rồi cười và nhẹ nhàng bước về phòng trên hành lang trải thảm. Muriell xuống dưới nhà, tự trấn an rằng có lẽ vì một lý do đặc biệt nào đấy, bố cô đã phải đi ngay đến văn phòng làm việc mà không kịp cho cô biết. Chắc đó là công việc hết sức quan trọng, có thể là một cuộc hẹn mà ông đã quên. Muriell lấy lại sự vui vẻ khi cô rót cà phê vào chiếc tách lớn, bỏ vài miếng bánh mì nướng vào trà, đặt tất cả lên khay và bưng lên phòng cho Glamis. — Ồ, cảm ơn chị - Glamis nói - Chị mang cả bánh mì nướng lớn cho em nữa hà? — Đói không? — Đói muốn chết! - Glamis nói - Em cứ thức dậy là thèm ăn ngay. Nếu không kiêng khem sợ mập, có lẽ em phải xuống nhà hàng dưới phố để ăn sáng. Glamis ngồi nhỏm dậy, dụi tắt điếu thuốc trên đĩa gạt tàn, với tay lấy tách cà phê, nhìn Muriell và nói: — Chị thực là tài, chị Muriell. — Tài gì? — Chị luôn luôn giữ được điều độ. Em thấy chị lúc nào cũng trầm tĩnh và đầy nghị lực. Còn em thì như con ngố nếu sáng dậy mà không được uống cà phê. Glamis nhai mẩu bánh và uống vài ngụm cà phê. Sau đó cô vội đẩy đĩa bánh và tách cà phê sang một bên, mỉm cười vừa nói với Muriell vừa ngả đầu nằm lại trên giường. — Cảm ơn chị. Em ngủ đây. Muriell bước ra khỏi phòng, đóng nhẹ cửa và trở lại phòng ăn. Hôm nay là ngày nghỉ của người nấu bếp, còn người giúp việc dọn dẹp và rửa chén đĩa sẽ đến vào giờ muộn hơn. Một lần nữa tư tưởng bất ổn lại xuất hiện trong đầu óc Muriell khi cô nhìn thấy đĩa trứng trên bàn ăn đã nguội lạnh, tờ báo vẫn nằm bên chiếc ghế trống trơn. Thật là bất thường, bố cô đi mà không nói lấy một lời, sao bố lại có thể vô tâm như thế được. Bố biết là Muriell đang ở trong bếp mà... Bỗng cô nhìn thấy chiếc cặp táp của ông. Không bao giờ bố cô đi làm mà quên đem theo chiếc cặp táp này. Muriell biết rằng bố cô có một số giấy tờ quan trọng để trong cặp. Ông đã phải làm gấp vào đêm qua để kịp sáng nay đưa đến văn phòng. Ngay cả lúc sáng khi đang ngồi trước bàn ăn, ông cũng đã lấy tập giấy tờ ấy ra để xem xét lại và ghi chú thêm. Muriell bước tới cầm lấy chiếc cặp và mở ra. Tập giấy tờ tài liệu vẫn còn nguyên trong ấy. Muriell cầm lên rút các giấy tờ bên trong ra xem rồi bỏ trở lại trong tấm bìa cứng bọc ngoài. Bất chợt cô để ý đến hàng chữ viết tay của bố cô ghi trên đầu tấm bìa: Trong bất kỳ trường hợp khẩn cấp nào, hãy liên lạc với luật sư Perry Mason ngay lập tức. Tuyệt đối không được liên lạc với bất cứ nơi nào khác.' Dòng chữ ghi có cả chữ kí của bố cô và được viết bằng bút mực. Chỗ chữ kí hơi bị nhòe một chút có lẽ vì ông đã vội cất tập giấy vào trong cặp trước khi chờ đủ thời gian cho mực khô. Ngoài ra bên cạnh chỗ chữ viết, có ghi một số điện thoại, chắc là số điện thoại của văn phòng luật sư Perry Mason. Liệu có phải bố cô đã viết những hàng chữ này lúc ngồi trên bàn ăn sáng không? Muriell nhìn đồng hồ. Đã chín giờ kém mười. Cô đóng cặp táp lại và bước đến bên ghế bố cô đã ngồi. Cô không thấy chiếc khăn ăn của ông. Như vậy là khi bố cô đi, ông đã cầm theo chiếc khăn ăn. Bỗng dưng ý nghĩ của sự mất chiếc khăn ăn khiến cho Muriell cảm thấy sợ hãi. Cô lật tờ báo lên, xem dưới gầm bàn, tìm khắp phòng, sau đó cô bước qua phòng khách rồi trở ra cầu thang định lên lầu và lúc này cô chợt nhớ đến xưởng làm việc. Đúng rồi! Phía sau biệt thự là một dãy nhà khá lớn, đầu dãy phía bắc là gara xe chia làm ba ngăn. Kế tiếp là một phòng dùng làm phòng tối dành cho bà Nancy rửa phim ảnh và phía cuối của dãy nhà là một xưởng riêng của ông Carter Gilman, chia làm hai phần, một làm đồ gốm và một làm đồ mộc như các hộp bằng gỗ quý để đựng đồ nữ trang, các hộp đựng đồ khâu vá và các khung ảnh trang hoàng. Muriell đẩy mạnh cửa bước ra ngoài hành lang, cô rảo chân qua sân cỏ phía sau nhà, tiến đến trước cánh cửa xưởng mộc. Cô mở mạnh cửa gọi lớn: — Bố! Cô bước vào trong và bất chợt khựng lại. Một chiếc ghế gãy nằm trên sàn, bên cạnh là một vũng màu đỏ thẫm. Mạt cưa văng tung tóe trên nền ximăng và những tờ giấy bạc rải rác khắp nơi. Các tờ giấy bạc đều là loại một trăm đôla và Muriell nhìn thấy có đến khoảng trăm tờ như vậy khắp phòng. Muriell nhìn qua bên phải chỗ cánh cửa dẫn sang phòng rửa ảnh của bà Nancy, ngay trước cánh cửa, trên sàn ximăng là chiếc khăn ăn của bố cô. Muriell bước tới mở cánh cửa phòng rửa ảnh. Mùi chua của thuốc rửa ảnh xông lên mũi. Ánh sáng từ ngoài cánh cửa rọi vào nhưng vẫn không đủ sáng. — Bố ơi! - Muriell gọi. Im lặng vẫn bao trùm căn phòng. Muriell bước qua hết phòng rửa ảnh, mở và đẩy mạnh cánh của thông sang gara. Chiếc xe thể thao và chiếc xe nhỏ vẫn nằm đúng vị trí nhưng chiếc xe lớn thì không còn ở đấy nữa. Muriell ý thức được sự kiện vắng mặt chiếc xe của bố, tim cô bỗng đánh thình thịch. Bố cô đã rời phòng ăn đi xuống gara, trong tay vẫn còn cầm nguyên chiếc khăn ăn. Phải có một biến cố nào đấy khiến ông phải đi xuống dưới nhà mà không ý thức được là trong tay mình đang cầm chiếc khăn ăn. Chắc ông đã xuống gara trước, rồi đi qua phòng rửa ảnh và mở cửa bước sang xưởng mộc. Những gì ông nhìn thấy trong xưởng hẳn đã làm ông đánh rơi chiếc khăn ăn. Như vậy chuyện gì đã xảy ra? Chiếc ghế gãy nằm trên sàn mang ý nghĩa gì? Tại sao các giấy bạc lại tung tóe trên sàn và nhất là cái vũng màu đỏ thẫm kia? Muriell liền đi đến quyết định, cô bước vội lại bàn điện thoại trong xưởng, nhấn nút liên lạc với văn phòng làm việc của Carter Gilman. Khi được văn phòng báo cho biết là ông không có ở đấy, cô bèn lật gấp các trang sách cuốn điện thoại niên giám tìm số văn phòng luật sư Perry Mason. Tiếng trả lời trên điện thoại cho biết luật sư Perry Mason chưa tới, nhưng thư ký riêng của ông ta đang có mặt. — Vâng, tôi nói chuyện với cô thư ký cũng được, - Muriell nói. Vài giây sau tiếng nói trên đầu máy vang lên. — Tôi là Della Street, thư ký riêng của luật sư Perry Mason nghe đây. Muriell nói thật nhanh: — Vâng, hiện giờ tôi thấy lo lắng quá. Bố tôi tự dưng biến mất. Tôi tìm thấy tờ giấy ghi trong cặp táp của bố tôi bảo rằng hãy gọi cho luật sư Perry Mason trong trường hợp có biến cố xảy ra và... và hẳn có điều gì rất bí mật trong vụ này. Tôi... — Xin lỗi, cô có thể cho biết tên bố cô? — Carter Gilman. Mẹ tôi đã mất. Tôi ở đây với bố tôi cùng mẹ kế và con riêng của bà ta. Chúng tôi ... — Xin vui lòng cho biết tên cô. — Muriell Gilman. — Cô có thể cho tôi số điện thoại của nhà cô không? Muriell cho biết số điện thoại. — Và địa chỉ nữa? — 6231 Đại lộ Vauxman. — À, luật sư Perry Mason vừa mới tới - Della Street nói. - Tôi sẽ gọi lại cho cô trong vòng năm phút. — Cảm ơn cô - Muriell đáp và cúp máy. ... Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Vụ Song Sinh của tác giả Erle Stanley Gardner.
Người Lạ Trong Gương - Sidney Sheldon.
Sách Nói Người Lạ Trong Gương   Người Lạ Trong Gương vẫn là một trong nhiều câu chuyện Betseller của nhà văn nổi tiếng Sidney Sheldon. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Năm 1919, chiến tranh thế giới lần thứ Nhất vừa kết thúc được hai năm. Detroit thuộc bang Michigan được coi là một trong những thành phố công nghiệp phát triển nhất nhì toàn cầu. Không còn lo cung cấp xe tăng, máy bay cho các đồng minh tận châu Âu xa xôi, nay các hãng xe hơi của Detroit chỉ còn tập trung sản xuất, nâng cao, hoàn thiện sản phẩm chính của mình để nhanh chóng sau đó, mỗi ngày, hàng ngàn chiếc xe được xuất xưởng, chở tới khắp thế giới, nơi người tiêu dùng khao khát nó. Ngược lại, hàng vạn lao động từ khắp nước Mỹ, khắp cả châu Âu, đổ xô đến Detroit. Ai cũng hy vọng tràn trề song không phải ai cũng toại nguyện. Paul Templarhaus và vợ là Frieda, dân Đức, cũng nằm trong số hy vọng đó. Đang học nghề tại một lò mổ ở Muchen, anh lấy vợ, lấy luôn hồi môn của vợ để di cư sang New York, để mở hàng bán thịt và để...lỗ vốn. Rời New York nhưng không rời nghề bán thịt, anh dắt vợ đến St.Louis, đến Boston và rồi đến Detroit, song ở đâu cửa hàng anh cũng lỗ hơn là lãi. Điều đó thật khó hiểu, vì ở vào thời kỳ kinh tế phát triển, nhu cầu ăn ngon, nhất là cứ bốc hơi đi? Anh khó hiểu chứ Frieda, vợ anh, thì biết thừa. Thực ra, chồng chị chỉ lo làm thơ chứ đâu chịu lo làm ăn. Ngồi trước bàn thịt mà đầu óc anh chỉ quẩn quanh với câu với chữ, với ý với tứ chứ nào đâu với miếng thăn miếng đùi và nhất là với chuyện mời chào khách bỏ tiền ra mua. Không một tờ báo hay nhà xuất bản nào chịu mua thơ của anh, ngược lại, những người máu thịt của anh thì đông vô kể nhưng không ai chịu trả tiền, vì anh luôn sẵn sàng cho họ chịu. Đến nỗi người ta đồn thổi khắp mấy con phố, lan ra cả ngoại ô, rằng, muốn không mất tiền song lại muốn có thịt ăn thì cứ việc đến cửa hiệu Paul Templarhaus. Frieda chưa từng biết tới đàn ông trước khi Paul cầu hôn cô. Mà nói là anh cầu hôn với cha cô mới đúng, và lập tức được cả cha lẫn con đồng ý, nhất là ông già lại đang lo rằng cô con gái sẽ sống bám lấy mình suốt đời, thậm chí ông còn tặng thêm hồi môn, ngoài số đã định trước đó, để hai vợ chồng sớm xa chạy cao bay, nghĩa là di dân, mà với ông, càng xa càng cao thì càng tốt. Còn Frieda? Paul đâu biết vừa thấy anh cô đã yêu liền. Đã bao giờ cô được gặp nhà thơ, thậm chí một người thích làm thơ? Ngoại hình anh thì cô mê tít, bởi nó vô cùng phù hợp với người tình trong mộng mà đêm vẫn luẩn quẩn bên cô. Anh hơi gầy, mắt cận thị màu xanh nhạt, tóc thưa, nói năng e dè... nghĩa là theo cô, rất trí thức, rất nhà thơ. Vợ chồng dắt nhau sang New York cô mới dám tin thiên- tài- đẹp- trai này thực sự là của mình. Cô biết mình, nếu không bị nhìn là xấu xí thì cũng chẳng ai coi là đẹp đẽ gì, ngoài đôi mắt xanh biếc lanh lợi như vay mượn của ai đó, còn lại cô thừa hưởng toàn bộ cái xấu xí của họ hàng hang hốc nội ngoại nhà cô. Nào mũi to, trán dô, cằm bạnh...nào thân hình ục ịch...nào dáng đi lật bật...Con tim, Paul cũng như bất kể ai không mù, đều dễ dàng nhận ra những cái xấu đó, vậy sao anh vẫn cầu hôn cô? Có phải vì là nhà thơ nên anh tinh tường hơn người đời, nhìn ra được bao vẻ đẹp của cô ẩn náu bên trong cái vẻ ngoài xấu xí đó? Cô đâu biết, tuy không phải dân đào mỏ, cũng chẳng là kẻ thực dụng, song với Paul, điều hấp dẫn lớn nhất ở cô vợ có vẻ ngoài xấu xí đó chính là đống của hồi môn kia. Anh hy vọng, thậm chí tin tưởng, nhờ nó mà bằng cách này hay cách khác, anh sẽ thoát khỏi đám lòng, tiết, gân, xương nơi lò mổ, có cửa hàng riêng, có đủ tiền sinh sống và toàn tâm toàn ý với Nàng Thơ của mình. Frieda, kể từ hôm nhận được lời cầu hôn của Paul, đã tưởng tượng, đã thêu dệt ra bao mộng vàng của đêm tân hôn. Nơi họ đến nghỉ tuần trăng mật thì tuyệt rồi: ngôi nhà nhỏ ven hồ năm trong một khu thành cổ, lại ở giữa rừng, giữa đồng cỏ mênh mông. Thế rồi, cô hình dung, Paul sẽ ôm cô, miệng thì thầm lời yêu, tay lần cởi váy áo. Rồi anh sẽ hôn cô, thoạt tiên ở môi, ở cổ, rồi có thể cả ở tai, cô hy vọng thế. Sau đó, môi anh sẽ lướt dần xuống vai xuống ngực cô, ngậm thật lâu vào vú cô, rồi lướt khắp thân thể trần truồng của cô, nhẹ nhàng, mơn man, y hệt trong những cuốn sách mà cô đã vụng trộm đọc. Thế rồi anh khẩn khoản, như âu yếm, nhờ cô cởi bỏ giúp quần áo của anh. Tất nhiên cô cứ để anh nài nỉ, mãi sau mới chịu nghe. Cô đã bào giừo giúp ai việc đó mà bảo làm ngay được? Rồi cô sẽ thấy cái gì? Chả gì cả ngoài cái con vật của anh thẳng đơ và vênh vang như cán cờ Đức quốc xã. Nghe nới là đau lắm thì phải. "Nó" như thế kia cơ mà? Và anh sẽ nói gì với cô trước khi làm đau cô nhỉ? Anh khen người cô đẹp, hay giảm đơn như cánh lò mổ, "người cô nhiều thịt"? Chắc anh không đơn giản vậy đâu. Anh là nhà thơ kia mà. Chả có gì giống như cô tưởng tượng hoặc thêu dệt hoặc hình dung cả. Tối đến, ăn no xong, hai người vào phòng ngủ - cô phải tự đi vào vì không thấy anh tỏ ý muốn bế, như sách tả- và trong khi cô đang hồi hộp chờ đợi những gì tiếp theo thì anh đã lăn luôn ra chiếc giường tân hôn sau khi vội vội vàng vàng cởi bỏ quần áo. Anh nằm đó, dang chân dang tay, phô ra thân hình gày gò, bộ ngực lép kẹp và...cái của nợ kia nhỏ tí, ẽo uột ẩn sau đám lông lá, như xấu hổ. Chỉ thấy anh nhìn mình như chờ đợi, Frieda hiểu rằng mình sẽ phải tự cởi bỏ váy áo, tự leo lên giường chứ chẳng có ai sẽ hay dẫn. Cô thở dài, vừa thả váy xuống vừa tự nhủ, to nhỏ đâu quan trọng gì, với lại mình cần tình yêu của anh chứ đâu cần cái đó nhỏ hay to...Hãy chờ những gì anh sắp nói với mình đây. Anh sẽ thủ thỉ...sẽ bày tỏ. Nhưng anh chẳng hé một lời,dù to hay nhỏ. Cô vừa hồi hộp đặt mình xuống giường, còn chưa kịp nhích sát lại gần anh thì đã bị anh đẩy vai cho nằm ngửa ra để anh ngã sấp lên bụng cô, nhét cái đó vào, rồi sau vài lần nhấp nhô cô thấy anh rên khẽ, rùng mình khẽ và lăn xuống bên cô. Tất cả là vậy ư? Chả lẽ nó đã kết thúc khi cô còn tưởng nó chưa bắt đầu? Thực ra, chuyện đó với Paul chỉ là vấn đề giải quyết nhu cầu của phần "con" chứ không phải phần "người", và xưa nay anh cũng chỉ làm việc đó với đám gái điếm nhung nhúc ở Muchen. Theo thói quen, anh nhổm dậy móc ví định trả tiền thì chợt nhớ từ nay mình làm chuyện này sẽ không phải tốn một xu nào cả. Trong khi Frieda còn chưa hết ngơ ngác thì Paul đã ngáy nhè nhẹ. Anh ngủ, mặt vô tư như đứa trẻ. Cô quyết không khóc, tự nhủ, mấy ai vừa ý ở ngay lần đầu. Rồi anh sẽ khác. Rồi anh sẽ là người chồng tuyệt vời về mọi mặt chứ không riêng tình dục. Vả lại, tình dục đâu phải là quan trọng nhất với mình... Song càng ngày Frieda càng thất vọng hơn về Paul. Là vợ thì phải nghe lời chồng, cô chấp nhận, nhưng cô đâu có ngu ngốc để không thấy, dù muộn, những bài thơ của anh dở toẹt mặc anh mỗi ngày thêm lao tâm khổ tứ vì nó, và cũng vì nó mà anh sống như kẻ mộng du, đôi khi cứ như thằng ngớ ngẩn. Và quan trọng hơn nữa là vì cái ả thơ ấy mà đống hồi môn của cô cứ ngày một vơi dần. Khi hai vợ chồng chuyển tới Detroit thì Frieda không chịu đựng thêm được nữa. Sắp trắng tay rồi. Hôm đó, sau khi rà soát số hồi môn ít ỏi còn lại, cô lẳng lặng bước vào cửa hàng thịt của Paul, lẳng lặng chiếm giữ quầy thu tiền, để rồi từ đó không rời nó ra nữa. Không bán chịu, đó là biện pháp đầu tiên của cô. Paul hoảng hồn, nhưng đau chỉ có thế. Frieda tìm mọi cách quảng cáo chất lượng thịt tuyệt hảo của cửa hàng và kèm theo đó là tăng giá ở những món buộc phải tăng, và ngược lại. Bây giờ thì đã nhìn thấy đồng tiền đi vào chứ không chỉ nom thấy miếng thịt đi ra, như trước. Lãi nhỏ kéo theo lãi lớn. Việc buôn bán cứ khấm khá dần lên. Từ lúc nào chẳng biết, Frieda trở thành người ra lệnh còn Paul cứ răm rắp làm theo. Quen đi, ngày một ngày hai đã biến cô trở thành độc đoán, chuyên quyền, không chỉ ở cửa hàng thịt mà còn ở việc đầu tư tiền nong vào đâu, nên sống ở vùng nào và mùa hè này nghỉ tại đâu thì tốt nhất. Rồi cả việc chăn gối nữa. Giờ thì Paul đừng mong chỉ thoả mãn phần "con" của mình còn vợ ra sao thì mặc. Bây giờ chính Frieda là người quyết định làm chuyện đó, mặc Paul khoẻ hay yếu, có hứng hay không. Cái việc này bỗng trở nên khủng khiếp với Paul khi Frieda quyết định sẽ có con chỉ trong vòng một năm, không thể muộn hơn. Cô buộc chồng phải thực hiện bằng được việc làm tình trong những ngày có nhiều khả năng thụ thai, mặc Paul có hôm mệt đến phát ốm, mà là ốm thật chứ không phải vờ để trốn tránh. "Cho vào!", cô ra lệnh. Paul quấn cái đó của anh quanh ngón tay. "Mềm như sợi dây thế này thì cho vào đâu?". Frieda vẫn tảng lờ như điếc. Mấy tháng sau anh được tạm nghỉ vì đã hoàn thành sứ mệnh. Anh thích có con gái nhưng vợ anh thì ngược lại. Vì vậy, chẳng mấy ai quen biết họ tỏ ra ngạc nhiên khi thấy Frieda sinh con trai. Ngày lâm bồn, Frieda chịu tốn tiền để mời bằng được bà đỡ đến nhà vì không muốn sinh con tại bệnh viện. Khi đứa trẻ cất tiếng khóc, ao nấy xúm quanh đều trợn mắt ngạc nhiên khi nhìn nó. Chẳng phải nó dị dạng hay thừa gì, thiếu gì. Song, giữa hai đùi nó, cái ở đứa trẻ khác người ta gọi là chim thì ở đây, nếu tạm so sánh, phải gọi là đại bàng. Bởi nó to quá khổ. Bố nó nằm mơ cũng chẳng được như thế. Không hiểu sao Frieda lại kiêu hãnh nghĩ vậy. Tên nó là Tobias. Do Frieda đặt, tất nhiên. Paul đòi dạy bảo thằng bé. Chuyện học hành, chữ nghĩa anh giỏi hơn cô. Vả lại, dạy dỗ con trai là việc của ông bố mà. Không phản đối, song Frieda không mấy khi để hai bố con ngồi riêng với nhau. Chính là cô, vừa nuôi vừa dạy nó, bằng những món ăn vừa ngon vừa bổ, và bằng những mệnh lệnh rắn như sắt thép. Lên năm tuổi, Toby cao nhưng gầy đến thảm hại, đôi mắt xanh biếc như của mẹ, luôn có vẻ đăm chiêu. Nó vừa yêu vừa sợ mẹ, mong ngóng được mẹ ôm ấp để có thể dụi sâu đầu vào ngực mẹ. Nhưng Frieda quá ít thời gian cho việc nựng nịu con, bởi còn lo kiếm tiền nuôi cả nhà. Phần khác, cô yêu con, tất nhiên, nhưng quyết không để nó lớn lên uỷ mị, yếu đuối như bố. Vì vậy, tình mẫu tử của Frieda được thể hiẹn bằng những mệnh lệnh cứng rắn, những đòi hỏi khe khắt về kết quả của mỗi công việc mà Toby thực hiện, dù là việc học hành ở trường hay việc mẹ giao ở nhà. Cô ít khi khen con, ngược lại, phạt nhiều hơn, nhưng có lẽ thế lại tốt cho Toby, cô nghĩ. Có một linh tính nào đó mách bảo, ngay giây phút đầu tiên ôm con vào lòng, khiến cô tin chắc sau này nó sẽ nổi danh thiên hạ. Cụ thể ra sao thì cô không biết nhưng cô chắc chắn nó phải như thế, và cô còn luôn nói với con, nhắc nhở con, khiến Toby dường như lớn lên cùng với niềm tin của mẹ. Và Toby biết, một khi mẹ đã muốn là phải được.   ... Mời các bạn đón đọc Người Lạ Trong Gương của tác giả Sidney Sheldon.