Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Máu Hiếm - Phan Hồn Nhiên

Truyện Máu hiếm của nhà văn Phan Hồn Nhiên được ra mắt độc giả hè 2012 dưới dạng ấn phẩm in kèm của một tờ báo của tuổi học trò. Đến nay, cuốn truyện khoa học viễn tưởng vẫn tiếp tục chứng tỏ sức hút với bạn đọc. Vì thế, Nhà xuất bản Kim Đồng quyết định in truyện thành sách thực thụ, dành cho đối tượng bạn đọc mở rộng chứ không chỉ tập trung cho teen như trước đây. "Phan Hồn Nhiên là nhà văn có lượng độc giả hâm mộ. Các tác phẩm của cô thường được chọn in lại liên tục", một biên tập viên của nhà xuất bản cho biết. Trong khi thể loại sci-fi còn khá mới mẻ và lạ lẫm với độc giả, khán giả trong nước, Phan Hồn Nhiên đã chuẩn bị nguồn tư liệu và vốn kiến thức phong phú để chinh phục thể loại này. Chị mất một năm để hoàn thành truyện dài Máu hiếm. "Tôi vừa viết, vừa chiêm nghiệm vừa sửa tới sửa lui từng ý một", nữ tác giả cho biết. Cuốn sách kể về hành trình phiêu lưu của Vinh - một chàng trai trẻ phải dấn thân khám phá những bí mật khiến cho bố mẹ anh mất tích đột ngột. Bố Vinh là thành viên của một hội kín được lập nên từ ba nhà khoa học vốn là bạn bè từ thời sinh viên. Họ đang cùng tiến hành một công trình nghiên cứu với mong muốn có thể thay đổi căn bản phương pháp điều trị một số bệnh hiểm nghèo. Tuy vậy, trong nhóm lại nảy sinh những mâu thuẫn. Có thành viên mong những phát kiến khoa học được đem ra giúp ích cho xã hội. Nhưng cũng có người muốn thành tựu khoa học này phục vụ cho mục đích làm giàu của bản thân. Vinh vượt qua nỗi khiếp sợ, sự cô độc và những tấn công vô hình từ nhiều phía để khám phá các âm mưu đằng sau câu chuyện khoa học. Để dẫn dắt độc giả, Phan Hồn Nhiên dùng lối viết miêu tả kết hợp với tiết tấu nhanh. Từ trang viết, tác giả đặt ra các vấn đề: Ý nghĩa sự tồn tại của con người nằm ở đâu? Đâu là mục tiêu mà khoa học và nghệ thuật hướng đến? Trong cuộc giằng co giữa giá trị tình cảm và danh vọng, của sức mạnh của tình yêu thương, bên nào sẽ chiến thắng? Phan Hồn Nhiên cho biết, chị vẫn còn tiếp tục sáng tác với sci-fi chứ không chỉ dừng lại ở một cuốn. 9h30 sáng 5/7, nữ tác giả và cây bút Phạm Bá Diệp cũng có buổi giao lưu văn học với độc giả về chủ đề "Fantasy trong văn chương Việt". *** Quãng đường quay trở về đột nhiên bị thu ngắn. Họ duy trì nhịp bước đều đặn, xuyên qua cánh rừng, xuyên qua khu mê cung. Họ bước song song. Nhưng cô gái vẫn giữ vai trò người dẫn đường. Đỉnh tòa nhà lớn lờ mờ hiện ra giữa các khối mây nặng trĩu hơi ẩm. Mặt trăng biến mất. Bóng tối đã biến thành đôi cánh khổng lồ sải rộng, bay đến từ đằng sau. Lúc này, Vinh nhận ra họ không hẳn quay về theo lối đi cũ. Ở đoạn cuối, thay vì men theo vệt đường mòn lác đác bụi cây của khu vườn, họ lọt vào một khu dân cư vắng lặng. Các ngôi nhà như những chiếc hộp nhiều kích cỡ xếp san sát, chồng khít lên nhau, tạo thành từng khối lập thể thẳng hàng. Đường phố không quá chật hẹp, nhưng bề mặt phẳng mịn của những bức tường cao vút tạo cảm giác mọi thứ bên trong chúng đều bị thu nhỏ, có thể bị nghiền nát bất kỳ lúc nào. Thảng hoặc, như một ống dẫn hun hút, lối đi giữa các khối nhà hình học đột ngột mở ra. Những đợt gió nhuộm đẫm mùi chlorine thốc tới theo các đường ống dẫn, khiến hai cái bóng đang bước lầm lũi đổ gập về phía trước. Mở căng mắt, chàng trai trẻ thử tìm một cánh cửa nào còn hé mở, một ngọn đèn còn chưa tắt trong một ô kính, hoặc một tiếng người khẽ vang lên từ một căn phòng… Nhưng không gì cả. Một sự im lìm trống rỗng, chỉ có thể tìm thấy ở quãng nghỉ giữa hai chương nhạc, nhưng trong quãng nghỉ ấy, theo một sắp đặt bí hiểm, các nhạc công cũng đã biến mất. Bất động tuyệt đối. Lạnh. Thứ hơi lạnh không phải của thời tiết, mà tỏa ra từ các mặt tiền nhà câm lặng. Loãng hơn bình thường, không khí vào phổi mang theo mùi thuốc tẩy trùng. Có gì đó ở nơi đây còn đáng sợ hơn cái mê cung bằng cây lá họ đã đi qua hay ngọn đồi hoang nơi họ tìm thấy cái hòm chôn vùi. Ngay cả khi mọi chi tiết kiến trúc được duy trì ở tình trạng ngăn nắp chỉnh chu, không gian sạch tinh không chút rác rưởi, thì khung cảnh và bầu không khí vẫn hệt như trong một bệnh viện hoang phế, hay trong một thành phố chết. Chỉ khi đế giày Vinh lướt trên tấm lưới sắt đặt cách quãng đều nhau trên mặt vỉa hè, đôi chân bất ngờ cảm nhận một luồng hơi nóng mỏng nhẹ phả lên từ các miệng hố sâu hút, bằng chứng không thể phủ nhận của hoạt động máy móc đang hiện diện đâu đây, cậu mới tạm tin rằng nơi này vẫn có dấu vết con người và hoạt động của sự sống. Đã hơn bốn giờ. Vệt sáng mỏng đầu tiên của ngày hửng lên từ phía Đông đường chân trời. Đường viền của các khối nhà cũng như chất liệu của chúng đã nhìn thấy rõ hơn. Một số bức tường được xây từ thứ gạch nén sâu đậm, để trần không trát vữa, để lộ vết tích thời gian khi bị các đợt gió nhuốm mùi hóa chất và thứ hơi ẩm khắc nghiệt bào mòn. Nhưng đáng chú ý hơn, phần lớn các bức tường đều phủ kim loại. Những tấm kim loại khổng lồ liền lạc, không đường nối, bọc lấy các ngôi nhà hình hộp. Một số tấm còn mới tinh, phản chiếu các khối kiến trúc đối diện. Có một lúc, rẽ ngoặt theo người dẫn đường, Vinh ngỡ nhìn thấy ai đó đang bước về phía mình. Tuy nhiên, chỉ là hình bóng bị khúc xạ của chính cậu và cô gái mặc bộ váy dạ hội lem luốc in trên tấm gương théo sáng loáng mà thôi. Nếu người nhạc công trẻ chưa thoát khỏi trạng thái bối rối lo sợ thì ngược lại, Lữ Hòa tỏ ra hết sức quen thuộc với dãy phố lẫn lối đi tắt. Cô ta vượt lên trước Vinh vài bước chân. Làn hơi nước trắng đục phả về sau, tỏa ra từ hơi thở gấp gáp của cô. Đôi chân rã rời cùng sức lực gần như bị vắt kiệt sau một ngày xảy ra dồn dập quá nhiều sự kiện, Vinh gằn bước lên, đuổi kịp cô gái: - Chúng ta đang đi đâu vậy? Người đồng hành không trả lời. Cô ta vẫn sải bước, tốc độ gần như chạy. Giờ thì không ngại ngần nữa, Vinh vươn tay, tóm lấy khuỷu tay khô khốc của cô ta, giật nhẹ: - Ban nãy, khi thỏa thuận đi cùng nhau, cô không nói chúng ta sẽ tới đây! Vì vậy, nếu cô không cho biết nơi đây là đâu, chúng ta tới đây nhằm mục đích gì, thì tôi sẽ không đi theo cô nữa! - Nhìn kìa! – Không trả lời vào các câu hỏi, cô gái đột ngột hất cằm. Hướng nhìn của Vinh chuyển theo chỉ dẫn của người đồng hành. Vượt lên trên các khối hộp bê tông chồng chất, có một chiếc cần cẩu cao lênh khênh. In lên nền trời tím tái, khối kim loại han gỉ phả vào không gian chung quanh hơi thở lạnh lẽo của sự lãng quên. Vài gióng xương bằng sắt của cái cần cẩu tuột ốc, rôi xuống lỏng lẻo hoặc chĩa ra ngoài, đâm vào khoảng không. Thấp hơn một chút, sà xuống, gần như chạm vào mái nhà bên dưới, là hai sợi thừng lớn. Giữa hai sợi dây ấy, một túm vải rách bươm, bay phần phật cuồng loạn. Đột ngột, như cảm nhận được ai đó đang nhìn mình, các dải vải tả tơi bỗng im thõng. Rồi không hề có dấu hiệu báo trước, chúng lại tiếp tục đu đưa phất phơ. Trong khung cảnh chỉ có vài khối nhà, không hề hiện diện bóng cây và mọi thứ đều bất động, sự chuyển động lẫn dừng khựng kỳ dị ấy gây nên một ấn tượng ma quái. Không chỉ thân thể Vinh đông cứng, mà các ý nghĩ trong đầu cậu cũng tê dại, mất sạch mọi phán đoán. Phải khá lâu, câu hỏi đơn giản mới có thể thốt ra: - Cái gì vậy? - Phần còn lại của một người nào đó! – Lữ Hòa nhún vai. Cô ngoảnh hẳn về người nhạc công, nói thản nhiên, như thể cô quá quen thuộc với các giải thích kiểu này – Bất kỳ một kẻ lạ nào đến đây mà không được cho phép, đều có kết cục như thế. - Tại sao? – Vinh choáng váng. - Anh không đoán ra ư? Đây là khu vực cấm. Anh thấy rồi đấy, không một sinh vật nào, dù là côn trùng, có thể tồn tại trong bầu không khí này. - Cô thì sao? - Tôi đến bất cứ nơi nào tôi muốn, dù được phép hay không. - Còn tôi bị bắt, bị trừng phạt tàn khốc, vì nơi đây, tôi không được phép có mặt? - Phải. - Cô được quyền đi lại trong khu vực này dễ dàng, thế nên cô đặt tôi vào tình thế của một kẻ lệ thuộc. Và nếu không muốn chết, nhất cử nhất động của tôi sẽ phải tuân theo điều khiển của cô, như một tên ngốc! – Vinh cao giọng, với cơn giận chực bùng nổ. - Nhầm rồi, Vinh! – Lữ Hòa thì thầm, đôi lông mày sắc nét cau lại. Bằng cách ấy, cô ta ngầm nhắc nhở người đối thoại rằng, gây ồn ào lúc này là điều vô cùng ngu xuẩn. Rồi vẫn giữ cung giọng rất thấp, cô ta chậm rãi nhấn mạnh từng từ - Cũng như anh, tôi sẽ nhận trừng phạt hệt những kẻ tọc mạch khác, bị treo lên kia cho đến chết, bị bỏ mặc mục ruỗng, nếu tôi bị bắt gặp trong khu vực cấm này. Người nhạc công trẻ chết lặng. Ánh nhìn của cô gái đối diện đặt vào một điểm nào đó phía sau lưng cậu. Đôi mắt thẫm lại của cô ta chất chứa nỗi giận dữ, giễu cợt, nhưng hơn hết, là sự đau đớn không thể che giấu. Một số niềm tin vốn tạo nên thành trì của lòng can đảm bắt đầu rạn vỡ trong Vinh. Những kinh nghiệm từ tuổi nhỏ cô độc luôn buộc cậu xác định vị thế bất kỳ người nào mà mình tiếp xúc: Là một ai đó không cần để tâm. Là một ai đó buộc phải duy trì mối liên hệ cần thiết. Hoặc kẻ thù. Chỉ có ba lựa chọn. Xúc cảm yếu mềm là món xa xỉ, có thể dành cho bất cứ ai, trừ cậu. Nhưng, ở đây - một nơi không ngờ đến, lúc này – thời khắc không ngờ đến, cô gái ở bên cạnh đột nhiên đưa cậu đến một phát hiện kỳ lạ về chính mình. Cô ta vừa là tất cả, nhưng cũng không là ai trong ba mẩu hình có sẵn. Vinh đã nhận ra, bằng sức mạnh thản nhiên phơi bày, bằng sự yếu ớt cố gắng che đậy, thật tự nhiên, cô ta buộc cậu phải dành cho mình một vị trí khác, một xúc cảm chưa từng biết đến trước kia. Đó là thứ rung động xa lạ, làm khối cơ trong lồng ngực cậu thắt lại, vừa hãi sợ muốn lãng tránh, vừa muốn tiến đến thật gần, giữ lấy cô ta, che chắn cho cô ta khỏi những nguy hiểm vô hình đang lảng vảng đâu đây. Lữ Hòa tiếp tục bước đi. Tay cô khoanh lại trước ngực, chống cự khí lạnh càng lúc càng tê buốt. Đôi vai mảnh khảnh luôn vươn thẳng kiêu hãnh hơi rủ xuống, tựa một lời thừa nhận câm nín về sự cảnh giác mệt mỏi và bất an đeo bám. Vinh lẳng lặng đi theo cái bóng co ro phía trước. Cả hai không trao đổi. Trong lặng thinh, họ bỗng thấy rõ rật tình trạng yếu ớt, cô độc và quá khó khăn để chia sẻ của mình. Vinh nghĩ cậu có thể bước nhanh hơn, chạm nhẹ vào người đồng hành, nói gì đấy với cô. Điều gì cũng được, chẳng hạn xin lỗi về sự ngờ vực thô bạo ban nãy buông ra. Nhưng, lời nói cứ bám lại trong cổ họng, như những chiếc lá khô mục, rời rạc, cho đến một lúc thì hoàn toàn chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Cái cần cẩu lùi dần về sau. Vinh không dám ngoảnh nhìn nó thêm. Dù chẳng hề là người yếu bóng vía, cậu vẫn không khỏi sởn gai ốc với ý nghĩ, rằng sau lưng cậu, bị treo lơ lửng trên cao, là một ai đó đã từng hít thở, đi đứng nói cười, yêu thương và giận dữ, liều lĩnh và can trường. Một ai đó đi ra từ một ngôi nhà nào đó, nơi anh ta hay cô ta đã từng gắn bó, có một chỗ quan trọng trong lòng người thân bạn bè. Nhưng giờ đây, những điều ấy chỉ còn là chút âm vọng đang tắt lịm. Tất cả đều tan biến, ngoại trừ chút tàn tích sót lại đung đưa trong làn gió lúc hừng đông. Ở lối rẽ hẹp, Lữ Hòa bỗng dừng lại trước ngôi nhà giống như một khối rubic, được bọc bởi từng mảng lớn những ô gạch nhiều màu. Một vài chỗ bong tróc, để lộ bên trong cũng là thứ gạch cùng loại, sẫm màu hơn vì lâu năm hơn. Thật kỳ quặc khi người ta không dùng vữa hay bột trát chuyên dụng, mà bảo trì ngôi nhà bằng cách phủ thêm các lớp gạch khác. Có lẽ đó là lý do khiến các khối nhà nơi đây khá nặng nề, còn các ô kính cũ thì như những con mắt lõm sâu, được bảo vệ bởi các tấm lưới sắt. Loay hoay một lúc với cánh cửa đóng chặt, như một tay trộm, bằng đầu mũi nhọn của chiếc mỏ neo mắc trên sợi dây kim loại mảnh thắt ngang eo chiếc váy dạ hội, Lữ Hòa đã mở được ổ khóa bấm. Trước khi lỉnh hẳn vào bên trong tối om, cô dặn khẽ: “Chờ tôi nơi đây, khoảng 10 phút. Đừng đi đâu hết nếu không muốn gây nguy hiểm. Tôi sẽ quay ra ngay khi lấy được thứ cần thiết!”. Vinh gật, chấp nhận dễ dàng. Đuôi váy lấp lánh ánh bạc lấm bụi đất của cô ta vừa bị bóng tối bên trong nuốt gọn, cánh cửa tức khắc khép lại, với tiếng “tách” nhẹ của ổ khóa đã được bấm chốt. Trong ánh sáng hửng lên, khung cảnh xung quanh hiện ra càng rõ nét hơn. Vỉa hè khá hẹp, lót gạch sỏi, cao hơn hẳn so với mặt đường trải nhựa. Khu vực này không quá lớn như lúc đầu Vinh tưởng. Có lẽ chỉ chừng hơn chục con đường. Nhưng các con đường ấy cắt nhau như một bàn cờ. Để xóa nhòa khả năng định hướng, Lữ Hòa đã cố ý đưa cậu đi ngoằn ngoèo qua tất cả các đường cắt trên bàn cờ ấy. Đầu gối Vinh thoáng run lập cập. Không hẳn vì lạnh. Cậu nhận ra mình đang rất đói. Suốt từ chín giờ tối hôm qua, lúc dạ tiệc khai màn, cậu đã không ăn thêm chút gì. Giá có mẩu bánh mì hay cốc sữa thì thật tốt lúc này. Không hy vọng tìm thấy thức ăn quanh đây, ngoại trừ liều mạng đột nhập vào bên trong một ngôi nhà bất kỳ. Như một cái bóng, Vinh lặng lẽ men theo bức tường gạch, rẽ trái. Ở một ô cửa sổ, lớp lưới bảo vệ đã bị bung ra khỏi bản lề. Bên trong, lớp kính ố nâu từng đốm loang lổ. Vinh nghiêng người về phía trước, chống cả hai khuỷu tay lên bệ cửa để giữ thăng bằng và đu hẳn người lên khỏi vỉa hè. Mũi giày cậu gá vào một viên gạch vỡ. Với tất cả sức lực còn lại, cậu kéo mạnh tấm lưới, giằng hẳn ra khỏi khung cửa. Một tiếng xoảng nhẹ khi tấm lưới mục rơi xuống vỉa hè. Vinh gồng người, căng thẳng chờ đợi phản ứng đáp trả. Nhưng không gì cả. Cậu rướn lên cao hơn. Hơi thở mạnh làm mờ lớp kính trước khi phả ngược trở lại vào mặt cậu. Khi đưa tay chùi lớp kính ẩm lạnh, Vinh thoáng giật thót. Nhưng chỉ là phản chiếu gương mặt của chính cậu, với đôi mắt to tướng, với hốc má tối thẫm, với vệt lông mày dày rậm nổi rõ trên vầng tráng cao trắng bệch. “Bình tĩnh và tập trung nào!” – cậu lẩm bẩm tự nhủ. Ánh sáng mờ nhạt đầu ngày chỉ cho phép nhìn thấy một phần không gian bên trong. Các căn phòng liên thông với nhau bởi những ô cửa không cánh. Ở phòng này, kê dọc theo tường là vài chiếc gương đơn bằng sắt sơn trắng, loại giường có thể điều chỉnh lên xuống bằng tay xoay cổ điển đã có mặt cách đây vài chục năm. Chắc chắn đã lâu không ai sử dụng mấy cái giường này bới chúng không có nệm, chỉ có những lò xo kim loại chăng ngang dọc. Phòng kế bên, góc nhìn khuất hơn chỉ cho thấy một dãy bàn làm việc, cũng sơn trắng xếp cạnh nhau. Phía trên, những kệ đựng hồ sơ được khóa chặt. Đột nhiên, Vinh nghĩ, trí tưởng tượng của mình đã không đi quá xa khi so sánh khu vực này với một bệnh viện bị bỏ hoang. Căn phòng mà cậu đang nhìn trộm vào chỉ có thể là nơi làm việc của bác sĩ, y tá và bệnh nhân, không thể khác được. Lần tay theo kẽ hở giữa khung kính và gờ tường, Vinh tìm cách đẩy cánh cửa này lên. Tuy nhiên, khung gỗ bao quanh tấm kính được gắn rất chặt vào tường gạch. Cách duy nhất để lọt vào bên trong là đập vỡ lớp kính. Đúng lúc người nhạc công trẻ xoay khuỷu tay trong chiếc jacket, chuẩn bị thúc mạnh, ở mặt sàn thông giữa hai gian phòng, thình lình trườn đến một bóng đen bé nhỏ. Giữ cánh tay đưa lên trong tư thế kỳ quặc, dán mặt vào vuông kính ố màu, Vinh mở căng mắt. Bóng người đang duy chuyển trên sàn đá cẩm thạch lam ngắt khựng lại, ngước lên, nhìn thẳng vào mắt kẻ bám vào ô kính ... Mời các bạn đón đọc Máu Hiếm của tác giả Phan Hồn Nhiên

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cháu ông Rameau - Denis Diderot
Cháu ông Rameau bắt đầu được sáng tác vào khoảng 1761, nhưng mãi đến 1779 mới hoàn thành, là một thể nghiệm táo bạo của Diderot tiếp tục tìm tòi nội dung và hình thức mới của tiểu thuyết. Đó là “kiệt tác duy nhất” theo chữ dùng của Marx (1818-1883), và là “kiệt tác về mặt biện chứng” theo đánh giá của Engels (1820-1895). Cháu ông Rameau là một người có thật, tên là Jean-François Rameau, cháu gọi nhạc sĩ nổi tiếng Jean-Philippe Rameau (1683-1764) là bác ruột. J-F. Rameau kém Diderot vài tuổi. Hắn vốn là một gã đê tiện, sống cuộc đời ăn bám bằng cách nịnh hót hoặc làm trò hề mua vui cho những kẻ có tiền bạc và đến năm 1771 thì chết trong một nhà tế bần dành cho những kẻ vô gia cư. Tiểu thuyết viết theo hình thức đối thoại giữa “Tôi” và “Hắn” trong tiệm giải khát La Régence ở gần Hoàng-Cung, vào một buổi chiều, bên cạnh những người đang chơi cờ. Nếu như đối thoại choán gần hết từ đầu đến cuối trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, chỉ mãi đến khi gần kết thúc mớỉ xuất hiện vai trò của người kể chuyện, thì ở Cháu ông Rameau, người kể chuyện xuất hiện nhiều hơn. Tác phẩm mở đầu bằng lời của người kể chuyện: “Dù đẹp trời hay thời tiết xấu, tôi có thói quen cứ đến năm giờ chiều đi dạo ở Hoàng-Cung. Thiên hạ luôn thấy tôi chỉ ngồi một mình, mơ mộng trên chiếc ghế dài ở Àrgenson[9]. Tôi trò chuyện với bản thân tôi về chính trị, về tình yêu, về thị hiếu và về triết học. Tôi mặc cho đầu óc tôi tha hồ bông lông...” Tiếp đó câu chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” hơn hai chục lần bị ngắt quãng bởỉ lời của người kể chuyện, đó thường là những đoạn ngắn với lối văn tự sự, kể chuyện ở ngôi thứ ba. Khác với mối quan hệ giữa người kể chuyện và “Người trò chuyện thứ nhất” trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, ở tiểu thuyết này, người kể chuyện và “Tôi” có thể xem là đồng nhất. Có nhiều dấu hiệu gắn bó hai nhân vật ấy[10] với chính tác giả, chẳng hạn trong khi trò chuyện, “Hắn” thường xưng hô với “Tôi” là thưa ông triết gia... và nhiều chi tiết khác ám chỉ đến quá khứ nghèo khổ của Diderot. Nhưng dẫu sao, trong khuôn khổ của tiểu thuyết, không thể và không nên quá nhấn mạnh vào sự trùng khớp này. Trong cuộc trò chuyện ở Ý kiến ngược đời về diễn viên, “Người trò chuyện thứ hai” thường nói ngắn, dường như chỉ đóng vai trò đưa đẩy cho “Người trò chuyện thứ nhất” mà thôi. Đến Cháu ông Rameau, lời nói chủ yếu thuộc về “Hắn”. Triết gia chủ yếu là gợi mở để cho “Hắn” nói, hoặc khi thấy những quan niệm của hắn vô liêm sỉ quá, bắt buộc phải nói dài để phản đối. Vì vậy, hầu như từ đầu đến cuối, ta chỉ nghe vang lên tiếng nói của Rameau trình bày với triết gia về cuộc sống đê tiện của hắn, cùng với những ý nghĩ, những quan niệm của hắn về xã hội và thế thái nhân tình. Có tài liệu cho rằng cuộc trò chuyện giữa tác giả và cháu ông Rameau (gọi tắt là Rameau) là có thật, nên có thể đồng nhất “Tôi” với Diderot và “Hắn” với Jean-François. Ý kiến ấy không thỏa đáng. Một tác phẩm viết trong gần hai mươi năm mới xong chắc chắn không phải chỉ là một cuốn kí sự đơn thuần, một tập biên bản ghi lại trung thực sự việc xảy ra. “Hắn” có nhiều khả năng không hoàn toàn là Jean-François, cũng như “Tôi” là triết gia, nhưng không nhất thiết là triết gia Diderot. Tác giả chắc đã nhìn thấy trong số phận Rameau những nét đặc biệt của thời đại ông và từ nguyên mẫu đó xây dựng nên một nhân vật có tính khái quát xã hội. Lại có ý kiến cho rằng anh chàng ăn bám Rameau sống một thời gian quanh quẩn gần Hoàng-Cung, nên Diderot thỉnh thoảng gặp hắn ta, nhưng không hề diễn ra cuộc trò chuyện giữa hai người trong tiệm giải khát La Régence. Đây chỉ là tác phẩm hoàn toàn hư cấu. Đoạn mở đầu tác phẩm đã dẫn ra trên kia đặc biệt có ý nghĩa. Người kể chuyện có thói quen dạo chơi một mình, mơ mộng một mình và trò chuyện cũng với chính bản thân mình chiều chiều ở Hoàng-Cung. Vậy “Tôi” và “Hắn” ở đây cũng chỉ là hiện tượng lưỡng hóa nghệ thuật như biện pháp lưỡng hóa được sử dụng trong Ý kiến ngược đời về diễn viên mà thôi. Thực chất của những “đối thoại” này là “độc thoại”, hay đúng hơn là “độc thoại nội tâm” phơi bày lên trang giấy những suy tư trăn trở miên man của bản thân, mong đi tới chân lí. Jean-Marie Goulemot so sánh chức năng của đối thoại ở đây với phép đỡ đẻ (maieutique), hiểu theo nghĩa phương pháp gợi hỏi của Socrate (470-399 TCN) nhằm hướng dẫn tìm ra chân lí còn đang thai nghén tiềm tàng ngay trong bản thân Diderot. Rameau, nhân vật chính của tiểu thuyết này, có thể nói hoàn toàn có thật mà cũng hoàn toàn hư cấu. Hắn có thể nhận ra chân dung của mình qua những dòng sau đây: “Chẳng có gì khác với hắn hơn là chính bản thân hắn. Đôi khi, hắn gầy gò và xanh xao như một người ốm sức tàn lực kiệt; ta như đếm được qua hai bên má những chiếc răng của hắn. Ta tưởng đâu hắn đã nhiều ngày chẳng ăn uống gì, hoặc là hắn vừa ra khỏi tu viện dòng Trappe. Đến tháng sau hắn lại béo mập và đẫy đà như thể hắn chưa từng rời bàn ăn của một nhà tài chính, hoặc là hắn bị lưu giữ trong một tu viện dòng thánh Bernard. Hôm nay ăn mặc bẩn thỉu, quần áo rách bươm, vá chằng vá đụp, hầu như giày dép chẳng có, hắn cúi gầm mặt xuống mà đi, lén la lén lút, khiến người ta như chỉ muốn gọi hắn để bố thí cho hắn. Hôm sau, đầu tóc chải chuốt, áo quần giày dép tinh tươm, hắn ngẩng cao đầu bước đi, vênh vang, và bạn có lẽ tưởng đâu hắn là một bậc hào hoa phong nhã...” Nhưng Jean-Marie Goulemot cũng hoàn toàn có lí khi nhận định rằng những dòng miêu tả Rameau trên đây, để cho hắn thay đổi dáng vẻ tuỳ ngày, tuỳ mùa... chính lại là một cách phủ nhận hoàn toàn sự có thực của nhân vật này[11]. Rameau là một nhân vật tiểu thuyết. Xét về mặt hình thức, cuộc trò chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” có vẻ giống như bất cứ cuộc trò chuyện nào thuộc loại ấy, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, chẳng đi theo một trình tự ấn định trước. J-M. Goulemot lưu ý chi tiết phụ đề của tác phẩm này là “truyện châm biếm” - satire - bắt nguồn từ chữ latin “satura” có nghĩa là món hổ lốn, mớ hổ lốn, tập tạp văn. Nhưng đằng sau cái vẻ ngoài linh tinh, Goethe nhận định “câu chuyện đối thoại này thật ra có mạch lạc tài tình; người nào tưởng rằng cuộc đối thoại ấy rời rạc lỏng lẻo như một cuộc trò chuyện thường thì thật là lầm; nó chỉ giống cuộc trò chuyện thường ở chỗ linh hoạt mà thôi”[12]. Theo Michel Launay, câu chuyện lần lượt xoay quanh bốn chủ điểm. Thoạt tiên là “Nhận xét về con người và tính cách”. Tiếp đến là “Đạo đức”, chứa đựng những suy nghĩ về các khái niệm lương thiện và bất lương, thiện và ác và về việc giáo dục con cái. Thứ ba là “Triết học” với những suy nghĩ về lí lẽ của các hiện tượng, về bản chất của các sự vật. Cuối cùng là “Thị hiếu” bàn luận về mĩ học, về thiên tài, về âm nhạc, về sáng tác văn học[13]. Rameau vốn là người có sức khoẻ, thông minh và chẳng phải không yêu đời, tuy cuộc sống của hắn có nhiều điều bất hạnh. Hắn có những khả năng đặc biệt, rất yêu âm nhạc và rõ ràng có thể trở thành một nhạc sĩ khá. Nhưng Rameau chọn cái nghề dễ dàng nhất, cũng khó khăn nhất vì nó đòi hỏi phải có trí thông minh, phải lanh lẹn tháo vát, đó là nghề ăn bám. Hắn phủ nhận tất cả những cái gì tốt đẹp ở trên đời và chỉ công nhận một nguyên tắc sống là thoả mãn những bản năng đê hèn, tuy hắn biết như thế là bỉ ổi. Rameau là sản phẩm của xã hội phong kiến Pháp đang đi đến chỗ tan rã. Chính xã hội đã phơi bày ra trước mắt hắn cuộc sống mà bao nhiêu kẻ tai to mặt lớn lại là những kẻ không có đạo đức; trong xã hội ấy, “thiên hạ ca ngợi đức hạnh, nhưng thiên hạ ghét nó, nhưng thiên hạ trốn tránh nó, nhưng nó lạnh cóng, mà trong thế gian này lại cần phải có đôi bàn chân ấm nóng”; trong xã hội ấy, chính những kẻ quyền quý đã dạy cho hắn lòng căm ghét những người lương thiện như lập luận của vị thượng thư kia khi chứng minh rằng “đối với nhân dân không có gì ích lợi bằng sự dối trá và không có gì hại bằng sự thật thà”. Trong sự phủ định triệt để của Rameau, tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại chứa đựng không ít sự thật của thời đại, vì thế vẫn toát lên ý nghĩa phê phán tích cực. Rameau không ngần ngại nói toạc ra rằng ở đời “khi người ta đã giàu có thì người ta muốn làm gì mặc lòng, không bao giờ bị nhục nhã cả”, và còn vô liêm sỉ hơn, nhưng chẳng phải là không sâu sắc: hắn tuyên bố con tôi sẽ phải giàu có... “Cháu sẽ có vàng, tôi xin nói với ông như vậy. Nếu cháu có nhiều vàng, thì cháu sẽ chẳng thiếu gì hết, kể cả lòng tôn trọng và sự kính nể của ông”. Tác giả viết: “Rameau là một người đáng ghét không hơn không kém những kẻ khác, chỉ có điều hắn thẳng thắn hơn, nhất quán hơn và đôi khi sâu sắc hơn trong sự hư hỏng của mình”. Rameau không đơn thuần là sản phẩm thụ động của xã hội. Hắn còn vượt lên trên xã hội, quan sát nó bằng con mắt có ý thức và trí thông minh sẵn có. Hắn mò mẫm tìm ra nguyên nhân của những bất công trong xã hội: “Sự sắp đặt quỷ quái gì mà có những kẻ ngốn đầy ứ đủ thứ, trong khi những người khác có cái dạ dày quấy nhiễu như họ, có cái đói tái phát như họ, mà lại chẳng có gì để đút vào miệng”. Hắn hiểu rằng “trong thiên nhiên có các loài vật xâu xé nhau, trong xã hội có các giai cấp xâu xé nhau”. Nhưng Rameau lại rút ra kết luận muốn trở thành “một tên kẻ cướp sung sướng giữa những tên kẻ cướp giàu có”, vì hắn lí luận rằng “người ta phỉ nhổ một kẻ lưu manh tầm thường, nhưng không thể không cảm phục một tên đại gian đại ác”. Rameau chính là hình ảnh lớp người đang vật lộn trong xã hội lúc bấy giờ để tự khẳng định, nhưng cuộc đấu tranh của họ không vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân do đó rơi vào bế tắc. Có ý kiến cho rằng trong cuộc trò chuyện này, Rameau hoàn toàn nắm quyền chủ động. Những lập luận của hắn tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại có sức lôi cuốn ghê gớm ngay cả đối với người đang ngồi trò chuyện với hắn và thỉnh thoảng lên tiếng phản đối. Dường như “Tôi” chỉ phản ứng lấy lệ, chứ trong thâm tâm thầm cảm phục “Hắn”. Có ý kiến lại cho rằng Rameau chỉ có vẻ thắng thế trong phần thứ hai trên bình diện lí thuyết, nhưng sang đến phần sau, triết gia dễ dàng chứng minh cho hắn thấy rằng mọi lí thuyết của hắn chẳng có giá trị gì trong thực tiễn, mà chỉ đưa đến những thất bại và những thái độ mâu thuẫn. Dù sao cũng phải thừa nhận có sự bắt gặp, thông cảm đến một mức độ nào đấy giữa triết gia và Rameau. Điều này cũng dễ hiểu khi ta biết rằng có thể xem “Tôi” và “Hắn” là hai mặt của chính tác giả. Triết gia tự tách một phần của mình ra để trò chuyện. Ông gán cho Rameau những ý nghĩ lời lẽ mà bản thân ông thấy bỉ ổi quá, không thể trực tiếp nói ra. Không có sự đối lập giữa “Tôi” và “Hắn”, giữa tác giả và nhân vật, giữa độc thoại và đối thoại. Đối thoại ở đây trở thành biện pháp để tác giả tự phân đôi và trình bày những mặt mâu thuẫn thống nhất của chính bản thân ông. *** Denis Diderot (1713-1784) là kiến trúc sư của công trình Bách khoa thư (Encyclopédie) đồ sộ, nhà văn có nhiều đóng góp độc đáo, nhà triết học duy vật, sôi nổi “lòng yêu chân lí và chính nghĩa”[1], nhà phê bình nghệ thuật sắc sảo. Ông là “nhà thơ lớn, nhà họa sĩ lớn, nhà điêu khắc lớn, nhà nhạc sĩ lớn... tuy chưa từng bao giờ làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, nặn tượng”[2]. Denis Diderot sinh ở Langres, một thành phố cổ kính miền Đông-Bắc nước Pháp, trong một gia đình thợ thủ công nhiều đời chuyên sản xuất các loại dao. Thuở nhỏ, Diderot học ở quê nhà; năm mười hai tuổi, nhà triết học tương lai chịu lễ cắt tóc chuẩn bị phụng sự tôn giáo. Nhưng ba năm sau, năm 1728, ông quyết định từ giã quê hương lên Paris học tập, bất chấp mọi người can ngăn. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Những năm đầu tiên sống ở Paris, nhà văn sẽ có dịp gợi lại sau này qua cuộc đối thoại kì lạ giữa “Tôi” và “Hắn” trong Cháu ông Rameau (Le Neveu de Rameau), một cuộc sống gần như lang thang, bữa đói bữa no, nay đây mai đó. Cảnh túng thiếu sẽ còn đeo đẳng ông cho mãi về già. Nhưng để bù đắp lại, Diderot được hưởng một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú. Ông thoả sức tắm mình trong không khí của thời đại; ông mở tâm hồn ra đón những luồng gió mớỉ của bốn phương; ông đọc sách của Voltaire (1694-1778), ông tham dự những buổi tọa đàm ở nhà triết gia D'Holbach (1723-1789); ông kết bạn với F.M. Grimm (1723- 1807) ở Đức vừa sang; ông được Rousseau (1712- 1778) đến thăm ở Vincennes khi bị giam cầm; ông dự đám tang Montesquieu (1689-1755)... Diderot - nhà triết học ra mắt độc giả bằng tác phẩm Những tư tưởng triết học (Les Pensées philosophiques, 1746). Liền năm sau, ông cho in Cuộc dạo chơi của người theo chủ nghĩa hoài nghi. Tác phẩm nổi tiếng Bức thư về những người mù (Lettre sur les Aveugles, 1749) khiến ông bị tống giam ở Vincennes mấy tháng. Năm 1753, ông cho in Về việc giải thích tự nhiên (Sur l’Interprétation de la nature). Đến 1772, hai tác phẩm quan trọng nữa ra đời: Trò chuyện giữa Diderot và D'Alembert và Giấc mơ của D'Alembert (Le Rêve de d'Alembert). Diderot bước vào lĩnh vực văn học gần như đồng thời với triết học, nhưng Diderot - nhà văn được khẳng định sau Diderot - triết gia khá lâu, và những kiệt tác văn học của ông cũng trải qua số phận long đong hơn nhiều. Tiểu thuyết Những đồ trang sức không kín đáo (Les Bijoux indiscrets, viết năm 1745, in năm 1748) chưa bộc lộ tài năng của tác giả. Với các vở kịch Đứa con hoang (Le Fils naturel, 1757) và Người cha trong gia đình (Le Père de famille, 1758), ông thử nghiệm một thể loại mới: kịch “drame” hoặc “hài kịch nghiêm chỉnh”; đáng tiếc ở đây tài nghệ của nhà soạn kịch không tương xứng với ý đồ lớn lao. Năm 1760, ông viết cuốn tiểu thuyết Nữ tu sĩ (La Religieuse) thực sự có giá trị, nhưng mãi đến 1796, sau khi tác giả qua đời mười hai năm, mới được xuất bản. Đó cũng là số phận của kiệt tác Cháu ông Rameau, sáng tác khoảng năm 1761, lưu hành một vài bản ở dạng chép tay trong số bạn bè quen biết. Một bản theo Grimm về Đức, lọt vào tay Goethe (1749-1832), được ông dịch ra tiếng Đức. Mãi đến 1823, Cháu ông Rameau mới được dịch lại từ bản tiếng Đức để xuất bản ở Paris, và tới gần cuối thế kỉ XIX, năm 1891, ngưòỉ ta mới tìm thấy nguyên bản của nó! Tiểu thuyết không kém phần độc đáo Jacques người theo thuyết định mệnh (Jacques le Fataliste), sáng tác năm 1773, cũng phải đợi đến 1796 mới được ra mắt công chúng.   Mời các bạn đón đọc Cháu ông Rameau của tác giả Denis Diderot.
Sonechka - Lyudmila Ulitskaya
“Sonechka” là câu chuyện có âm hưởng của một bài thơ buồn kể về cuộc đời nhân vật chính: nàng Sonechka. Trải qua một tuổi thơ trầm lặng gắn liền với những cuốn sách, Sonechka bước vào cuộc sống mới, sát cánh bên chồng là Robert Victorovich-một hoạ sỹ tài danh nhưng không được chế độ công nhận, để cùng xây dựng gia đình nhỏ giữa những tháng ngày gian khó. Thế nhưng đến cuối đời hạnh phúc sụp đổ trước mắt Sonechka, Tania- đứa con gái duy nhất bỏ đi cùng người tình nghiện ngập, Robert Victorovich không thể cưỡng lại sức quyến rũ của cô nhân tình trẻ tuổi. Tất cả đều quay lưng lại với bà nhưng đều được bà tha thứ. Với một văn phong trang nhã, giàu chất thơ, cách kể chuyện thông minh, hóm hỉnh, bút pháp miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật tinh tế, sắc sảo, Ludmila Ulitskaya đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Sonechka. Đồng thời tác phẩm là sự trở lại ấn tượng và xúc động của văn học Nga với mỗi độc giả Việt Nam. *** Lyudmila Ulitskaya là một nhà văn không chỉ nổi tiếng ở Nga, mà còn được độc giả yêu thích ở nhiều nước trên thế giới. Bà được trao tặng nhiều giải thưởng văn học quốc tế như Giải thưởng văn học Medichi của Pháp năm 1996, giải thưởng Italia Dzhuzeppe Atserbi năm 1999. Năm 2001 bà được trao giải thưởng Buker của Nga. Nhiều tác phầm của bà được dịch ra hơn hai mươi thứ tiếng. Các vở kịch và văn xuôi của bà được nhiều nhà hát tên tuổi dàn dựng, một số tiểu thuyết được dựng thành phim. Tuy nhiên, ít độc giả biết bà là một nhà sinh vật học, chuyên ngành di truyền. Bà tốt nghiệp khoa sinh trường đại học tổng hợp Maxcơva mang tên Lomonoxov, một thời gian dài công tác ở Viện di truyền học thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Tên tuổi của bà bắt đầu xuất hiện vào những năm 80-90 của thế kỉ trước, khi các bộ phim dựng theo kịch bản của bà như “Chị em gái Liberti”, “Người đàn bà dành cho tất cả mọi người” được công chiếu trên màn ảnh. Tuy nhiên, bà chỉ thực sự nổi tiếng từ năm 1992, khi tạp chí “Thế giới mới” đăng truyện vừa “Sonechka” của bà. Từ đó, giới phê bình văn học bắt đầu chú ý đến Ulitscaya. Với tiểu thuyết đầu tay “Međeia và con cháu của bà”, nữ văn sĩ lọt vào vòng chung kết giải Buker Nga năm 1997. Với tiểu thuyết thứ hai “Chuyện rắc rối của Kukoxky”, bà được mệnh danh là nhà văn xuất sắc nhất nước Nga và được trao giải Buker Nga năm 2001.   Mời các bạn đón đọc Sonechka của tác giả Lyudmila Ulitskaya.
Kiếm Sống - Maxim Gorky
K iếm sống[1] là phần hai trong tác phẩm bộ ba tự thuật[2] của M. Gorky, miêu tả thời niên thiếu của cậu bé Alyosha Peskov, tức Gorky, từ năm 1878 đến năm 1884. Trong phần đầu, M. Gorky đã kết thúc Thời thơ ấu của mình bằng những dòng chua chát: “Sau khi chôn cất mẹ tôi được vài ngày, ông ngoại bảo tôi: - Này Leksei, mày không phải là cái mề đay, mày không thể lủng lẳng mãi trên cổ tao, mày hãy đi ra đời mà kiếm sống… Và thế là tôi bước vào đời.” Mới mười tuổi đầu, cậu bé mồ côi Alyosha đã bắt đầu ở với người đời, tìm hiểu cuộc sống và đấu tranh để tìm ra lối thoát cho mình. Giai đoạn này đã hình thành mối quan hệ mới của Alyosha với con người và thế giới xung quanh. Bước vào đời để kiếm sống, Alyosha luôn va chạm với sự hèn hạ, tồi tệ của bọn “tiểu thị dân”, những kẻ luôn tự cho mình là “ưu việt nhất thành phố”, họ tưởng rằng họ “biết những phép cư xử đúng đắn nhất và dựa trên những phép tắc mù mờ đối với tôi đó mà kết tội mọi người một cách tàn nhẫn, không thương tiếc”. Những kẻ này thường có thái độ ganh tị, ghen ghét với điều tốt đẹp ở những người mà họ không sao hiểu nổi. Để biện bạch cho cuộc sống nhỏ nhen và nghèo nàn, khiến nó tăng thêm cái vẻ quan trọng bề ngoài, họ, giống như ông lão Kashmirin keo kiệt, hung dữ hay bà già Matryona độc ác, ích kỉ, luôn luôn lôi kéo Chúa vào những việc tẹp nhẹp buồn tẻ của mình, biến Chúa thành một sức mạnh trừng phạt mù quáng để bảo vệ cho tội lỗi và lợi ích cá nhân… Alyosha càng ngày càng thấy rõ mặt trái của cuộc sống, thấy những sự nhục mạ nhân cách, những lao động vô nghĩa, khổ sai. Lúc ấy, theo như lời Gorky kể, cuộc sống của Alyosha như vĩnh viễn bị quy định một cách chặt chẽ trong các hình thức và các mối quan hệ mà Alyosha trông thấy ngày này qua ngày khác, mỗi ngày một buồn tẻ, gay gắt hơn, khiến khó mà nghĩ tới khả năng thay đổi, làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng khi ấy, sách vở – kho tàng tư tưởng sáng tạo của con người – đã tới giúp Alyosha. Những tác phẩm của các nhà văn Nga ưu tú, của các tác giả nước ngoài như Walter Scott, Dickens… đã giúp cậu hiểu được rất nhiều điều mà trước đó cậu vẫn băn khoăn. Sách vở đã giúp Alyosha khắc phục tâm trạng bối rối, mất niềm tin vào con người. Mỗi cuốn sách hay như mở ra trước mắt Alyosha một cánh cửa sổ hướng về thế giới mới mẻ mà cậu bé chưa từng biết, chưa từng thấy. Càng đọc nhiều sách, Alyosha càng thấy gần gũi với thế giới hơn, cuộc sống đối với cậu càng sáng sủa, có ý nghĩa hơn. Sau này, Gorky nhớ lại: “Sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong cuộc sống, nói cho tôi biết rằng con người thật vĩ đại và đẹp đẽ, luôn hướng về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã gây ra nhiều chuyện trên trái đất và vì thế mà họ phải chịu biết bao đau khổ.”[3] Một nhân vật trong Kiếm sống là Jikharev đã nói với Alyosha với vẻ đồng tình: “Cháu không có thái độ dửng dưng mà luôn tập trung vào công việc. Cháu cứ nên như thế mãi, điều đó rất tốt!” Alyosha đã dũng cảm lao vào cuộc sống, dũng cảm “bước vào đời” mặc dù nhiều khi va chạm phải mặt trái xấu xa ghê tởm của nó. Gorky viết: “Trong tôi có hai con người: Một người sau khi đã biết quá nhiều điều ghê tởm và bẩn thỉu, trở nên sợ hãi cuộc sống, nản lòng bởi hiểu quá rõ các chuyện khủng khiếp xảy ra hằng ngày. Người ấy bắt đầu nhìn cuộc sống, nhìn mọi người với thái độ thiếu tin tưởng và hoài nghi, thương hại một cách bất lực cả bản thân và những người xung quanh. Con người ấy mơ ước một cuộc sống cô độc, yên tĩnh, chỉ có sách vở, không dính líu đến ai, mơ về một tu viện, một chòi canh trong rừng, một vọng gác đường sắt, mơ được đến Ba Tư, được đảm nhiệm cương vị một người gác đêm ở ngoại ô thành phố. Càng ít người càng tốt, càng tránh xa con người càng tốt… Còn người kia được nuôi dưỡng bằng ý chí thiêng liêng của các cuốn sách hay và sâu sắc, mỗi khi cảm thấy sức mạnh của những điều khủng khiếp xảy ra hằng ngày kia có thể dễ dàng đè bẹp mình, làm nhơ bẩn trái tim mình, nên cố sức tự vệ, cắn chặt răng, siết chặt nắm đấm, luôn sẵn sàng xông vào bất kì cuộc tranh cãi và trận chiến đấu nào. Con người này giàu tình yêu thương, và giống như những nhân vật dũng cảm trong các cuốn tiểu thuyết Pháp, chỉ cần đến câu thứ ba là đã rút ngay gươm ra khỏi bao và sẵn sàng chiến đấu.” Trên bước đường kiếm sống, Alyosha đã gặp và sống với những người lao động bình thường: thợ mộc, thợ nề, thợ làm tượng thánh, phu khuân vác… và cả các nghệ sĩ, nhà thơ, nhà triết học… Mỗi người đều cần thiết và quan trọng đối với Alyosha, giúp tâm hồn cậu thêm phong phú, khiến cậu trở nên mạnh mẽ, khôn ngoan, có đủ nghị lực đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Trong quá trình tiếp xúc với những người này, tính cách của Alyosha dần dần hình thành. Bác đầu bếp Smouri, một trong những “người thầy” của Alyosha, một người vốn nghiêm nghị và thích cô độc, có tâm hồn hiền hậu và tấm lòng công bằng, cao thượng. Khi Alyosha đọc cho bác nghe chuyện Taras Bulba của Gogol, tới cảnh cái chết của vị thủ lĩnh Cossack thì Smouri, người mà tất cả mọi người trên tàu đều sợ, đã khóc nức nở. Chính nhờ cuộc gặp gỡ với Smouri mà Alyosha bắt đầu say mê đọc sách. Càng tiếp xúc với những người Nga bình thường, càng tìm hiểu họ sâu hơn, Alyosha càng thấy “những người chủ” là tầm thường, tẻ nhạt, thế giới của họ hóa ra không bền vững và chắc chắn như cậu tưởng. Alyosha đã trải qua cả một “trường học đường đời” khi làm việc ở xưởng làm tượng thánh. Những người thợ trong xưởng mà Alyosha tiếp xúc là những người có tinh thần ham hiểu biết, có tâm hồn phong phú và có tài năng. Ở mỗi người, Alyosha đều cảm thấy họ thực sự hiểu biết cuộc sống và nghệ thuật. Những người đó tuy sống tù túng trong xưởng nhưng vẫn đầy lòng cao thượng, sức mạnh và vẻ đẹp. Không phải vô cớ khi kể về Sitanov, Gorky nhắc rằng trong anh hình như có một cái gì giống với “nhà quý tộc Tây Ban Nha”, nhân vật mà Sitanov yêu thích hơn cả. Đặc biệt, Jikharev đã khiến Alyosha rất đỗi ngạc nhiên; đó là một nghệ sĩ nhân dân, một người bị giày vò vì khát vọng hiểu biết và sáng tác tự do. “Chúng ta biết được những gì? Chúng ta sống thật quá tầm thường… Còn đâu là tâm hồn? Tâm hồn ở đâu rồi? Nguyên bản thì có đấy; nhưng trái tim thì không…” Alyosha lo lắng và vui mừng nghe những lời lạ tai ấy của Jikharev. Những người này càng ngày càng nhận thức rõ sự bất công, vô nghĩa của thứ lao động cưỡng bách. Họ bị dồn vào cảnh lao động kiệt sức và đơn điệu, mất hết niềm vui và phúc lợi ở đời. Họ thèm muốn ánh sáng, tri thức, cái đẹp. Những cuốn sách mà Alyosha đọc đã khiến họ say mê, rung động. Khi Alyosha đọc tập thơ Con quỷ của Lermontov, những người này khiến cậu hết sức ngạc nhiên bởi khả năng thụ cảm nghệ thuật rất tinh vi và sâu sắc của họ. Qua những năm sống phiêu bạt ấy, trong Alyosha nảy sinh tình yêu mạnh mẽ với con người, thứ tình yêu mà cậu sẽ mang suốt đời. “Chú được cái tốt là đối với ai chú cũng coi như họ hàng thân thích cả, cái đó rất tốt!” Kapendiukhin đã nói với Alyosha như vậy. Alyosha luôn có mặt trên con đường đi tìm chân lí, mục đích cuộc sống, đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi vẫn giày vò cậu: “Làm thế nào để giúp đỡ mọi người?” Đối với Alyosha, việc tìm hiểu ông lão thợ mộc Osip là một điều “hết sức cần thiết”. Tính tình phức tạp của Osip giúp cho Alyosha hiểu được bản chất mâu thuẫn của nông dân (Về Osip, năm 1897 Gorky đã viết trong truyện ngắn Vanka Mazin và năm 1912 trong truyện ngắn Băng chuyển). Alyosha biết tìm ở mọi người những điều cần thiết với cậu, mặc dù những người ấy khác xa cậu. Trong tâm thức, Alyosha đã phân biệt được ước mơ và thực tế. Giờ đây, cậu không chỉ hướng về sách vở, thơ ca, truyện thần thoại để tìm kiếm sự dũng cảm và chân lí mà biết hướng vào hiện thực: “Điều đó càng khiến tôi ngạc nhiên hơn, tôi cảm thấy rất rõ những mâu thuẫn giữa thực tế và sách vở. Trước mặt tôi là con người sinh động mà trong sách vở không thấy được: bác Smouri, anh thợ đốt lò Yaakov, ông khách lưu lạc Aleksasha Vassiliep, bác Jikharev, chị thợ giặt Natalya…” Hình ảnh của những con người sinh động này chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí cậu bé Alyosha. Chương cuối của Kiếm sống xuất hiện một hình tượng đầy ý nghĩa – cảnh “trái đất nửa thức nửa ngủ”. Alyosha muốn đá tung tất cả trái đất và ngay cả chính mình nữa để cho tất cả mọi vật “xoay như một cơn lốc mừng vui trong điệu múa tưng bừng của những người yêu nhau say đắm, những người yêu cuộc sống này – cuộc sống mở đầu cho một cuộc sống khác tươi đẹp, phấn khởi và ngay thật”… Nhưng trong giai đoạn này, hiểu biết của Alyosha còn hạn chế, cậu chưa trả lời được câu hỏi: Cụ thể phải làm gì để giúp mọi người, phải thực hiện lí tưởng xây dựng một thế giới hợp lí và công bằng như thế nào? Tác phẩm Kiếm sống kết thúc bằng những suy nghĩ già dặn của cậu thiếu niên Alyosha mười sáu tuổi, sau những năm lăn lộn với sóng gió của cuộc đời để kiếm sống. “Tôi nghĩ bụng: ‘Ta phải làm được một việc gì chứ, nếu không thì ta sẽ sống vô ích…’ Vào những ngày thu ảm đạm, khi không những không nhìn thấy, không cảm thấy, mà còn quên mất cả mặt trời, tôi thường bị lạc trong rừng. Tôi đi chệch đường, chẳng tìm được lối hẻm nào; cuối cùng, sau khi sục sạo đến mệt bã người, tôi cắn răng đi xuyên qua rừng rậm, giẫm trên những cành cây mục nát, những mô đất tròng trành của vũng lầy. Cuối cùng, tôi luôn tìm được đường đi. Tôi quyết định cũng sẽ sống một cuộc đời như vậy.” Nhưng mãi đến sau này, phải qua nhiều năm được tôi luyện trong “những trường đại học” thực tế của cuộc đời, chàng thanh niên Alyosha Peskov mới tìm được hướng đi cho mình. Truyện tự thuật không phải là một thể loại mới trong văn học. Trước kia ở Nga, Saltykov Shchedrin, Lev Tolstoy, Aksakov… cũng đã từng viết truyện tự thuật. Gorky phát triển một cách sáng tạo truyền thống ưu tú của quá khứ và nâng cao tính tư tưởng của thể truyện này. Tác phẩm tự thuật của Gorky đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Nó là chiếc chìa khóa giúp ta hiểu thấu nguồn gốc thiên tài của Gorky, nắm chắc mối quan hệ vô cùng sâu sắc giữa Gorky với nhân dân, đất nước và cuộc sống. Con đường Gorky đã trải qua là con đường tiêu biểu của nhiều người Nga mòn mỏi trong cảnh bần cùng hóa bi thảm, trong lao động cực nhọc, sự vươn lên của tuổi trẻ với khát khao sáng tạo thường chịu áp chế, bóp nghẹt, nhưng những người trẻ tuổi vẫn tràn trề lòng tin, vượt mọi trở ngại trên con đường đi tìm lẽ sống. Gorky không coi tiểu sử của Alyosha Peskov là một hiện tượng siêu việt, ông từng tuyên bố: “Lịch sử của Gorky không phải là một trường hợp duy nhất và không phải là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt.”[4] Các nét tính cách nổi bật của Alyosha là: Lòng biết ơn nồng nhiệt với những người có lòng tốt với mình; tình cảm thương yêu những bạn cùng trang lứa đau khổ hơn mình; khát vọng chính nghĩa tới mức say sưa; mối căm thù sâu sắc đối với bọn áp bức tàn bạo; tinh thần bất khuất, khắc phục khó khăn; lòng yêu lao động… Nổi bật nhất là tinh thần hiếu học, chí cầu tiến, óc quan sát tinh vi, thói quen nhìn thẳng vào sự việc để phân biệt rõ ràng cái tốt, cái xấu. Alyosha không sống thụ động, tính cách cậu dần được hình thành vững vàng trong cuộc đấu tranh chống lại nguồn gốc của cái xấu xa trong đời sóng, trong khao khát hướng tới những điều tốt đẹp, công bằng và nhân đạo. Gặp Gorky lần đầu tiên năm 1905, Lenin nói: “Phải học ở Gorky cách nhìn và cách nghe.” Tác phẩm tự thuật của Gorky là một kho vốn sống phong phú, miêu tả lại bước đường gian truân đã dẫn dắt Gorky tới tuổi trưởng thành, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất đã gợi hình, gợi ý, chuẩn bị cho đời sống văn học của Gorky. Tác phẩm không chỉ là tiểu sử riêng của một cá nhân mà còn là bức chân dung của cả một thế hệ, bức họa rộng lớn về phong cảnh, đất nước và xã hội Nga cuối thế kỉ XIX với những nét khắc họa điêu luyện, sâu sắc về cả diện mạo và tâm lí sinh động của con người. Tính điển hình của các hiện tượng được miêu tả trong tác phẩm bộ ba Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi khái quát cao độ, làm rung động và chiếm được cảm tình lớn của độc giả. Nhà văn Alexander Shirvanzade[5] đã nói về tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky như sau: ‘Theo quan điểm của tôi, toàn bộ cuốn sách tượng trưng cho cuộc sống của nhân dân Nga; cuốn sách kể về tâm hồn nặng trĩu không chỉ của dân tộc Nga mà của các dân tộc nói chung. Anh xem, tôi có phải là người Nga đâu, tôi là người Armenia, sinh trưởng và sống khác xa cuộc sống Nga, vậy mà những gì anh miêu tả rất giống cuộc sống của dân tộc tôi. Anh hãy tin rằng nhà văn Pháp, nhà văn Anh, hay nhà văn ở bất kì nước nào, xuất thân từ nhân dân hoặc hiểu biết cuộc sống của dân tộc mình, cũng sẽ nói với anh những điều như vậy.”[6] Nhà cách mạng Đức Rosa Luxemburg[7] trong bài luận văn Tinh thần văn học Nga có bàn tới tác phẩm tự thuật của M. Gorky như sau: “Chú bé kêu gào như một con sói con bị truy bức, nhe nanh vuốt sắc nhọn trước số mệnh. Cái tuổi thơ ấu đầy khốn quẫn, đau khổ, nhục nhã, hoài nghi, lưu lạc, gần gũi với những cặn bã của xã hội ấy bao hàm tất cả những đặc trưng có tính chất điển hình trong cuộc sống của giai cấp vô sản nước Nga đương thời. Phải đọc hồi kí của Gorky mới có thể lường được quá trình phát triển kinh khủng của ông – từ dưới đáy của xã hội vươn đến đỉnh cao của thế giới quan khoa học, của nghệ thuật thiên tài và của sự tu dưỡng văn hóa. Vận mệnh cá nhân của Gorky tượng trưng cho giai cấp vô sản Nga – giai cấp nhìn bề ngoài thì thiếu văn hóa, thô bạo, dưới thời Nga hoàng đã trải qua những thử thách của cuộc đấu tranh tàn khốc và trong một thời gian ngắn ngủi đến kinh người, trong vòng hai mươi năm, trở thành lực lượng tích cực của lịch sử.”[8] Đối với Gorky, cuộc sống và số phận ông cũng là cuộc sống và số phận của nhân dân ông; những điều khủng khiếp xảy ra xung quanh ông có ghê gớm đến thế nào đi chăng nữa cũng không thể làm ông mất lòng tin vào cuộc sống. Ông vẫn nhìn thấy trong cuộc sống những mầm non tốt đẹp của tương lai và vạch ra con đường của quá trình phát triển lịch sử sau này. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa tác phẩm tự thuật của Gorky và các tác phẩm tự thuật cổ điển khác. Trên cơ sở tài liệu tự thuật, Gorky đề ra một trong những vấn đề quan trọng nhất của hiện thực xã hội chủ nghĩa – vấn đề hình thành tính cách con người tiêu biểu cho những mói quan hệ mới – mà sau này nhiều nhà văn khác kế thừa. Có thể nói tác phẩm tự thuật của Gorky là một tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa cổ điển đặc sắc, bởi vì Gorky đã cương quyết vạch trần chủ nghĩa tư bản theo lập trường quan điểm của Đảng, đồng thời cũng khẳng định tương lai vĩ đại của dân tộc Nga. Các nhà nghiên cứu và phê bình văn học nhiều lần nhận định rằng, chỉ xét riêng các chi tiết miêu tả một cách tế nhị, tinh vi tâm hồn, đặc điểm tâm lí, nghệ thuật thể hiện nội tâm, tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky có thể sánh ngang với các tác phẩm ưu tú của nền văn học thế giới. Tuy nhiên, điểm nổi bật trong sáng tác của Gorky là quá trình hình thành tư tưởng cách mạng, quá trình con người nhận thức xã hội. Đó chính là cái sáng tạo mà Gorky đã đóng góp vào truyền thống văn học vẻ vang của quá khứ, và chính điều đó đã xác định giá trị tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky với sự phát triển của nền văn học Xô viết và thế giới. Trần Khuyến Mời các bạn đón đọc Kiếm Sống của tác giả Maxim Gorky.
Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới
Được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1898, “Chiến tranh giữa các thế giới” (tên gốc: “War of the Worlds”) là một lời dự báo u buồn cho tương lai của nhân loại. Chiến tranh giữa các thế giới là một trong những cuốn sách thuộc giai đoạn đầu sự nghiệp của H.G.Wells, minh chứng rõ nhất cho những xu hướng sáng tác ấy. Cuốn sách tường thuật lại sự kiện người sao Hoả đổ bộ lên Trái đất và cuộc xâm lăng kéo dài gần một tháng trời sau đó. Làng mạc bị thiêu rụi, con người bị thảm sát bởi Tia Nhiệt bắn ra từ những con tàu và những cuộn khói độc màu đen kịt, Luân Đôn bị xoá sổ, những người sống sót bỏ chạy trong kinh hoàng… Nhân chứng của tất cả chuỗi sự kiện ấy là một người Trái đất nhỏ bé. Anh ta buộc phải lao vào một cuộc đào thoát điên cuồng, để rồi tự hoài nghi “Có lẽ tương lai nằm trong tay họ, chứ không phải chúng ta”. 117 năm là khoảng thời gian đủ dài để chứng minh tính “vượt thời gian” của Chiến tranh giữa các thế giới. Việc cuốn sách được xuất bản từ thế kỉ 19 không hề ngăn cản việc nó đã dự báo trước, không phải thảm hoạ, mà là góc nhìn của những con người ở thế kỉ này – vốn dĩ sống cách xa nó đến hơn 100 năm có lẻ. Loài người càng tiến thêm được những bước sâu hơn, xa hơn vào vũ trụ thì mối nghi ngờ của họ, dự cảm của họ, thậm chí cả sự tự ti của họ đối với một điều bất trắc vô hình cũng vì thế mà không ngừng tăng lên. Trong cuốn sách của mình, ông mô tả cỗ máy của bọn xâm lăng là những khối máy móc khổng lồ với chùm Tia Nhiệt có khả năng thiêu đốt mọi thứ chỉ bằng một tia sáng. Quân đội đã tiêu diệt được một trong số những cỗ máy ấy, nhưng hoàn toàn nhờ vào may mắn. Những cỗ máy giết người ấy vẫn là kẻ chiến thắng sau cùng trong mỗi trận chiến, và loài người trở thành kẻ trốn chạy trên chính đất đai quê hương mình. Một tấm gương vỡ mãi mãi không thể là một tấm gương lành, giống như hoà bình sau chiến tranh không bao giờ là hoà bình trước cuộc chiến ấy. Trong Chiến tranh giữa các thế giới, người ta vẫn tiếp tục sống, và làm những việc người ta vẫn thường làm, nhưng trong thẳm sâu suy nghĩ, mỗi người trong số họ đều biết rằng họ đã cách xa mãi mãi những tháng ngày yên bình trong quá khứ. Thế giới ấy đã mất đi vĩnh viễn, không thể vãn hồi. Cùng với sự mất mát ấy, con người biết rằng giờ đây họ mãi mãi không còn an toàn, nhỏ bé và dễ bị tấn công giữa vũ trụ bao la này. *** Herbert George Wells (21/09/1866 - 13/08/1946), thường được biết đến với cái tên H. G. Wells, là một nhà văn người Anh nổi tiếng với những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng như Kẻ Vượt Thời Gian, Người Vô Hình, Đảo Bác Sỹ Moreau, Xứ Sở Của Người Mù, Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới, Tiên phong lên mặt trăng.... Ông là một nhà văn của nhiều thể loại truyện, tiểu thuyết, bao gồm cả viễn tưởng, phi viễn tưởng hay các bài bình luận về lịch sử và xã hội. Wells cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội, các tác phẩm của ông sau này thường nặng tính chính trị và giáo điều. Chỉ có những tác phẩm tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của ông là vẫn còn rất được ưu chuộng hiện nay. Wells và Jules Verne thường được coi "cha đẻ của khoa học viễn tưởng". Công việc: Tiểu thuyết gia, Giáo viên, nhà sử học, nhà báo. Wells có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau, trong số đó 5 tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đều là truyện Sci Fi, mỗi cuốn đều tạo ra một dòng văn riêng biệt cho thể loại độc đáo này Wells sống rất đào hoa. Ông trải qua hai đời vợ (1 trong số đó là chị họ mình) và trong quãng đời kết hôn ông vẫn thường xuyên qua lại với nhiều phụ nữ khác. Một số người còn trở thành cảm hứng cho ông viết sách Wells có bút lực hiếm ai bì kịp, bốn năm liền cho xuất bản bốn cuốn bestsellers, và có thể viết 3 cuốn tiểu thuyết hay mỗi năm. Trong một cuốn sách phi hư cấu của mình H. G. Wells dự đoán rất chính xác sự phát triển của các khu thành thị, kinh tế toàn cầu hoá và các cuộc xung đột vũ trang nổ ra trên toàn cầu. Năm 1938, cuốn Chiến tranh giữa các thế giới của H. G. Wells được phát sóng trên radio, gây nổ ra cả một cuộc hoảng loạn vì mọi người tưởng người Sao Hoả đang xâm lăng thật. Lời cuối cùng Wells nói trước khi mất là: "Đi chỗ khác. Ta có sao đâu." Một số tác phẩm của H. G. Wells được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Kẻ Vượt Thời Gian - Herbert George Wells Người Vô Hình - Herbert George Wells Đảo Bác Sỹ Moreau - Herbert George Wells Xứ Sở của Người Mù - Herbert George Wells Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới,  Tiên phong lên mặt trăng .... Mời các bạn đón đọc Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới của tác giả H. G. Wells.