Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thông Minh Hơn, Nhanh Hơn, Giỏi Hơn

Tặng Harry, Oliver, Doris, John, Andy, và, trên tất cả, Liz! LỜI GIỚI THIỆU Câu chuyện về khoa học năng suất đã được bắt đầu vào mùa hè năm 2011, khi tôi nhờ người bạn của mình một việc. Khi đó, tôi sắp hoàn thành một cuốn sách về thần kinh học và tâm lý học của quá trình hình thành thói quen. Tôi đang bước vào các công đoạn cuối cùng, quay cuồng với quá trình viết − hàng loạt các cuộc điện thoại, viết lại trong hoảng loạn, rồi sửa đổi vào phút cuối − và cảm thấy như mỗi ngày mình bị tụt lại phía sau một xa hơn. Vợ tôi, người cũng làm việc toàn thời gian, vừa mới sinh đứa con thứ hai. Tôi là một phóng viên điều tra tại New York Times, ban ngày chạy theo những câu chuyện và đêm xuống gõ lại các trang sách. Cuộc sống của tôi là một guồng quay của những danh sách những việc cần làm, những e-mail cần trả lời ngay lập tức, những cuộc họp vội vã và những lời xin lỗi vì đến trễ. Giữa tất cả những cuộc chạy đua hối hả này − dưới chiêu bài xin một vài lời khuyên nhỏ về xuất bản − tôi đã gửi vài dòng cho tác giả mà tôi ngưỡng mộ, người bạn của một đồng nghiệp tại Thời báo New York. Tác giả 46 tuổi này dường như đã có tất cả mọi thứ. Ông là nhà văn của một tạp chí uy tín đồng thời là bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng tại một bệnh viện hàng đầu quốc gia. Ông là phó giáo sư tại Đại học Harvard, cố vấn của Tổ chức Y tế Thế giới và là nhà sáng lập tổ chức phi lợi nhuận chuyên cung cấp các thiết bị phẫu thuật cho những vùng còn thiếu thốn về y tế trên thế giới. Ông đã viết ba cuốn sách − đều là các cuốn sách bán chạy nhất − đã kết hôn và có ba con. Năm 2006, ông đã được trao giải thưởng “Thiên tài” MacArthur* − và đã quyên tặng giải thưởng 500.000 đô-la để từ thiện. Một số người tỏ ra đạt được năng suất cao trong công việc, với bản lý lịch ấn tượng cho đến khi bạn nhận ra tài năng lớn nhất của họ chính là tiếp thị bản thân. Lại có những người, như tác giả này, dường như tồn tại trên một mặt phẳng khác mà ở đó họ gặt hái được nhiều thành tựu. Những bài báo của ông vừa sắc sảo vừa hấp dẫn, và như mọi người nói, ông là bác sĩ tài ba trong phòng phẫu thuật, nỗ lực vì bệnh nhân và là một người cha tận tụy. Bất cứ khi nào được phỏng vấn trên truyền hình hoặc đài phát thanh, ông đều tỏ ra bình tĩnh, thoải mái và sâu sắc. Các thành tựu của ông về y học, viết lách và sức khỏe cộng đồng đều rất quan trọng và thực tế. Tôi đã gửi e-mail cho ông để xin một cuộc hẹn. Tôi muốn biết làm thế nào ông có thể đạt được năng suất như vậy. Bí quyết của ông là gì? Và nếu học được nó, liệu tôi có thể thay đổi được cuộc sống của chính mình không? “Năng suất” có nghĩa khác nhau tùy từng bối cảnh. Một người có thể dành một giờ để tập thể dục buổi sáng trước khi đưa con đến trường và cho rằng hôm đó là ngày thành công. Người khác có thể dùng thời gian đó chỉ để nhốt mình trong văn phòng, trả lời các e-mail, gọi điện cho một vài khách hàng và cũng cảm thấy hài lòng. Một ngày cuối tuần năng suất rất khác một ngày làm việc năng suất. Năng suất, nói một cách đơn giản, là tên gọi cho những nỗ lực của mỗi người trong việc tìm ra những cách thức tối ưu để sử dụng năng lượng, trí tuệ và thời gian ít nhất có thể khi cố gắng đạt được điều gì. Nói cách khác, đó chính là hoàn thành công việc mà không phải hy sinh tất cả những gì chúng ta quan tâm. Tác giả ấy dường như đã giải quyết khá tốt việc này. Vì vậy, tôi đã gửi e-mail đến ông. Vài ngày sau, ông gửi e-mail lại bày tỏ sự hối tiếc. “Tôi ước tôi có thể giúp được anh,” ông viết, “nhưng tôi cũng đang rất bận.” Ngay cả ông dường như vẫn có những giới hạn. “Tôi hy vọng anh sẽ hiểu.” Cuối tuần đó, tôi đã nhắc đến cuộc trao đổi này với người bạn chung của chúng tôi. Tôi đã bày tỏ rõ ràng rằng tôi không thất vọng − bởi trên thực tế, tôi ngưỡng mộ sự tập trung của tác giả. Tôi tưởng tượng ra những ngày làm việc ông dành để chữa bệnh, giảng dạy sinh viên y khoa, viết báo và tham mưu cho tổ chức Y tế lớn nhất thế giới. “Không,” người bạn của tôi nói rằng tôi đã hiểu sai. Tác giả chỉ đột nhiên bận rộn trong tuần đó bởi ông đã mua vé tới một chương trình nhạc rock với các con. Và sau đó, ông có một kỳ nghỉ ngắn với vợ. Thực tế, tác giả đã nói với người bạn của chúng tôi rằng tôi nên gửi lại e-mail cho ông một lần nữa vào cuối tháng đó, khi ông có thời gian. Ngay lúc đó, tôi đã nhận ra hai điều: Thứ nhất, rõ ràng tôi đã làm điều gì đó sai vì tôi không nghỉ một ngày nào trong suốt chín tháng qua. Thực tế, tôi dần lo lắng rằng nếu được lựa chọn giữa cha chúng và người giữ trẻ, các con tôi sẽ chọn người giữ trẻ. Thứ hai, quan trọng hơn cả, có những người biết làm thế nào để năng suất hơn. Tôi chỉ cần thuyết phục họ chia sẻ những bí quyết đó với tôi. * * * Cuốn sách này là kết quả những cuộc điều tra của tôi về cơ chế hoạt động của năng suất và nỗ lực của tôi trong việc tìm hiểu lý do vì sao một số người và một số công ty lại đạt được năng suất cao hơn nhiều so với những người khác và những công ty khác. Kể từ khi liên lạc với một tác giả cách đây bốn năm, tôi đã tìm đến các nhà khoa học, các doanh nhân, các quan chức chính phủ và các chuyên gia về năng suất khác. Tôi đã nói chuyện với những người đứng sau bộ phim Frozen, và tìm hiểu cách họ tạo ra một trong những bộ phim thành công nhất trong lịch sử dưới áp lực về thời gian vô cùng lớn − và cách tránh được một bộ phim thảm họa trong gang tấc − bằng cách tích cực bồi dưỡng áp lực về sáng tạo cho đội ngũ của họ. Tôi đã nói chuyện với các nhà khoa học dữ liệu ở Google và các nhà biên kịch của Saturday Night Live1, những người nói rằng các nhóm ở cả hai tổ chức đạt được thành công, một phần vì họ đều tuân theo một chuỗi các quy tắc bất thành văn khuyến khích sự ủng hộ cũng như chấp nhận những rủi ro. Tôi đã phỏng vấn các đặc vụ FBI, những người nói với tôi rằng họ đã giải quyết một vụ bắt cóc nhờ vào các nguyên tắc quản lý linh hoạt và một văn hóa chịu ảnh hưởng từ một nhà máy ô tô cũ. Tôi đã lang thang khắp các sảnh của các trường công lập ở Cincinnati và thấy một sáng kiến cải thiện giáo dục đã thay đổi cuộc sống của các học sinh như thế nào bằng một cách, thật nghịch lý, đó là khiến thông tin trở nên khó tiếp thu hơn. Khi nói chuyện với mọi người − các nhà thần kinh học, những người chơi poker, các nhà tâm lý học, các phi công, các tướng lĩnh trong quân đội, các giám đốc điều hành và các nhà khoa học nhận thức – tôi bắt đầu hiểu ra vấn đề. Tôi nhận thấy mọi người liên tục đề cập đến một số khái niệm. Từ đó, tôi tin rằng những ý tưởng này là cốt lõi, giải thích vì sao một số người và một số công ty lại đạt được nhiều thành tựu đến thế. Vì thế, cuốn sách này được chia thành tám chương, mỗi chương khám phá một ý tưởng có mức độ quan trọng khác nhau trong việc thúc đẩy năng suất. Một chương chia sẻ về việc làm thế nào cảm giác kiểm soát có thể tạo ra động lực, và làm thế nào quân đội có thể khiến những thanh niên không có định hướng trở thành những lính thủy quân lục chiến thực thụ bằng cách dạy cho họ những lựa chọn “thiên về hành động”. Một chương khác xem xét việc làm thế nào chúng ta duy trì được sự tập trung bằng cách xây dựng các mô hình tư duy − và các câu chuyện mà một nhóm phi công tự nhủ để ngăn chặn việc 440 hành khách rơi khỏi bầu trời. Các chương của cuốn sách này chỉ ra cách chính xác để thiết lập mục tiêu − bằng cách nắm bắt cả những tham vọng lớn và những mục tiêu nhỏ − và vì sao các nhà lãnh đạo của Israel bị ám ảnh bởi những mong muốn sai lầm khi cuộc chiến Yom Kippur đã cận kề. Các chương đưa ra tầm quan trọng của việc ra quyết định bằng cách hình dung về tương lai với rất nhiều khả năng chứ không phải bám víu vào những gì bạn hy vọng sẽ xảy ra, và một phụ nữ đã sử dụng kỹ thuật đó ra sao để thắng giải vô địch poker quốc gia. Các chương mô tả cách một số công ty hàng đầu ở thung lũng Silicon trở thành những gã khổng lồ bằng cách bỏ qua những lợi ích hấp dẫn và những nhà ăn đẹp đẽ − thay vào đó xây dựng văn hóa hỗ trợ nhân viên khi gặp khó khăn. Kết nối tám ý tưởng này là một nguyên tắc cơ bản mạnh mẽ: Năng suất không phải là làm việc nhiều hơn hoặc đổ mồ hôi công sức nhiều hơn. Nó không chỉ đơn giản là kết quả của việc dành nhiều thời giờ hơn ở bàn làm việc hay chịu những hy sinh lớn. Thay vào đó, năng suất là đưa ra những lựa chọn nhất định. Cách chúng ta lựa chọn để nhìn nhận bản thân và định hình các quyết định phải đối mặt hằng ngày; những câu chuyện chúng ta nói với các đồng nghiệp và các mục tiêu dễ dàng đạt được mà chúng ta bỏ qua; ý thức về cộng đồng mà chúng ta xây dựng giữa các thành viên trong nhóm; văn hóa sáng tạo mà chúng ta thiết lập khi lãnh đạo: Đây là những điều phân biệt sự bận rộn đơn thuần với năng suất thực sự. Ngày nay, chúng ta sống trong một thế giới mà ở đó chúng ta có thể giao tiếp với các đồng nghiệp bất cứ lúc nào, truy cập các tài liệu quan trọng bằng điện thoại thông minh, nắm bắt các sự kiện chỉ trong vòng vài giây và gần như bất kỳ sản phẩm nào cũng đều có thể được giao đến tận nơi trong vòng 24 giờ. Các công ty có thể thiết kế các đồ dùng ở California, thu thập đơn hàng từ các khách hàng ở Barcelona, gửi bản thiết kế qua e-mail tới Thâm Quyến và theo dõi việc giao hàng từ bất cứ nơi nào trên thế giới. Các bậc cha mẹ có thể tự động đồng bộ hóa lịch trình của gia đình, thanh toán hóa đơn trực tuyến khi ở trên giường, nhờ một người lạ đi mua hàng tạp hóa và định vị điện thoại của con cái mình chỉ một phút sau lệnh giới nghiêm. Chúng ta đang trải qua một cuộc cách mạng kinh tế và xã hội sâu sắc, bằng nhiều cách, như những cuộc cách mạng nông nghiệp và công nghiệp ở các thời đại trước. Những tiến bộ trong truyền thông và công nghệ đáng lẽ phải khiến cuộc sống của chúng ta trở nên dễ dàng hơn. Thay vào đó, dường như chúng lại đang lấp đầy một ngày của con người bằng nhiều công việc và áp lực hơn. Một phần vì chúng ta đã quá chú trọng đến những đổi mới sai lầm. Chúng ta chỉ chăm chăm vào những công cụ tạo ra năng suất, thay vì những bài học chứa đựng trong đó. Tuy nhiên, có một số người đã tìm ra cách làm chủ thế giới đang thay đổi này. Một số công ty đã phát hiện ra cách để tìm ra các lợi thế giữa những thay đổi chóng mặt này. Giờ đây chúng ta biết năng suất thực sự hoạt động như thế nào. Chúng ta biết những lựa chọn nào là quan trọng nhất và mang thành công đến gần hơn. Chúng ta biết làm thế nào để thiết lập các mục tiêu, để có thể thực hiện những mong muốn táo bạo; làm thế nào điều chỉnh lại các tình huống thay vì nhận ra các vấn đề, chúng ta chọn ra những cơ hội tiềm ẩn; làm thế nào để mở rộng tâm trí với những sự kết nối sáng tạo và mới mẻ; làm thế nào để học nhanh hơn bằng cách làm chậm lại dòng chảy dữ liệu thần tốc xung quanh chúng ta. Cuốn sách nói về việc làm thế nào để nhận ra những lựa chọn, vốn có khả năng tiếp thêm nhiên liệu cho năng suất đích thực. Đây là một cẩm nang về những nghiên cứu, những chiến thuật và những cơ hội làm thay đổi cuộc sống. Có những người đã học được cách để thành công hơn với ít nỗ lực hơn. Có những công ty tạo ra nhiều điều tuyệt vời hơn với ít sự lãng phí hơn. Có những nhà lãnh đạo đã thay đổi được những người xung quanh họ. Đây là cuốn sách nói về việc làm thế nào để trở nên thông minh hơn, nhanh hơn và giỏi hơn trong tất cả mọi việc bạn làm. − Charles Duhigg *** Huấn luyện cơ bản, Sự trỗi dậy của những lính thủy quân lục chiến và ý thức làm chủ Robert lên kế hoạch tổ chức sinh nhật lần 60 của mình bằng một chuyến đi kéo dài 29 ngày tới Nam Mỹ cùng vợ ông, bà Viola. Đầu tiên, họ sẽ tới Brazil và Chile rồi băng qua dãy Andes để tới Bolivia và Peru. Lịch trình của hai người gồm các chuyến tham quan những tàn tích của người Inca, đi thuyền trên hồ Titicaca, thăm chợ phiên bán đồ thủ công và đi xem các loài chim. Robert đã nói đùa với những người bạn trước khi đi rằng kỳ nghỉ này có vẻ không suôn sẻ. Ông cũng đã lường trước rằng sẽ phải gọi điện trao đổi công việc với thư ký của mình. Trong hơn nửa thế kỷ qua, Robert Philippe đã biến một trạm xăng nhỏ thành một đế chế sản xuất linh kiện ô tô ở vùng quê Louisiana nhờ sự cần mẫn, uy tín và tài xoay xở của mình. Ngoài công ty linh kiện ô tô, ông còn sở hữu một công ty hóa chất, một công ty cung cấp giấy và một công ty bất động sản. Giờ đây, ở độ tuổi 60, bà Viola đã thuyết phục ông gác lại công việc để dành một tháng đặt chân tới một vài đất nước, những nơi mà ông ngờ rằng khó tìm được một chiếc ti vi chiếu trận đấu bóng bầu dục giữa đội LSU và Ole Miss. Robert2 thường hay nói rằng chẳng có con đường đất hay ngóc ngách nào dọc suốt vùng bờ vịnh này mà ông chưa ghé qua để mở rộng kinh doanh. Cùng với việc phát triển Tập đoàn Philippe, Robert đã nổi tiếng khắp vùng vì kéo được những thương nhân thành thị từ New Orleans và Atlanta tới những quán bar tồi tàn và ngăn họ rời khỏi quán cho đến khi chén sạch những dẻ sườn và uống cạn chỗ rượu. Trong khi ai cũng chịu những cơn đau đầu vì rượu vào sáng hôm sau thì Robert sẽ thuyết phục họ ký những bản hợp đồng trị giá hàng triệu đô-la. Những nhân viên pha chế ở quầy bar luôn biết phải rót cho ông soda trong khi đó lại phục vụ cocktail cho những nhân vật quan trọng kia. Nhiều năm rồi Robert thậm chí còn chẳng đụng tới một giọt rượu nào. Ông còn là hội viên Đoàn các Thánh Tử đạo (Knight of Columbus) và Phòng Thương mại, (Chamber of Commerce) cựu chủ tịch Hiệp hội Bán sỉ Linh kiện ô tô Louisiana và Ủy ban cảng Baton Rouge, chủ tịch một ngân hàng địa phương, nhà quyên góp trung thành cho bất cứ đảng phái chính trị nào có khả năng cao sẽ cấp phép kinh doanh cho ông vào thời đó. “Anh chắc chắn chưa bao giờ gặp ai yêu công việc nhiều như ông ấy,” con gái ông, Roxann, đã nói với tôi như vậy. Robert và Viola đã lên kế hoạch cho chuyến đi tới Nam Mỹ này trong nhiều tháng. Nhưng khi họ hạ cánh ở La Paz, Robert bắt đầu cư xử lạ lùng, Viola cảm giác như chồng mình có vẻ say xỉn. Ông bước đi lảo đảo ở sân bay và phải ngồi xuống để thở ở khu nhận hành lý. Khi một đám trẻ con đến gần xin tiền, Robert ném mấy đồng tiền lẻ vào chân chúng và cười lớn. Trên ô tô về khách sạn, Robert bắt đầu nói to và cứ thế độc thoại dông dài về các nước ông đã đến và sự hấp dẫn của những phụ nữ ở đó. Viola nghĩ rằng nguyên nhân có thể là do độ cao. Ở độ cao 12.000 feet (hơn 4.000m) so với mực nước biển, La Paz là một trong những thành phố cao nhất trên thế giới. Về tới khách sạn, Viola nài nỉ Robert chợp mắt một lúc nhưng ông không chịu. Ông muốn ra ngoài đi lại. Trong một tiếng đồng hồ sau đó, ông đã diễu quanh thị trấn, mua một ít đồ nữ trang rẻ tiền và nổi cơn thịnh nộ bất cứ khi nào người bản địa không hiểu được tiếng Anh. Cuối cùng ông cũng đồng ý về khách sạn rồi ngủ thiếp đi, nhưng thức giấc liên tục vào buổi đêm vì nôn ói. Sáng hôm sau, ông cảm thấy đầu óc váng vất nhưng lại giận dữ khi Viola bảo ông nghỉ ngơi. Cả ngày thứ ba sau đó ông chỉ nằm một chỗ. Vào ngày thứ tư, Viola cho rằng thế là quá đủ và quyết định rút ngắn lại chuyến đi. Trở về nhà ở Louisiana, Robert cảm thấy khá hơn. Chứng rối loạn đỡ dần và ông cũng thôi nói năng linh tinh. Tuy nhiên, vợ con ông vẫn không khỏi lo lắng. Robert khá đờ đẫn và không chịu ra khỏi nhà trừ khi bị buộc phải đi. Viola những tưởng chồng mình sẽ lao đến văn phòng để tiếp tục công việc ngay khi trở về từ chuyến đi nhưng suốt bốn ngày sau đó, ông cũng không trao đổi nhiều với thư ký. Khi Viola nhắc ông rằng mùa săn hươu sắp đến và ông cần lấy bằng thì Robert nói ông định năm nay sẽ từ bỏ việc đó. Bà đã gọi cho một bác sĩ. Ngay sau đó, họ lái xe tới phòng khám Ochsner ở New Orleans.3 Vị trưởng khoa thần kinh, tiến sĩ Richard Strub, đã tiến hành một loạt xét nghiệm. Các dấu hiệu sinh tồn hoàn toàn bình thường. Kết quả kiểm tra máu không cho thấy điều gì bất thường. Không có dấu hiệu của nhiễm trùng, bệnh tiểu đường, đau tim hay có dấu hiệu đột quỵ. Robert hiểu rõ những gì báo chí viết hôm đó và có thể kể về tuổi thơ một cách rành rọt. Ông còn kể lại một truyện ngắn. Thang đánh giá Wechsler Adult Intelligence Scale** cũng cho thấy chỉ số IQ của ông ở mức cao. “Anh có thể kể về công việc kinh doanh của mình không?,” tiến sĩ Strub hỏi. Robert giải thích về cách tổ chức công ty và chi tiết một số hợp đồng họ vừa giành được. “Vợ anh nói rằng anh đang cư xử rất khác thường,” tiến sĩ Strub nói. “Ồ phải,” Robert đáp lại. “Gần đây tôi dường như không được nhanh nhẹn và nhiều năng lượng như trước.”   Mời các bạn đón đọc Thông Minh Hơn, Nhanh Hơn, Giỏi Hơn của tác giả Charles Duhigg.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tổ Chức Gia Đình - Nguyễn Hiến Lê
Các cụ mất hồi đầu thế kỷ, bây giờ có sống lại mà đứng ở đường Lê Lợi tại Sài Gòn trong các giờ tan sở, chắc phải hoảng lên và la: - Có giặc cướp hay đám cháy nào thế này? Sao mà thiên hạ chạy tíu tít, vẻ mặt đăm đăm như vậy? Chỉ đứng độ năm phút, nhìn lớp sóng người qua lại, nghe tiếng chuông, tiếng còi, các cụ cũng đủ choáng váng và hồi hộp. Nếu các cụ lại sống chung với chúng ta một buổi sáng thôi, thấy chúng ta mới sáu giờ đã dậy tập thể dục, rửa mặt, tắm gội, hấp tấp bận quần áo, húp vội một ly sữa rồi bổ nhào ra ngoài phố, tới đầu đường, liệng một đồng bạc, giựt một số báo, leo lên ô-tô-buýt, tới 12 giờ rưỡi mới về, mặt bơ phờ, nuốt mấy miếng cơm rồi lăn ra ngủ, nếu các cụ thấy như vậy, thì các cụ tất mau mau từ biệt chúng ta để vào rừng ở, dầu chúng ta có đem hết thảy những tiện nghi, xảo diệu của khoa học để dụ dỗ, giữ các cụ ở lại, cũng luống công vô ích. Từ sau đại chiến thứ hai, đời sống chúng ta ồ ạt quá, gần như đời sống tại các kinh đô ở Âu Mỹ. Tám giờ sáng một ngày làm việc mà bạn thấy ai vơ vẩn ở bờ sông Sài Gòn, ngắm mây ngắm nước, tất bạn sẽ ngờ người đó muốn tìm chỗ trầm mình; gặp ai ung dung tản bộ, ngâm thơ trong một công viên, chắc bạn sẽ bĩu môi chê là “thi sĩ mơ mộng” nếu không nghĩ người đó mắc bệnh thần kinh, phải đưa vào nhà thương Biên Hoà. Chúng ta không còn quan niệm được thú nhàn của cổ nhân nữa. Mỗi ngày vẫn chỉ có 24 giờ mà công việc thì tăng lên biết bao nhiêu! Công việc tăng vì nhu cầu tăng. Ta không thể sống như Nhan Hồi với một giỏ cơm, một bầu nước; ta cũng không thể sống như một cụ đồ nho với vài manh áo kép và đơn. Nội khoản chi phí về sách báo của chúng ta đủ nuôi một gia đình hồi trước. Khi ta có thêm một nhu cầu, ta chẳng những mất thì giờ để thoả mãn nó, mà còn mất thì giờ kiếm tiền để có phương tiện thoả mãn nó nữa. Như nhu cầu hớt tóc chẳng hạn. Mỗi tuần hoặc nửa tháng ta phải bỏ ra nửa giờ để hớt tóc, lại phải làm việc thêm một chút để kiếm được 5-10 đồng trả công người thợ. Có khi một nhu cầu tạo ra ba bốn nhu cầu khác. Nhu cầu sẽ còn mỗi ngày một tăng thêm, không biết thế nào là cùng. Bạn thử tưởng tượng, như vậy đời chúng ta sẽ còn bận rộn biết bao nhiêu! Hiện nay, trong phần đông các gia đình, một người không còn kiếm tiền đủ để nuôi 5-6 người, có khi cả chục người như hồi xưa. Tại các châu thành lớn, nhiều gia đình chưa có con mà cả chồng lẫn vợ đã phải làm việc cực nhọc mới đủ ăn. Công việc nhà phải bỏ bê. Người nào có phước thì được mẹ già trông nom giùm. Mà kiếm được người ở bây giờ, không phải là việc dễ. Ông Tham ông Phán thời này đừng hy vọng gì nuôi một anh xe, một anh bếp, một vú già và một chị sen hoặc một anh bồi cho mỗi cô mỗi cậu nữa. Không ai ham cảnh “cơm thầy cơm cô” và trong xã hội, không thiếu gì công việc cho anh em lao động. Người ở đã khó kiếm lại khó giữ. Họ đã biết nhân phẩm, quyền lợi của họ: họ hiểu rằng về mặt pháp luật, họ bình đẳng với chủ nhân nên không chịu để chủ bóc lột, bắt làm việc quần quật từ sáng đến tối, tháng này qua tháng khác. Họ muốn nghỉ ngơi mỗi ngày vài giờ, mỗi tuần nửa ngày, mỗi năm dăm bảy ngày. Họ có lý và chỉ những kẻ lạc hậu mới không chịu cho họ những điều họ đòi hỏi ấy. Tóm lại, tình cảnh của phần đông các gia đình ở châu thành bây giờ như vầy: -     Công việc trong nhà rất nhiều. -     Thời giờ của người chủ thì ít. -     Mà người ở khó kiếm, không chịu làm nhiều giờ như hồi xưa. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, người ở sẽ hiếm như ở Âu, Mỹ và những gia đình trung lưu chỉ còn cách mướn người chuyên môn mỗi ngày lại nhà làm một vài công việc nào đó trong một thời gian nhất định thôi 1. Trở lại thời trước đã không được mà than tiếc nó chỉ vô ích, nên ta phải kiếm cách thích nghi với thời đại. Thời đã mới, cách sống đã mới thì cách làm việc cũng phải mới. Ta phải biết tổ chức công việc trong nhà cũng như tổ chức công việc trong sở, trong hãng. Tình thế bắt buộc ta như vậy mà sự thế tất nhiên phải tới như vậy. Ở Mỹ, sau khi khoa học tổ chức đã được áp dụng trong kỹ nghệ, tức là có những người đem thực hành nó trong gia đình, mà người đầu tiên là ông F. Gilbreth. Sau ông, có bà Christiane Frederick, tác giả cuốn “Le Taylorisme chez soi”. Ở Pháp, ông H.L.Rumpf viết cuốn “L’organisation familiale” (Editions Drouin) cách đây 20 năm. Ngoài ra lại có những tạp chí như “Mamans, avec moins de fatigue” ... Tại nước nhà từ trước đã xuất bản nhiều cuốn về gia chánh, chỉ cách nấu ăn may vá... nhưng chưa có cuốn nào dạy cách tổ chức gia đình. Gần đây, trên tuần báo “Mới” trong mục “Kim chỉ nam của bà nội trợ”, bà Hoàng Thị Hạnh viết một loại bài về cách xếp đặt việc nhà, nhưng lời khuyên rời rạc, không thành một hệ thống và đọc xong, các bà nội trợ không học được tinh thần tổ chức. Mà chính tinh thần ấy mới là quan trọng hơn cả. Có nó, ta mới biết tổ chức trong mọi trường hợp và biến hoá cách làm việc cho hợp với hoàn cảnh. Thiếu nó, ta sẽ luýnh quýnh mỗi khi gặp một trường hợp không chỉ sẵn trong sách. Vì lẽ ấy, chúng tôi viết cuốn này để giảng rõ tinh thần đó, vạch những quy tắc quan trọng rồi dẫn nhiều ví dụ giúp độc giả biết cách thực hành. Tất nhiên là chúng tôi không dám múa rìu qua mắt thợ mà bàn cách luộc rau, kho cá, cắt áo thêu khăn... Chúng tôi không biết gì về những công việc đó. Chúng tôi chỉ chú trọng đến những phương pháp tiết kiệm thì giờ, tiền bạc và sức lực, mục đích là giúp cho bà nội trợ tổ chức gia đình sao cho mọi việc xong xuôi mà có thì giờ để nghỉ ngơi, tiêu khiển, chơi với trẻ hoặc học hỏi thêm, và may ra bớt được nhiều lo lắng về vấn đề tài chính chăng. Chúng tôi sẽ phải dùng ít nhiều danh từ còn lạ tai đối với phần đông độc giả mà chúng tôi sẽ ráng giảng giải một cách thông thường để những bà nội trợ nào ít học nhưng chịu suy nghĩ cũng có thế hiểu được. Sách chủ ý viết cho các bà nội trợ, nhưng chúng tôi tưởng các bạn trai đã lập gia đình cũng nên đọc nó. Phụ nữ có nhiều đức quý như lòng vị tha, đa cảm, đức kiên nhẫn, tự tin... nhưng thường theo trực giác mà không chịu luận lý, lại cố chấp, thiếu phương pháp. Vì vậy, nếu các ông chồng hiểu rõ những quy tắc trong cuốn này rồi giúp các bà vợ cùng nhau tổ chức việc nhà thì kết quả sẽ mau hơn và không khí trong gia đình cũng sẽ đầm ấm hơn. Chúng tôi vẫn biết đàn ông mà bàn về công việc nội trợ thì không khỏi mang cái tiếng việt vị. Nhưng chúng tôi nghĩ đã không dám lấn vào phạm vi gia chánh, tức may vá, nấu nướng, mà chỉ xét những quy tắc để tổ chức việc nhà, thì các bà các cô cũng không nỡ trách; nên chúng tôi không do dự chi nữa mà cho xuất bản cuốn này với mục đích duy nhất là giúp phụ nữ Việt Nam tập sống đời sống mới tức đời sống có tổ chức, tổ chức bản thân và tổ chức gia đình rồi sau cùng tổ chức xã hội. Long Xuyên ngày 15-2-1953 Mời các bạn đón đọc Tổ Chức Gia Đình của tác giả Nguyễn Hiến Lê.
Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh - Nassim Nicholas Taleb
Trong Khả năng cải thiện nghịch cảnh, Taleb khẳng định vai trò quan trọng của tính bất định, làm cho nó trở nên đáng mong đợi, thậm chí cần thiết, và đề xuất rằng sự việc nên được xây dựng sao cho có khả năng cải thiện nghịch cảnh. Khả năng cải thiện nghịch cảnh không chỉ là sự mạnh mẽ hay khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi chỉ có thể chịu đựng những cú sốc và trở về nguyên trạng; trong khi khả năng cải thiện nghịch cảnh nghĩa là trở nên ngày càng tốt hơn. Quyển sách này bao trùm vấn đề phát minh đổi mới thông qua thử nghiệm và sửa sai, các quyết định trong đời sống, chính trị, quy hoạch đô thị, chiến tranh, tài chính cá nhân, các hệ thống kinh tế, và y khoa. *** Nassim Nicholas Taleb sinh năm 1960 tại Liban, là một nhà viết tiểu luận, học giả, nhà thống kê. The Black Swan (Thiên Nga Đen)là cuốn sách nổi tiếng của ông ra đời năm 2007.   Mời các bạn đón đọc Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống - Nhã Nam tuyển chọn
Bộ sách Thông điệp yêu thương lan truyền những cảm hứng về cuộc sống, về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò… thông qua những mẩu chuyện, những câu nói giúp bạn sống lạc quan, yêu đời, hạnh phúc và thành công hơn. Hi vọng mỗi cuốn sách sẽ là quà tặng ý nghĩa, là người bạn đồng hành cùng bạn đọc trong cuộc sống. Cuốn sách Luôn mỉm cười với cuộc sống gồm những câu văn, câu chuyện ngắn đầy yêu thương giúp bạn thật sự lạc quan trong cuộc sống dù cuộc sống của bạn không ngừng với những bộn bề lo toan… Mời các bạn đón đọc Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống của tác giả Nhã Nam tuyển chọn.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3
Quyển một “Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” đã giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về Sáng tạo học và Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM). Quyển hai “Thế giới bên trong con người sáng tạo” và quyển ba “Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống” có mục đích trình bày các kiến thức, được rút ra một cách chọn lọc từ những khoa học có đối tượng nghiên cứu là tư duy, hoặc liên quan, hỗ trợ hoạt động tư duy. Các kiến thức này đóng vai trò các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM, theo nghĩa, chúng giúp bạn đọc hiểu cơ sở khoa học của PPLSTVĐM và sử dụng các công cụ có trong PPLSTVĐM (sẽ trình bày từ quyển bốn trở đi) một cách chủ động với hiệu quả cao. Như bạn đọc đã biết, quyển hai dành nói về tâm lý học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, nhằm giúp bạn đọc biết, hiểu và sử dụng những hiện tượng phong phú thuộc thế giới bên trong của mình tốt hơn. Từ đó, bạn đọc có thể thấy rằng, cần có những nỗ lực cá nhân hướng đến phát triển khả năng điều khiển thế giới bên trong cũng như các hành động của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển các nhân cách sáng tạo. Quyển ba này trình bày các kiến thức lấy từ lôgích học hình thức, phép biện chứng duy vật và khoa học hệ thống. Theo chủ quan của người viết, cùng với quyển hai, đây là những kiến thức cần thiết nhất và phục vụ tốt nhất trong tư cách là các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM. Giống như trong quyển hai, những gì trình bày trong quyển ba này là kết quả người viết được học, tự học, nghiên cứu và sử dụng chúng. Bạn đọc nên xem những gì viết ở đây chỉ là tối thiểu, mang tính chủ quan, do vậy, cần tự suy xét, đánh giá và tìm hiểu sâu, rộng thêm các kiến thức liên quan thông qua những nguồn khác. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Vào thế kỷ 17, 18, cơ học cổ điển của Galileo, Newton... đạt được nhiều thành tựu lớn cả trong nhận thức thế giới lẫn giải quyết các bài toán thực tiễn đề ra, tạo nên sự phát triển xã hội mạnh mẽ. Có lẽ vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa các luận điểm cơ học cổ điển thành thế giới quan (chủ nghĩa) cơ giới: Giải thích sự phát triển của tự nhiên và xã hội bằng các quy luật của hình thức cơ học vận động vật chất. Những quy luật đó được xem là phổ biến và đúng cho tất cả các hình thức vận động vật chất. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa cơ giới là sự đánh đồng một cách trừu tượng hình thức vận động vật chất bậc cao với hình thức vận động vật chất bậc thấp: Ví dụ, hình thức xã hội với sinh học; sinh học với hóa học hoặc/và vật lý... cho đến cơ học. Tuy có những hạn chế, thế giới quan cơ giới là sự tiến bộ vào thời kỳ đó và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, triết học. Các kiến thức cơ học giúp người ta hiểu, giải thích được nhiều hiện tượng tự nhiên, thoát khỏi các quan điểm thần bí, tôn giáo giáo điều. Việc dùng các quy luật cơ học ra ngoài phạm vi áp dụng của chúng (xem mục nhỏ 6.5.4. Tính ì tâm lý do ngoại suy ra ngoài phạm vi áp dụng của quyển hai) và tuyệt đối hóa chúng tạo nên bức tranh cơ giới về thế giới: Toàn bộ vũ trụ (từ nguyên tử đến các hành tinh) là hệ cơ học khép kín, bao gồm những yếu tố không thay đổi mà sự vận động của chúng tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển. Tư duy tương ứng với mức phát triển nói trên của khoa học chính là tư duy siêu hình. Sự phát triển tiếp theo của khoa học cho thấy, các cố gắng dựa trên các quy luật cơ học cổ điển để giải thích các hiện tượng điện–từ, hóa học, sinh học, đặc biệt, các hiện tượng xã hội đã hoàn toàn thất bại. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như cách tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới (Mechanistic Approach), được dùng phổ biến từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”... Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: 1) Nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; 2) Xây dựng các mô hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống; 3) Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng các quan điểm, phương pháp hệ thống; 4) Là cơ sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3 của tác giả Phan Dũng.