Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hà Nội Lầm Than

"Tác giả Trọng Lang cũng là cây bút viết phóng sự sớm và chuyên nhất với thể văn này trong một thời gian dài. Các tác phẩm chính của Trọng Lang có Trong làng chạy, Đời bí mật của sư, vãi, Gà chọi (1935), Đồng bóng (1935-1936), Hà Nội lầm than (1937), Làm dân (1938), Làm tiền (1939); và sau này còn có thêm Thầy “lang”, Vợ lẽ nàng hầu, Những đứa trẻ (1941-1944)... Các phóng sự, ghi chép của Trọng Lang in khá rõ phong cách điều tra, kể chuyện, khai thác tư liệu thực tế. Nhà văn đã mở rộng diện đề tài, bao quát cả những khía cạnh đời sống tinh thần, phong tục tập quán và thực trạng những lối sống mới đang nảy sinh. Ở đây có cả thế giới muôn màu vẻ của bọn trộm cắp (Trong làng chạy), đời sống nhếch nhác cùng cực nơi thị thành (Hà Nội lầm than, Làm tiền) và muôn mặt những tệ nạn sau luỹ tre làng (Làm dân, Xôi thịt)... Nhiều trang viết thực sự sinh động, phô bày được những góc khuất tối của bọn người trộm cắp, đồng cốt, gái làm tiền, tệ nạn thuốc phiện... Không chỉ phản ánh và bộc lộ thái độ trước các vấn đề xã hội mà Trọng Lang còn tỏ bày khuynh hướng tư tưởng, chỉ ra những nỗi cơ cực, đau xót của lớp người “làm dân” dưới đáy xã hội. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan từng khái quát ý nghĩa sáng tác của Trọng Lang: “Trong số các nhà văn viết phóng sự gần đây, Trọng Lang có óc phê bình hơn cả. Văn ông đanh thép và sắc cạnh, chuyên về tả cảnh nhiều hơn tả tình... Muốn hiểu tâm hồn những hạng dân quê đã bị “lây” ít nhiều thói tỉnh thành, phải đọc những phóng sự của Trọng Lang; nhưng muốn hiểu tâm hồn những người dân quê còn đặc quê mùa, cần phải đọc những tập phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của Ngô Tất Tố”. (Nguyễn Hữu Sơn) "Người ta có khi khoe rằng đã đi hát cô đầu, và biết nhảy đầm. Nhưng, tôi quyết rằng không ai dám nhận đã có đi vào..."nhà thổ", dù chỉ có một lần nhỏ thôi, trong đời mình... Tôi đã đàng hoàng bước vào nhà thổ...." Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt. Một góc nhìn riêng Hà Nội lầm than (1938)1 có thể coi là thiên phóng sự đặc sắc và được nhắc đến nhiều nhất của Trọng Lang và cho đến hôm nay, sẽ vẫn nằm trong số những diễn ngôn đáng chú ý nhất về mảnh đất này ở giai đoạn nó bị/được bao trùm không khí Âu hóa đa sắc thái. Hà Nội lầm than là Hà Nội của giai tầng dưới đáy, của những hạng người và hạng nghề nghiệp từng bị đặt trong sự dè bỉu, coi thường của đám đông xã hội. Trong vai một tay chơi có máu điều tra, Trọng Lang đã lần lượt chứng kiến và tái dựng nguyên trạng tình cảnh của những phụ nữ “nô lệ tạm thời” tại các quán bar, tiệm nhảy, nhà thổ…, nơi lui tới thường xuyên của tầng lớp giàu có và ưa thích thú vui xác thịt. Những nhân vật cụ thể được tiếp cận; các mánh khóe buôn da bán thịt được phơi bày; thói thực dụng tiền bạc được liệt kê; những ngóc ngách thân phận được chi tiết tường tận; những tàn tạ, nhếch nhác nhân hình được đặc tả…, tất cả, như vết chàm vô phương cứu chữa, đã là bằng cứ thuyết phục cho đời sống đô thị ở khía cạnh thị trường hóa, hàng hóa hóa len vào mọi nơi chốn, mọi mối quan hệ. Cố gắng giữ điềm tĩnh nhưng không ít lần, Trọng Lang đã phải thừa nhận sự bất lực trong việc miêu tả “những nỗi thống khổ ê chề của một hạng nô lệ cho xác thịt”, phải gay gắt mỉa mai thay vì cảm thương những nhà thổ “ô uế cực kì, một chỗ để chứng rằng tâm hồn, xác thịt của một đám đàn bà trụy lạc đã thối nát đến bực nào”, hay đám “nhà thổ đực” – “một cái nhục rất đau đớn cho người ‘có râu’”… Trong khi đẩy cao cảm giác bi phẫn, Trọng Lang đã dừng lại rất lâu ở sự phi lí, ngang trái của những biến đổi văn hóa (chẳng hạn, cô đầu khi xưa là “một cái thú nên thơ” nhưng giờ chỉ là trò mua vui giả dối), những tai ương, bệnh tật, khổ ải đổ xuống bất kì ai trong chốn ăn chơi và sau cùng, những thực tế khó lường của nếp sinh hoạt tiểu nông đang bị tha hóa khi xuất hiện “hạng ăn mày không đói, không rách, có khi sang trọng hơn người viết bài này, có tên là ‘tụi secours’, đi ăn xin nói bằng tiếng Pháp để lấy tiền bao gái và hút thuốc phiện”. Không chịu im tiếng, người quan sát-tác giả đã tham gia vào các màn đối thoại sinh động, đã khéo léo huy động các tiếng lóng, “từ chuyên môn” và sắc sảo nhất là những so sánh tạt ngang để khóa chặt đối tượng trong không gian tương ứng (“Như chim sơn ca, buồn bã, với tiếng gọi của rừng núi rộng, các cô sống theo tiếng gọi của đàn tâm có trăm ngàn điệu”; “Nếu tất cả những nhà thổ có thể ví được là những miếng thịt trâu ngâm nước, thì ả này là một miếng bạc nhạc, bụng nhụng mà người đồ tể thường cắt vất đi cho chó ăn, và đã rữa ra rồi…”; “Ông khách đó là một mẩu người tủn hoẳn, vừa gầy vừa xanh, quần áo xốc xếch, ngực bó cao, ống quần hẹp”…). Đằng sau các thủ pháp viết lách linh hoạt, Hà Nội lầm than có nhiều câu chuyện “có thể làm cho mặt trăng u ám đi được” vì mức độ tê tái, trắng phớ của nó. Hà Nội lầm than đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường (1943) của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt, bắt đầu từ tiểu sử trở đi. Nhưng cần thiết nhớ rằng, Vũ Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại, bằng khả năng chọn lọc nhanh nhạy của mình, đã giới thiệu Trọng Lang thật nồng nhiệt: “Trong số các nhà văn viết phóng sự gần đây, Trọng Lang có óc phê bình hơn cả. Văn ông đanh thép và sắc cạnh, chuyên về tả cảnh nhiều hơn tả tình”. Tiếng kêu thương Hà Nội lầm than, vào năm 1938, quả thật, đã khía rất sâu vào một trong những thực tế đang trương phình ở các đô thị thuộc địa: nạn mua bán dâm, sự phát triển thiếu kiểm soát của hệ thống nhà thổ, các địa điểm kinh doanh tình dục trá hình. Báo chí thời ấy đã không bỏ qua thực tế này, và theo nhiều cách khác nhau, lần lượt lên tiếng như một nỗ lực khảo tả kĩ càng hơn về vị thế người phụ nữ. Không phải ngẫu nhiên mà Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Phụ nữ tân tiến, Đàn bà mới,… là những tờ báo xông xáo theo đuổi vấn đề mại dâm và hầu hết đều coi đây là một vấn nạn xã hội cần bài trừ. Tờ Trung Bắc chủ nhật ra ngày 27/9/1942 cho biết năm 1938 có tới 216 nhà hát, gần 2.000 cô đầu ở vùng ngoại ô Hà Nội và nạn hoa liễu do các cô đầu gây ra lan nhanh đến mức không thể ngăn chặn. Cô đầu hay rộng hơn, gái mại dâm, là hình ảnh trung tâm của sự khó khăn, bế tắc, mâu thuẫn mà phụ nữ ở các đô thị rất dễ mắc phải bởi những cạm bẫy sinh kế liên tục bủa vây, trong khi khoảng cách giàu nghèo và địa vị hoặc sự nới lỏng đạo đức ngày một nhiều hơn. Trong thiên phóng sự của mình, Trọng Lang không hoàn toàn đứng về phía bênh vực những cô đầu, gái nhảy, tầng lớp xét cho cùng là bị bóc lột, bị gạt ra rìa dù ông “đàng hoàng bước vào nhà thổ, với ngòi bút và lòng thương”. Về cơ bản, ông phê phán và liên tục chỉ ra thảm trạng bi đát mà họ đang chịu đựng. Với ông, nạn nhân cũng đồng thời là kẻ chủ ý chuốc lấy đau khổ vì đã tự mình lựa chọn một đời sống như vậy. Vì thế, nữ giới trong Hà Nội lầm than không đem lại thiện cảm nhan sắc, tính cách hay những nỗi niềm trắc ẩn số phận. Thái độ này không có nghĩa ông vô can với tha nhân mà trái lại, muốn tỉnh táo ghi chép, phân tích những tiếp nhận thiếu phản kháng từ lối sống chú mục hưởng lạc tai hại trong một đô thị trên đà hiện đại hóa như Hà Nội. Tính chất lưỡng phân của sợi dây đạo đức, vừa căm giận, khinh bỉ vừa xót xa, cảm thông đối với nghề mại dâm, trong trường hợp này, đã không thắt chặt được các ngả rẽ văn hóa của thị dân, nơi nhu cầu thuận mua vừa bán là hiển nhiên công khai. Trọng Lang kết thúc thiên phóng sự của mình trong sự vỡ lẽ rằng, chẳng có một giọt nước cam lồ nào đủ tưới hàng vạn người lầm than, còn bản thân thì lại thêm đau đớn. Khả năng dấn thân của một nhà văn, dù quyết liệt đến đâu, rút cuộc, cũng vẫn chỉ là “tiếng kêu thương”, hi vọng xã hội và chính thể thời điểm đó lắng nghe và thấu tỏ hơn mà thôi. Đọc Hà Nội lầm than để, bên cạnh những mĩ từ thanh lịch, hào hoa, hào hùng, văn hiến, cần thiết hiểu và cập nhật thêm một Hà Nội, xưa lẫn nay, không thiếu cơ cực, cam chịu và khuất lấp ngoài rìa muôn mặt nhân sinh. Trọng Lang tên thật là Trần Tán Cửu, sinh năm 1906 tại Hà Nội trong một gia đình Nho học. Sau khi học xong bậc trung học, ông bắt đầu viết văn, viết báo, trở thành cây bút phóng sự thường xuyên trên các tờ Phong Hóa, Ngày Nay, Hà Nội tân văn… Sự nở rộ của phóng sự giai đoạn này, như ta thấy, đã được nuôi dưỡng bởi sự phát triển đa dạng của báo chí và nhất là một môi trường xã hội mà những vấn đề cấp bách, thời sự trong đó chưa bao giờ lắng xuống, “những điều trông thấy” chưa bao giờ tạm ngưng thúc giục, khiêu khích người cầm bút phải đối mặt trực tiếp, mô tả và lí giải nó. Đời sống nhân sinh từ đô thị đến nông thôn, với tất cả những biến đổi khốc liệt, dữ dội, trái khoáy và thậm chí, đầy bẽ bàng, cay đắng của nó, trong giai đoạn các lực xung va chạm giữa hai thế giới (cũ-mới, truyền thống-hiện đại, phong kiến-thực dân, Việt Nam - Pháp…) đạt đến cao trào, đã trở thành mảnh vỡ nguyên liệu để các ngòi bút phóng sự, vốn nhiệt huyết và sắc bén, giải phẫu một cách chi tiết. Khả năng xét nghiệm chân xác văn hóa đô thị của Vũ Trọng Phụng, mức độ lật tẩy kịp thời hủ tục làng xã của Ngô Tất Tố ởViệc làng, hay tài miêu tả chân thực của Tam Lang trong Tôi kéo xe…, về cơ bản, không chỉ làm đầy thêm các tri nhận về diện mạo, bản chất xã hội Việt Nam thuộc địa mà rõ ràng, còn thúc đẩy sự trưởng thành vượt bậc của thể phóng sự, của văn xuôi quốc ngữ. Giữa những tiếng nói nổi bật đó, Trọng Lang không hề bị mờ đi. Vì trước nhất, ông đã kiên trì theo đuổi nhiều đề tài gai góc như một cây bút ý thức rất cao trách nhiệm can dự xã hội của mình và thứ nữa, ông lựa chọn kênh phát ngôn chính yếu ở phóng sự, một loại hình lao động chữ nghĩa cần đến cả bản lĩnh và sự trung thực tận đáy. Phẩm chất đó, cùng với việc kịp đứng trong chiến tuyến của tinh thần duy tân sẵn sàng phê phán mọi đối tượng, đã giúp Trọng Lang hoàn thành văn nghiệp đáng kể của mình ngay trước 1945 với những Trong làng chạy; Đời bí mật của sư, vãi; Đồng bóng; Làm tiền; Với các ông lang; Làm dân; Thi vị đồng ruộng… Năm 1954, Trọng Lang di cư vào Nam, tiếp tục hoạt động văn chương báo chí. Ông mất tại Sài Gòn ngày 29-4-1986. ---------------------------- 1 Ấn bản đầu do Đời Nay thực hiện năm 1938. Ấn bản 2015 do NXB Hội nhà văn và Nhã Nam thực hiện. Mời các bạn đón đọc Hà Nội Lầm Than của tác giả Trọng Lang

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Xứ Con Người (Antoine De Saint-Exupery)
Bản dịch khác của Xứ Con Người là Cõi Người Ta, dịch giả: Bùi Giáng. Xứ con người là tác phẩm thứ ba, được xuất bản của nhà văn người Pháp Antoine de Saint-Exupéry, sau Thư phương Nam và Bay đêm. Cuốn sách mang đậm tính tự truyện này trước hết là bản hùng ca dành tặng các phi công của hãng Không Bưu, đặc biệt là hai đồng nghiệp của tác giả, Jean Mermoz và Henri Guillaumet. Văn phong phóng khoáng và lãng mạn, Xứ con người không chỉ thuật lại những chuyến phiêu lưu trên máy bay của chính Saint-Exupéry và các đồng đội qua mọi miền thế giới, mà là nơi ông chiêm nghiệm những vấn đề khác như tình bạn, triết học, định mệnh, tiến bộ công nghệ, những mâu thuẫn của loài người. Xứ con người đã đạt Giải Thưởng Lớn dành cho tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp, dù đây không phải là một cuốn tiểu thuyết. Tại Mỹ, dưới nhan đề Wind, Sand and Stars (Gió, cát và những vì sao), Xứ con người đã được Hiệp hội các nhà Sách nước này chào đón liệt nhiệt. *** Nhận định Tìm mua: Xứ Con Người TiKi Lazada Shopee “Yêu thương tuyệt không phải là người này nhìn người kia, mà là cùng nhau nhìn về một hướng.”- Saint-Exupéry *** Ấy là năm 1926. Tôi vừa vào nhận việc, là người lái trẻ đường dài ở hãng Latécoère, hãng này bấy giờ đảm nhiệm chặng Toulouse-Dakar, trước hãng Aéropostale và hãng Air France. Tôi học nghề là ở đây. Như các bạn bè, tôi đến lượt trải qua thời kỳ tập sự mà những người trẻ phải trải qua trước khi được vinh dự lái chiếc bưu cơ. Bay tập thử các loại máy bay. Đi, về Toulouse và Perpignan. Những buổi học buồn tẻ về khí tượng tận cuối một nhà vòm giá lạnh. Chúng tôi sống trong mối e ngại về những ngọn núi ở Tây Ban Nha mà chúng tôi chưa được thấy, và với sự nể phục các bậc đàn anh. Các bậc đàn anh ấy, chúng tôi thấy họ trở về, thấy họ vào quán ăn, cau có, hơi cách biệt, rất kẻ cả ném cho chúng tôi những lời khuyên bảo. Và khi một người nào đó trong bọn họ, từ Alicante hay Casablanca mà về muộn, áo da sũng nước mưa, có trả lời ai trong bọn chúng tôi khi chúng tôi rụt rè hỏi về chuyến đi thì những câu trả lời ngắn ngủn của anh ta, vào những ngày bão tố, cũng dựng lên trong chúng tôi một thế giới y hệt trong thần thoại, đầy bẫy sập, đầy lưới bủa, đầy những ghềnh đá đột nhiên nhô ra, những xoáy nước có thể bứt vứt được những cây bách hương. Những con rồng đen canh gác lối ra vào các thung lũng, hàng bó chớp vây lấy các đỉnh núi như là vương miện. Các bậc đàn anh ấy biết nuôi giữ lòng kính trọng của chúng tôi. Nhưng lâu lâu lại có một người, trong bọn họ, trở thành thiên thu đáng kính trọng, không trở về. Như vậy đấy, tôi nhớ một chuyến trở về của Bury, sau này chết trong dãy Corbières. Người lái già ấy vừa ngồi xuống giữa bọn tôi, ăn uống mệt nhọc, chẳng nói năng gì, hai vai còn sễ vì đã dụng sức. Ấy là vào cuối một trong những ngày xấu mà từ đầu chí cuối đường bay, vòm trời úa vỡ, tất cả các đỉnh núi, trước mắt người lái, như vầy trong bùn ghét, giống các khẩu đại bạc cắn đứt được các dây chằng, cày nát sàn những chiếc thuyền buồm ngày trước. Tôi nhìn Bury và nuốt nước bọt trước khi đánh liều hỏi anh chuyến bay hôm nay có vất vả không. Không nghe thấy tôi hỏi, trán đầy nếp răn, Bury cúi gằm xuống đĩa. Trên những chiếc máy bay không mui, vào lúc trời xấu, phải nghiêng người ra ngoài kính chắn để thấy cho được rõ, những cái tát của gió còn rít mãi trong tai người lái. Một lúc lâu, anh mới ngẩng đầu, có vẽ đã nghe thấy, có vẻ nhớ lại và đột nhiên bật lên một tiếng cười khanh khách. Cái cười ấy khiến tôi kinh ngạc thán phục, vì Bury ít cười, và cái cười ngắn này làm cho nỗi mệt nhọc của anh như bừng sáng lên. Anh không giảng giải chút gì nữa về thắng lợi của mình, nghiêng đầu và tiếp tục yên lặng nhai. Nhưng trong không khí quán ăn mờ xám, giữa bọn công chức nhỏ không lấy gì làm mỏi mệt lắm đang ăn để lấy lại sức, người đồng nghiệp hai vai nặng trĩu kia bỗng nhiên đối với tôi có một vẻ cao quý khác thường: anh đã cho tôi thấy, qua cái vỏ ngoài cục mịch, vị thiên thần thắng được rồng tinh.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Xứ Con Người PDF của tác giả Antoine De Saint-Exupery nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Westlife Chuyện Của Chúng Tôi (Martin Roach)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Westlife Chuyện Của Chúng Tôi PDF của tác giả Martin Roach nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Viết Lên Hy Vọng (Erin Gruwell)
Người Pháp có câu "Vouloir, c'est pouvoir" - "Muốn là sẽ được". Câu nói này dường như rất gần với "Never give up!" - "Đừng từ bỏ". Nếu mong muốn đủ lớn, mục tiêu đủ cao cả và nghị lực đủ nhiều, có lẽ mọi nghịch cảnh sẽ đều nằm dưới sức mạnh chinh phục của con người. Cuốn nhật kí được dựng thành phim "Nhật kí những nhà văn tự do" với Hilary Swank - nữ diễn viên từng đoạt 2 giải Oscar - vào vai chính (2007). Năm 1994, Erin Gruwel - một giáo viên ngữ văn mới 23 tuổi và tràn đầy lý tưởng - về dạy tại trường trung học Wilson, Long Beach, bang California. Cô phải đương đầu với một lớp toàn học sinh cá biệt, những thành phần "hết thuốc chữa" và vô cùng nguy hiểm. Những đứa trẻ (hầu hết là da màu) lớn lên tại một thị trấn của nạn phân biệt chủng tộc, của những tay găngxtơ sẵn sàng xả súng chỉ vì sự khác biệt, của những ông bố bà mẹ thất học khốn khổ vì nhập cư trái phép. Không một ai trong số họ đã từng tốt nghiệp trung học, chứ đừng nói đến học đại học. Và mỗi ngày trôi qua, lại có những đứa trẻ trong vùng ngã xuống vì những vụ bạo động và nổ súng. Học sinh của cô giáo Erin Gruwel trẻ tuổi thủ sẵn súng trong người khi bước ra ngoài đường phố. Có những em trốn học để hút chích, lang thang, có những em đánh vật với gia đình thiếu thốn và thậm chí phải ngủ ngoài đường. Những em còn lại thì thất vọng cùng cực. Tìm mua: Viết Lên Hy Vọng TiKi Lazada Shopee Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Viết Lên Hy Vọng PDF của tác giả Erin Gruwell nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tự Truyện Wanbi Tuấn Anh - Bắt Đầu Từ Một Kết Thúc (Lý Minh Tùng)
Câu chuyện của Bi trong đợt điều trị thứ hai ở Singapore, phải cắt bỏ dây thần kinh một bên mắt đã cho tôi một cảm xúc rất mạnh. Tôi rất khâm phục bản lĩnh và tâm hồn của Bi, tôn trọng tình bạn, tình anh em giữa Bi và Tùng. Tôi mong quyển sách này sẽ đến tay thật nhiều bạn trẻ, không phải vì Bi mà là vì chính họ, những con người luôn cần được truyền cảm hứng sống tích cực. - NGUYỄN QUANG HUY- Nhạc sĩ, Đạo diễn. Đây là cuốn sách nhiều nước mắt, chắc chắn bạn sẽ khóc từ nhỏ nhẹ đến bù lu bù loa khi xuôi theo những câu chữ. Nhiều nước mắt nhưng không nặng nề, vì WanBi đã sống rất mạnh mẽ và chân thật. Bạn sẽ trải qua nhiều nấc lên xuống của cảm xúc, tốt có, xấu có. Rồi mỗi người sẽ hiểu thêm về thời gian, về ước mơ, về sự dũng cảm và lòng yêu thương. Đây là cuốn sách khó viết và có những đoạn hơi rắc rối khi một sự việc được kể theo những nhân xưng “tôi” khác nhau. Cách duy nhất giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan và khách quan nhất về một phần cuộc đời của WanBi Tuấn Anh, về giai đoạn cậu chống chọi với bệnh nặng. Có nhiều điều WanBi không nói và không muốn nói, chúng ta chỉ có thể hiểu thêm nhờ trí nhớ và nhật ký của người thân và bạn bè cậu, những người đã cùng WanBi vượt qua chuỗi ngày khó khăn. Là một ca sĩ, nhưng WanBi đã để lại cho cuộc sống nhiều nhiều hơn là những bài hát. Chúc cậu một hành trình mới bình an!” PLOY NGỌC BÍCH- Nhà văn***Cậu em tôi- Wanbi Tuấn Anh, nhìn bề ngoài có vẻ không giống mấy một người sâu sắc và có nhiều tâm sự. Cùng với nụ cười lúc nào cũng rạng rỡ, tươi tắn, người ngoài dễ nhận xét em là một cậu nhóc vô ưu, vô lo và hời hợt. Tôi cũng có suy nghĩ như vậy khi lần đầu tiên gặp WanBi ở studio Phạm Hoài Nam, khi một em stylist chọn Bi làm người mẫu trang bìa cho số mới nhất của tờ báo học trò mà tôi làm thư ký toà soạn. Đó là năm 2004, Bi đang là cậu người mẫu học trò nổi bật nhất trong số bạn bè đồng trang lứa, là hotboy được chú ý nhất trong lứa đầu tiên khi “danh xưng” này bắt đầu được sử dụng. Một cậu bé hiền lành, lễ phép, hay cười (nhưng cười chưa đẹp). Ấn tượng chỉ có vậy. Tìm mua: Tự Truyện Wanbi Tuấn Anh - Bắt Đầu Từ Một Kết Thúc TiKi Lazada Shopee Bẵng đi một thời gian, run rủi sao một người bạn của tôi lại chơi thân với Bi. Vậy là hai anh em có nhiều cơ hội gặp nhau hơn, nhưng cũng chẳng thân thiết gì. Tuy vậy, càng tiếp xúc nhiều với Bi, tôi bắt đầu cảm nhận cậu bé này biết cách xử sự hơn những gì người khác nói về, và hơn hết cậu rất đam mê ca hát mà loay hoay chưa biết thực hiện ước mơ của mình thế nào. Những tâm sự về việc muốn thay đổi cách nhìn của người khác về mình khiến tôi thấy đồng cảm. Và tin cậu thanh niên này sẽ làm nên chuyện nếu được đặt đúng vị trí. Lần đầu tiên tôi chấp nhận giúp đỡ một ai đó chỉ với lòng tin mơ hồ như vậy. Tôi dành 6 tháng để thử thách Bi trước khi chính thức trở thành quản lý của cậu. Tôi cũng ngạc nhiên về chính mình, chưa bao giờ một con người thích sự an toàn như tôi lại có một quyết định mạo hiểm là đầu tư và đào tạo Bi trở thành ca sĩ, dù tôi cũng chưa có bất kỳ kinh nghiệm gì với công việc này. Như một định mệnh… Trên cuộc đời này có những mối thân tình không thể đặt tên, và cũng chẳng thể có nổi một lý do. Bản thân tôi cũng không hiểu tại sao mình có thể hết lòng với Bi đến vậy. Và cũng không hiểu tại sao Bi lại tin tưởng tôi tuyệt đối và luôn nghe lời tôi như thế. Giữa chúng tôi không chỉ là tình nghĩa quản lý- ca sĩ, là tình anh em, mà còn có một sự ràng buộc duyên nợ tình-thân-gia-đình- không-máu-mủ không giải thích được. Gắn bó với em từ lúc chỉ là cậu học trò lớp 11 cho đến giai đoạn đỉnh cao của sự nghiệp, từ lúc còn là chàng trai khỏe mạnh đến những tháng ngày chiến đấu dai dẳng với bệnh tật, và mãi mãi trở về với cát bụi, tôi tin mình là người hiểu rõ em nhất, cảm nhận được rõ ràng nhất những gì em đã trải qua trong những giai đoạn thăng trầm của cuộc đời. Tôi biết, suốt mấy năm qua, trong lòng Bi luôn cảm thấy mang nợ về những gì tôi (và bạn bè) đã làm cho em, dù tôi luôn an ủi Bi bằng một câu không thể vụng về hơn: “Kệ đi, coi như kiếp trước anh và mọi người nợ em thì kiếp này phải trả!”. Nhưng thật tình chính tôi cũng nợ em nhiều thứ. Đến lúc em ra đi, tôi vẫn còn nợ em một lời khen. Từ khi bắt đầu làm việc với nhau, mặc cho Bi nỗ lực thế nào, câu khen “rộng rãi” nhất của tôi cũng chỉ là: “Được!”. Vì tôi sợ em tự mãn. Vì tôi muốn em luôn hiểu rõ mình cần phải cố gắng hơn nữa. Tôi cũng nợ em một lời cảm ơn, vì nhờ có em, tôi phát hiện ra mình có thể làm được những điều mà bản thân luôn lo sợ mình không làm được, và có những trải nghiệm không phải ai cũng có được trong cuộc đời. Tôi còn nợ em những lời hứa, trong đó có một quyển sách kể lại những gì em đã trải qua để mọi người hiểu rõ ẩn sau nụ cười vô tư kia, em đã từng mạnh mẽ đến thế nào. Cuộc đời ai cũng từng có những nỗi đau, nhưng nỗi đau mất đi một phần máu thịt có lẽ là kinh khủng nhất. Đã dặn lòng thôi đừng khóc, nhưng có những nỗi buồn rất oái oăm, cứ tẩm ngẩm tầm ngầm bào mòn người ta bằng những hồi ức rực rỡ, những kỷ niệm chẳng thể nào phai, dù 5 năm, 10 năm hay đi trọn vẹn hết một đời người. Đã dặn lòng thôi nhớ, nhưng nhìn cảnh đó, vật đó là nỗi nhớ lại tự líu ríu dắt nhau tìm về. Những nỗi nhớ mà nước mắt cũng bất lực vì chẳng thể nào khỏa lấp được. Tôi không dám gọi những dòng ghi chép chắp vá này là tự truyện, vì lúc còn rạng rỡ giữa cuộc đời, Bi cũng nhiều lần băn khoăn: “Em có là gì đâu mà viết tự truyện?”. Những ghi chép này có cả những đoạn tôi viết lại theo lời kể của Bi, có khi lại là cảm xúc của chính tôi khi cùng san sẻ mọi biến cố trong cuộc đời em suốt mấy năm qua. Hãy xem đây là những cảm xúc mà tôi dành cho cậu- em-luôn-mỉm-cười của mình, để làm tròn lời hứa chưa kịp thực hiện. Tôi muốn dành những trang viết này cho những ai yêu quý đứa em tôi, để phần nào giải tỏa những uẩn ức của em suốt thời gian qua, và cũng để gói ghém nỗi buồn của chính mình vào từng con chữ. Để lại an nhiên bước tới… Tôi cũng muốn thay mặt WanBi và gia đình cảm ơn tất cả những ân tình mà đồng nghiệp, bạn bè và khán giả đã dành cho em suốt những năm qua. Và thành thật xin lỗi nếu những chia sẻ này vô tình khiến ai đó được nhắc đến trong hành trình cuộc đời của Bi cảm thấy phiền lòng. Dù chuyện gì đã xảy ra, thì tất cả những hỉ-nộ-ái-ố ấy cũng đã theo em đi về cát bụi… Lời cảm ơn cuối cùng, tôi muốn dành cho WanBi, cậu-em-trai-không-máu- mủ của tôi. Vì những gì em đã mang lại cho cuộc sống của tôi và mọi người. Cảm ơn nụ cười của em đã giúp tôi nhận ra rằng, ngay trong những giây phút sinh tử của cuộc đời, người ta vẫn có thể mỉm cười thanh thản để vượt qua. Và trước những nỗi đau, nụ cười còn có giá trị gấp vạn lần nước mắt…Nhà báo LÝ MINH TÙNG Quản lý Ca sĩ WanBi Tuấn AnhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tự Truyện Wanbi Tuấn Anh - Bắt Đầu Từ Một Kết Thúc PDF của tác giả Lý Minh Tùng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.