Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Ẩn Bộ Cờ Montglane

Độc giả bị cuốn hút vào tác phẩm “Mật mã Da vinci” sẽ yêu thích những bí mật chất chồng đan xen của “Bí mật bộ cờ Montglane”. – Matthew Pearl, tác giả của “The Dante Club” Một bí mật được cất giấu qua nhiều thế kỷ, để tránh xa những kẻ sẽ lạm dụng quyền năng của nó. Một phụ nữ gan dạ và bí ẩn đã dành cả đời mình để chống lại các quy luật và bảo vệ lịch sử thoát khỏi tiến trình thay đổi vĩnh viễn. Khi ngọn lửa cách mạng Pháp bùng cháy và quyền lực của nhà vua bị tước đoạt, các nữ tu của Tu viện Montglane buộc phải khai quật một bí mật chốn giấu hàng ngàn năm trong những bức tường bao bọc tu viện. Toả đi khắp thế giới, mỗi người mang theo một quân cờ của bộ cờ vua huyền bí đã được tám người Ma-rốc trao tặng cho vua Charlemagne từ thời xa xưa, ẩn trong mỗi quân cờ là một mật mã. Bất cứ ai tập hợp được các quân cờ này đều có thể tham gia vào ván cờ chứa đựng quyền lực vô biên - một ván cờ mang đến ngày tàn cho tất cả các vị vua chúa. Nhiều thế kỷ sau, một cô gái được chọn là người kế tục để bảo vệ các quân cờ thất lạc. Liệu cô có tìm ra lời giải đáp bí ẩn lớn lao nhất mọi thời đại không? “Pha trộn yếu tố hư cấu lịch sử cùng điều thần bí cổ xưa và tạo ra một tác phẩm vàng” - Tạp chí People “Hấp dẫn…lạ thường ngoài sức tưởng tượng” – Newsday “Vừa sôi nổi vừa sâu sắc… chẳng mấy người cưỡng lại được sức hút của tác phẩm” - Los Angeles Times Book Review *** Câu chuyện về bộ cờ vua và những bí ẩn đẫm máu mang một sức hút mãnh liệt. Nó khiến những ai yêu thích sách có màu sắc trinh thám và bộ môn cờ vua tìm thấy rất nhiều điều thú vị. Katherine Neville Toàn bộ tên các chương sách đều được đặt liên quan đến cờ vua: Phòng vệ, Quân tốt tiến đến bốn cánh hậu, Một ván cờ… Nếu nhìn lại, rõ ràng, có thể hình dung cả câu chuyện là một ván cờ kỳ bí và đầy huyền ảo với những quân cờ là con người và những nước đi đầy toan tính. Sự hấp dẫn phủ trùm lên cuốn truyện còn ở cách xây dựng nhân vật: Đồ sộ và đa dạng với sự đan xen của nhiều tuyến, nhiều nhân vật nhưng cũng sắc sảo và độc đáo với từng nhân vật một. Maurice Talleyrand là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất của tác phẩm. Hiện ra như một “ác quỷ” đầy mưu mô xảo trá, thâm độc và rất nguy hiểm qua lời kể của nữ tu viện trưởng tu viện Montglane. Talleyrand được mô tả: “đã làm tình với rất nhiều, nhiều đến nỗi anh không đếm xuể”. Thế nhưng, dần dần, càng về sau, độc giả càng hiểu sâu sắc về anh - như một con người khác. Hoàn toàn không dễ dàng để theo dõi số phận của các nhân vật. Bởi thế, cuốn sách này không dành cho những ai thiếu sự chú tâm. Mỗi dòng chữ trong truyện đều gián tiếp hoặc trực tiếp hé lộ những bí mật tiếp theo trong số phận nhân vật và số phận bộ cờ Montglane. Nếu độc giả nhắm mắt lại, hình dung đường dây số phận chồng chéo của các nhân vật sẽ nhận ra rằng, hóa ra, họ đang theo dõi một ván cờ của lòng tham con người. Tất cả đều bắt nguồn từ lòng tham - một loại bi kịch mang màu sắc cổ điển trong các vở kịch, tiểu thuyết. Bộ cờ Montglane được cho là có ẩn chứa trong nó một bí ẩn chết người khiến những kẻ lạm dụng nó sẽ thay đổi lịch sử. Cuộc săn tìm bộ cờ đã khiến con người bộc lộ mặt trái của mình. Yếu tố lịch sử và những huyền bí cổ xưa, với những nhân vật có thực như nữ hoàng Catherine của Nga, Napoleon Bonapart của Pháp, nhà triết học Voltare... đã biến Bí ẩn bộ cờ Montglane thành quyển sách vàng cho những ai yêu thích khám phá bí ẩn của lịch sử. Ngày xưa, Cao Bá Quát từng có câu nói đại ý, khi đọc sách, người ta có thể ngồi ở nhà mà bao quát chuyện nhân gian. Với quyển sách này, độc giả cũng sẽ có cảm giác như thế. Bởi cuốn sách là một kỳ thư hấp dẫn về chính trị, lịch sử, phong tục, lối sống và nhất là cờ vua, một bộ môn thể thao đầy trí tuệ. Hạ Vi *** Câu chuyện về bộ cờ vua và những bí ẩn đẫm máu mang một sức hút mãnh liệt. Nó khiến những ai yêu thích sách có màu sắc trinh thám và bộ môn cờ vua sẽ tìm thấy rất nhiều điều thú vị trong đó. Toàn bộ tên các chương sách đều được đặt liên quan đến cờ vua: phòng vệ, quân tốt tiến đến bốn cánh hậu, một ván cờ… Nếu nhìn lại toàn bộ quyển sách, rõ ràng, có thể hình dung cả câu chuyện về bí ẩn bộ cờ Montglane là một ván cờ kỳ bí và đầy  huyền ảo với những quân trong ván cờ là con người và những nước đi mà mỗi tính toán của con người trong đó. Sự hấp dẫn phủ trùm lên quyển truyện còn ở cách xây dựng nhân vật. Đồ sộ và đa dạng với sự đan xen của nhiều tuyến, nhiều nhân vật nhưng cũng sắc sảo và độc đáo với từng nhân vật một. Sự bất ngờ khi độc giả bóc tách từng tính cách số phận nhân vật làm nên sức quyến rũ không cưỡng nổi của một trong những quyển sách bán chạy nhất của nước Mỹ. Nếu độc giả nhắm mắt lại, hình dung đường dây số phận chồng chéo của các nhân vật sẽ nhận ra rằng, hóa ra, họ đang theo dõi một ván cờ số phận của lòng tham con người. Tất cả các bi kịch đều bắt nguồn từ lòng tham - một loại bi kịch mang màu sắc cổ điển trong các vở kịch, tiểu thuyết. Bộ cờ Montglane được cho rằng có ẩn chứa trong nó một bí ẩn chết người mà những kẻ lạm dụng nó sẽ thay đổi lịch sử. Cuộc săn tìm bộ cờ đã khiến con người bộc lộ mặt trái của mình. Nhà văn Katherine Neville đã trung thành với phong cách “đồ sộ” như bà từng làm với Đam mê được xuất bản trước đây. Những nhân vật lịch sử như Charlemagne, Napoléon, Voltaire, nữ hoàng Catherina II..... vẫn tiếp tục thực sự của đam mê. Họ cũng yêu, ghét, vui, buồn...với những tham vọng không che giấu. Và chính vì thế mà họ rất đời, rất người.   Trang Trang *** Katherine Neville là tác giả người Mỹ có những tác phẩm bán chạy nhất trên thế giới trên tờ NY Times, USA Today chuyên viết tiểu thuyết phiêu lưu/săn lùng kho báu. Các tiểu thuyết của bà bao gồm The Eight, A Calculated Risk, The Magic Circle và The Fire, là phần tiếp theo của The Eight.  *** TU VIỆN MONTGLANE, PHÁP  Mùa xuân năm 1790 Một nhóm nữ tu băng qua đường, những chiếc khăn trùm đầu nhàu nát của họ nhẹ bay chấp chới như cánh hải âu. Khi các cô lướt qua những vòm cổng đá cao vòi vọi của thành phố, đàn gà con và mấy chú ngỗng te tái tránh lối, vỗ cánh loạn xạ, bì bõm lội qua vũng bùn. Các nữ tu bước trong làn sương mù u ám vẫn bao phủ thung lũng mỗi sớm tinh mơ và từng cặp sóng đôi lặng thinh đi về phía tiếng chuông trầm lắng, ngân lên từ những quả đồi trên kia. Họ gọi mùa xuân này là le Printemps Sanglant, theo tiếng Pháp, có nghĩa Mùa Xuân Đẫm Máu. Năm đó anh đào đơm hoa sớm, còn lâu tuyết trên các đỉnh núi cao mới tan. Những cành cây mảnh khảnh oằn cong xuống đất bởi sức nặng của những đóa hoa đỏ tươi ướt đẫm. Có người nói anh đào nở rộ sớm vậy là điềm lành, biểu tượng của sự hồi sinh sau một mùa đông khắc nghiệt và dài đằng đẵng. Nhưng rồi những cơn mưa giá rét kéo đến và làm đông cứng các khóm hoa trên cành, khiến thung lũng bị vùi sâu trong sắc hoa đỏ nhuốm những vệt sương nâu. Như thể vết thương bết máu khô. Và người ta nói đây là một dấu hiệu khác thường. Cao ngất ngưởng phía trên thung lũng, tu viện Montglane nhô lên sừng sững như mỏm đá khổng lồ trồi ra khỏi đỉnh núi. Công trình kiến trúc trông như pháo đài kia vẫn tách biệt với thế giới bên ngoài gần cả nghìn năm nay. Nó có sáu, bảy lớp tường dày chồng lên nhau vì khi những phiến đá ban đầu bị xói mòn qua nhiều thế kỷ, người ta đặt các lớp tường mới bên ngoài lớp cũ với những giàn chống đỡ. Kết quả tạo thành một hỗn hợp kết cấu ảm đạm và chính vẻ ngoài đó ấp ủ nhiều lời đồn đại về chốn này. Tu viện là kiến trúc nhà thờ cổ kính nhất còn nguyên vẹn ở Pháp, và nơi đây cất giữ một lời nguyền cổ xưa sắp được đánh thức lần nữa. Khi cái họng chuông đen ngòm vang vọng khắp thung lũng, những nữ tu sĩ còn lại, từng người, từng người một, rời mắt khỏi công việc, để những chiếc cào, chiếc cuốc sang một bên. Họ bước qua những rặng cây anh đào trải dài đối xứng hai bên lối đi để trèo lên con dốc ngược trở về tu viện. Ở cuối đoàn người dài lê thê, hai nữ tu trẻ mới vào viện, Valentine và Mireille, khoác tay nhau lê bước rón rén trong những chiếc ủng lấm lem bùn. Họ đã tạo thành một phần lạc lõng bổ sung vào hàng ngũ trật tự của các nữ tu. Mireille cao lớn, tóc đỏ với đôi chân dài và bờ vai rộng, trông giống cô nông dân khoẻ mạnh hơn là tu sĩ. Cô đeo một cái tạp dề lớn bên ngoài chiếc áo và những lọn tóc quăn đỏ ló ra lơ thơ bên dưới khăn trùm. Bên cạnh Mireille, Valentine mặc dù cao gần bằng nhưng có vẻ mỏng manh ẻo lả. Làn da nhợt nhạt của Valentine nom cứ như trong suốt, nước da trắng được tôn thêm lên nhờ mái tóc vàng nhạt rũ xuống vai. Cô đã nhét chiếc khăn trùm đầu vào túi áo, và miễn cưỡng bước đi bên cạnh Mireille, vừa đi vừa đá ủng vào bùn. Hai cô gái trẻ này, những tu sĩ nhỏ tuổi nhất ở tu viện, là chị em họ bên ngoại. Cả hai đêu mồ côi từ nhỏ sau trận đại dịch khủng khiếp đã tàn phá nước Pháp. Bá tước de Remy già nua, ông ngoại Valentine, đã phó thác hai cô cho nhà thờ trước lúc ông qua đời, để lại số di sản khá lớn bảo đảm cuộc sống cho hai cô cháu gái. Hoàn cảnh giáo dưỡng hình thành nên một sự gắn bó khăng khít giữa hai cô gái. Cả hai đều ngập tràn vẻ hân hoan vô bờ của tuổi trẻ. Tu viện trưởng thường nghe thấy vài nữ tu lớn tuổi phàn nàn rằng lối sống này chẳng phù hợp chút nào với cuộc đời ẩn dật tại một nhà tu kín, nhưng bà cũng hiểu rằng kiềm chế sức sống của tuổi trẻ thì tốt hơn là tìm cách bóp nghẹt nó. Và người viện trưởng cũng cảm thấy có đôi chút thiên vị dành cho hai chị em côi cút, một tình cảm khác thường so với cả tính cách lẫn địa vị của bà. Các nữ tu đứng tuổi hẳn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng bản thân viện trưởng thuở thiếu thời đã duy trì một tình bạn sâu sắc như thế với một cô gái. Hai người đã tách biệt nhau nhiều năm trời và xa cách hàng ngàn dặm. Lúc này, trên dốc mòn, Mireille đang nhét những lọn tóc đỏ bướng bỉnh trở vào dưới tấm khăn trùm đầu và giật mạnh cánh tay cô em họ trong khi lên lớp về tội chậm trễ. "Nếu em vẫn cứ lề mề nấn ná mãi, Mẹ Bề Trên sẽ lại quở phạt chúng ta", cô nói. Valentine vùng khỏi tay chị và xoay một vòng. "Trái đất đang đắm chìm trong cảnh sắc mùa xuân", cô hò reo, đung đưa hai cánh tay và suýt nữa lộn nhào xuống vách đá dựng đứng. Mireille vội kéo cô lôi đi dọc theo bờ vực cheo leo. "Cớ sao chúng ta phải giam mình trong cái tu viện ngột ngạt buồn tẻ ấy khi mọi vật ngoài kia đang căng tràn nhựa sống ?" "Vì chúng ta là những nữ tu", Mireille bĩu môi vặc lại, gấp gáp bước đi, bàn tay bấtu chặt cánh tay Valentine. "Và nghĩa vụ của chúng ta là nguyện cầu cho nhân loại". Nhưng làn sương mờ ấm áp dâng lên từ đáy thung lũng đã mang theo mùi thơm ngào ngạt đến nỗi mọi thứ xung quanh đều ngát hương hoa anh đào nở rộ. Mireille cố gắng không đế ý tới nỗi xốn xang mà cảnh vật nơi đây dấy lên trong cô. "Ơn Chúa, chúng ta chưa phải là nữ tu", Valentine nói. "Chúng ta vẫn chỉ là những người mới tu chừng nào còn chưa tuyên thệ. Chẳng bao giờ quá muộn để được cứu rỗi. Em đã nghe thấy các nữ tu lớn tuổi thì thào với nhau rằng hiện các tên lính đang lúc nhúc khắp nơi trên đất Pháp, đánh cắp kho báu của các tu viện, vây bắt các nhà tu hành và tống họ về Paris. Có thể một vài tên lính cũng sẽ đến đây và bắt em về Paris. Rồi họ đưa em đi xem nhạc kịch mỗi đêm, và uống sâm banh từ chiếc giày của em !" "Những người lính chẳng phải lúc nào cũng mê ly như em mơ mộng đâu", Mireille nhận xét. "Suy cho cùng, nghề của họ là giết chóc chứ đâu phải đưa người ta đi xem hát". "Đó không phải tất cả những gì họ làm", Valentine nói, giọng cô trầm xuống thành một tiếng thì thào bí hiểm. Họ đã lên đến đỉnh đồi, nơi con đường trở nên bằng phẳng và thoáng đãng hơn nhiều. Ở đây lát đá phiến phẳng lỳ giống những con đường cao tốc thênh thang thường thấy ở các thành phố lớn. Phía bên kia đường, người ta trồng những cây bách lớn nổi lên trên nền một rừng cây anh đào, trông chúng có cái vẻ trang trọng nhưng gớm ghiếc, giống như chính cái tu viện này, hết sức lạc lõng. "Em nghe nói", Valentine ghé sát vào tai cô chị họ thì thầm "rằng lính tráng thực hiện những hành động đồi bại đối với nữ tu sĩ ! Nếu một tên lính tình cờ bắt gặp một nữ tu, trong một cánh rừng chẳng hạn, hắn sẽ lập tức lôi một vật ra khỏi đũng quần, đặt vật ấy vào trong người nữ tu lắc qua lắc lại. Và thế là khi hắn xong việc, nữ tu sẽ có em bé !" "Thật là báng bổ !" Mireille thét lên, giằng ra khỏi tay Valentine và cố nén một nụ cười thoáng trên môi. "Chị nghĩ em thô lổ đến thế là cùng, làm sao trở thành nữ tu được". "Đó đúng là điều em đã nói suốt ngay từ đầu", Valentine thú nhận. "Em thích làm cô dâu của một người lính hơn làm cô dâu của Chúa". Khi hai chị em tiến đến gần tu viện, họ có thể trông thấy bốn hàng cây bách sóng đôi ở mỗi lối ra vào và tạo thành hình một dấu thánh giá. Những thân cây bao bọc quanh hai cô gái khi họ gấp gáp chạy xuyên qua làn sương mù đang sẫm dần lại. Họ đi qua những cánh cổng tu viện và băng ngang khoảng sân rộng. Khi họ đến gần những cánh cửa gỗ cao nặng nề dẫn đến thánh đường chính, tiếng chuông tiếp tục rung lên, chẳng khác gì hồi chuông báo tử len lỏi qua lớp sương dày đặc. Từng người dừng lại trước cửa để gạt bùn đất khỏi đế ủng, thoăn thoắt làm dấu thánh, và bước qua cánh cổng chính đồ sộ. Không ai trong hai cô liếc nhìn lên dòng mẫu tự tiếng Francs thô sơ khắc vào khung vòm đá gắn trên cửa, nhưng cô nào cũng biết nó viết gì, như thể những từ ngữ kia đã khắc sâu vào trái tim các cô: Nguyền rủa kẻ nào mang những bờ tường này xuống cõi tục. Nhà vua chỉ bị ngăn cản bởi bàn tay của Chúa mà thôi. Bên dưới lời đề từ, cái tên được khắc thành những chữ viết lớn rời nhau 'Carolus Magnus'. Ông chính là người tạo ra công trình này và cả lời nguyền ám lên những ai sẽ phá hủy nơi đây. Đó là nhà cai trị vĩ đại nhất của Đế chế Francs trong hơn một nghìn năm trước, người được cả nước Pháp biết đến với danh xưng hoàng đế Charlemagne.  (Charlemagne (Charles ler le Grand), vua của người Francs từ năm 768 đến 814 và là hoàng đế của đế chế Occident từ năm 800 đên 814, được coi là một trong những ông vua vĩ đại nhất nước Pháp nhờ công thống nhất và mở rộng lãnh thổ quốc gia.) Những bức tường phía trong tu viện tối tăm, lạnh lẽo, và ẩm ướt rêu phong. Từ chính điện bên trong có thể nghe thấy những tiếng thì thầm cầu nguyện của các tu sĩ mới vào viện cùng tiếng lách cách khe khẽ khi họ lần tràng kinh Kính Mừng, kinh Sáng Danh, và kinh Lạy Cha. Valentine và Mireille vội vã đi qua nhà nguyện lúc người cuối cùng trong số những nữ tu mới vào viện đang quỳ gối khấn vái và hai cô dõi theo tiếng xì xào bàn tán đến bên một cánh cửa nhỏ phía sau bệ thờ, nơi phòng làm việc riêng của Mẹ Bề Trên. Một nữ tu lớn tuổi hơn đang hối thúc người tụt lại sau cùng nhanh nhanh đi vào. Valentine và Mireille đưa mắt nhìn nhau và bước vô. Bị gọi đến phòng làm việc riêng của nữ tu viện trưởng kiểu này thật kỳ lạ. Rất ít nữ tu đặt chân đến đây, mà nếu có đến thường là để nhận kỷ luật. Valentine, người luôn bị trách phạt, rất hay đến đây. Thế nhưng tiếng chuông tu viện xưa nay vốn để triệu tập tất cả các nữ tu sĩ. Chắc hẳn tất cả mọi người sao có thể bị gọi đến phòng làm việc của Mẹ Bề Trên nhận hình phạt cùng một lúc được chứ ? Khi họ bước vào căn phòng rộng có trần thấp, Valentine và Mireille thấy tất cả các nữ tu trong viện quả thật đã tề tựu ở đó, cả thảy hơn năm mươi người. Trên những dãy ghế dài bằng gỗ cứng đối diện bàn viết của nữ tu viện trưởng, họ ngồi thì thào với nhau. Rõ ràng ai cũng nghĩ đây là một sự việc khác thường, và những khuôn mặt ngước nhìn lên khi hai cô bước vào với vẻ mặt hãi hùng. Hai chị em ngồi vào chỗ của họ ở dãy ghế cuối cùng. Valentine siết chặt tay Mireille. "Chuyện này là sao ?" Cô thì thào. "Điềm dữ đây, chị nghĩ vậy", Mireille đáp, giọng cũng thì thầm. "Mẹ Bề Trên trông có vẻ nghiêm nghị và ở đây có hai phụ nữ chị chưa gặp bao giờ".  Ở cuối căn phòng dài, phía sau chiếc bàn đồ sộ bằng gỗ anh đào bóng loáng, nữ tu viện trưởng đứng đó. Bà nhăn nheo và khô cứng như một mảnh da khô, nhưng vẫn lộ ra uy quyền của chức vụ to lớn bà đang nắm giữ. Sắc thái muôn thuở trong điệu bộ của bà gợi lên ý nghĩ từ lâu bà đã hòa hợp thể xác vào chính tâm hồn mình, nhưng hôm nay trông bà viện trưởng nghiêm trang hơn bao giờ hết. Từ trước tới giờ, các nữ tu chưa từng thấy bà như thế lần nào. Hai người lạ mặt, đều là những phụ nữ trẻ to xương với đôi bàn tay lớn, lù lù xuất hiện hai bên nữ tu viện trưởng như những thiên thần báo oán. Một người có làn da tái nhợt, tóc đen và đôi mắt sáng, trong khi người kia mang những đường nét khỏe mạnh giống Mireille, với nước da trắng mịn và mái tóc màu nâu hạt dẻ chỉ hơi sẫm hơn những lọn tóc nâu đỏ của Mireille một chút. Dù cả hai mang dáng dấp những nữ tu nhưng họ không khoác trên mình y phục tu hành mà mặc những bộ quần áo đi đường màu xám trơn rất bình thường. Tu viện trưởng chờ cho tất cả các nữ tu sĩ yên vị và cánh cửa được khép lại. Khi căn phòng hoàn toàn yên ắng, bà mới bắt đầu nói với chất giọng bao giờ cũng khiến Valentine nghĩ đến âm thanh chiếc lá khô bị xéo nát. "Các con của ta", nữ tu viện trưởng nói, chắp hai tay phía trước, "trong gần một nghìn năm nay, dòng tu Montglane đã trụ vững trên đỉnh núi này, thực hiện nghĩa vụ của chúng ta đối với nhân loại và phụng sự Chúa. Mặc dù cách ly khỏi thế gian nhưng chúng ta vẫn nghe thấy những bất bình âm ỉ trong tình trạng náo động ngoài kia. Tại nơi này, trong cái xó xỉnh nhỏ bé, chúng ta đã và đang tiếp nhận những tin dữ xảy ra gần đây, nó có thể làm thay đổi sự chở che an toàn mà chúng ta tận hưởng bấy lâu. Hai người phụ nữ đứng cạnh ta là những người đưa tin. Ta xin giới thiệu xơ Alexandrine de Forbin, bà ra dấu về phía người phụ nữ tóc đen, và Marie Charlotte de Corday, họ cùng nhau điều hành Tu viện các xơ tại tỉnh Caen ở địa phận miền Bắc. Họ đã đi suốt chiều dài nước Pháp dưới lớp áo cải trang, một hành trình gian khổ, để đem đến cho chúng ta lời cảnh báo. Vì vậy ta yêu cầu các con hãy lắng nghe những điều họ nói. Điều đó tối quan trọng đối với tất cả chúng ta. Tu viện trưởng ngồi xuống, và người phụ nữ được giới thiệu là Alexandrine de Forbin hắng giọng, nói nhỏ nhẹ đến nỗi các nữ tu sĩ phải căng tai lắng nghe. Tuy vậy lời lẽ của cô ta rất rõ ràng. "Các chị em đạo hữu của ta", cô bắt đầu, "câu chuyện mà chúng tôi phải kể không dành cho những người nhút nhát. Trong chúng ta có những người đến với Chúa với hy vọng cứu rỗi nhân loại. Có những người đến đây với hy vọng thoát ly trần thế. Và cũng có những người miễn cưỡng đến đây, không hề cảm thấy bất kỳ động lực nào hết". Nói đến đây, cô đưa cặp mắt đen láy, long lanh về phía Valentine khiến cô này thẹn đỏ cả mặt. 'Bất kể các chị nghĩ mục đích của mình là gì thì nó cũng đã thay đổi, kể từ hôm nay. Trong hành trình của Charlotte và tôi đã đi dọc suốt chiều dài nước Pháp, qua Paris và tất cả làng mạc. Chúng tôi đã chứng kiến không chỉ những người đói khát mà cả những người chết vì đói. Dân chúng đang nổi loạn trên đường phố để giành giật miếng ăn. Những cảnh tàn sát, đàn bà vác những chiếc đầu bị cắt lìa cắm trên đỉnh ngọn giáo diễu qua khắp các khu phố. Những cảnh hiếp dâm, và còn tệ hơn thế. Trẻ nhỏ bị giết, người lớn bị tra tấn ngay trên các quảng trường và bị phanh thây bởi những đám đông giận dữ ..." Các nữ tu không còn giữ yên được nữa. Giọng họ vang lên đầy hốt hoảng trong khi Alexandrine tiếp tục câu chuyện đẫm máu. "Bây giờ là tháng tư. Tháng mười năm ngoái, nhà vua và hoàng hậu đã bị một đám đông phẫn nộ bắt cóc khỏi cung điện Versailles và bị đưa về giam giữ tại điện Tuilleries ở Paris. Chúng ép nhà vua ký vào một văn kiện, bản "Tuyên ngôn nhân quyền", tuyên bố quyền bình đẳng cho mọi người. Thực tế, Quốc hội hiện đang điều hành chính phủ; nhà vua không có quyền can thiệp. Đất nước chúng ta đã vượt xa tầm một cuộc cách mạng. Chúng ta đang trong tình trạng vô chính phủ. Tồi tệ hơn nữa, Quốc hội phát hiện trong ngân khố quốc gia không có vàng; nhà vua đã làm vương quốc khánh kiệt. Ở Paris, người ta tin rằng nhà vua sẽ không sống sót qua năm nay". Cơn chấn động lướt qua những dãy ghế của các nữ tu, và tiếng xì xào sửng sốt râm ran khắp gian phòng. Mireille siết nhẹ bàn tay Valentine trong khi cả hai đều nhìn chằm chằm vào người nói. Những phụ nữ trong căn phòng này chưa bao giờ nghe thấy những ý nghĩ kiểu đó được phát biểu lớn tiếng, và họ cũng không thể hình dung những điều như vậy là có thật. Tra tấn, vô chính phủ, giết vua. Sao có thể thế được ? Viện trưởng đập tay xuống mặt bàn yêu cầu giữ trật tự, và các nữ tu sĩ im bặt. Bấy giờ Alexandrine ngồi vào chỗ, còn xơ Charlotte đứng một mình cạnh bàn. Giọng nói của xơ to và mạnh mẽ. "Trong Quốc hội có một kẻ cực kỳ xấu xa. Mặc dù tự nhận mình là thành viên của giới tăng lữ nhưng hắn rất khao khát quyền lực. Y chính là giám mục địa phận Autun. Trong thâm tâm, những người thuộc Giáo hội La Mã tin rằng hắn là hiện thân của ma quỷ. Họ nói hắn sinh ra đã có móng chân chẻ đôi, biểu tượng của cái ác, rằng hắn uống máu con nít để giữ vẻ trẻ trung, rằng hắn cử hành lễ Đen cầu xin quỷ Satăng. Vào tháng mười, tên giám mục này đề xuất với Quốc hội cho Nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản của Nhà thờ. Ngày hai tháng mười một, dự luật Tịch Biên của hắn được Mirabeau, một chính khách cấp cao, ủng hộ trước quốc hội, và đã được thông qua. Ngày mười ba tháng hai, công cuộc tịch thu bắt đầu. Bất cứ tăng ni nào chống đối cũng đều bị bắt giam. Và ngày mười sáu tháng hai, tên giám mục của vùng Autun ấy được bầu làm chủ tịch Quốc hội. Giờ đây chẳng gì có thể ngăn hắn lại được". Các nữ tu sĩ đang trong tâm trạng cực kỳ kích động, họ cất cao giọng kêu than kinh hãi và cực lực phản đối, nhưng giọng Charlotte vang vọng trên hết. "Khá lâu trước khi đưa ra dự luật Tịch Biên, giám mục Autun đã mở những cuộc điều tra về nơi cất giữ tài sản của Giáo hội ở Pháp. Mặc dù bản dự luật ghi rõ các linh mục bị tước vị trước và các nữ tu sĩ được tha nhưng chúng tôi biết tên giám mục đó đã để mắt tới tu viện Montglane. Nhiều cuộc điều tra của y tập trung nhắm vào xung quanh Montglane này. Chúng tôi vội vã đến đây báo cho các chị biết chuyện này. Kho báu của Montglane không được để rơi vào tay hắn". Nữ tu viện trưởng đứng đó, đặt tay lên bờ vai vững chãi của Charlotte Corday. Bà nhìn khắp lượt các hàng ghế nữ tu trong những bộ trang phục đen, những chiếc nón hồ cứng của họ rập rờn dưới kia như mặt biển đầy hải âu hoang dã, và bà nở một nụ cười. Đây là các con chiên của bà, những người bà đã dẫn dắt từ rất lâu và có thể bà sẽ không được gặp lại họ trong đời một khi tiết lộ điều buộc phải nói ra. "Giờ thì các con đã nắm được tình cảnh như ta", viện trưởng nói. "Mặc dù đã biết từ nhiều tháng nay về số kiếp của chúng ta nhưng ta vẫn không muốn nói làm các con lo sợ, đến khi nào ta chọn được một hướng đi. Trên hành trình đáp lại lời kêu gọi, các xơ ở Caen đã chứng thực nỗi hãi hùng tồi tệ nhất của ta". Các nữ tu lúc này đã rơi vào một sự im lặng chết người. Không thể nghe thấy một âm thanh nào ngoài giọng nói của nữ tu viện trưởng. "Ta là một bà già có thể sẽ được gọi về với Chúa sớm hơn hình dung. Lời thề nguyện của ta khi bắt đầu cai quản tu viện này không chỉ là lời thề với Chúa. Gần bốn mươi năm trước, lúc trở thành nữ tu viện trưởng của Montglane, ta đã thề giữ kín một bí mật, nếu cần có thể hy sinh cả tính mạng để bảo toàn nó. Bây giờ đến lúc ta thực hiện lời thề này. Nhưng ta phải chia sẻ một vài điều của bí mật với từng người các con và đến lượt các con phải thề giữ kín. Câu chuyện của ta dài, và các con phải kiên nhẫn nếu ta có nói chậm rãi. Khi ta kể xong, các con sẽ biết tại sao từng người trong chúng ta buộc phải làm những điều tất yếu". Nữ tu viện trưởng tạm ngừng để nhấp một ngụm nước trong chiếc cốc lễ bằng bạc đặt trên bàn trước mặt rồi nói tiếp. Hôm nay là ngày bốn tháng tư năm 1790 sau Công nguyên. Câu chuyện của ta bắt đầu vào một ngày bốn tháng tư cách đây nhiều năm. Người tiên nhiệm đã kể ta nghe, như thông lệ bao đời nay từ khi tu viện ra đời, viện trưởng sẽ truyền lại câu chuyện cho người kế nghiệp trong buổi lễ thác vị. Và bây giờ ta kể các con nghe... Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Bộ Cờ Montglane của tác giả Katherine Neville & Nguyễn Lâm Xuân Các (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quy Luật Hấp Dẫn
Tên truyện: Quy Luật Hấp Dẫn Tựa gốc: Rules of Attraction Tác giả: Simone Elkeles Dịch: An, Dzungnguyen 1102, Lana Biên tập: Sa Bìa: Lynn Ebook: K “Quy luật hấp dẫn” là cuốn tiểu thuyết thứ 2 trong loạt truyện Perfect Chemistry gồm 3 quyển kể về 3 anh em Fuentes của nhà văn Simone Elkeles. Xúc tác hoàn hảo – Perfect Chemistry #1 Phản ứng dây chuyền – Perfect Chemistry #3 Giới thiệu:  Carlos Fuentes không muốn dựa dẫm vào người anh trai Alex của mình, và cậu đã nói điều đó với Alex khi ở Boulder, Colorado. Cậu ấy muốn sống một cuộc sống không tầm thường và tạo ra con đường riêng cho mình – giống như Alex đã từng làm. Thật không may, mối liên hệ của cậu với một băng đảng ở Mexico không dễ mất đi, và Carlos nhanh chóng nhận ra mình đang trong tầm ngắm của một ông trùm ma túy. Khi Alex thu xếp cho Carlos đến sống cùng với cựu giáo sư đại học và gia đình của ông để cậu không phải vào tù, Carlos cảm thấy lạc lõng tại nơi đây. Cậu thậm chí còn bị đè nén bởi những cảm xúc mạnh mẽ của mình đối với con gái của giáo sư – Kiara, người không giống những cô gái mà cậu thường bị thu hút. Nhưng Alex và Kiara sớm nhận ra những vấn đề của trái tim, những quy luật hấp dẫn vượt ra khỏi những khác biệt xã hội ngăn cách họ. Khi mà những mối đe dọa với Carlos ngày càng lớn hơn, cậu đã vô cùng kinh ngạc khi phát hiện rằng gia đình người Mỹ này dường như có thể cứu cậu. Nhưng liệu Carlos có dám mạo hiểm sự an toàn của họ để có được cơ hội sống một cuộc sống mà cậu thậm chí chưa từng dám mơ? 23 chương đầu là bản dịch của bạn Dzungnguyen 1102 đã đăng ở Kites và mình đã nhận được sự đồng ý của bạn ấy cũng như của Kites để đăng lên nhà (có chỉnh sửa so với bản bên Kites). Rainy sẽ dịch tiếp từ chương 24 trở đi. *** Bộ truyện Perfect Chemistry gồm 3 quyển kể về 3 anh em Fuentes của nhà văn Simone Elkeles. Quyển 1: Xúc Tác Hoàn Hảo – Perfect Chemistry #1 Quyển 2: Quy luật hấp dẫn – Perfect Chemistry #2 Quyển 3: Phản ứng dây chuyền – Perfect Chemistry #3  *** Tác giả    Simone Elkeles sinh ra và lớn lên tại Chicago, Hoa Kỳ. Bà là tác giả của những đầu sách cho teen bán chạy nhất theo xếp hạng của New York Times và USA Today.   Siome Elkeles cùng các tác phẩm hay nhất của bà, Xúc tác hoàn hảo, đã được vinh danh ở rất nhiều giải thưởng sách văn học khác nhau và đáng kể nhất là giải RITA 2010, giải thưởng hàng năm danh giá dành cho tác phẩm văn học lãng mạn xuất sắc nhất nước Mỹ. *** Tôi muốn sống theo cách của riêng mình. Tuy nhiên tôi là người Mexico, nên gia đình tôi luôn chỉ dẫn tôi làm mọi việc, dù tôi có muốn hay không đi chăng nữa. Thôi được rồi, chỉ dẫn thì chưa đúng, ra lệnh thì đúng hơn. Mẹ tôi đã không hỏi tôi xem là liệu tôi có muốn rời khỏi Mexico và chuyển đến Colorado để sống cùng với anh trai Alex trong năm cuối trung học phổ thông hay không. Bà đã quyết định gửi tôi về Mỹ, “vì muốn tốt con thôi” – theo ý của bà, chứ không phải tôi. Khi phần lớn các thành viên trong gia đình ủng hộ bà, quyết định được đưa ra. Họ thực sự nghĩ rằng gửi tôi về Mỹ sẽ làm cho cuộc đời tôi không kết thúc dưới những nấm mồ hoặc trong nhà tù sao? Kể từ khi tôi bị sa thải khỏi nhà máy đường hai tháng trước, tôi đã sống một cuộc sống điên rồ. Không có gì có thể thay đổi được điều này. Tôi nhìn ra ô cửa sổ bé bé khi chiếc máy bay bay qua ngọn Rockies phủ tuyết. Tôi chắc chắn rằng mình không ở Atencingo bao lâu nữa, và tôi cũng không ở ngoại ô Chicago, nơi mà tôi đã sống nhiều năm trước khi mẹ bắt chúng tôi thu dọn và chuyển đến Mexico trong năm hai trung học. Khi máy bay hạ cánh, nhìn những hành khách khác chen lấn để xuống máy bay, tôi ở lại và đợi cho tình cảnh này kết thúc. Tôi sắp gặp lại anh trai của mình lần đầu tiên trong vòng gần hai năm. Chết tiệt, tôi thậm chí còn không biết là liệu tôi có muốn gặp lại anh ấy hay không nữa. Hầu hết mọi người đã xuống máy bay nên tôi không thể trì hoãn thêm nữa. Tôi lấy ba lô của mình và làm theo các biển chỉ dẫn ở khu vực nhận hành lý. Khi vừa ra khỏi cửa an ninh, tôi trông thấy ông anh Alex đang đợi bên ngoài các thanh rào chắn. Tôi nghĩ tôi có thể không nhận ra anh ấy, hoặc cảm thấy như chúng tôi là những người xa lạ chứ không phải một gia đình. Tuy nhiên, không có bất kỳ sự nhầm lẫn nào xảy ra cả bởi khuôn mặt chúng tôi giống y như nhau. Tôi hơi hài lòng rằng bây giờ tôi đã cao hơn anh ấy, và tôi không còn là đứa trẻ gầy gò bị anh ấy bỏ lại phía sau nữa. “Chào mừng đến với Colorado.” Anh ấy vừa nói vừa ôm lấy tôi. Khi anh ấy thả tôi ra, tôi nhìn thấy những vết sẹo mờ trên lông mày và bên tai. Tôi đã không nhìn thấy nó vào lần cuối chúng tôi gặp nhau. Anh ấy trông có vẻ chững chạc hơn, nhưng anh không còn giữ ánh mắt đề phòng mà anh luôn mang bên mình như chiếc khiên che chắn nữa. Tôi nghĩ là sự đề phòng của tôi được thừa hưởng từ anh. “Cảm ơn.” Tôi nói dứt khoát. Anh ấy biết rằng tôi không muốn đến đây. Chú Julio đứng cạnh tôi cho đến lúc chú ấy tống khứ tôi lên máy bay. Và sau đó chú còn đe dọa rằng sẽ ngồi ở sân bay cho đến khi chú ấy biết chắc rằng tôi đã cất cánh. “Còn nói được tiếng Anh chứ?” Anh trai tôi hỏi khi chúng tôi đi lấy hành lý. Tôi trợn tròn mắt: “Chúng ta chỉ sống ở Mexico có hai năm thôi, Alex. Nói đúng hơn là chỉ có mẹ, em và Luis chuyển đến Mexico. Anh đã bỏ rơi mọi người.” “Anh không bỏ rơi mọi người. Anh chỉ sắp học đại học và bởi vậy anh có thể làm điều gì đó thiết thực với cuộc sống của mình. Em cũng nên thỉnh thoảng thử làm điều gì đó thiết thực đi.” “Thôi khỏi, cảm ơn anh. Em cảm thấy ổn với cuộc sống không mấy thiết thực của mình.” Tôi lấy chiếc túi vải len của mình ra khỏi băng chuyền và theo Alex rời khỏi sân bay. “Em đang đeo cái gì ở cổ đấy?” Anh ấy hỏi tôi. “Nó là cái chuỗi hạt.” Tôi trả lời, chỉ tay vào dấu chữ thập đính cườm trắng đen “Em đã chuyển sang tôn giáo khác từ lần cuối chúng ta gặp nhau.” “Tôn giáo gì chứ, anh không tin. Anh biết nó là biểu tượng của một băng đảng,” anh nói khi chúng tôi tiến đến chiếc xe Beemer mui trần màu bạc. Anh trai tôi không thể nào mua nổi chiếc xe đó, chắc hẳn là anh ấy mượn từ cô bạn gái Brittany. “Vậy thì sao chứ ?” Alex đang ở trong một băng đảng ở Chicago. Trước đây bố tôi cũng là thành viên của một băng đảng. Cho dù Alex có muốn thừa nhận điều đó hay không thì tôi cũng kế thừa sự xấu xa đó. Tôi đã cố gắng sống theo luật pháp. Tôi chưa bao giờ than phiền khi tôi làm ra ít hơn 50 peso mỗi ngày và làm việc liên tục sau giờ học ở trường. Sau khi bị sa thải và bắt đầu làm việc với băng Guerreros del barrio, tôi kiếm được hơn 1000 peso mỗi ngày. Nó có thể bị xem là thứ tiền dơ bẩn, nhưng nó giúp tôi đủ ăn. “Em có học được gì từ sai lầm của anh không đấy?” Anh ấy hỏi. Khỉ thật, khi Alex ở trong băng Latino Blood ở Chicago, tôi đã từng tôn thờ anh ấy. “Anh hẳn không muốn nghe câu trả lời đâu.” Lắc đầu thất vọng, Alex lấy chiếc tủi vải ra khỏi tay tôi và quăng nó vào sau xe. Vậy nếu anh ấy rời khỏi Latino Blood thì chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ? Anh ấy sẽ phải mang những hình xăm ấy trong suốt quãng đời còn lại. Dù sao đi nữa thì anh ấy sẽ luôn dính líu đến Latino Blood cho dù có hoạt động hay không hoạt động trong băng đảng ấy. Tôi nhìn anh trai của mình hồi lâu. Anh ấy chắc chắn đã thay đổi. Tôi đã cảm nhận được điều này ngay từ phút đầu tiên tôi trông thấy anh. Anh ấy có lẽ trông giống như Alex Fuentes, nhưng tôi có thể nói rằng anh ấy đã mất đi tinh thần chiến đấu mà Alex Fuentes từng có. Giờ anh ấy học đại học và suy nghĩ rằng anh ấy có thể tuân  theo luật pháp và biến thế giới trở thành một nơi tươi đẹp hơn để sống. Thật ngạc nhiên khi anh ấy nhanh chóng quên đi rằng chúng tôi đã từng sống trong khu ổ chuột ở vùng Ngoại ô Chicago một thời gian cách đây không lâu lắm. Có một số thứ trong thế giới này không thể tươi sáng, dù bạn có cố đánh bóng nó thế nào đi chăng nữa. “Mẹ thế nào rồi?” Anh ấy hỏi. “Mẹ ổn.” “Thế còn Luis?” “Cũng vậy. Cậu em trai nhỏ của chúng ta thông minh gần bằng anh rồi, Alex. Nó nghĩ rằng nó sẽ trở thành một phi hành gia như Hernández.” Alex gật đầu như một người cha đầy tự hào, và tôi nghĩ anh ấy thực sự tin rằng Luis có thể đạt được ước mơ của mình. Cả hai người họ đều hoang tưởng… Cả hai người anh em của tôi đều là những kẻ mộng mơ. Alex nghĩ rằng anh ấy có thể cứu thế giới bằng cách tạo ra các loại thuốc chữa bệnh, còn Luis thì lại nghĩ rằng nó có thể rời khỏi thế giới này và thám hiểm một thế giới khác. Khi chúng tôi đi lên đường cao tốc, tôi trông thấy những dãy núi ở xa xa. Nó làm tôi nhớ về địa hình hiểm trở ở Mexico. “Nó được gọi là Front Range.” Alex nói với tôi. “Trường đại học nằm ở chân núi.” Anh ấy chỉ sang trái. “Chúng được gọi là Flatirons bởi những tảng đá ở đây phẳng như những tấm bảng bằng sắt vậy. Thỉnh thoảng anh sẽ đưa em tới đó. Brit và anh thường đi dạo ở đó khi rời khỏi ký túc xá.” Anh ấy liếc nhìn tôi và bắt gặp tôi đang nhìn anh ấy với vẻ không thể tin nổi. “Sao nào?” Anh ấy đang nói chơi đúng không? “Anh đang đùa em à?”? Tôi chỉ đang tự hỏi anh là ai và anh đã làm chuyện quái quỷ gì với anh trai của tôi. Anh trai Alex của tôi đã từng là một kẻ nổi loạn, và giờ thì anh ấy lại đang nói về những ngọn núi, bảng sắt và đi dạo với bạn gái. “Thế em thích anh nói về chuyện say xỉn và gây rắc rối chắc?” “Đúng vậy!” Tôi nói và hành động như thể là tôi đang cực kì hứng thú. “Rồi sau đó anh có thể nói cho em biết nơi mà em có thể say xỉn và gây rắc rối, bởi em sẽ không thể sống nếu không dùng một vài loại chất cấm.” Tôi nói dối. Có thể mẹ tôi đã nói với anh ấy rằng bà nghi ngờ tôi sử dụng thuốc nên tôi cứ làm như thể là tôi dùng chúng vậy. “Được thôi. Thế cứ nói với mẹ về những thứ điên rồ đó đi, Carlos. Anh không còn làm những thứ mà em làm đâu.” Tôi gác chân mình lên bộ phận điều khiển xe. “Anh còn không có bằng chứng.” Alex đẩy chân tôi xuống. “Không phiền chứ? Xe của Brittany đấy.” “Anh thực sự bị mê hoặc rồi. Đến lúc nào thì anh mới bỏ quách cái loại con gái rẻ tiền đó đi và bắt đầu trở thành một anh chàng sinh viên đại học bình thường – ngủ với hàng tá cô gái?” Tôi hỏi anh ấy. “Britany và anh không hẹn hò với người khác.” “Tại sao lại không?” “Người ta gọi đó là bạn trai và bạn gái.” “Có mà hèn nhát ấy. Một chàng trai chỉ ở cùng với một cô gái thì không bình thường chút nào cả, Alex. Em là một người tự do và em sẽ sống độc thân mãi mãi”. “Vậy là đã rõ, Quý ngài tự do, ngài sẽ không ngủ với bất kỳ ai trong căn nhà của tôi.”   Mời các bạn đón đọc Quy Luật Hấp Dẫn của tác giả Simone Elkeles.
Những Người Sống Và Những Người Chết
Những người sống và những người chết (tiếng Nga: Живые и мёртвые) là tác phẩm đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết (Những người sống và những người chết, Người ta sinh ra không phải đã là lính, Mùa hè cuối cùng) về đề tài Chiến tranh Vệ quốc (1941 - 1945) của nhà văn Konstantin Simonov. Hai phần đầu tiên của cuốn tiểu thuyết được xuất bản vào các năm 1959 và 1962, phần thứ ba vào năm 1971. Tác phẩm được sáng tác theo hơi hướng sử thi, toàn bộ cốt truyện trải dài theo trình tự từ tháng 6 năm 1941 cho đến tháng 7 năm 1944. Theo các nhà phê bình văn học Soviet, đây là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất về đề tài Chiến tranh Vệ quốc. *** 'Tôi có cảm giác chung với tiểu thuyết Liên xô thời kỳ chống phát xít, đó là mỗi khi đọc xong một cuốn sách, bỗng chợt thấy tất cả nhân vật trong đó, những anh dép, lép, nhép, nốp, lốp, xốp… như trở thành đồng đội của mình, hoặc đúng hơn, thấy mình trở thành một người trong số họ. Tôi đã theo anh phóng viên quân đội Xintxốp suốt những trận chiến đấu, phá vây, chia tay và gặp lại, tôi đã gặp Xerpilin, Tanhia, Dôlôtarép… Tôi cũng gặp những kẻ còn sống mà như đã chết, hèn nhát mạt hạng như gã Thượng úy Kruchikốp, sống bấu víu bằng cách tự lừa mình rằng còn có kẻ còn hèn nhát hơn mình, hoặc dối trá hơn mình, và mình sẽ vạch mặt kẻ đó. Lúc ấy mình sẽ là người hùng. Lúc ấy mình sẽ yên tâm tin rằng mình không hèn nhát. Cỗ máy chiến tranh xay nghiền những thanh niên, trung niên, phụ nữ và trẻ em trong ánh chớp số phận. Thật trớ trêu, những ánh chớp số phận ở đây, hóa ra lại là ánh lửa lóe lên khi mỗi viên đạn bay ra khỏi nòng súng. Sau đó là những người sống và những người chết. Dù kẻ bị nhắm bắn có trúng đạn hay không, anh ta cũng đã bị chiến tranh quẳng ngoéo đi xa khỏi con đường anh vẫn đi trước đó. Nếu anh trúng đạn, chết ngay, hoặc tử thương, đã đành đi một nhẽ, thế là chấm hết một đời. Nhưng nếu viên đạn chỉ làm anh bị thương đâu đó, cho anh một vết sẹo, hoặc biến anh trở thành tàn phế, anh có thể tiếp tục chiến đấu, hoặc dưỡng thương một thời gian rồi tiếp tục chiến đấu, hoặc thậm chí không bao giờ chiến đấu được nữa. Anh phải sống và đối mặt với một cuộc đời khác hẳn. Thậm chí ngay cả khi viên đạn đó tránh khỏi anh, biết đâu đấy, anh lại trở thành một Valentin Hauder, anh chàng trong Ba người bạn của Erich Maria Remarque, ngày ngày say khướt uống mừng mình thoát chết. Không chỉ là chiến tranh, vấn đề đặt ra còn là giữa một con người và một tờ giấy, người ta coi trọng cái nào hơn cái nào. Đến bao giờ người ta mới biết cách tin vào con người ? Tôi không muốn dành nhiều lời xưng tụng cho một tác phẩm để dụ dỗ người khác đến với nó. Chỉ biết rằng Simonov đã viết một cách đầy tiết chế, sự tiết chế của một người đã thực sự trải qua chiến tranh với tất cả sự khốc liệt của nó. Mỗi nhân vật thoáng qua dù chỉ một lần cũng khiến người đọc thấy được dù anh ta sẽ sống hoặc sẽ chết thế nào, anh ta cục cằn, thô lỗ, nóng nảy hay mơ mộng thế nào, và anh ta cũng là một mắt xích không thể thiếu trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Chừng nào một đất nước còn những con người như Malinin, Xintxốp, Xerpilin, Masa…, đất nước đó sẽ không bao giờ chấp nhận quỳ gối trước quân xâm lược' . *** Cạnh đường có hai chiếc xe tăng Đức đang đứng như hai cái đài kỷ niệm khiến Malinin không thể nào nhầm được: nòng đại bác của chiếc này chĩa vào chòi súng của chiếc kia. Đây chính là những chiếc xe tăng mà hôm qua, khi đi ngang qua đó, ông có kể lại rằng bọn lính xe tăng Đức đã phải dốc hết xăng ra cho bọn bộ binh. Nghĩa là họ đã đi trở lại được khoảng hai chục cây số. Dù sao chăng nữa, kể từ sáng hôm qua đến giờ, tiểu đoàn đã tiến được khá xa về phía trước... Nghĩ đoạn ông bèn hỏi Karaulốp xem Riáptrenkô đã chỉ định ai làm trung đội trưởng thay anh ta, và khi nghe anh ta trả lời đúng cái tên mà ông dự đoán: «Xintxốp», thì ông lại bực mình sực nhớ ra rằng thế là mình vẫn chưa kịp nói với Xintxốp về lá thư mình gửi lên phòng chính trị. Bây giờ, khi lại một lần nữa nghĩ tới lá thư này, ông vẫn không biết rằng tình trạng chậm trễ ấy không phải là do lỗi của đảng ủy sư đoàn như ông đã kết luận : đảng ủy sư đoàn chẳng liên quan gì đến việc này cả. Số là một đồng chí trợ lý của phòng chính trị tập đoàn quân sau khi đọc đến họ tên của Xintxốp thì chợt nhớ tới một tài liệu trước đây đã đi qua tay mình. Tài liệu đã qua tay anh đó chỉ vẻn vẹn là một tờ giấy xé từ quyển vở học sinh viết đầy một thứ chữ to tướng của con nhà lính : chiến sĩ hồng quân Dôlôtarép vượt khỏi vòng vây ở khu vực mặt trận của tập đoàn quân đã viết giấy lên phòng chính trị trình bày hoàn cảnh mà chính trị viên I. P. Xintxốp đã hy sinh và đề nghị rằng nếu có thể thì báo cho gia đình đồng chí Xintxốp biết. Đồng chí cán bộ phòng chinh trị ấy chưa có thời gian để làm một việc gì theo yêu cầu của lá thư này, nhưng anh cũng không nỡ đang tay xé nó đi, bới thế bây giờ nó đang nằm cùng trong một tập hồ sơ bên cạnh lá đơn của hạ sĩ Xintxốp xin được phục hồi đảng tịch. Mặc dầu trên tập hồ sơ ấy có ghi mấy chữ «để báo cáo», nhưng lúc đó chẳng có ai để mà báo cáo cả; trận tấn công đã bắt đầu và chính ủy trung đoàn Mácximốp, chủ nhiệm chính trị tập đoàn quân, đã ra hỏa tuyến hơn hai ngày nay rồi. — Thế nghĩa là đã có Xintxốp thay cậu rồi đấy hả? Được ! — sau giây lát lặng thinh, Malinin nói với Karaulốp như vậy. Ông nói tựa hồ như mình vẫn còn đang trong tiểu đoàn và tựa hồ như việc đó vẫn phải có sự đồng ý của ông thì mới được. — Vậy tiểu đoàn trưởng vẫn từ chối không chịu chuyển về hậu phương hả? — Đời nào ông ấy chịu! — Karaulốp nói với vẻ tán thành. — Máy bay nào thế nhỉ?—nghe có tiếng máy bay bắt đầu ầm ì trên bầu trời và cảm thấy chú bé ngồi đằng sau mình giật thót người, Malinin liền hỏi vậy. — Máy bay ta, — Karaulốp nói. Bốn phi dội máy bay ném bom của ta, mỗi phi đội chín chiếc nối đuôi nhau bay qua đầu đoàn thương binh, từ phía đông sang phía tây, thong thả rạch ngang bầu trời đông trắng đục. Chiếc xe trượt tuyết liền dừng lại và các chiếc đi sau cùng dừng lại, suýt nữa húc phải nhau. Cả chú bé đánh xe lẫn Karaulốp và Malinin đều nhìn lên trời với cùng một niềm sung sướng và biết ơn. — Sao, bay khuất rồi hả, không thấy nữa rồi hả?—Malinin hỏi, khi không còn nghe thấy ầm ì nữa và không đủ sức để chống tay nhỏm dậy dõi theo bóng máy bay. — Không, vẫn còn thấy, nhưng bây giờ thì gần như không thấy nữa, bay khuất rồi, — Karaulốp trông theo hút những chấm đen nhỏ bẻ đến tận chân trời và đáp lại như vậy. Tiểu đoàn Riáptrenkô đã tiến được mười cây số kể từ chiếc lán mà đêm qua Malinin đã ngất đi và cách xa cái nơi mà bây giờ đoàn xe trượt tuyết chở đầy thương binh loại nặng về hậu cứ là ba chục cây sồ, tiểu đoàn đang tiến về phía tây trong làn tuyết dày, mừng rỡ vì cuối cùng bão tuyết đã tan. Giờ đây sau khi chiếm được ga Vôxkrêxenxkôiê, những trung đoàn khác của Xerpilin ít bị tiêu hao trong trận đánh hôm qua, đang xông được lên phía trước và từ sáng đến giờ tiểu đoàn vẫn cứ tiến mãi mà không phải nổ một phát súng nào, chỉ thỉnh thoảng lại đụng phải những chiếc xe quân Đức bỏ lại trong tuyết và xác những tên lính bị chết cóng hoặc bị giết. Hiện tượng tiến quân mà không phải nổ súng này cố nhiên chỉ là tạm thời, bởi vì cả bên trái lẫn bên phải họ, tiếng gầm của đại bác vẫn liên tiếp theo gió vọng lại, còn ở ngay phía chân trời thì trong nửa giờ vừa qua đã lại thấy bập bùng khói lửa của những làng mạc bị đốt cháy. Xintxốp, Kômarốp và hai chiến sĩ tiểu liên nữa, — tất cả quân số còn lại của trung đội, — đang nối nhau đi theo sau con ngựa do Riáptrenkô cưỡi. Lẽ ra Riáptrenkô phải sang đội điều trị từ lâu để chữa vết thương, nhưng anh vẫn không chịu thua, vẫn cứ cưỡi ngựa bằng cách bỏ cái bàn chân tê cóng ra khỏi bàn đạp và buộc một chiếc gậy đầu cong do tay anh đẽo gọt lấy hôm qua vào phía sau yên để phòng khi phải xuống ngựa. — Hạ sĩ ơi, theo cậu thì liệu đơn vị mình có sắp được bổ sung thêm quân số không? Kômarốp tiền len ngang với Xintxốp rồi đi bên cạnh anh. — Tớ làm sao mà biết được? — Xintxốp nhún vai, nhưng anh nghĩ thầm trong bụng rằng trong lúc mình chưa dừng lại, chưa chạm trán với quân Đức ở một nơi nào đó, thì chưa làm gì có bổ sung được đâu: tuyết dày như thế này không thể chở quân số bổ sung bằng xe ôtô được, còn như đi bộ thì chẳng ai đuổi kịp được mình, nếu mình cứ đi liên miên không nghỉ như hôm nay. Kômarốp buồn bã thấy trung đội mình bị thương vong nhiều đến như vậy, anh bèn đến tìm một lời an ủi ở người tiểu đội trưởng bây giờ đã trở thành trung đội trưởng của mình, nhưng Xintxốp thì lại nghĩ thầm rằng nếu đêm hôm qua Kômarốp không đến cứu mình ở cạnh lán, không quạt lia lịa thẳng vào tên Đức đang nhảy vọt ra trong giây phút cuối cùng ấy thì anh đã đi đời nhà ma, và bây giờ đã không còn gì để suy nghĩ nữa, dù là chỉ suy nghĩ rằng hôm nay có đánh nhau không và liệu mình có được lành lặn trong trận đánh này không. Nhưng giờ đây anh không muốn dùng lời để nói về tất cả những điều đó, anh chỉ nói bằng mắt, bằng cách yên lặng nhìn vào mắt Kômarốp với lòng biết ơn. —Thế nào, theo ý cậu thì hôm nay cánh mình có đuổi kịp được bọn Đức không? — Kômarốp hỏi. Xintxốp bèn nhìn vào mặt anh ta và hiểu rằng bây giờ Kômarốp cũng đang có những cảm nghĩ giống hệt như mình, vừa muốn tiếp tục đuổi kịp quân Đức, lại vừa tiếc rẻ phải từ biệt giờ phút nghỉ ngơi lấy sức mới được hưởng sau trận chiến đấu hôm qua. — Có lẽ đuổi kịp đấy,—anh cố nén cái ý nghĩ ấy trong lòng, dấn bước đi lên, rồi đáp vậy, — bởi vì ta lại trông thấy khói kia rồi! Đằng kia, ở nơi tuyết phủ, nơi mà họ đang rảo bước tiến đến đám khói từ một xóm làng bị cháy vẫn bốc lên mỗi lúc một cao. Tiểu đoàn trưởng Riáptrenkô cưỡi ngựa đi đằng trước Xintxốp, có lúc người anh che khuất đám khói ấy, có lúc nó lại lộ ra, mỗi khi con ngựa bước lệch đường sang bên cạnh. — Kômarốp, Kômarốp ơi! — Gì thế? — Cho xin điếu thuốc! — Đang đi sao lại hút thuốc thế? — À thì tự nhiên thấy thèm... — Xintxốp không giải thích tại sao lại thèm. Nhưng anh thèm thuốc, bởi vì giờ đây khi nhìn vào đám khói ở đằng xa phía trước mặt, anh cố buộc mình phải quen với ý nghĩ gay cấn: mặc dù đã trải qua biết bao nhiêu chặng đường, nhưng phía trước vẫn còn cả một cuộc chiến tranh.. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Sống Và Những Người Chết của tác giả Konstantin Simonov.
Mười Lẻ Một Đêm
"Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm". Đó là hai người nửa bạn nửa tình nhân mới gặp lại nhau sau hơn mười năm xa cách, và họ muốn trao thân cho nhau, lần đầu tiên. Họ mượn căn hộ của một người bạn - Họa sĩ Chuối Hột - để gặp gỡ, và đã bị nhốt ở đó bởi sự đãng trí ma lanh của ông bạn trời đánh. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia tấn trò đời: Họa sĩ Chuối Hột, Người đàn ông và Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Tất cả các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít; và luôn luôn giọng phát ngôn này bị đan cài, bị đánh lẫn vào giọng của chính các nhân vật đang được nói tới, nó tạo nên một kiểu giọng tưng tửng, giỡn cợt, giễu nhại rất đặc trưng cho văn xuôi Hồ Anh Thái. *** Chất hài hước, nghịch dị trong 'Mười lẻ một đêm' Bằng tiếng cười, tác giả của “Mười lẻ một đêm” đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống. Mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực! 1. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm 1 của nhà văn Hồ Anh Thái có thể khiến người ta phải bật cười, bởi tính chất hài hước của nó. (Tôi không nói đây là cuốn tiểu thuyết hài, vì như thế sẽ sa vào một sự phân loại cực kỳ phức tạp). Cái đó có thể có gì đặc biệt hay không? Tôi cho rằng có. Nếu tôi không nhầm thì kể từ khi Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng ra đời đến nay, văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng đã đánh mất (một cách rất đáng tiếc) tiếng cười hài hước. Suốt một thời gian dài các nhà văn Việt Nam ít cười và cũng ít muốn khiến cho độc giả phải bật cười thông qua tác phẩm của mình. Chúng ta quá trang nghiêm, trang nghiêm đến mức coi sự cười cợt thoải mái là một trò lố, một sự vô bổ và thậm chí là có hại. Khi bắt tay vào việc viết một cuốn tiểu thuyết, nếu tôi không võ đoán, hẳn là các nhà văn của chúng ta đều "hằm hằm" nghĩ đến chuyện tác phẩm của mình sẽ phản ánh cái gì và phản ánh đến đâu, nó có vươn tới phục vụ những nhiệm vụ chính trị xã hội hay không và phục vụ đến đâu, nó có nêu một tấm gương đạo đức hay không và nêu đến đâu, nó có đưa ra một sự cảnh báo hay không và cảnh báo đến đâu... Nói chung, việc sáng tác tiểu thuyết bị đè xuống bởi một cứu cánh quá ư đạo mạo, nghiêm túc; và trong tình thế ấy thì không (hoặc khó) có thể bật ra tiếng cười giòn giã, vang rền, "xả láng". Nếu có chăng, nó chỉ là cái cười gằn, cười mỉa, hoặc cười mà ầng ậc nước mắt mà thôi! 2 2. Trở lại với tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái. Ta hãy đọc đoạn mở đầu tác phẩm: "Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm và mười lẻ một ngày. Chính xác thì không đúng mười lẻ một đêm ngày, nhưng thực sự là bao nhiêu thì độc giả phải theo dõi hết cả cuốn sách mới biết được. Chẳng phải tác giả giữ mánh hay giấu bí quyết gia truyền, mà cái gì cũng phải tuần tự. Đôi khi đọc sách cũng là dịp thử thách lòng kiên nhẫn. Sách dở thì thử thách lòng khoan dung". Có thể thấy, giọng văn ở đây là kiểu giọng phát ngôn tưng tửng, nó được xuyên thấm bởi tính bỡn cợt, giễu nhại. Dường như có một khế ước mà tác giả đã thảo ra trước bạn đọc: "Các anh nên đọc hết cuốn sách này. Đọc xong các anh có thể tin hoặc không, vì những chuyện tôi kể có thể rất nghiêm túc hoặc có thể hết sức tầm phào”. Không đặt mục tiêu thuyết phục độc giả, nhà văn bày ra một cuộc chơi, bước vào cuộc chơi ấy, độc giả có thể vừa thưởng thức, vừa chứng nghiệm, vậy thôi! Và, cuộc chơi này được bắt đầu từ tình huống như vừa kể trên, "Một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm. Và mười lẻ một ngày". Còn số mười lẻ một đêm buộc người ta phải nghĩ đến truyện Nghìn lẻ một đêm lừng danh mà người Ba Tư đã cống hiến cho nhân loại, nghĩ đến những chuyện kể được tạo nên bằng sự tưởng tượng cực kỳ phóng túng, bất chấp logic đời sống thực tế. Chất phóng túng ấy có ở Mười lẻ một đêm. Trước hết, nó được thể hiện qua các nhân vật đậm tính nghịch dị (grotesque, mà hầu như tất cả các nhân vật của cuốn sách đều là nhân vật nghịch dị). Họa sĩ Chuối Hột chẳng hạn: "Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám mùa cởi mở. Thời trang yêu thích nhất là bộ cánh lúc lọt lòng mẹ". Sở thích - nếu có thể gọi đó là sở thích - khoả thân của Họa sĩ Chuối Hột được tác giả phóng đến cực đại. Ấn tượng nhất có lẽ là hình ảnh này: "Trong một góc nhà gã chống đầu xuống đất hai chân dốc thẳng lên trời, thân người bóng nhẫy, trắng lôm lốp như thân chuối. Tất nhiên là chuối hột trổ hoa ở quãng lưng chừng trời". Đó là cảnh hoạ sĩ Chuối Hột khoả thân tập yoga khi cửa nhà mở ra thông thống! Cảnh này, không hiểu sao cứ khiến tôi phải liên tưởng tới chàng hiệp sĩ xứ Mantra của Cervantes - nhân vật nghịch dị vĩ đại trong văn học thế giới: khi điên cuồng nhớ tới nàng Dulcinea, Don Quijote đã trồng cây chuối, áo sơ mi dốc xuống trùm mặt và chàng ta không hề mặc quần! Nhân vật Bà mẹ cũng đậm chất nghịch dị. Cái dâm của người đàn bà này được mở rộng tới mức quá khổ trên văn bản. Qua năm lần đò và vô vàn những cuộc phiêu lưu tình ái - tất cả đều diễn ra trước cặp mắt của đứa con gái, "con bé phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ" - Bà mẹ quả là mẫu người ham hố nhục dục đến mức vô độ và vô sỉ. "Về làm gì, ở lại đây ngủ cho vui" - đó là câu nói được bà mẹ lặp đi lặp lại với từng đối tác mới trong thú vui xác thịt triền miên vô tận. Cũng có thể coi đó như một dấu hiệu cá biệt hoá nhân vật, giống câu "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi" của cụ Cố Hồng trong văn Vũ Trọng Phụng. Nhẹ dạ, nông nổi, nhiều lầm lạc, con thiêu thân trong lò lửa đam mê - không ít lần tác giả làm người đọc ngỡ tưởng như vậy về nhân vật Bà mẹ - nhưng tất cả ấn tượng ấy phải được xét lại trước một thực tế thế này: "Năm lần lấy chồng, năm lần li dị, mỗi lần li dị được một cái nhà. Chồng đầu tiên được một cái nhà để xe. Chồng thứ hai được chia đôi căn phòng 26m2. Chồng thứ ba căn hộ tập thể tầng hai. Chồng thứ tư được 9m2 phố cổ. Chồng thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư chất lượng cao". Việc nâng dần cấp độ đền bù sau mỗi lần li hôn như vậy là một cách phóng đại cho cái tham của Bà mẹ. Để rồi, người đọc không khỏi bật cười trước sự tổng kết của cô con gái: "Mẹ ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén được"! Có một cặp nhân vật nghịch dị không thể không nói đến trong Mười lẻ một đêm, đó là giáo sư Một tên Xí, giáo sư Hai tên Khoả. Ông Khoả vốn là chồng thứ năm của nhân vật Bà mẹ. Ông khác đời ở cái bệnh cười vô tiền khoáng hậu: "Chỉ định bật lên một tiếng cười thôi thì cứ thế mà cười mãi. Không sao hãm lại được. Hơ hơ hơ hơ. Mãi. Chập dây thần kinh cười". Không có thuốc chữa tận gốc căn bệnh ấy, chỉ có một giải pháp tình thế: "Hễ bật lên tràng cười không tắt được thì chỉ việc tát cho chàng một cái. Đứt luôn". Từ cái bệnh cười ấy của ông mà tác giả cho chúng ta một "xen" hài kịch đáng xem: ông Khoả hướng dẫn luận văn cho nữ sinh viên, đến lúc ra về, sinh viên khẩn khoản xin lại thầy cái chân. "Thầy bật cười khan. Cười khan tức là chỉ cười một tiếng. Chết dở, nãy giờ thầy cho em về mà thầy vẫn giữ đùi em. Thầy cười khan, nhưng bệnh cười vượt quá quy định, bắt đầu nhân ra thành chuỗi cười bất tận. Cô sinh viên hoảng quá. Chẳng biết ứng phó thế nào. Cũng không dám rút chân ra khỏi tay thầy. Đúng lúc nàng (tức Bà mẹ) về. Nàng chồm lên tát vào mặt chồng một cái. Tịt. Nàng hất chân con kia ra khỏi tay chồng. Dứt". Hoạt cảnh này bóc lộ cái dâm, sự bất lực và cả cái quái đản của nhân vật, chính vì thế mà người ta phải bật cười. Từ hình ảnh một ông giáo sư già, tay nắm chân một người con gái trẻ, miệng cười không dứt, người đọc có quyền liên tưởng tới hình ảnh một con đười ươi tay giữ ống tre, nhìn về phía mặt trời cười sằng sặc, như dân gian thường kể, không nhỉ? Đó là ông giáo sư Hai, còn người tạo nên với ông hình ảnh cặp bài trùng, ông giáo sư Một, thì sao? Ngay từ đầu tác giả đã giới thiệu với chúng ta rằng ông là một nhà văn hoá lớn, là người duy nhất trong đám giáo sư tiến sĩ có thể sử dụng tiếng Anh để giảng dạy. Nhưng ngay sau đó, ông đã bị "lật tẩy" bằng chính những hành vi cực kỳ đối nghịch với các chuẩn mực văn hoá hiện hành. Dù không phải là đại biểu được mời tham luận trong một hội nghị quốc tế, ông vẫn "vô tư" phát biểu quá thời lượng cho phép, khiến cho cả chủ và khách đều lâm vào tình thế khó xử, mọi thứ rối tung như canh hẹ. Ông ăn uống trong bữa tiệc chiêu đãi sau hội thảo như trong chốn không người, đúng hơn, như một anh mõ trong xó bếp bần hàn của mình. Và đặc biệt là việc ông "tè bậy" vào chân nhóm tượng đài công nông binh - một công trình văn hoá - đều đều ngày hai lần, và bao giờ cũng khoan khoái, thoả mãn! Nhà văn hoá tiểu tiện vào công trình văn hoá, sự tương phản giữa cái "nó phải là" và cái "nó thực sự là" chính là một tình huống kiểu mẫu để bộc lộ cái hài. Chỉ có điều, cái "nó thực sự là" ở ông giáo sư Một, nhà văn hoá lớn, đã vượt ngưỡng phản văn hoá. Khai thác triệt để sự vượt ngưỡng này qua các hành vi ăn uống, tiêu hoá - vốn liên quan đến phần dưới cơ thể, phần được coi là thô, nặng, đục, uế tạp - của nhân vật, tác giả đã cho ta một hình ảnh đầy chất nghịch dị! (Hãy nhớ lại những nhân vật tương tự trong Gargantua và Pantagruel của Rabelais). 3. Còn có thể nói về chất nghịch dị - và từ đó gây cười - ở một số nhân vật khác trong Mười lẻ một đêm. Tựu trung, nó được hình thành từ việc tác giả chú ý nhặt ra một (hoặc một vài) thói tật và sự lập dị, bơm phồng lên, tô đậm vào, biến nó thành một tồn tại bất bình thường trong đời sống bình thường, một sự lộ liễu quá mức hình dung sẵn có về đối tượng. Và chính từ những nhân vật nghịch dị này mà tác giả đưa chúng ta vào những phạm vi hoạt động xã hội cũng đầy tính nghịch dị. Với họa sĩ Chuối Hột, chúng ta đặt chân tới hội họa đương đại, nơi mà nghệ thuật sắp đặt (installation) và nghệ thuật trình diễn (performance) đang rùm beng khua chiêng gõ mõ. Nó là cái gì thế? Xem nhé: "Bày mấy cái chậu nhựa trên vỉa hè. Treo lủng lẳng trên mỗi chậu một cái nón. Rồi cầm vòi nước tưới lên nón cho mưa rơi xuống chậu. Thế là hoàn chỉnh một tác phẩm. Ngũ Hổ cởi hết mở hết, đóng độc cái khối ngồi thế kiết già trong công viên. Bảo một thằng Tây đối tác đi qua từng vị cởi mở, lấy gậy gõ lên từng cái đầu trọc. Gõ một cái thì cái đầu trọc lại kêu cốc một cái kêu boong một cái. Thế là được một sô". Khoan hẵng bàn về chuyện đó là nghệ thuật hay không nghệ thuật. Điều chắc chắn là những hoạt động này không trở thành mục đích của chính nó. Như Họa sĩ Chuối Hột giảng giải, thì: "Sắp đặt và diễn là để thu hút. Người ta thấy là lạ ngô ngố ghê ghê kinh kinh, người ta xúm lại xem. Cái ú ớ khờ khạo vớ vẩn lại làm cho người ta thinh thích nhơ nhớ. Tên tuổi ta được lưu vào bộ nhớ của công chúng. Từ đó công chúng đếu đâu cũng để ý tìm tên tuổi ta. Từ đó công chúng mới xem tranh ta mua tranh ta. Đến đó mới là mục đích". Với nhân vật người đàn ông và chuyến đi dọc theo đất nước của anh, chúng ta tham dự hội Lim, nơi có "anh hai đi giày tây, chị hai đi giày khủng bố"; chúng ta lên vùng cao vào chợ văn hoá Bắc Hà, nơi mà những sơn nữ người Mông, người Dao đã biết sỗ sàng đòi tiền khách du lịch mỗi khi khách định chụp ảnh; chúng ta tới Đà Lạt, thành phố ngàn hoa với thác Cam Ly ngày một ít nước, còn rác rưởi thì vứt như thể đó là bãi tập trung rác cho cả khu vực! Theo chân Người đàn ông đưa con sang nước ngoài du học, chúng ta biết đến cảnh những du học sinh con các ông to bà lớn tụ bạ với nhau để chơi đêm, tán chuyện, đánh bài đánh bạc, hút hít chích choác, và "thực hành tiếng Việt đến mức điêu luyện" trên xứ sở của Anh ngữ! Với hai ông giáo sư khả kính Khoả và Xí, tác giả đưa chúng ta vào lãnh địa của khoa học xã hội nhân văn đương đại, nơi mà khá nhiều giáo sư đầu ngành "mãi mãi dừng lại ở trình độ cử nhân bổ túc công nông. Có thêm cái lanh cái ma cái xảo của cá tính. Có thêm kiến thức tham khảo khoa học xã hội Đông Âu đến những năm 1980". Tóm lại, đó là những ngụy khoa học gia với đầy những cố tật: uyên bác rởm, tham quyền cố vị, lừa bịp người đời và cũng tự huyễn hoặc chính mình (nhưng điều nguy hiểm là họ lại được một bộ phận đông đảo trong xã hội coi như là những giá trị!). Theo con đường "một bước lên bà" của nhân vật Người đàn bà, người đọc được khám phá một phần những "bí sử" cười ra nước mắt ở chốn quan trường. Nhiều, và nhiều những kẻ giống như nhân vật ông Víp (chồng của người đàn bà), loại chính khách xuất thân từ những phong trào "cờ đèn kèn trống" cơ sở, năng lực yếu, chuyên môn kém, nhưng lại được đặt vào những vị trí công tác trọng yếu, và bản thân họ cũng rất biết kiếm lợi từ đó. Quan ông thì thế, quan bà cũng không kém. Hội các phu nhân vụ trưởng, phu nhân thứ trưởng, phu nhân bộ trưởng được nói đến trong Mười lẻ một đêm quả đúng là một êkíp mua quan bán tước, mua đất kiếm lời đại tài và đầy gian ngoan. Tuy vậy, cái nét thô lậu "nhà quê" trong căn tính các mệnh phụ thì vẫn không sao gột rửa được. Chi tiết bà vợ một ông to "tắt mắt" lấy trộm cái đĩa sứ trong bữa tiệc do sứ quán nước ngoài chiêu đãi đã cho thấy điều này. Đó là một tiếng cười, tiếng cười lột tả đến đáy của sự thực: con vịt xấu xí không bao giờ có thể trở thành con thiên nga xinh đẹp! Đến đây thì đã có thể nhận xét đôi điều về những tình huống nghịch dị trong Mười lẻ một đêm. Được tạo ra bởi những nhân vật nghịch dị - tôi muốn nói là những nhân vật mang trong mình một vài nét tính cách lập dị, thậm chí là quái đản, nó phô lộ ra giữa chợ đời một cách hồn nhiên và hoàn toàn không nghĩ rằng mình lập dị, quái đản - những tình huống nghịch dị này tạo ra ấn tượng mạnh về một đời sống mất chuẩn: những chân giá trị và ngụy giá trị xâm thực, chồng chéo, che phủ lẫn nhau, người ta không có cách nào phân biệt được và vì thế luôn phải mò mẫm giữa các vách tường của ảo tưởng. Bằng tiếng cười, tác giả của Mười lẻ một đêm đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống, và mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực! 4. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái, như đã nói, bắt đầu bằng việc "Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm". Đó là hai người nửa bạn nửa tình nhân mới gặp lại nhau sau hơn mười năm xa cách, và họ muốn trao thân cho nhau, lần đầu tiên. Họ mượn căn hộ của một người bạn - hoạ sĩ Chuối Hột - để gặp gỡ, và đã bị nhốt ở đó bởi sự đãng trí ma lanh của ông bạn trời đánh. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia tấn trò: Hoạ sĩ Chuối Hột, Người đàn ông và Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Tất cả các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít; và luôn luôn giọng phát ngôn này bị đan cài, bị đánh lẫn vào giọng của chính các nhân vật đang được nói tới, nó tạo nên một kiểu giọng tưng tửng, giỡn cợt, giễu nhại rất đặc trưng cho văn xuôi Hồ Anh Thái giai đoạn gần đây 3. Tính trào lộng suồng sã hết mức ở các sự kiện, các chi tiết được kể lại trong truyện khiến cho tôi, dù không muốn, cũng buộc phải nhớ tới một luận điểm cốt tử trong lý luận về tiểu thuyết của nhà bác học Nga Mikhail Bakhtine 4 rằng tiểu thuyết tiếp xúc với thế giới ở cái ngày hôm nay không hoàn kết; và rằng chính bằng thái độ trào lộng suồng sã hết mức ấy mà người viết mới có thể xoá bỏ mọi khoảng cách, "nắn gân bắt mạch" đối tượng một cách đầy tự tin và nói về nó một cách chính xác! Dẫu sao đi chăng nữa, chỉ riêng việc khiến cho độc giả có thể cười khi đọc Mười lẻ một đêm - trong bối cảnh một tình hình văn học quá ư đạo mạo nghiêm túc - đã là một thành công của nhà văn Hồ Anh Thái. Và để kết thúc bài viết này, xin lặp lại một câu của Milan Kundera trong tập Những di chúc bị phản bội: "Tim tôi đau thắt, khi nghĩ đến ngày Panurge 5  không còn gây cười". (Nguồn: Người Đại biểu Nhân dân, số ra ngày 25/4/2006) Mời các bạn đón đọc Mười Lẻ Một Đêm của tác giả Hoàng Anh Thái.
Ngàn Hạc Giấy của Sadako
Ngày mùng 6/8/1945, 8 giờ 15 phút sáng, một quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima. Bé Sadako hai tuổi may mắn sống sót sau vụ nổ, thậm chí hoàn toàn lành lặn. Nhưng mầm bệnh của chất độc phóng xạ đã ngấm vào người em, nấu ủ suốt mười năm để rồi phát tác khi cô bé còn chưa học xong tiểu học. Dù ốm yếu, thân thể liệt dần từ dưới lên trên, hạch và các vết ung thư da nổi khắp người, nhưng với nụ cười không tắt trên môi và nỗi lòng đau đáu cho gia đình, Sadako vẫn chuyên cần dành những ngày cuối cùng của đời mình để gấp những con hạc giấy đong đầy nguyện ước. Sadako là một biểu tượng của tình thương yêu, của tiếng gọi hòa bình tha thiết. Cô bé cũng là nguyên mẫu cho bức tượng bé gái nâng hạc giấy trên Đài tưởng niệm Hòa bình cho Trẻ em ở Hiroshima. *** Hiroshima một ngày đầu tháng Tám, người đang ăn sáng người bắt đầu đi làm, nhưng ai nấy cùng dừng lại để ngẩng mặt lên trời ngắm nhìn. Ở rất cao, rất xa, có cái gì đó chói sáng rực rỡ lắm. Xuống cách mặt đất chừng 600 mét, cái chói sáng đó phát nổ, sóng xung kích bùng ra, tước đi sự sống của vạn vật. Gần thì biến thành tro bụi, xa thì sụp đổ hoặc nát vụn. Và lửa bốc lên ngùn ngụt, lửa thiêu cháy cả những dòng sông vốn đan dày như tấm lưới ở thành phố cảng này. Rồi mưa đổ xuống, mưa gom cả tro than từ chín tầng trời mang theo và tiếp đất với màu đen đặc, nhuộm đen da và đen cả tế bào sống của những người thoát chết. Từ đó, những mầm bệnh lặng lẽ vươn dài. Sadako là một bé gái thuộc vào trường hợp ấy. Hai tuổi dính mưa nguyên tử, mười năm ủ bệnh, chẩn đoán ung thư máu vào năm mười một tuổi, và mười hai thì từ giã cõi đời. Gần một năm chữa trị là gần một năm ngập tràn nước mắt, đau đớn và hi sinh cho nhau giữa Sadako và mọi người trong gia đình em. Tất cả được khắc họa lại ở cuốn sách này, khiến ta vừa cảm phục, yêu mến, vừa không khỏi xót xa. Với trái tim kiên cường và giàu lòng trắc ẩn, Sadako đã gói gọn bao yêu thương bí mật, bao mong ước thầm kín của mười hai năm ngắn ngủi trên đời vào những cánh hạc giấy. SADAKO VÀ NGÀN HẠC GIẤY phản ánh một câu chuyện bình dị và chân thực, đồng thời cũng là lời lên án thầm lặng mà mạnh mẽ nhất của một thế hệ trẻ em bị ép buộc làm nạn nhân chiến tranh. Bên cạnh Sadako chống chọi với bệnh tật, còn thấp thoáng hình bóng nước Nhật gian khó thời hậu chiến. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, dân cư xoay xỏa kiếm sống bằng chợ đen và vật vã chạy trốn cảnh sát kinh tế... Nhưng ở đó, không có oán hận hay căm thù. Bởi, giống như tình thương bao la trong gia đình, một đất nước cũng cần tình người để tiến bước. *** Sasaki Masahiro sinh năm 1941 tại Hiroshima, Nhật Bản. Cùng gia đình mình, ông đã sống sót qua vụ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima năm 1945. Em gái Sadako của ông, sau một thời gian chống chọi với bệnh ung thư máu do bị nhiễm phóng xạ, đã qua đời khi mới mười hai tuổi. Từ năm 2000, Sasaki bắt đầu đến nhiều nơi trên khắp đất Nhật để kể lại câu chuyện của em gái cũng như lan tỏa thông điệp về hòa bình và tình thương trong xã hội. *** Trước mặt tôi lúc này là Đài tưởng niệm Hòa bình cho Trẻ em. Đài tưởng niệm nằm ở một góc công viên Hòa bình Hiroshima*, phần trên là tượng một bé gái đang đứng, hai cánh tay giơ lên nâng một con hạc giấy lớn. Công trình kiến trúc ở gần tâm vụ nổ nguyên tử Hiroshima nhất. Tòa nhà được bảo tồn nguyên trạng ngay sau vụ nổ, và ngày nay đã trở thành biểu tượng của ước mơ hòa bình mãi mãi trên toàn thế giới. Bức tượng được lấy nguyên mẫu từ em gái tôi, Sasaki Sadako. Cách đây hơn nửa thế kỉ, vào năm 1945, gia đình Sasaki chúng tôi là nạn nhân của bom A thả xuống Hiroshima. Thời điểm đó, Nhật Bản đang chìm trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bố Shigeo đã nhập ngũ, chỉ còn bốn người ở lại thành phố là tôi, bà nội Matsu, mẹ Fujiko và Sadako em gái tôi. Vào cái ngày nghiệt ngã ấy, mái ấm của chúng tôi đã bị thiêu rụi hoàn toàn. “Bom A” còn được gọi là “bom nguyên tử”. Và quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima năm 1945 đánh dấu lần đầu tiên loài người sử dụng vũ khí hạt nhân trong chiến tranh. Sức công phá của vụ nổ tương đương 16.000 tấn bom TNT thông thường. Tuy nhiên, khía cạnh kinh khủng của vũ khí hạt nhân không chỉ nằm ở khả năng tàn phá của nó tại thời điểm phát nổ, mà còn ở lượng lớn chất phóng xạ khuếch tán sau khi thả bom. Nhiều người phải bỏ mạng vì hội chứng nhiễm phóng xạ cấp tính*. Có những người tuy sống sót sau vụ nổ, nhưng hệ lụy của phóng xạ còn kéo dài đến nhiều năm tiếp theo. Kể cả khi chiến tranh kết thúc, không ít người vẫn sống cùng nỗi lo ung thư hay bạch cầu*. Sadako bị chẩn đoán mắc bệnh máu trắng vào năm em học lớp Sáu. Sau khi tiếp xúc với lượng lớn chất phóng xạ trong thời gian ngắn, những triệu chứng sẽ xuất hiện trên toàn thân và nạn nhân sẽ tử vong trong khoảng thời gian từ một đến hai tuần. Hiện tượng bạch cầu trong máu tăng đột biến. Bệnh có thể gây ra các triệu chứng như sốt cao, thiếu máu, nhiễm trùng, chảy máu... Bố mẹ tôi đã làm mọi việc có thể để giúp Sadako đấu tranh với bệnh tật. Cả gia đình cùng nỗ lực tối đa nhằm vượt qua thử thách. Sadako vốn hay nghĩ cho mọi người, dù đau đớn đến đâu khi chống chọi với căn bệnh, em cũng không để lộ ra ngoài, mà luôn giữ khuôn mặt tươi cười vui vẻ để không làm ai lo lắng. Trong câu chuyện này, tôi sẽ kể về sự gắn bó của gia đình mình khi cùng nhau khắc phục gian nan. Sadako chưa từng than thở một lời, em không rên rỉ hay kêu đau bao giờ. Ngày qua ngày, em gấp những điều ước của mình thành hạc giấy. Rồi em mất ở tuổi mười hai, chưa đầy một năm kể từ khi biết mình mắc bệnh. Sadako không phải đứa trẻ duy nhất thiệt mạng vì bom nguyên tử. Tuy em là nguyên mẫu cho bức tượng ở Đài tưởng niệm, nhưng tượng được dựng lên là để an ủi hương hồn của tất cả các em nhỏ cùng cảnh ngộ. Trên bia đá dưới chân Đài tưởng niệm có khắc dòng chữ: Chúng em kêu gọi. Chúng em nguyện cầu. Vì hòa bình cho thế giới. Tôi viết cuốn sách này, không chỉ nhằm thuật lại cuộc chiến chống bệnh tật của Sadako, mà còn muốn các bạn hiểu thêm về những em bé là nạn nhân của mưa bom bão đạn. Khi nhìn bức tượng, ta có cảm giác bé gái đang giúp hạc giấy bay lên trời. Bên trên cánh hạc là vòm không xanh thẳm cao vời vợi, và đằng sau cô bé là những tán lá sum sê của hàng cây xanh lấp lánh. Vào thời điểm bom nguyên tử dội xuống Hiroshima, dù nước Nhật ngùn ngụt khói lửa chiến tranh, chúng tôi vẫn đang sống trong hạnh phúc bé mọn cùng gia đình mình. Buổi sáng mùng 6 tháng Tám năm 1945. Bầu trời cao xanh, tuyệt đẹp. *** Ngàn hạc giấy của Sadako – Những cánh hạc chở khao khát hòa bình. Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc nhưng thảm họa từ vụ nổ nguyên tử ở thành phố Hiroshima vẫn kéo dài mãi về sau. Cô bé Sasaki Sadako, là một trong những nạn nhân từ thảm họa đó. Sadako bị nhiễm phóng xạ, mất vì bệnh máu trắng khi mới 12 tuổi. Và Ngàn cánh hạc của Sadako, là những dòng chữ của anh trai cô bé – Sasaki Masahiro, viết về quãng đời đầy ý nghĩa mà Sadako đã sống.   Đề tài phản chiến trong Ngàn hạc giấy của Sadako Được viết bởi Sasaki Masahiro, một người không chỉ trải qua những giây phút kinh hoàng nhất của thành phố Hiroshima vào thời khắc Mỹ ném trái bom đầu tiên xuống Nhật Bản, mà ông còn là người thân liên quan trực tiếp với nhân vật trung tâm trong cuốn truyện – bé Sadako. Nên có thể nói, những dòng văn của Sadako no Senbazuru – Ngàn hạc giấy của Sadako, những dòng văn được viết lên bằng ngôi kể thứ nhất – tác giả xưng “tôi”, kể lại trải nghiệm, các sự kiện ông tự mình trải qua đã thấm đẫm hơi thở của lịch sử, hơi thở của thời đại. Qua đó mà Sasaki Masahiro gửi gắm, thể hiện tư tưởng phản chiến đầy mạnh mẽ. Cụm từ phản chiến xuất hiện đầu tiên trong tên một phong trào xã hội: Phong trào chống chiến tranh – Phong trào phản chiến. Phong trào này là sự phản đối việc sử dụng bạo lực, gây hấn quân sự, những cuộc xung đột vũ trang giữa các cộng đồng, quốc gia, dân tộc… Trong văn chương, các tác giả thể hiện tinh thần phản chiến bằng nhiều cách thức khác nhau. Như khắc họa, tái hiện hiện thực chiến tranh, những con người thời chiến hay những con người bước ra từ cuộc chiến… mà từ đấy thể hiện những hậu quả do chiến tranh mang lại. Qua đấy, bày tỏ khát vọng yêu hòa bình, mong muốn một thế giới không còn xung đột, làm dấy lên trong lòng người tinh thần phản đối chiến tranh, đoàn kết con người thành một khối, vì một thế giới không còn tiếng súng, tiếng bom, không còn những mảnh đời bất hạnh vì bom đạn. Trong dòng chảy của văn học mang đề tài phản chiến, Ngàn hạc giấy của Sadako vừa góp tiếng nói vào phong trào chung chống chiến tranh trên thế giới, đồng thời, vừa cất lên tiếng nói riêng của một tác giả Nhật Bản, đã trải qua những giờ phút tang thương nhất của cuộc đời, đã phải chứng kiến những người thân yêu lần lượt ra đi trong đau đớn vì chiến trận, khi quả bom nguyên tử đầu tiên được Mỹ đưa vào sử dụng vì mục đích quân sự. Khi nhắc đến đề tài phản chiến trong tác phẩm Ngàn hạc giấy của Sadako, trước hết, cần phải nói rằng đây là cuốn tiểu thuyết nhìn lại: khi con người ở hiện tại, nhìn lại những sự kiện đã xảy ra và viết về những năm tháng đã qua trong lịch sử. Nhưng không chỉ mang tính lịch sử, Ngàn hạc giấy của Sadako còn mang tính tự truyện nhằm khắc họa lên hình tượng một nhân vật có thật, thậm chí là cùng chung dòng máu thân thiết với người viết. Vì thế, đề tài phản chiến ở cuốn sách, vừa thể hiện trong từng mốc thời gian ứng với từng sự kiện có thật, mà còn thể hiện trong những chứng nhân lịch sử, và kết tinh lại, ở hình ảnh cô bé Sadako. Chiến tranh là đau thương, là những mất mát không thể tránh khỏi. Nhưng quả bom nguyên tử Mỹ thả xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ Hai sắp kết thúc, việc Nhật đầu hàng Đồng Minh chỉ còn là vấn đề thời gian thì mãi vẫn là điều gây tranh cãi trong lịch sử. Người dân Nhật Bản nói chung, người dân ở Hiroshima nói riêng, đến tận khi trái bom phát nổ, vẫn đang diễn ra nhịp sống thường nhật. Thậm chí, theo mô tả của tác giả Masahiro, khi trái bom rơi xuống, phát nổ tạo hai vệt sáng chói lọi, người dân còn ra đường ngắm nhìn và thốt lên: “Đẹp quá!” Để rồi, về sau nhìn lại, tất cả hiện về là những ký ức đầy đau đớn, cay đắng: “Tại sao lại quăng quả bom tàn khốc đó xuống nước Nhật chứ?” Quả thực là quá tàn khốc khi vụ nổ nguyên tử không chỉ san phẳng thành phố Hiroshima, tạo lên những cảnh tượng tang tóc ám ảnh mãi những ai còn sống: thành phố chìm trong biển lửa, xác người chết, dòng sông nhuốm máu, mưa đen phóng xạ… Mà hơn cả còn là những di chứng chiến tranh kéo dài đến hàng thế hệ: căn bệnh máu trắng, ung thư da mà Sadako và những trẻ em trên toàn nước Nhật gánh chịu, những đứa trẻ khiếm khuyết về ngoại hình hay trí tuệ… Chiến tranh cướp đi tính mạng con người. Và trong thời bình vãn đi tiếng súng, di chứng chiến tranh lại cướp đi tương lai, hi vọng của bao gia đình, bao đứa trẻ khác. Tái hiện hiện thực chiến tranh thảm khốc, khắc họa lên những số phận bất hạnh như cô bé Sadako vào thời đại mà tiếng súng đã lìa xa, lần nữa, tác giả Sasaki Masahiro đã góp một phần tiếng nói vào phong trào chống chiến tranh nói chung, chống việc sử dụng và thử nghiệm vũ khí nguyên tử, vũ khí hạt nhân nói riêng ở hiện tại và tương lai. Đồng thời, thể hiện tinh thần phản chiến, ủng hộ hòa bình trong Ngàn hạc giấy của Sadako cũng là một cách, Sasaki Masahiro bày tỏ tấm lòng nhân đạo, trĩu nặng yêu thương của ông, của một con người đã nếm trải đủ đau thương quá khứ mang lại: tố cáo tội ác chiến tranh, yêu thương những mảnh đời bất hạnh và khát khao về tương lai tốt đẹp. Chẳng vậy mà, con người ấy đã mang tư tưởng phản chiến cùng tinh thần nhân đạo đó, không chỉ gửi gắm vào những con chữ trong Ngàn hạc giấy của Sadako, mà còn gửi vào những chuyến đi thực tế tới khắp nước Nhật, dành trọn gần như phần đời còn lại để đấu tranh cho hòa bình và lan tỏa yêu thương. Câu chuyện của tình yêu và lòng dũng cảm Bên cạnh việc thể hiện đề tài phản chiến, cất lên tiếng nói chống chiến tranh mạnh mẽ, Ngàn hạc giấy của Sadako còn là câu chuyện của tình yêu và lòng dũng cảm, thông qua hình tượng trung tâm: cô bé Sadako nhỏ bé, bất hạnh mà tốt bụng, kiên cường. Mà đó cũng chính là một phần mục đích của tác giả Sasaki Masahiro khi kể lại quá khứ về người em gái nhỏ đã ra đi vì căn bệnh máu trắng: các tế bào bạch cầu ác tính phát triển thành tế bào ung thư da di căn khắp cơ thể: lan tỏa yêu thương tới nước Nhật, và tới cả thế giới. Thật vậy, Ngàn hạc giấy của Sadako là một câu chuyện bi kịch, câu chuyện về cái chết, buồn thương, day dứt và khắc khoải. Nhưng vượt lên trên tất cả đau thương mà chiến tranh mang lại, vẫn là tình yêu thương ấm áp ẩn sau câu từ, con chữ tưởng như chỉ là lời trần thuật đơn thuần về những gì đã qua. Đó là tình thương mà những con người trong hoàn cảnh gian nan, khó khăn nhất gửi tới nhau: Có hoạn nạn mới thấm thía hai tiếng chân tình. Đó là tình thương của hai tiếng gia đình: dẫu vất vả, cực nhọc vẫn luôn cố gắng, hi sinh vì nhau, bên nhau vượt qua nghịch cảnh. Đó là tình thương của những cô bé, cậu bé bất hạnh đã gửi trao cho nhau sự quan tâm đầy thơ trẻ, trong sáng. Một Nhật Bản, một Hiroshima hoang tàn sau chiến tranh, oằn mình vì nạn đói, chuyển mình trước những bước tiến mạnh mẽ chung của cả xã hội, đã sáng lên những tấm lòng như xua tan đêm đen của đạn bom như vậy đấy. Và giữa yêu thương nhỏ nhặt, giản dị của con người thời chiến và hậu chiến ở thành phố Hiroshima, cô bé Sadako hiện lên như một thiên thần nhỏ, giàu lòng nhân hậu, hi sinh cùng thương yêu. Sadako, cô bé phát bệnh khi mới 11 tuổi, thời gian sống chỉ còn 1 năm, bao dự định, bao ước mơ chưa thành, cô bé ấy đã ra đi khi tuổi thơ còn chưa trọn vẹn. Nhưng tin rằng, với quãng đời ít ỏi, Sadako đã thật sự sống những phút giây không hoài phí, đã sống trọn một cuộc đời ngắn ngủi. Sadako yêu thương thật nhiều, cũng trao gửi đi thật nhiều tin yêu. Giữa cơn bạo bệnh, cô bé đó vẫn chỉ một lòng lo cho gia đình, nghĩ suy đến món nợ của người cha, vẫn dành những quan tâm bình dị tới những người xung quanh. Nụ cười của Sadako, vẫn nở trên môi kể cả khi cơn đau hành hạ. Nơi thân thể bé nhỏ, suy kiệt ấy, là cả trái tim kiên cường, nghị lực, bền bỉ khao khát yêu và được yêu, khao khát sống và được sống trọn từng giây phút của đời người. Giọt nước mắt Sadako rơi, những câu nói nghẹn ngào của em: “Chị ơi, có phải lần sau sẽ đến lượt em không?”, “Bom nguyên tử đáng sợ thật đấy.” như những vết dao cứa vào tim độc giả, đau nhói. Sadako kiên cường trong đau đớn khiến ta khâm phục, nhưng một cô bé lo sợ trước cái chết cận kề lại càng làm ta cảm động, đau xót. Bởi, đó mới thật sự là cuộc đời, đó mới thực sự là chiến tranh và nhắc nhở mỗi người rằng, vết thương chiến tranh khi xưa, vẫn chưa từng khép miệng. Nhưng dẫu cuộc đời có khổ đau, số phận có nghiệt ngã thì yêu thương, tình đời, tình người, lòng dũng cảm vẫn luôn ngời sáng. Như cách Sadako đã kiên cường ra sao, như cánh hạc giấy mỏng manh đã chở nặng tâm tư bé gái 12 tuổi đến lúc giã từ cõi đời thế nào. Bài ca của niềm hi vọng Chợt nghĩ, cuộc đời cô bé Sadako, thật giống với bông hoa anh đào, biểu tượng cho lòng dũng cảm của con người Nhật Bản. Vòng đời của hoa có ngắn ngủi, nhưng khi cánh hoa rụng xuống, cũng chính là lúc loài hoa ấy bước vào quá trình ủ nụ, để mùa xuân năm sau, tiếp tục bung sắc. Sadako ra đi, song yêu thương em trao gửi, đã lan tỏa và nuôi dưỡng tâm hồn người ở lại. Cô bé ấy mất, nhưng tình thương của em vẫn còn sống mãi. Những cánh hạc em gấp, có lẽ không chỉ chứa đựng nguyện ước về một ngày em khỏe bệnh, về một ngày cha em trả được hết nợ, mà còn chứa đựng nguyện ước, hi vọng về một ngày thế giới vắng tiếng bom rơi, để không còn ai, phải chịu nỗi đau em đang mang. Chẳng thế mà, bức tượng bé gái, giơ cao đôi tay ôm cánh chim hạc giơ lên bầu trời xanh ở Công viên Hòa Bình tại thành phố Hiroshima, lấy nguyên mẫu từ cô bé Sadako, đã trở thành một trong những biểu tượng hòa bình của cả nước Nhật. Cô bé Sasaki Sadako, là một nhân vật có thật và Ngàn hạc giấy của Sadako, là câu chuyện có thật kể về cô bé đó. Nhưng Sadako, có lẽ từ lâu đã trở thành một hình ảnh biểu tượng cho tuổi thơ Nhật Bản kiên cường, vươn lên từ đau thương chiến tranh mà lan tỏa yêu thương, mà nói lên tiếng nói hi vọng vì một ngày mai hòa bình. Hình ảnh ấy, cũng như bao hình ảnh trẻ em khác trên toàn thế giới nói chung, và như chính hình ảnh trẻ em Việt Nam nói riêng, vẫn hát mãi những khúc ca hòa bình, về ngày mai, về tương lai không còn tiếng bom rơi, đạn nổ: “Em ước mong sao, bầu trờ chẳng đen bóng mây Em ước mong sao trẻ thơ đừng vương bão giông Vì em biết chân trời đang khép… Vì em biết nỗi đau nghiệt ngã…” (Lời bài hát Em ước mong sao) “Những cánh én chấp chới của mọi tuổi thơ Những cánh én lấp lánh đầy nhạc và thơ Em ước mong sao bầu trời chẳng đen bóng mây Để ngàn chim hót, để đàn én bay” (Lời bài hát Cánh én tuổi thơ) Review Mọt Mọt Mời các bạn đón đọc Ngàn Hạc Giấy của Sadako của tác giả Sasaki Masahiro.