Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gõ Cửa Thiên Đường - 6 Chìa Khóa Tâm Linh Làm Giàu Cuộc Sống (Jeffrey A. Wands)

LỜI ĐỀ TẶNG

Tôi muốn dành lời cảm ơn sâu sắc nhất cho vợ tôi, Dawn, hai con trai của tôi, Christopher và Robert, cũng như những người tôi đã gặp trong hành trình cuộc đời và tình yêu của tôi!

NHẬN DIỆN NHỮNG BÁU VẬT BẠN

ĐÃ ĐƯỢC BAN TẶNG VÀ NHỮNG

BÁU VẬT ĐANG CHỜ BẠN Tìm mua: Gõ Cửa Thiên Đường - 6 Chìa Khóa Tâm Linh Làm Giàu Cuộc Sống TiKi Lazada Shopee

Tôi là người có những năng lực tâm linh cho nên sứ mệnh của tôi không chỉ là giúp người khác trong những mối liên hệ với những người yêu thương đã khuất mà tôi còn giúp mọi người tìm ra nguyên nhân cho những vấn đề trong hiện tại của họ để tìm cách thay đổi, làm cho cuộc đời của họ phong phú và viên mãn hơn.

Cũng như nhiều người, tôi đã từng để nỗi sợ lấn át hiện tại và cản trở tương lai của mình. Tôi đã tìm mọi cách che đậy khả năng này của mình vì sợ bị xem là khác người. Tôi sợ mọi người sẽ không dám nói chuyện với tôi vì nghĩ tôi có thể đọc được ý nghĩ của họ. Phải mất nhiều năm tôi mới nhận ra rằng tôi có khả năng làm thay đổi cuộc đời của người khác và giúp cho họ sống tích cực hơn. Khi nhận ra điều này, chấp nhận sự thật và sống đúng với sứ mệnh của mình, tôi đã giúp đỡ được rất nhiều người và làm cuộc sống của mình trở nên phong phú và ý nghĩa hơn.

Ðiều tôi học được trên con đường của mình và giờ tôi muốn chia sẻ với bạn là bản thân chúng ta chính là một kho báu khổng lồ đang chờ chất đầy bằng những món quà chúng ta được trao tặng và những món quà chúng ta thu được trên đường đi. Và các bạn sẽ thấy, điều ấy chỉ thực sự xảy ra khi chúng ta sẵn sàng dấn bước đi về phía trước, dù khó khăn hay gian khổ nhưng vẫn hứa hẹn nhiều điều thú vị chờ được khám phá.

Nếu có điều gì tôi học được từ khả năng tâm linh của mình thì đó chính là sức mạnh của bộ não, hay nói cách khác là khả năng tư duy của con người.

Nếu chúng ta có thể lập trình cách tư duy của mình, chúng ta cũng có khả năng hiện thực hóa cuộc đời từ cách chúng ta tư duy. Chìa khóa để mở ra cánh cửa này chính là sự trút bỏ tất cả mọi nỗi sợ để tin vào khả năng thay đổi và khả năng tạo ra sự thay đổi của chính bản thân mình.

Người xưa gọi nhà tâm linh là những người có trực giác hay có khả năng nhìn rõ sự việc. Thật ra chúng ta ai cũng được sinh ra với khả năng này.

Chúng ta đều có khả năng tập trung năng lượng vào những gì đang làm được hay không được để tìm hiểu nguyên nhân và có điều chỉnh thích hợp để tạo ra kết quả mà chúng ta mong đợi.

Ðể hiểu thêm về nguồn năng lượng này của mình, bạn hãy hình dung nó như dòng điện. Nếu bạn cắm dây điện nối TV vào ổ cắm thì một thế giới hình ảnh từ TV sẽ hiện ra trước mắt bạn. Nguồn năng lượng luôn ở đó, nhưng phải đến khi chúng ta kết nối với ổ cắm điện thì những gì vô hình luôn ở xung quanh ta mới trở nên hiện hữu. Suy nghĩ của bạn như vạn vật trong vũ trụ, cũng chứa đựng năng lượng. Vậy điều bạn cần làm là tìm cách dò được tần số radio của tư duy để kết nối với năng lượng tâm linh của bản thân. Trong quyển sách này, tôi sẽ chỉ ra tôi làm việc đó như thế nào. Tôi hy vọng bạn cũng sẽ mở được cánh cửa dẫn đến những món quà quý giá bạn được trao tặng và thu hút thật nhiều báu vật nữa về cho mình.

Trong quyển sách trước đây “Con người tâm linh bên trong bạn,” tôi đã chỉ bạn mở ra khả năng kết nối với những người thuộc thế giới bên kia.

Trong quyển sách này, tôi sẽ giúp bạn mở ra khả năng kết nối chặt chẽ hơn nữa với chính bản thân mình. Ðó là cách giúp chúng ta tiếp cận với tiềm thức, vốn là nơi chứa đựng những nỗi sợ và niềm tin trong quá khứ, những gì đang chi phối suy nghĩ và hành động của chúng ta ở hiện tại, để tạo nên những thay đổi mang lại kết quả tích cực cho cuộc sống của chúng ta.

***

Tôi tin rằng có sáu chìa khóa để mở cửa kho báu cuộc đời. Chìa đầu tiên chính là Tự đánh giá bản thân và quyết định những điều làm chúng ta hạnh phúc, một cách rõ ràng - chân thật, và những điều chúng ta cần phải loại bỏ hay cải thiện. Chìa khóa này đòi hỏi một chút can đảm vì chúng ta sẽ phải đối mặt với những điều tiêu cực có khả năng làm ta tổn thương. Tôi muốn bạn hãy can đảm lên, bởi vì phần thưởng cho bạn sẽ rất xứng đáng. Một khi bạn mang ánh sáng mặt trời soi rọi những điều tăm tối trong tâm hồn mình và quyết tâm buông xả chúng, bạn sẽ cảm thấy thư thái, tự do và tự tin hơn trong suốt cuộc hành trình của mình.

Ðể giúp bạn tập trung, thấu hiểu, sẽ có những dòng “Ghi nhớ” và những câu trích dẫn từ những người nổi tiếng trong mọi lĩnh vực. Tôi hy vọng chúng sẽ truyền cảm hứng cho bạn, giúp bạn kiên định những gì muốn thực hiện.

Chìa khóa thứ hai là Tự đánh giá quan hệ với những người đang sống cùng chúng ta trong thế giới hiện tại lẫn những người đã mất. Ai trong chúng ta cũng có những mối quan hệ làm mình cảm thấy được trân trọng và những mối quan hệ làm mình ghét bỏ bản thân. Bạn sẽ học được cách phân biệt những mối quan hệ này và trút bỏ những gì tiêu cực không mang lại hạnh phúc năng lực cho bạn.

Chìa khóa thứ ba là Tự đánh giá Không gian sống, để đảm bảo nhà và nơi làm việc của bạn thật sự chứa đựng năng lượng tích cực đối với bạn. Có thể bạn chưa từng nghĩ không gian vô hình và những đồ vật vô tri có chứa năng lượng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần của chúng ta. Người Trung

Hoa từ xưa đã hiểu rất rõ vấn đề này nên đã áp dụng thuật phong thủy giúp cân bằng năng lượng trong một không gian sống và tạo ra năng lượng tích cực, giúp mang lại cuộc sống bình yên, an khang và thịnh vượng cho những người sống trong đó.

Chìa khóa thứ tư là Tự đánh giá sự sung túc và học cách mang lại sự sung túc cho cuộc đời mình. Ngoài hệ quả về tiền bạc, việc theo đuổi sự nghiệp và niềm đam mê còn giúp bạn tìm được giá trị tinh thần.

Chìa khóa thứ năm là Tự đánh giá sức mạnh tâm linh của mình và học cách làm tăng sức mạnh đó. Một số người trong chúng ta có thể là những người có đạo nhưng việc tăng cường sức mạnh tâm linh của mỗi người hoàn toàn không yêu cầu bạn phải gia nhập một tôn giáo nào. Ðiều bạn cần làm là có niềm tin vào một nguồn sức mạnh tối cao và tin rằng những việc xảy ra với bạn trong cuộc đời đều có một mục đích nào đó.

Chìa khóa thứ sáu là Duy trì sức khỏe tinh thần và thể chất để đạt được sự cân bằng trong cuộc sống. Trí tuệ và cơ thể chúng ta có khả năng tác động mạnh mẽ lẫn nhau. Ðiều bạn cần làm là kiểm soát cảm xúc và chăm sóc thể chất thật tốt. Tôi cũng chỉ cho bạn thấy tại sao con đường này sẽ làm giàu cho cả thể chất lẫn của cải của bạn.

***

Nên nhớ sẽ có những cánh cửa lâu ngày khó mở. Ðôi khi, cái khó nằm trong chiếc chìa khóa chứ không phải trong cánh cửa. Hãy làm tất cả những gì có thể để mở được cánh cửa đến với kho báu đang chờ bạn. Khi bắt tay vào thực hiện, bạn sẽ thấy luôn có nhiều cách để mở cửa, kể cả khi đó là cánh cửa đi vào trong bản thân bạn. Trong quyển sách này tôi đưa cho bạn những gợi ý từ các nền triết học lẫn các hệ tư tưởng. Bạn thấy thoải mái với cách nào thì hãy làm theo cách ấy. Ðiều tôi luôn khuyến khích là bạn hãy cởi mở xem xét bất kỳ khả năng nào và đừng vội từ chối bất kỳ điều gì chỉ vì bạn chưa quen thuộc với nó.

Sau đây, tôi mời bạn hãy mở ra cánh cửa dẫn vào bản thân mình để nhìn lại mọi khía cạnh của cuộc đời bạn. Bạn hãy sử dụng những gợi ý tâm linh từ đây để khám phá thế giới kho báu của riêng mình và làm cho cuộc đời bạn thật sự giàu có.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gõ Cửa Thiên Đường - 6 Chìa Khóa Tâm Linh Làm Giàu Cuộc Sống PDF của tác giả Jeffrey A. Wands nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

HỌC LÀM PHẬT (TRANH CHĂN TRÂU) - THÍCH TRƯỜNG LẠC
Nhan đề sách "Học Làm Phật" không đúng hẳn với nội-dung. Thật ra đây là cuốn "Tranh Chăn Trâu" hay "Thập Mục Ngưu Đồ", một cuốn sách rất được nhiều người biết đến trong Phật-học. Sách gồm có 3 phần: một là "Họa" = tranh vẽ, là 10 bức tranh vẽ cảnh mục-đồng chăn trâu, từ lúc khởi đầu trâu đi lạc hoặc trâu còn hung dữ cho đến khi bắt được trâu và huấn-luyện cho thuần-thục; hai là "Tụng" là những bài kệ (4 câu) đi kèm theo mỗi búc họa, và ba là "Luận Giải" là những bài bình-luận hoặc giảng-giải thêm những bức họa và những bài tụng, cần cho người sơ học dễ nắm bắt được ý-nghĩa. Hiện nay có nhiều sách "Thập Mục Ngưu Đồ", và 3 phần nói trên tuỳ-nghi thay đổi nhiều ít dài ngắn theo mỗi soạn giả.
Bách Gia Chư Tử
Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao. Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao.Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó. Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn. Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó.Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn.Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu. Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất. Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu.Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất.Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia. Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia.
Bồ Đề Đạt Ma quán tâm pháp - Thích Minh Thiền
Tài liệu này ghi lại phần luận của Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma trong quyển sách Bồ-Đề Đạt-Ma Quán Tâm Pháp do thầy Minh Thiền dịch và giảng giải tại chùa Hội Tông, Phú Định, vào năm 1973, xuất bản bởi Nhà xuất bản Quế Sơn, Võ Tánh. Quán Tâm Pháp là tên chung cho ba thiên luận về Huyết Mạch, Ngộ Tánh và Phá Tướng.   LUẬN HUYẾT MẠCHBa cõi lăng xăng đều từ một tâm. Phật trước Phật sau đều chỉ dùng tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự. Có người hỏi: Nếu không lập văn tự, vậy lấy gì là tâm?Đáp: Ông nói tôi tức là tâm của ông, tôi trả lời với ông tức là tâm của tôi.Nếu tôi không có tâm thì lấy đâu biết để trả lời với ông; ông nếu không có tâm thì làm sao ông biết hỏi tôi. Cho nên biết: Hỏi tôi tức là tâm của ông đó. Từ lũy kiếp đến giờ, nhẫn đến hành tung hoạt động bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào đều là cái tâm vốn có của ông, đều là Phật vốn có của ông. Cái nghĩa “chính tâm là Phật” là như thế. Ngoài tâm này rốt ráo không có Phật nào khác có thể được. Nếu lìa tâm này mà tìm Bồ-đề, Niết-Bàn, thì thật là không tưởng. Tánh chơn thật của mình không phải pháp nhân pháp quả, đó là nghĩa của tâm. Tự tâm là Niết-Bàn. Nếu nói ngoài tâm có Phật và Bồ-Đề có thể được thì thật là không tưởng.Phật và Bồ-Đề ở chỗ nào? Ví như có người dang tay bắt hư-không có được gì không? Vì sao thế? Vì hư-không chỉ có tên chớ nào có hình tướng! Bắt đã chẳng được, bỏ cũng chẳng được. Thế là hư-không không thể bắt được.Trừ tâm này ra mà tìm Phật rốt rồi không được cũng giống như vậy. Phật là tự tâm làm ra. Tại sao lìa tâm mà tìm Phật? Phật trước Phật sau chỉ nói về tâm. Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm; ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm. Nếu nói ngoài tâm có Phật vậy Phật ở đâu? Ngoài tâm đã không Phật sao lại còn làm ra cái thấy có Phật để mà dối gạt lẫn nhau, rồi không thể rõ được cái tâm vốn có của mình, lại bị vật vô tình nó nhiếp mất tự do; nếu không tin hiểu như thế, để tự dối gạt thật là vô ích. Phật không lỗi lầm, chúng sanh điên đảo chẳng biết giác ngộ tâm mình là Phật. Nếu biết tự tâm là Phật chớ nên tìm cầu Phật ngoài tâm.(Lược trích)
Mấy thầy tu huyền bí ở Tây Tạng và Mông Cổ (Scan) - Đoàn Trung Còn
Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông CổĐoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhMẤY LỜI ĐẦU MẤY LỜI ĐẦU MẤY LỜI ĐẦUSách này được phân làm ba phần: Sách này được phân làm ba phần: Phần thứ nhất, từ mục thứ nhất đến mục thứ 9, là những điều trông thấy của bà Alexandra David Neel trong thời gian bà du hành bên xứ Tây Tạng. Phần thứ nhất, từ mục thứ nhất đến mục thứ 9, là những điều trông thấy của bà Alexandra David Neel trong thời gian bà du hành bên xứ Tây Tạng.Phần thứ hai, từ mục thứ 10 cho đến mục thứ 17, ghi lại những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông Jean Marquès Rivière, một người Pháp có đến Tây Tạng và thọ giới xuất gia, tu trì trong các ngôi chùa lớn bên ấy. Riêng về ông J. M. Rivière, sẽ được đề cập đến trong mục thứ 10. Phần thứ hai, từ mục thứ 10 cho đến mục thứ 17, ghi lại những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông Jean Marquès Rivière, một người Pháp có đến Tây Tạng và thọ giới xuất gia, tu trì trong các ngôi chùa lớn bên ấy. Riêng về ông J. M. Rivière, sẽ được đề cập đến trong mục thứ 10.Phần thứ ba, trích dịch trong quyển “Từ Súc sinh, Nhân loại đến Thánh thần” của ông Ferdinand Ossendowski, một nhà mạo hiểm người Ba-lan đã từng đến Mông Cổ và Tây Tạng. Ông này được một vị thượng tọa chùa Na-ra-băn-si, là người được tôn sùng như một vị Phật sống thời nay, ban cho một chiếc nhẫn quý. Nhờ vậy, nên khi đi qua các nơi trong xứ Mông Cổ và Tây Tạng, ông thường được người ta ủng hộ một cách nhiệt thành. Nhất là giới tăng sĩ ở các chùa luôn đón tiếp ông như một người đã đắc Đạo đi truyền Pháp. Nhờ vậy mà ông được biết lắm điều huyền bí trong chốn cửa Thiền. Phần thứ ba, trích dịch trong quyển “Từ Súc sinh, Nhân loại đến Thánh thần” của ông Ferdinand Ossendowski, một nhà mạo hiểm người Ba-lan đã từng đến Mông Cổ và Tây Tạng. Ông này được một vị thượng tọa chùa Na-ra-băn-si, là người được tôn sùng như một vị Phật sống thời nay, ban cho một chiếc nhẫn quý. Nhờ vậy, nên khi đi qua các nơi trong xứ Mông Cổ và Tây Tạng, ông thường được người ta ủng hộ một cách nhiệt thành. Nhất là giới tăng sĩ ở các chùa luôn đón tiếp ông như một người đã đắc Đạo đi truyền Pháp. Nhờ vậy mà ông được biết lắm điều huyền bí trong chốn cửa Thiền.Ở đây, xin nói qua về bà Alexandra David Neel. Bà là một nhà tu người Pháp. Có kẻ nói bà là người Mỹ, song theo lời tự nhận của chính bà, thì bà là người Pháp. Vì ham mộ giáo lý đạo Phật nên bà đã từng đặt chân đến nhiều nơi có những ngôi chùa xưa và tham học với nhiều vị danh tăng. Bà đã viếng khắp cõi Thiên Trúc, có làm lễ ở những nơi thờ dấu tích và tro tàn xá-lợi của đức Phật. Bà cũng có đến nước Nhật, dự nhiều buổi lễ trang nghiêm trong các chùa lớn do các vị lão tăng chủ trì. Bà có sang Trung Hoa, từng sống cuộc đời thanh tĩnh giữa chư tăng trong một số ngôi chùa cổ ở Bắc Kinh. Đặc biệt là bà có viếng qua khắp những miền linh thiêng trong xứ Tây Tạng, nương náu trong vòng mười bốn năm ở các đỉnh núi tuyết, gần gũi với các vị danh tăng đạo cao đức cả. Chính bà có quen thân với đức Ban-thiền Lạt-ma, một trong các vị đứng đầu hàng tăng sĩ Tây Tạng mà khắp xứ đều tôn trọng và xem như là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Bà là người tận tâm với Phật Pháp, đã từ bỏ nếp sống phong lưu, quý phái mà chịu nhọc nhằn sống đến các nơi hẻo lánh để cầu Đạo, cho nên bà biết nhiều chuyện tích rất hay. Tuy chính phủ Tây Tạng vẫn cấm người da trắng vào xứ này, song bà được chính giới tăng sĩ giúp đỡ nên bước đường tu niệm và nghiên cứu của bà đều được dễ dàng hơn. Bà có soạn nhiều quyển sách giá trị về Phật giáo và về phong tục xứ Tây Tạng. Có thể kể ra đây một số như là: Ở đây, xin nói qua về bà Alexandra David Neel. Bà là một nhà tu người Pháp. Có kẻ nói bà là người Mỹ, song theo lời tự nhận của chính bà, thì bà là người Pháp. Vì ham mộ giáo lý đạo Phật nên bà đã từng đặt chân đến nhiều nơi có những ngôi chùa xưa và tham học với nhiều vị danh tăng. Bà đã viếng khắp cõi Thiên Trúc, có làm lễ ở những nơi thờ dấu tích và tro tàn xá-lợi của đức Phật. Bà cũng có đến nước Nhật, dự nhiều buổi lễ trang nghiêm trong các chùa lớn do các vị lão tăng chủ trì. Bà có sang Trung Hoa, từng sống cuộc đời thanh tĩnh giữa chư tăng trong một số ngôi chùa cổ ở Bắc Kinh. Đặc biệt là bà có viếng qua khắp những miền linh thiêng trong xứ Tây Tạng, nương náu trong vòng mười bốn năm ở các đỉnh núi tuyết, gần gũi với các vị danh tăng đạo cao đức cả. Chính bà có quen thân với đức Ban-thiền Lạt-ma, một trong các vị đứng đầu hàng tăng sĩ Tây Tạng mà khắp xứ đều tôn trọng và xem như là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Bà là người tận tâm với Phật Pháp, đã từ bỏ nếp sống phong lưu, quý phái mà chịu nhọc nhằn sống đến các nơi hẻo lánh để cầu Đạo, cho nên bà biết nhiều chuyện tích rất hay. Tuy chính phủ Tây Tạng vẫn cấm người da trắng vào xứ này, song bà được chính giới tăng sĩ giúp đỡ nên bước đường tu niệm và nghiên cứu của bà đều được dễ dàng hơn. Bà có soạn nhiều quyển sách giá trị về Phật giáo và về phong tục xứ Tây Tạng. Có thể kể ra đây một số như là:– Những cuộc thuyết pháp của các vị Lạt-ma) – Những cuộc thuyết pháp của các vị Lạt-ma)– Cuộc du hành của một người phụ nữ Paris đến Lhassa – Cuộc du hành của một người phụ nữ Paris đến Lhassa– Pháp thuật vì ái tình và tà thuật – Những phong tục xứ Tây Tạng mà rất ít người biết đến – Pháp thuật vì ái tình và tà thuật – Những phong tục xứ Tây Tạng mà rất ít người biết đến– Vị Lạt-ma đắc ngũ thông – Vị Lạt-ma đắc ngũ thông– Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng – Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây TạngPhần thứ nhất trong sách này có 9 mục, được soạn từ nơi quyển “Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng” vừa kể trên. Quý độc giả có lòng muốn tu học, nên xem qua cho biết sự tu luyện khó nhọc, cam go của các vị tăng sĩ trên vùng cao núi tuyết. Quý ngài sẽ thấy nhiều sự linh diệu, ly kỳ và nhiều phép huyền vi của các vị tu hành chân chính. Phần thứ nhất trong sách này có 9 mục, được soạn từ nơi quyển “Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng” vừa kể trên. Quý độc giả có lòng muốn tu học, nên xem qua cho biết sự tu luyện khó nhọc, cam go của các vị tăng sĩ trên vùng cao núi tuyết. Quý ngài sẽ thấy nhiều sự linh diệu, ly kỳ và nhiều phép huyền vi của các vị tu hành chân chính.Soạn dịch và cho ra đời quyển sách này, tôi mong muốn là sẽ góp được một phần nào phổ biến rộng thêm giáo lý nhà Phật, khuyến khích những ai còn nghi ngờ trở nên tin chắc, giúp cho các vị cư sĩ tu tại gia đem lòng tín phục mà công nhận rằng: tinh thần được trau luyện kỹ thì trở nên mạnh mẽ vô ngần, và cầu cho các bậc xuất gia càng dũng mãnh mà tiến tới trên đường đức hạnh và giải thoát. Soạn dịch và cho ra đời quyển sách này, tôi mong muốn là sẽ góp được một phần nào phổ biến rộng thêm giáo lý nhà Phật, khuyến khích những ai còn nghi ngờ trở nên tin chắc, giúp cho các vị cư sĩ tu tại gia đem lòng tín phục mà công nhận rằng: tinh thần được trau luyện kỹ thì trở nên mạnh mẽ vô ngần, và cầu cho các bậc xuất gia càng dũng mãnh mà tiến tới trên đường đức hạnh và giải thoát.Đoàn Trung Còn Đoàn Trung Còn Đoàn Trung Còn