Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF QUỐC VĂN ĐỜI TÂY SƠN - SƠN-TÙNG HOÀNG THÚC TRÂM - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

PHÀM LỆ1) Sách này có hai mục đích là giúp các bạn học sinh dùng trong các trường học và cung tài liệu cho bộ thuần túy Việt nam văn học sử sau này, nên tác giả cố gắng khảo cứu cho được kỹ và chú thích cho được tường. Nhưng ngặt vì trong cơn khói lửa, còn nhiều điều kiện chưa đủ, nên không sao tránh khỏi những khuyết điểm đáng tiếc.2) Phàm những sách báo tham khảo để viết sách này, sẽ liệt kê ở cuối. Còn nội dung có những bài thơ văn cổ, hoặc từ chữ nôm mới phiên âm ra, hoặc sao lục hay so sánh ở sách báo quốc ngữ nào, đều có chưa rõ xuất xứ để độc giả tiện kiểm điểm lại.3) Phàm những bản phiên âm chữ nôm hay là những bản sao lục quốc ngữ, nếu thấy chỗ nào hoặc do chữ nôm khó hiểu, hoặc do tiếng cổ ít dùng, hoặc do sự sao chép đáng ngờ, đều xin đánh dấu hỏi ở bên để tồn nghi, đợi sẽ khảo sau và mong các bậc cao minh chỉ giáo.4) Các tác giả đời Tây sơn, nhà nào có đủ tài liệu thì ở tiểu sử xin nói kỹ, còn thì xin chịu cái lỗi sơ lược để đợi một ngày sáng sủa thuận tiện hơn. 15) Như nhan nó đã nêu, sách này chỉ nằm trong phạm vi quốc văn đời Tây sơn (1778 1802) nên mấy tác giả đời ấy, như Phan huy Ích, Nguyễn hữu Chỉnh, dầu có tác phẩm bằng Hán văn, nhưng chỉ được kể ra tên sách hoặc tên bài để cung làm tài liệu bị khảo, chứ không dùng làm đối tượng nghiên cứu.6) Đối với các bài văn cổ đời Tây sơn, ngoài sự chú thích cho dễ hiểu, nếu gặp bài nào quá dài như « Ai tư vãn », v.v… tôi xin mạo muội chia phần và nêu tiểu đề để tóm ý từng đoạn cho dễ nhận xét.7) Vì phải thu gọn trong khuôn khổ một cuốn sách nhỏ, nên có nhiều văn đời Tây sơn buộc phải trích lược 2, hoặc chỉ dẫn được đầu đề 3, xin đọc giả lượng thứ.***LỜI ĐẦUNhà Tây sơn (1778 1802) 4, do mấy anh em « áo vải », đáp theo tiếng gọi của thời đại, tiếng gọi của dân chúng, chỗi dậy với bao hào khí, hùng tâm, giữ vững được tự do, chủ quyền và lĩnh thổ của Việt nam, suốt từ Nam quan đến Gia định.Về chính sự cũng như về võ công, đời Tây sơn có nhiều rực rỡ lắm. Chẳng thế, từ khi quật khởi (1771) đến lúc bại vong (1802), trong vòng thời gian ngắn ấy, bắc quét được Mãn thanh, nam đuổi được Xiêm la, tây phục được Miên, Lào, thống nhất Trung, Nam, Bắc, trước đó chưa từng có trong lịch sử Việt nam.Một triều đại dầu hưởng thụ ngắn ngủi, nhưng kinh tế có tổ chức, chính trị có tổ chức, quân sự có tổ chức, xã hội có tổ chức, không lẽ trên trang văn học lại không có nét gì đặc biệt đáng ghi ?Nghĩ vậy, trong vòng ngót hai mươi năm nay, tôi vẫn để tâm khảo cứu đến đoạn lịch sử Tây sơn là một triều đại bị phe chiến thắng xóa nhòa gần hết : đào mả, tán xương, tru di giống nòi, rất đỗi niên hiệu Cảnh thịnh trên chuông đồng và tờ nhan ngoài bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ khắc đời Tây sơn cũng bị đục bỏ, xóa đi cho tuyệt dấu tích !Thời gian khảo cứu dần dần mang lại cho tôi một vài tia sáng : càng đi sâu vào lịch sử Tây sơn, càng thấy có cái đặc điểm văn học : trọng dụng quốc văn.Phải, một triều đại đã có nhiều sáng kiến về kinh tế (như việc đòi lập nha hàng ở Nam ninh thuộc Quảng tây), về võ bị (như việc bắt buộc đầu quân), về chính trị (như việc làm thẻ tín bài) như kia, thế nào chẳng có cái đáng chú ý về văn học ? Thì một việc yêu tiếng mẹ đẻ, trọng dụng quốc văn đủ nêu cao viết lớn những chữ vàng trên tờ văn học sử của thời đại ấy.Đã tìm được phương hướng, tôi cứ lần bước trong « tiểu thụ lâm » quốc văn Tây sơn, nay đã có thể nói với các bạn thân mến rằng đời Tây sơn cũng trội về quốc văn và QUỐC VĂN ĐỜI TÂY SƠN đã chiếm được một địa vị quan trọng trên trang sử văn học thuần túy Việt nam cận đại.Nhà Tây sơn sớm sụp đổ, đến nỗi những đặc điểm về văn học ấy, cũng như các sáng kiến về mọi phương diện khác, tuy không kịp phát triển được rộng, ăn rễ được sâu, nhưng cái « cây » quốc văn đã vun trồng trong khoảng hơn hai mươi năm đó cứ theo thời gian, chống với gió sương, dạn cùng giông tố, vượt bao chật vật khó khăn để đến ngày nay, đi kịp tư trào thế giới, rèn thành một thứ lợi khí cho Việt nam xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học và đại chúng.Mồng sáu tháng giêng 1950Tác giả***Từ thế kỷ thứ XVII, Việt nam thành một cục diện địa phương cát cứ : từ sông Gianh (Linh giang) ra Bắc, gọi là Bắc hà, nhà Trịnh 5 vịn họ Lê, cầm quyền thống trị ; từ sông Gianh vào Nam, gọi là Nam hà, nhà Cựu Nguyễn 6 làm chúa ở Thuận, Quảng 7, riêng nắm chính quyền.Đến cuối thế kỷ XVIII, nhất là từ năm kỷ sửu (1769) trở đi, suốt nước rối loạn, đói kém, nhân dân điêu đứng lầm than ; quốc nạn ngày một trầm trọng.Anh em Tây sơn, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, với áo vải, cờ đào, nhân thời thế, nổi lên từ năm tân mão (1771).Qua năm mậu tuất (1778), Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế ở Qui nhơn, đặt niên hiệu là Thái đức.Ta nên nhớ rằng trong buổi loạn lạc, những người có thủ đoạn, thường bỏ bút nghiên, tập cung kiếm, chứ không mấy khi giữ lề lối, do khoa cử mà xuất thân. Cho nên từ anh em Tây sơn đến các tướng ở bên vua Thái đức bấy giờ hầu hết là những tay quân nhân thượng võ.Hán văn, đối với họ, có thể bị coi là những món xa lạ, không sát thực tế. Vậy nên quốc văn bấy giờ, vì nhu cầu của thời đại, vì sở năng của cá nhân, đã được đóng một vai trò lịch sử khá quan trọng.Chứng cớ là vua Thái đức từ khi lên ngôi (mậu tuất, 1778) đến năm mậu thân (1788) đã mười một năm đằng đẵng, rất có đủ thì giờ để tuyển dùng những nhà túc nho, những tay khoa bảng làm việc thảo sắc thư, viết chiếu chỉ ; nhất là Bình vương Nguyễn Huệ, bấy giờ đang làm đại nguyên súy, tổng quốc chính, rất có đủ điều kiện và quyền lực mà « động viên » hết cả những bậc thông nho ở khu « ảnh hưởng » của Tây sơn để nhờ giúp việc văn hàn từ lệnh. Vậy mà tờ chiếu do Bình vương Nguyễn Huệ gửi cho La sơn phu tử Nguyễn Thiệp (1) đề năm Thái đức thứ mười một (1788), cũng viết bằng chữ nôm. Nguyên văn như dưới đây :« Chiếu truyền La sơn phu tử Nguyễn Thiệp khâm tri 8 : Ngày trước ủy cho phu tử về Nghệ an tướng địa làm đô cho kịp kỳ này hồi ngự 9. Sao về tới đó chưa thấy đặng việc nhỉ ? 10. Nên hãy giá hồi Phú xuân kinh, hưu tức sĩ tốt 11. Vậy chiếu ban hạ, phu tử tảo nghi dữ trấn thủ Thận cộng sự, kinh chi, doanh chi 12, tướng địa tu đô tại Phù thạch hành cung sao hậu cận sơn. Kỳ chính địa phỏng tại dân cư chi gian hay là đâu cát địa khả đô, duy phu tử dạo nhãn giám định, tảo tảo tốc hành 13. Ủy cho trấn thủ Thận tảo lập cung điện, kỳ tam nguyệt nội hoàn thành, đắc tiện giá ngự 14. Duy phu tử vật dĩ nhàn hốt thị 15. Khâm tai ! Đặc chiếu 16. Thái đức thập nhất niên 17 lục nguyệt, sơ nhất nhật ». 18Vua Quang trung (1788 1792), trong năm năm trị vì, hai năm đầu còn phải đấu tranh bằng quân sự, rồi bằng ngoại giao để chiến thắng Mãn thanh về hai phương diện ấy mà giành lấy độc lập, giữ trọn tự do ; đến vài năm sau lại lo chấn chỉnh vũ bị, định đánh Mãn thanh, đòi đất Lưỡng Quảng. Thế nghĩa là trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, tâm lực vua Quang trung hầu chuyên chú cả vào một việc đối ngoại. Dẫu vậy, công cuộc nội trị của ngài cũng có nhiều đặc sắc. Riêng một việc trọng dụng quốc văn đủ làm đại biểu cho những đặc điểm ấy.Ngoài cái chứng cớ chắc chắn bằng bức chiếu văn gửi cho La sơn phu tử như đã thấy rõ ở trên, các truyền văn và dã sử còn cho ta biết thêm :1) Mỗi khoa thi, cứ đệ tam trường (kỳ thứ ba), các sĩ tử phải làm thơ phú bằng quốc âm. 192) Nhờ danh sĩ Nguyễn Thiệp dịch kinh, truyệnra tiếng nôm, nhưng Thiệp mới dịch được một ít, thì triều Tây sơn đổ, nên những dịch phẩm ấy đều bị tiêu hủy hết.Đến đời Cảnh thịnh (1793 1800), nhiều nhà khoa bảng rất giỏi Hán văn như Phan huy Ích, Ngô thì Nhậm, Nguyễn huy Lượng tuy vẫn đang đứng ở trong triều, thế mà những việc quan trọng như dụ quận Diệu, quận Dũng, dụ quân dân thành Qui nhơn và tế Hoàng thái hậu, v.v… cũng thường thấy viết bằng quốc văn cả, đủ biết đến triều Cảnh thịnh (1793 1800), Bảo hưng (1801 1802), quốc văn đã chiếm được địa vị lớn lao là thế nào rồi.Cái cớ quốc văn được trọng dụng, xu hướng quốc văn được bùng nổ ở đời Tây sơn như vậy, tưởng cũng dễ hiểu.Trong mấy lần Bắc thuộc, phe chiến thắng vì muốn giữ vững địa vị thống trị, bảo vệ quyền lợi của mình, thường dùng những thủ đoạn tàn khốc như tiêu diệt văn hóa của đối phương, xóa nhòa tinh thần dân tộc của nước bị trị, để một mặt thì dân bị trị ấy ngoan ngoãn thu hút lấy món giáo dục ngu dân, một mặt thì vất vưởng bấp bênh như cây đứt gốc, khó lòng cựa lên mà giành được cái quyền sống còn ở dươi ánh sáng mặt trời. Cho nên hồi Minh đô hộ (1414 1427), chúng đã cướp hết đồ thư điển tịch của ta từ Trần về trước, rồi chúng nhồi sọ cho ta bằng những TỨ THƯ ĐẠI TOÀN, TÍNH LÝ ĐẠI TOÀN ; đồng thời lại cấm dân ta không được cắt tóc, bắt đàn bà con gái ta phải mặc áo ngắn, quần dài, theo lối ăn mặc của người Minh.Mấy triều đại tự chủ tuy giữ được chủ quyền về chính trị và văn hóa, nhưng còn những dây liên lạc với Trung quốc rất khăng khít, chưa thể một sớm đã dễ phục hưng về mặt tinh thần, nên mãi đến cuối Lê thì tính chất dân tộc mới thật chớm nở.Đến đời Tây sơn, Nguyễn Huệ từ đám bình dân « áo vải » chỗi dậy, có tinh thần một nhà cách mệnh, đủ tư cách một tay lãnh đạo, nên về phương diện văn hóa, vua Quang trung đã sáng suốt hơn ai hết : trọng dụng quốc văn, vạch rõ con đường tiến tới : phải đi sát với thực tế, phải gần gũi với bình dân để thích hợp với nhu yếu của nhân dân và ăn nhịp với xu thế của thời đại. Sau năm năm trị vì, dẫu cá thể vua Quang trung đã mất đi, nhưng cái đà của quốc văn cứ do đó mà tiến triển. Vậy nên đến đời Cảnh thịnh, Bảo hưng thì cái xu hướng quốc văn đã lên cao, cứ việc nở bừng, lan rộng.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Chính Trị Hồ Quý Ly PDF - (NXB Đại La 1945) - Chu Thiên
Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), lấy tên húy Hồ Nhất Nguyên, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng đế từ năm 1400 đến năm 1401, sau đó giữ ngôi Thái thượng hoàng từ năm 1401 đến năm 1407. Thời niên thiếu, Hồ Quý Ly theo học võ, gia nhập chốn quan trường triều Trần sau khi đỗ thi Hương, khoa Hoành từ. Hồ Quý Ly có hai người cô ruột là vợ của vua Trần Minh Tông, một người sinh ra vua Trần Nghệ Tông còn người kia sinh ra Trần Duệ Tông, do đó ông được sự tín nhiệm khi Trần Nghệ Tông lên làm vua. Năm 1372, ông được phong làm Tham mưu quân sự. Năm 1377, vua Trần Duệ Tông đánh Chiêm Thành bị tử trận, Hồ Quý Ly sợ hãi, bỏ chạy về trước, nhưng vẫn được tha tội. Năm 1380, Hồ Quý Ly làm Thống lĩnh quân Đại Việt để chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành. Năm 1387, ông được phong làm Tể tướng. Từ đó, ông có quyền lực gần như tuyệt đối trong triều, các tông tộc, quan lại trung thành với họ Trần đã có 2 lần chính biến nhằm lật đổ sự thống trị của Quý Ly nhưng ông đều giành chiến thắng và đã có nhiều người bị hành quyết sau đó.Chính Trị Hồ Quý LyNXB Đại La 1945Chu Thiên125 TrangFile PDF-SCAN
Cuộc Tháo Chạy Tán Loạn PDF (NXB Tổng Hợp 1985) - Frank Snepp
Cuộc tháo chạy tán loạn (nguyên bản tiếng Anh: The decent Interval, xuất bản nǎm 1977) là cuốn sách của Frank Snepp, một chuyên viên phân tích chiến lược CIA (Mỹ) viết về những ngày cuối cùng của chế độ nguỵ quyền Sài Gòn và sự phản ứng của cố vấn Mỹ trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong mùa xuân lịch sử 1975. Đứng ở toà đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, được nghe ngóng, quan sát những thông tin nóng hổi nhất của cuộc chiến, tác giả đã ghi lại và đưa ra trước công luận những sự thật của lịch sử. Qua đó cho chúng ta thấy chân dung một loạt tướng tá và chính khách cấp cao của Mỹ – nguỵ giống như những con rối của thời cuộc. Trước sự tấn công thần tốc của quân và dân ta, họ chỉ còn một cách là tháo chạy tán loạn.Cuộc Tháo Chạy Tán LoạnNXB Tổng Hợp 1985Frank SneppDịch: Ngô Dư389 TrangFile PDF-SCAN
Lược Sử Triết Học PDF - Nigel Warburton (NXB Thế Giới 2021)
“Qua nhiều năm, Nigel Warburton lặng lẽ trở thành một trong những triết gia được nhiều người đọc nhất trong thời đại của chúng ta […] mà không cần tới những mánh lới quảng cáo, không cần đến văn chương hoa mĩ, chỉ có sự sáng rõ, súc tích và chính xác đáng ngưỡng mộ […] Lược sử triết học có thể trở thành một món ăn tinh thần bổ dưỡng hoặc cung cấp nguồn nhiên liệu tuyệt vời cho ai đó bắt đầu dấn thân vào hành trình triết học. - The GuardianTriết học quan tâm tới vấn đề cốt lõi của nhân sinh: đó chính là bản chất của thực tại và cách sống mà chúng ta nên lựa chọn. Hình ảnh triết gia Socrates, người được xem là ông tổ của triết học phương Tây, ngày ngày lang thang khắp phố thị Athen, đặt ra những câu hỏi khiến người khác phải lúng túng để rồi vỡ lẽ ra rằng những điều họ thấu hiểu về thế giới, về cuộc đời và về chính mình quả thực rất ít ỏi, đã trở thành biểu tượng của một nhà triết học chân chính hàng nghìn năm qua.Cuốn lược sử triết học hấp dẫn mà bạn đang cầm trên tay không chỉ giới thiệu những triết gia vĩ đại nhất của truyền thống triết học phương Tây mà còn khám phá những tư tưởng cuốn hút của họ về thế giới cũng như cách lý tưởng nhất để sống với thế giới. Gói gọn trong bốn mươi chương nội dung, Nigel Warburton đưa chúng ta lướt qua một loạt tư tưởng quan trọng trong lịch sử triết học. Những mẩu chuyện thú vị xoay quanh cuộc sống cũng như cái chết của các triết gia “đa sự” được ông đề cập trong tác phẩm này - từ những triết gia cổ đại bàn luận về tự do hay linh hồn, cho đến Peter Singer, người khơi gợi suy ngẫm tới những vấn đề nhức nhối về triết lý cũng như luân lý đang ám ảnh thời đại mà chúng ta đang sống.Qua sự dẫn dắt của ngòi bút Warburton, triết học không khô khan như ta tưởng mà có sự thú vị và cuốn hút đầy trí tuệ. Hơn thế, ông đã truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta cùng suy ngẫm, bàn thảo, biện luận và đặt ra thêm những câu hỏi mới. Lược sử Triết học đã phác họa những nét khái quát nhất về công cuộc đốt đuốc đi tìm tri thức triết học suốt chiều dọc lịch sử nhân loại. Và nay, nó đang mời gọi chúng ta hãy bước tiếp cuộc hành trình đó.Lược Sử Triết HọcNXB Thế Giới 2021Nigel WarburtonDịch: Cao Việt508 TrangFile PDF-SCAN
PDF Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam
Sự dị biệt giữa các nền văn học có nhiều nguyên nhân, trong đó đáng kể nhất sự dị-biệt về ngôn ngữ từ khi loài người xây dựng Tháp Babel trong tội-lỗi (Sáng thế, XI, 7). Nhờ mầu-nhiệm Cứu thế, sự thống nhất ngôn ngữ nguyên thủy bắt đầu phục hồi khi Chúa Thánh- Thần Hiện Xuống (Công vụ Tông-đồ, II, 4-6) nhưng chỉ thể hiện toàn vẹn khi mạt thế trong cảnh toàn thể loài người đồng thanh ngợi-khen Thiên-Chúa (Khải-huyền- thư, VII, 9).Giáo-hội Công-giáo là bi-tích, là dấu-hiệu khả-kiến của sự phục-hồi thống-nhất nguyên thủy đang thành hình. Đó là một sự thống-nhất trong dị-biệt, thống nhất trong Tình Yêu Thiên Chúa, dị-biệt trong thề-cách diễn đạt với đặc điểm của từng dân-tộc, trong « y-phục rực-rỡ muôn màu » như lời Thành-Vịnh nói về Giáo hội (Thánh Vịnh 104).Bộ sách này có kỳ-vọng trình bày những màu sắc Việt-Nam của y-phục rực-rỡ ấy. Tôi muốn dùng hình ảnh này để nói đến văn học Công giáo Việt-Nam, một nền văn học dung hợp dân tộc tinh và công-giáo-tính, một thành phần bất-khả-phân của toàn thể văn học quốc-gia.