Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Mũi Tên

Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng Thét
Trong căn phòng là cả một biển chết lênh láng. Chính giữa biển là thi thể của một người phụ nữ, xung quanh là núi xương của những con mèo mà cô ta nuôi. Theo chân nữ thanh tra Okunuki Ayano, cuộc đời đầy sóng gió của một người phụ nữ tên Suzuki Yoko dần dần được hé mở… Suzuki Yoko, một cô gái “tầm thường”, nhút nhát, chưa bao giờ nhận được tình yêu thương và sự khích lệ từ người mẹ Suzuki Yoko, người phụ nữ có may mắn kết hôn với mối tình đầu của mình nhưng đã ly hôn chỉ sau ba năm, vì không thể sinh con Suzuki Yoko, người phụ nữ chấp nhận làm gái gọi để có thể tồn tại, hết lần này đến lần khác bị đàn ông lợi dụng, biến thành công cụ kiếm tiền và thỏa mãn dục vọng cho họ Dẫu vậy, trong suốt bốn mươi năm của cuộc đời, người phụ nữ tên Suzuki Yoko đó luôn khát khao được là chính mình và tìm thấy “một nơi chốn mà mình thuộc về”. Rồi khi bị chà đạp dưới đáy xã hội, cô đã quyết định phản kháng. Nếu không thể tìm thấy một nơi chốn mà mình thuộc về, cô sẽ tự tay “tạo ra” nơi chốn ấy… *** Review Thu Hoài: Tác phẩm mới nhất của Hamanaka Aki tiếp tục là một dấu ấn thành công với phong cách trinh thám tâm lý của anh. Suzuki Yoko đã chết. Nhưng người ta chưa biết điều ấy. Xác của cô chỉ được tìm thấy sau đó nửa năm trong một căn hộ chung cư với tình trạng chỉ còn là xương trắng nằm rải rác cùng với xác lũ mèo cô nuôi. Theo chân nữ cảnh sát tài giỏi Ayano, cuộc đời đầy sóng gió của Yoko được hé mở từ đây, khởi đầu cho một chuỗi những bất hạnh lớn hơn bất cứ người phụ nữ nào có thể chịu đựng được. Yoko, cô gái sinh ra trong một gia đình hạng trung với cái tên vô cùng phổ biến, mang nhan sắc và bằng cấp trung bình, không bao giờ vượt qua cái bóng của người em trai tài giỏi đã chết để nhận được tình yêu thương từ cha mẹ. Yoko, người phụ nữ hết lần này đến lần khác bị phản bội, bị lừa gạt, bị lợi dụng, bị chà đạp trong một xã hội Nhật Bản đầy nhức nhối và không có lối thoát. Yoko, một con người ám ảnh với quá khứ, ghét bỏ hiện tại và hão huyền về tương lai. Cả cuộc đời cô chỉ có một ao ước, đó là tìm được nơi chốn mà cô thuộc về, nơi cô thực sự có thể sống là chính mình. Cuốn tiểu thuyết dày gần 600 trang sách mang tựa đề Tiếng thét đã tóm gọn lại một xã hội Nhật Bản qua cuộc đời dài 40 năm của một người phụ nữ. Từ nền kinh tế bong bóng những năm 1990, kỷ băng hà việc làm đầu thiên kiên kỷ, sự bùng nổ của ngành công nghiệp tình dục cho đến trận động đất kinh hoàng ngày 11/3/2011, kèm theo đó là vụ rò rỉ nhà máy hạt nhân, tất cả đều góp phần tạo nên những biến cố trong cuộc đời Suzuki Yoko. Diễn biến tâm lý của Yoko là điểm đặc sắc nhất trong tác phẩm của Hamanaka Aki. Bước vào đời là một cô gái ngây thơ, làm công việc trực điện thoại ở quê, Suzuki Yoko dần dần tiến sâu vào mặt trái xã hội khi bị lôi kéo vào công việc bán bảo hiểm. Cô đã dần đánh mất lòng tự trọng, phải dùng đến cách bán thân để có thể bán được từng hợp đồng bảo hiểm. Cô chịu đau khổ vì cả nỗi đau thể xác lẫn tâm hồn khi chấp nhận làm tiền để chu cấp cho người mẹ vẫn luôn căm ghét mình. Chính việc bị dồn ép đến đáy xã hội đã nảy sinh trong tâm trí Yoko một kế hoạch táo bạo gây rúng động cộng đồng. Mang đậm phong cách trinh thám thiên về lối miêu tả của Nhật Bản, nhưng Tiếng thét lại vô cùng khéo léo khi liên kết tất cả các chi tiết tưởng như thừa thành một câu chuyện hợp lý. Từ ông chủ bán cá có 6 ngón tay cho đến vụ án bé Cosmos hay quán cafe thảo mộc, cuốn sách gây đã bất ngờ cho độc giả cho đến bốn dòng cuối cùng, hé lộ sự thật tàn khốc về người phụ nữ bất hạnh mang tên Suzuki Yoko. Tiếng thét là cuốn tiểu thuyết trinh thám mới nhất của nhà văn trẻ Hamanaka Aki sau khi anh nhận được giải thưởng cho gương mặt mới có tác phẩm xuất sắc nhất lần thứ 16 của Nhật Bản. Tác phẩm đã vinh dự đứng thứ 6 trong số 10 tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014, theo bảng xếp hạng của tạp chí Shukan Bunshun. *** Review Nguyệt Nguyệt:   Nếu bạn trông chờ vào tính giải trí kịch tính, kinh dị máu me ở tác phẩm này thì không có đâu. Nhưng sẽ thấy thật kinh khủng và đáng sợ khi cuộc đời người phụ nữ Yoko được phơi bày từng bước từng bước. Từ nỗi buồn thầm lặng đến sự tuyệt vọng cùng cực chỉ như một cái chớp mắt. Giống như tựa một cuốn sách, miệt mài đi qua năm tháng ngoảnh lại mọi thứ đã hóa tro tàn. Cuộc đời Yoko từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành đã không hề may mắn. Mẹ ghét bỏ, em trai tự sát, bố vỡ nợ bỏ trốn, chồng phản bội theo người đàn bà khác, rồi bán thân để kiếm hợp đồng bảo hiểm, bị bạo hành... Cứ thế đời ngang trái đẩy đưa khiến cô sa chân vào vũng lầy lúc nào chẳng hay. Một vũng bùn bẩn thiu, hôi tanh, nhớp nhúa khủng khiếp nhất. Quá nhiều bi kịch, quá nhiều nỗi đau. Vừa buồn thay lại vừa đáng trách người phụ nữ ấy. Không chỉ thế, cuốn sách còn phản ánh thực trạng xã hội Nhật Bản, một cách thật dữ dội, những góc khuất tăm tối, những vấn nạn nhức nhối bốc mùi. Đào sâu vào tận gốc rễ vấn đề, giống như xới tung đống rác để thấy nó xộc lên mùi thối rữa. Thật nặng nề mà cũng chân thực xiết bao. Tuy vậy, điểm trừ của truyện là có phần đều đều, đôi khi dài dòng, thảng hoặc câu văn bị lặp lại khá khó chịu. Nếu tác giả viết khéo hơn, biên dịch tốt thì tác phẩm sẽ rất tuyệt vời. Có lẽ không chỉ đứng vị trí 6/10 tiểu thuyết trinh thám hay 2014 đâu mà có khi lên top 1 không chừng. Còn về đoạn kết, có đúng như Đinh Tị quảng cáo "gay cấn cho đến 4 dòng cuối cùng" không? Quả có phải. Vẫn bất ngờ dù thủ đoạn không mới. Cái vụ án cuối cùng ấy, cái chết cuối cùng ấy đã đạt đến giới hạn của xấu xa và tội ác, của tha hóa đạo đức. Đánh giá: 7.5/10đ (trừ điểm dịch thuật)   Mời các bạn đón đọc Tiếng Thét của tác giả Hamanaka Aki.
Sắc Đẹp Chết Người
Chính xác hơn là từ một cú tông xe từ chiếc Buick dù người lái xe còn là một ẩn số thì ý định giết người đã quá rõ ràng. Sau tất cả mọi chuyện, người chồng cũ của Blair và cộng sự là cô vợ giết người của anh ta hiện đang còn trong nhà tù. Và thậm chí cả Wyatt Bloodsworth, thám tử cảnh sát người-sắp-thành-chú-rể, cũng không tin cô đang là mục tiêu tấn công một lần nữa. Mọi điều khiến Blair tự hỏi có phải vụ suýt chết của cô chỉ đơn giản là một tai nạn rủi ro hay không. Nhưng sự ngạc nhiên đó không còn tồn tại khi cô thoát khỏi tay thần chết lần nữa trong một tai nạn tưởng chừng như vô tình. Blair trải qua hai vụ việc đó mới làm cô tin rằng cô đang bị kẻ khác đe dọa. Và đáng ngại hơn là Wyatt vẫn còn nghi ngờ cô. Có nghĩa là tại thời điểm này, không một đối tượng nào được xem là tình nghi theo dõi Blair. Cô lên kế hoạch tóm lấy kẻ đang muốn ám sát cô – trước khi bất kỳ một ai khác làm cô gục xuống. *** Linda Howard tên thật là Linda S. Howington. Cô sinh ngày 3/8/1950 tại tiểu bang Alabama thuộc miền Nam Hoa Kỳ. Cô là một trong những tiểu thuyết gia thuộc trường phái lãng mạn nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của cô thường xuyên lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Năm 2005, cô đạt giải Career Achievement Award - giải thưởng dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. Linda Howard nói rằng từ lâu sách đã đóng một vai trò to lớn trong cuộc đời bà, dù là để đọc hay viết. Tác giả tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên bà đọc là Margaret Mitchen và kể từ đó trở đi bà đọc rất nhiều với tất cả đam mê. Trong những năm gần đây, mối quan tâm của bà tập trung chủ yếu vào dòng tiểu thuyết lãng mạn, bởi bà “dễ dàng thấy chán chuyện giết người, bạo lực và chính trị”. Sau hai mươi mốt năm viết truyện chỉ để mua vui cho mình, rốt cuộc Howard đã gom đủ dũng cảm để gửi một tiểu thuyết tới nhà xuất bản - và lập tức thành công. Nhà văn gốc Alabama giờ đã trở thành người nhiều lần xuất hiện trong danh sách tác giả sách bán chạy nhất của tờ New york Times. Tác phẩm của Linda Howard gồm có: Against The Rules (Tiếng Việt) Almost Forever (Tiếng Việt) An Independent Wife (Tiếng Việt) Angel Creek (Tiếng Việt) Băng Đá Bluebird Winter (Tiếng Việt) Cầu Vồng Lúc Nửa Đêm Con Gái Của Sarah Con Trai Của Bình Minh Đêm Định Mệnh Đừng Nói Mãi Mãi Duncan's Bride (Tiếng Việt) Đường Về Nhà Giã Từ Nước Mắt Hẹn Hò Theo Kiểu Của Em Kill And Tell (Tiếng Việt) Lời Dối Gian Chân Thật Người Vợ Độc Lập Những Điều Hào Nhoáng Núi Tình Quý Bà Miền Tây Quý Ông Hoàn Hảo Sắc Đẹp Chết Người Sắc Màu Hoàng Hôn The Cutting Edge (Tiếng Việt) Thiên Sứ Tử Thần Thiêu Hủy Tội Ác Trong Mơ Trăng Xanh Tưởng Chừng Mãi Mãi Vịnh Kim Cương ... *** Tên tôi là Blair Mallory, và tôi chuẩn bị kết hôn, nhưng Ba vị thần mệnh chẳng thèm hợp tác… Tôi ghét cay ghét đắng họ, hử? Chẳng qua cũng chỉ là những mụ già phản trắc vô tri vô giác câm lặng mà thôi. Tôi ngồi tại bàn ăn, mắt nhìn chằm chằm vào cuốn lịch, kiểm tra tất cả các ngày rảnh rỗi còn lại không vướng vào các ngày có hẹn nào trong xấp giấy xếp lịch làm việc giăng đầy trên bàn: của tôi, của Wyatt, của bố mẹ, của các cô em, của mẹ Wyatt, của chị gái Wyatt, của các con và chồng chị ấy… nhiều đến nỗi chẳng thấy hồi kết thúc. Không hề có ngày nào rảnh cho tất cả trừ ngàysau lễ Giáng Sinh mà rõ ràng không thể nào là ngày cưới của tôi được. Nếu chúng tôi cưới vào ngày sau Giáng sinh thì các ngày lễ kỷ niệm sau này của tôi sẽ tẻ ngắt đến chết mất,, vì hẳn Wyatt sẽ tặng cho tôi bất cứ thứ gì mà anh có thể nghĩ ra. Không đời nào. Tôi không phá hỏng bản thân mình đâu. ‘Em đang phùng mang trợn mắt đấy.” Wyatt quan sát mà không thèm rời mắt khỏi bản báo cáo anh đang đọc. Tôi cho đó là một loại báo cáo nào đó của cảnh sát, vì anh là trung úy của lực lượng cảnh sát địa phương, nhưng tôi không thèm mở miệng hỏi lấymột câu. Tôi sẽ đợi cho đến lúc anh rời khỏi phòng để đọc tập giấy ấy, điều đó cho thấy nó có liên quan đến một người tôi quenbiết. Bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên về những việc một số người sẽ làm, những người mà bạn sẽ không thể nghĩ được trong cả triệu năm nữa sẽ tạo ra nhiều phiền toái; tôi dứt khoát là đã được mở mắt từ khi tôi hẹn hò với Wyatt – ờ, đúng ra là từ khi tôi đọc được các bản báo cáo của anh, thử nghĩ đi, dầu sao đi chăng nữa cũng là trước cuộc hẹn hò của chúng tôi. Cặp kè với một cảnh sát thật có nhiều ích lợi, đặc biệt là với một người có chức vụ khá cao. “Anh cũng sẽ phùng mang trợn mắt nếu phải cố mà xử lý cho xong cái đống lịch công việc chồng chéo này thay vì chỉ việc ngồi đó mà đọc thôi.” “Anh đang làm việc,” anh vặn lại, thú nhận rằng anh thực đang đọc một loại báo cáo nào đó ; Tôi chỉ hy vọng là nó hay ho, vàrằng nó sẽ bị để quên đấy khi anh đi vào phòng tắm hay vào đâu đó. “Em sẽ không gặp bất kỳ rắc rối nào với những tờ giấy ấy nếu như em làm theo gợi ý của anh.” Gợi ý của anh là tổ chức ở Gatlinburg, một tiệc cưới giản dị và chả cần đồ đạc váy xống gì nhiều. Giải quyết vụ tiệc cưới thì dễthôi, nhưng đã từng trải qua công cuộc khăn gói cho một sự kiện quan trọng, tôi đã học được một bài học đắt giá: bạn luôn có cái để mà quên. Tôi không muốn trong ngày cưới của mình phải chạy loanh quanh cố tìm thứ thay thế cho vật mà tôi lỡ quên béng đi mất. “Hay chúng ta tổ chức cưới ngay tại trụ sở tòa án ở đây?” Anh đề nghị. Đàn ông thật chẳng có nổi một cái xương sườn lãng mạn trong người, mà thật ra thì tốt thôi, vì tôi cũng không lãng mạn cho lắm, ướt át quá chỉ tổ làm tăng thêm trạng thái kích động mà thôi. HƠn nữa, tôi thừa biết tiến trình Giải Quyết Mọi Chuyện Thế Nào,và tôi muốn có những bức ảnh để còn khoe mẽ với đám con cháu sau này. Và tôi cần phải nhấn mạnh thêm, sinh nhật lần thứ ba mươi mốt của tôi đã đến và đã qua, đưa tôi đến rất gần với phương pháp chọc ối (khi sinh con). Bất kỳ em bé nào mà tôi sinh ra, tôi muốn sinh chúng trước khi bước vào thời kỳ mà bác sỹ sản khoa nào cũng tự động chỉ định phương pháp chọc ối để bảo toàn mạng sống và tránh nỗi sợ bị kiện tụng sau này.Tôi không muốn bị một cái kim dài ngoẵng chọc vào trong bụng. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nó đụng vào mắt hay bất kỳ phần thân thể nào của con tôi?Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cái pitton (gây mê) đâm vào cột sống của tôi? Trong truyện Peter Pan, con cá sấu nuốt nguyên một cái đồng hồ và bạn có thể kể rằng con cá sấu đó càng tiến lại gần thì tiếng tích tắc trong bụng nó càng rõ? Cái đồng hồ sinh học trong tôi đang kêu tích tắc giống y như con cá sấu chết tiệt đó đấy. Hoặc nó là một con cá sấu Mỹ. Chả vấn đề gì. Thay vì kêu “tick-tock” thì nó chuyển thành “Amnio” (từ này hoàn toàn chẳng hợp với nhịp “tick-tock” chút nào.) và tôi đang gặp ác mộng vì chuyện này. * Amnio: Viết tắt của Amniocentesis (phương pháp chọc ối). Ở đây ngụ ý thay vì cái đồng hồ kêu tích tắc thì đồng hồ sinh học của Blair kêu “Chọc ối, chọc ối”, nghe ác mộng thật rồi. Tôi phải cưới thật nhanh, để quẳng cho hết cái đống thuốc tránh thai của mình đi. Còn Wyatt chỉ việc ngồi kia mà đọc bản báo cáo chết tiệt của anh trong khi tôi gần như khủng hoảng đến mức thét lác loạn cả lên. Anh thậm chí còn không cố làm tôi vui bằng cách nói cho tôi biết có gì trong đó vì thế tôi nảy ra một ý tưởng hay ho là liệusau đó tôi có cần phải nghiên cứu để biết thêm chi tiết hay không– anh chưa từng để tôi làm thế. Anh là một gã tham lam tuyệt đốikhi dính dáng đến công việc có liên quan đến nghề nghiệp cảnh sát của mình, giữ tất cả làm của riêng. ‘Em bắt đầu cho là điều này sẽ chẳng bao giờ xảy ra, chúng ta sẽ không lấy được nhau.” Tôi rầu rĩ nói, quăng cái bút xuống mặt bàn. Mời các bạn đón đọc Sắc Đẹp Chết Người của tác giả Linda Howard.
Án Mạng Trên Sân Golf
Một bức thư kêu cứu kéo thám tử Hercule Poirot tới Pháp. Nhưng anh đến quá trễ. Khách hàng của anh đã chết. Cái xác bị đâm dã man giờ nằm sấp mặt trong một cái hố nông trong sân golf đang xây. Nhưng vì sao người chết lại mặc một chiếc áo choàng quá khổ? Và bức thư tình ngọt ngào trong túi áo khoác viết cho ai? Trước khi Poirot kịp trả lời những nghi vấn này thì vụ án bị lật ngược khi cái xác thứ hai được phát hiện, cách thức giết người y như lần đầu. *** Review Phong: Vị thám tử nhỏ bé người Bỉ Hercule Poirot nhận được một bức thư cầu cứu từ ông triệu phú Renauld đang sinh sống tại Pháp, ông ta đề cập đến việc mình đang giữ một bí mật và có người muốn mưu sát ông để bí mật đó mãi mãi được giữ im lặng. Nhưng khi Poirot cùng người bạn đồng hành là đại úy Hastings đến ngôi biệt thự nơi Renauld đang sinh sống thì hay tin ông ta đã bị đâm chết sáng hôm đó. Cảnh sát điều tra tìm thấy một bức thư tình đề tên người gửi là Bella trong túi áo khoác của Renauld, cùng một mẩu ngân phiếu có tên Duveen trong phòng làm việc của ông ta. Khi Poirot lên đường đi Paris để tìm những thông tin liên quan đến vụ án thì lúc về ông được Hastings cho hay lại có thêm một cái xác bị đâm tại khuôn viên trong biệt thự của ông Renauld. Khác với lần trước, nạn nhân thứ hai này là một người hoàn toàn xa lạ mà không ai nhận diện được người này là ai. Cuộc điều tra càng kịch tính hơn với màn đấu trí giữa Hercule Poirot - người quan tâm đến bản chất vụ án để tìm ra lời giải thích cuối cùng, và ông thám tử người Pháp Girauld - người quan tâm đến những bằng chứng hữu hình để tìm ra thủ phạm. Cuốn này là một bằng chứng rõ ràng cho nhận định: “Tiểu thuyết cổ điển thường dài dòng, chậm rãi và khiến người đọc mệt mỏi, nhưng vượt qua được giai đoạn đó rồi thì phần còn lại sẽ rất hay”. Mạch truyện khá từ từ, nhưng tác giả vẫn rất công bằng khi gieo rắc những chi tiết tưởng chừng nhỏ khiến người đọc không chú ý đến nhưng lại liên quan mật thiết đến vụ án. Thông thường, phần phá án trong các truyện của Agatha diễn ra ở 20 - 30 trang cuối, nhưng cuốn này lại khá đặc biệt: Đến trang 230, bạn có thể thấy toàn bộ vụ án đã được giải quyết rất thuyết phục rồi, nhưng khoảng 40 trang cuối những diễn biến mới liên tục được đưa vào và khiến kết quả quay ngoắt 360 độ, chắc chắn sẽ khiến bạn ngạc nhiên và thầm thán phục tài năng tạo twist của nữ hoàng truyện trinh thám. Khi bạn tưởng như mình đã nắm mọi thứ trong tay, thì Agatha tuyên bố: “Cưng nghĩ cưng bắt bài được motif truyện của chị? Còn khuya!” Điều mình không thích nhất trong truyện là dàn nhân vật có phần mờ nhạt và chưa tạo được điểm nhấn riêng. Và mình không thể ưa nổi thủ phạm của vụ này: quyết đoán, nhanh nhẹn và hơn hết là quá ác. “Án mạng trên sông Nile” có kiểu thủ phạm với tính cách tương tự như cuốn này nhưng mình lại thích thủ phạm trong truyện đó hơn nhiều. Đây là một cuốn không hề dễ đọc dành cho các bạn mới đọc truyện của Agatha, vì như mình đã nói, diễn biến phần lớn truyện tiến triển khá chậm, nhưng vẫn là một cuốn hay và đáng đọc, các fan của Agatha thì chắc chắn không thể bỏ qua. Nếu đây là cuốn đầu tiên của Agatha mà mình đọc thì mình thấy nó rất hay, nhưng do đã đọc được một số truyện của bà rồi nên tất nhiên không tránh khỏi có sự so sánh giữa các cuốn với nhau. Về độ hay mình nghĩ nó ngang ngửa với “Chuỗi án mạng ABC”, nhưng vì một số lý do mà mình lại có cảm tình với “Chuỗi án mạng ABC” hơn, vì lẽ đó mà mình chỉ có thể chấm “Án mạng trên sân golf” 3 sao trên obook thôi, nhưng nhìn chung vẫn cảm thấy hài lòng với khoảng thời gian 2 ngày đọc nó. Đánh giá: 3,5/5 *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Có một giai thoại kể rằng, một nhà văn trẻ quyết tâm làm cho câu chuyện của mình thật độc đáo nhằm thu hút sự chú ý của ngay cả những biên tập viên hờ hững nhất, đã mở đầu bằng câu: “Kệ thây! nữ công tước thốt lên.” Thật lạ đời, câu chuyện của tôi cũng bắt đầu gần đúng như thế. Chỉ có điều cô nàng thốt lên cái câu ấy chẳng phải nữ công tước. Đó là một ngày đầu tháng Sáu. Tôi vừa giải quyết xong vài việc ở Paris và bắt chuyến tàu sớm trở về London, nơi tôi vẫn đang sống cùng người bạn lâu năm là cựu thám tử người Bỉ – Hercule Poirot. Hôm ấy chuyến tàu tốc hành Calais trống vắng khác thường, cả khoang tàu này chỉ có tôi và một người nữa. Do rời khách sạn tương đối vội vã nên lúc tàu khởi hành, tôi còn bận kiểm tra mớ đồ đạc xem có quên gì không. Cho tới lúc đó, tôi gần như không để ý tới người đồng hành, nhưng bây giờ thì tôi buộc phải nhận ra sự có mặt của cô ta. Bởi vì cô ta vừa nhảy dựng lên khỏi ghế, hạ cửa sổ xuống, thò đầu ra ngoài rồi lập tức lại thụt vào và kêu lên: “Kệ thây!” Là tuýp người cổ điển nên với tôi, phụ nữ là phải thùy mị. Tôi chẳng ưa nổi những cô gái hiện đại loạn thần kinh cứ nhảy nhót suốt từ sáng đến tối, hút thuốc như ống bễ, còn nói năng thì đến cả mấy bà hàng cá ở Billingsgate cũng phải đỏ mặt. Tôi khẽ cau mày ngước lên. Trước mắt tôi là gương mặt vừa xinh xắn vừa xấc xược của một cô gái đội chiếc mũ đỏ ngang tàng, với những lọn tóc đen dày che khuất hai tai. Tôi đoán chừng cô ta chỉ mới hơn mười bảy tuổi, nhưng mặt thì đầy phấn còn môi thì đỏ chót. Cô gái đón nhận cái nhìn của tôi chẳng chút thẹn thùng, lại còn nhăn mặt tình tứ. “Cưng ơi, tụi mình làm quý ngài đây choáng rồi!” cô ta vờ như đang nói với một người khác. “Tôi xin lỗi vì cách ăn nói của mình. Chẳng đoan trang gì cả, nhưng… thật tình… tôi có lý do mà. Ngài có biết rằng tôi vừa lạc mất người em gái duy nhất của mình không?” “Vậy sao?” tôi nhã nhặn đáp. “Bất hạnh thật.” “Ông ấy mỉa mai cơ đấy!” cô nàng nhấm nhẳng. “Ông ấy mỉa mai, cả tôi lẫn em tôi. Mà thế thì thật bất công bởi vì ông ấy thậm chí còn chưa gặp con bé!” Tôi toan cất tiếng nhưng cô gái chặn ngay: “Đừng nói nữa! Chẳng ai thương tôi cả! Tôi sẽ ra vườn mà mổ sâu thôi! Hu hu. Đời tôi thế là tiêu rồi!” Nói đoạn cô ta núp luôn sau tờ báo biếm họa tiếng Pháp khổ lớn. Mấy phút sau, tôi thấy ánh mắt len lén nhìn mình qua tờ báo, khiến tôi chẳng thể nhịn cười. Và thế là cô gái lập tức đặt tờ báo xuống, bật cười giòn tan. “Tôi biết ngài không ngốc như vẻ bề ngoài mà!” Tiếng cười của cô nàng dễ lây tới nỗi tôi liền bị cuốn theo, dù chẳng bận tâm lắm tới từ ngốc. “Đấy! Giờ chúng ta là bạn rồi nhé!” cô gái ranh mãnh tuyên bố. “Hãy nói là ông rất tiếc vì chuyện em gái tôi đi…” “Tôi quả rất buồn lòng!” “Thế mới ngoan chứ!” “Để tôi nói nốt đã. Tôi đang định thêm rằng, dù rất buồn lòng, tôi sẵn sàng chịu đựng sự vắng mặt của cô đấy.” Tôi khẽ cúi đầu. Nhưng cái cô nàng kỳ quặc nhất trên đời ấy nổi giận và lắc đầu lia lịa. “Thôi ngay đi. Tôi thích cái trò ‘chê bai cao quý’ hơn đấy. Ôi trời, trông mặt ông kìa! Tỏ đúng cái thái độ ‘Không thuộc tầng lớp chúng ta’. Và chuyện đó thì ông đúng đấy - nhưng, xin nhắc ông rằng, ngày nay thì cũng khó mà nói được lắm. Không phải ai cũng phân biệt được một cô ả với một nữ bá tước đâu. Đấy, chắc tôi lại làm ông choáng nữa! Chắc người ta vừa mới khai quật được ông ở một chốn xa xôi hẻo lánh nào đấy, chắc chắn thế. Tôi thì chẳng để ý chuyện đó. Loại các ông có nhiều thêm một tí thì chúng tôi vẫn chịu được. Tôi chỉ không ưa nổi mấy gã thô bỉ bẩn thỉu thôi. Cái tính đó khiến tôi phát điên.” Cô lắc đầu quầy quậy. “Lúc phát điên thì cô sẽ thế nào?” tôi mỉm cười hỏi. “Một con quỷ nhỏ điển hình! Không quan tâm mình nói gì, hay làm gì! Có lần suýt nữa tôi đã xử luôn một gã. Vâng, thật đấy. Gã cũng đáng bị thế lắm.” Mời các bạn đón đọc Án Mạng Trên Sân Golf của tác giả Agatha Christie.
Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu
Ngôi trường nữ học danh giá nhất nước Anh xảy ra liên tiếp nhiều vụ án mạng. Với nhiều học sinh xuất thân từ hoàng tộc và gia đình giàu có, liệu nhà trường có liên quan đếm âm mưu nào lớn hơn? Giữa những nữ sinh và giáo viên nữ hiền lành, kẻ sát thủ giấu mặt như con mèo rơi vào giữa đàn bồ câu. *** Review Phong: Trước khi lên đường ra nước ngoài nhằm tránh khỏi cuộc cách mạng của phe nổi dậy, vị Quốc vương của Ramat là Ali Yusuf đã tin tưởng giao số đá quý trị giá bảy trăm năm mươi ngàn bảng cho viên phi công riêng là Bob Rawlinson. Sau khi cân nhắc, Bob đã tìm đến chị gái Sutcliffe của anh đang nghỉ dưỡng tại một khách sạn của Ramat. Nhưng khi đến nơi thì người chị gái đã đi ra ngoài, không có thời gian chờ đợi vì cuộc cách mạng có thể diễn ra bất cứ lúc nào, bằng cách nào đó Bob đã đưa được số đá quý vào hành lý trong phòng người chị kèm theo một lời nhắn. Sau này, con gái của Sutcliffe là Jennifer được nhận vào học tại Meadowbank, trường nữ sinh danh giá nhất của nước Anh, cùng nhập học với cô bé còn có cái tên đáng chú ý: Công nương Shaista, em họ của Quốc vương Ali Yusuf. Cũng kể từ đây, liên tiếp những vụ giết người với đối tượng hướng đến là các cô giáo trong trường đã khiến danh tiếng của Meadowbank gần như hoàn toàn sụp đổ chỉ sau vài tuần bắt đầu kì học mới. Cuốn thứ 7 của tác giả Agatha Christie mà mình đọc. So với những cuốn rất hay của bà mình đọc gần đây thì cuốn này chỉ dừng ở mức đọc được, bà viết cuốn này khi đã 69 tuổi nên mình thấy thế là được rồi. Vụ án không hấp dẫn, có nhiều hơn một cái chết nhưng tình tiết rất bình thường chứ không nhanh và hấp dẫn như những cuốn mình đọc trước đây như “Ngôi nhà quái dị”, “Án mạng trên sông Nile” hay “Tận cùng là cái chết”. Phần phá án của Hercule Poirot có lẽ là phần mình thấy thú vị duy nhất trong truyện. Mình thích truyện kết thúc ở chương 24 hơn, đúng với phong cách những điều bất ngờ dồn dập đến ở khoảng 20 trang cuối của bà. Chương 25 giúp giải quyết toàn bộ vấn đề còn lại được đưa ra, mình đọc thấy hơi dài dòng và cũng không hứng thú lắm nhưng mình tôn trọng toàn bộ dụng ý mà bà đưa ra trong truyện. Cuốn này thực sự là một thảm họa về khâu biên tập, xứng đáng là cuốn sách đáng xấu hổ nhất của Trẻ mà mình hiện có. Trẻ là một NXB lớn, nắm bản quyền các tác phẩm của Agatha Christie nhưng tại sao họ có thể phát hành một cuốn sách đầy lỗi thế này thì mình không biết, những cuốn trước cuốn nào không ít thì nhiều cũng có lỗi, nhưng dày đặc thế này thì mình mới thấy lần đầu. Mình có kiểm tra lại lời nói đầu, thì đúng là họ cam kết đem đến những bản dịch tốt, hình thức đẹp chứ không nói gì đến việc biên tập kĩ lưỡng. Khi mình đề cập vấn đề này với admin fanpage NXB Trẻ thì nhận được phản hồi như hình dưới. Vậy hóa ra mỗi lần tái bản NXB chỉ in lại chứ không hề rà soát lỗi biên tập, trong khi việc này đã phải làm kĩ ngay khi phát hành. Không nói ra thì không chịu được vì sách của tác giả mình yêu thích lại không được quan tâm biên tập cho đúng mực, mà nói ra rồi lại thấy ức hơn vì giờ phải đọc lại toàn bộ sách, ghi chú lỗi lại với hy vọng ở lần tái bản sau, cuốn sách này sẽ được chăm chút tốt hơn. Tương lai nào cho những đứa con tinh thần của Agatha Christie khi được xuất bản tại Việt Nam … *** Review Lucy:   Tại Ramat sắp có cuộc bạo động và quốc vương nước này được sắp xếp tẩu thoát ra nước ngoài. Ông đưa cho bạn thân đồng thời là phi công một chiếc túi chứa đầy kim cương dặn dò tìm cách đưa số kim cương này thoát ra khỏi Ramat. Bởi quốc vương nhận thấy cuộc tẩu thoát lành ít dữ nhiều và ông không muốn kẻ thù nhặt lấy nó từ xác của mình. Chàng phi công đã lén nhét vào hành lí của cô cháu gái Jennifer vì cô sắp về Anh để đi học. Đúng như dự đoán. Máy bay bị gài bom phát nổ, quốc vương và phi công lao vào núi rồi chết. Số kim cương cùng cô cháu gái đến trường Meadowbank một ngôi trường nữ sinh danh giá nhất nước Anh. Tại đây xảy ra hàng loạt vụ bắt cóc, giết người nhằm mục đích chiếm đoạt số kim cương mà Jennifer vẫn không hay biết mình đang giữ. Chương mở đầu khá là rối vì giới thiệu một loạt nhân vật giáo viên, công nhân viên, học sinh, phụ huynh. Các nhân vật nối tiếp nhau xuất hiện khiến người đọc không nắm bắt kịp. Chương mở đầu không cung cấp manh mối gì nhiều chủ yếu dùng để phô chất riêng của tác giả. Nhưng cũng đừng lo vì chương sau đó sẽ tóm tắt lại các nhân vật chính và vai trò chủ chốt. Có nhiều tình tiết khá là dài dòng như chuyện cô Bulstrode dự định nghĩ hưu lặp lại suốt, đọc ngán luôn.Nhân vật ấn tượng nhất cũng là cô Bulstrode, một người hiệu trưởng thực sự có bản lĩnh và luôn ghét từ "tẻ nhạt" Mình chấm tác phẩm này 6/10 điểm. Cảm thấy bình thường, không quá thất vọng nhưng cũng không được như kỳ vọng *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Hôm ấy là ngày khai giảng kì học hè ở trường Meadowbank. Ánh chiều tà đổ xuống con đường lát sỏi rộng thênh trước tòa học xá. Cửa trước rộng mở vui đón khách, và ngay ở cửa, tương xứng một cách đáng ngưỡng mộ theo đúng tỉ lệ kiến trúc thời Georgia của tòa nhà là cô giáo Vansittart, tóc gọn gàng, áo khoác và váy được cắt may không chê vào đâu được. Một số bậc phụ huynh không biết rõ đã nhầm bà với bà Bulstrode, mà đâu hay bà Bulstrode có lệ rút lui vào cấm cung, ở đấy chỉ số ít bậc phụ huynh chọn lọc được hưởng đặc quyền mới được đón tiếp. Đứng cạnh cô Vansittart, đang điều hành ở một mức độ hơi khác là bà Chadwick, với vẻ tự tin, hiểu biết, và ở Meadowbank này bà đóng một vai trò lớn đến độ thật khó tưởng tượng trường Meadowbank lại không có bà. Chưa bao giờ ngôi trường này thiếu vắng bà. Bà Bulstrode và bà Chadwick đã cùng nhau khởi lập Meadowbank. Bà Chadwick đeo kính không gọng, đầu hơi cúi, ăn mặc không mấy cầu kỳ, giọng nói hòa nhã, và tình cờ thay lại là một nhà toán học xuất sắc. Những lời chào đón ân cần của cô Vansittart ân cần vang khắp tòa nhà. “Bà có khỏe không, thưa bà Arnold? Ồ, Lydia, chuyến đi tàu Hellenic của em có vui không? Thật là một cơ hội tuyệt vời! Em có chụp được nhiều ảnh đẹp không? “Vâng, thưa bà Garnett, bà Bulstrode đã nhận được thư của bà về Lớp Nghệ thuật, tất cả đã được thu xếp rồi. “Bà khỏe không, thưa bà Bird?… Ô? Tôi nghĩ hôm nay bà Bulstrode không có thời gian để bàn bạc chuyện này. Cô Rowan ở đây, bà có muốn nói chuyện với cô ấy về vấn đề này không? “Chúng tôi đã chuyển phòng ngủ của em rồi, Pamela ạ. Em giờ ở chái nhà phía xa, cạnh cây táo… “Vâng, quả vậy, thưa bà Violet, từ đầu mùa xuân tới giờ thời tiết thật kinh khủng. Cháu bé nhất nhà bà đây phải không? Tên cháu gì nhỉ? Hector hả? Cháu có máy bay đẹp thế, Hector. “Très heureuse de vous voir, Madame. Ah, je regrette, ce ne serait pas possible, cette après-midi. Mademoiselle Bulstrode est tellement occupée.Rất vui được gặp bà, thưa bà. Ồ, tôi rất tiếc chiều nay thì không thể rồi. Bà Bulstrode rất bận. “Xin chào giáo sư. Ngài có khám phá thêm được điều gì thú vị không?” Trong căn phòng nhỏ ở tầng một, Ann Shapland, thư ký của bà Bulstrode, đang đánh máy thoăn thoắt và chính xác. Ann năm nay ba lăm tuổi, vẻ ưa nhìn, mái tóc vừa vặn như chiếc mũ sa-tanh đen đội lên đầu. Nếu muốn, cô có thể trông quyến rũ hơn, nhưng cuộc đời đã dạy cô rằng năng lực và hiệu quả thường được trả công cao hơn vẻ ngoài, lại tránh được những phiền toái bực mình. Ở thời điểm này, cô đang tập trung vào tất cả mọi công việc mà một người thư ký hiệu trưởng của một trường nữ sinh nổi tiếng cần làm. Thỉnh thoảng, khi đặt một tờ giấy vào máy chữ, cô lại nhìn ra cửa sổ và lộ rõ niềm thích thú về những vị khách mới đến. ‘Trời đất ơi!’ Ann tự nhủ, vẻ ngưỡng mộ, ‘Mình không biết ở nước Anh vẫn còn nhiều tài xế riêng đến vậy!’ Rồi cô bất giác mỉm cười, khi một chiếc xe Rolls uy nghi chạy đi và một chiếc xe Austin nhỏ xíu, cũ mèm và méo mó tiến vào. Một ông bố vẻ lo lắng từ xe bước ra, cùng cô con gái trông bình tĩnh hơn nhiều so với ông bố. Khi ông dừng lại chừng như sắp ngã đến nơi, thì cô Vansittart từ trong nhà bước ra và làm chủ tình huống. “Thiếu tá Hargreaves phải không ạ? Đây hẳn là Alison rồi? Xin mời vào trong nhà. Mong ngài vào xem phòng của Alison…” Ann nhếch mép cười rồi tiếp tục đánh máy. ‘Ôi đúng là Vansittart, người đóng thế vinh quang,’ cô tự nhủ. ‘Cô ta có thể học theo mọi mánh lới của bà Bulstrode. Quả thật, cô ta rất thuộc bài!’ Một chiếc xe Cadillac to lớn và xa hoa đến khó tin, sơn hai tông màu, đỏ mâm xôi và xanh dương, rẽ vào (hơi khó khăn do chiều dài của nó) và đỗ phía sau chiếc xe cũ của Thiếu tá Alistair Hargreaves. Tài xế bật mở cửa, một người da sẫm, bộ râu dày, mặc áo choàng aba là lượt bước ra, theo sau là một tín đồ thời trang Pari và sau đó nữa là một cô bé mỏng mảnh, da sẫm. ‘Đấy chắc hẳn là Công nương… tên là gì ấy nhỉ,’ Ann nghĩ. ‘Không thể tưởng tượng nổi cô bé ấy mặc đồng phục, nhưng mình cho rằng điều thần kỳ sẽ xuất hiện ngày mai…’ Lần này cả cô Vansittart và bà Chadwick đều xuất hiện. ‘Họ sẽ được đưa vào danh sách diện kiến,’ Ann quả quyết. Rồi cô nghĩ, cũng khá lạ, rằng người ta không thích đùa cợt về bà Bulstrode. Bà Bulstrode là Người Ai Cũng Biết. ‘Tốt hơn nên tập trung vào chuyên môn đi,’ cô tự nhủ, ‘và gõ xong mấy bức thư này không sai lỗi thì hơn.’ Ann không phải là người hay phạm lỗi lầm. Cô đủ giỏi để có quyền chọn việc như ý. Cô từng là trợ lý riêng cho tổng giám đốc một công ty dầu mỏ, thư ký riêng cho ngài Mervyn Todhunter, nổi tiếng về sự uyên bác, thói cáu bẳn và chữ viết tay khó đọc. Trong số những người thuê cô làm việc, có hai người là Chủ tịch Nội các và một vị công chức quan trọng trong cơ quan chính phủ. Nhưng nhìn chung, công việc của cô luôn là giữa đám đàn ông. Cô băn khoăn mình sẽ thế nào, như cách nói của cô, khi hoàn toàn giữa đám phụ nữ. Ờ - thì đằng nào cũng là những trải nghiệm thôi. Và dù thế nào cũng có Dennis! Dennis thủy chung từ Malaya, từ Burma, từ nhiều nơi trên thế giới trở về, và vẫn như xưa, vẫn tận tình, và hỏi cưới cô lần nữa. Dennis thân thương! Nhưng thật là tẻ nhạt lắm mới đi cưới Dennis. Trong tương lai sắp tới, cô sẽ nhớ đến thời gian được làm việc cùng nam giới. Tất cả những giáo viên ở đây - không có lấy một mống đàn ông nào cả, ngoại trừ lão làm vườn đã tám chục tuổi. Nhưng đến đây Ann bỗng ngạc nhiên. Nhìn ra cửa sổ, cô thấy một người đàn ông đang xén hàng rào ngay phía bên kia lối đi dành cho ô tô - rõ ràng là một người làm vườn nhưng mà còn lâu mới tám chục tuổi. Trẻ, tóc đen, và điển trai. Ann ngẫm ngợi, hình như người ta có nhắc đến chuyện thuê người phụ việc, nhưng người này đâu phải dân quê mùa. À thì, ngày nay người ta làm đủ thứ việc. Một số thanh niên đang cố tích góp tiền cho dự định này nọ trong tương lai, hay chỉ kiếm đủ sống qua ngày. Nhưng anh ta đang xén hàng rào theo cách rất chuyên nghiệp. Chắc hẳn anh ta là một người làm vườn thực thụ. Mời các bạn đón đọc Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu của tác giả Agatha Christie.