Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuyển Tập Truyện Ngắn: Yêu Một Người Vô Tâm (Hà Vũ)

“Yêu một người vô tâm” quả là một truyện ngắn đáng để độc giả tìm tới. Ong đã đọc nó ba lần và mỗi lần đều có những cảm nhận rất riêng. Câu chuyện không có nhiều cuộc đối thoại, không có người ngoài chen vào, không mang quá đậm nét tình cảm nhưng lại rất độc đáo bởi sự hiện hữu của những lời độc thoại nội tâm sâu sắc, khuynh hướng cam chịu của nhân vật và lối văn mượt mà, trôi chảy của tác giả Thiên Dương Lâm.

Mở đầu cũng như xuyên suốt tác phẩm, ta bắt gặp một người đàn ông trưởng thành, có cả tiền, tài, tình. Nhưng sao “hắn” vẫn ẩn chứa nét gì đó ưu phiền quá! Hắn yêu nàng, yêu người con gái bé nhỏ có nét dễ thương. Phải, hắn gọi nàng là bảo bối, hắn có thể chờ nàng, cố gắng vì nàng nhưng hắn không dám thừa nhận tình cảm ấy. Tại sao ư? Vì hắn chẳng còn được ở bên nàng bao lâu nữa. Nàng cũng yêu hắn, tình cảm xuất phát từ hai phía lẽ ra phải trọn vẹn biết bao nhưng tình yêu của hai người như ngôi sao đêm trên dải ngân hà, đẹp mà không chạm tới.

“Hạnh phúc là những gì chúng ta không biết?

Hạnh phúc là những gì chúng ta không giữ được?

Hạnh phúc là những gì chúng ta có thể lãng quên. Tìm mua: Tuyển Tập Truyện Ngắn: Yêu Một Người Vô Tâm TiKi Lazada Shopee

Hắn không trả lời, nhưng nàng vẫn chờ…

Chờ hắn trả lời về hạnh phúc!” (Trích trong truyện ngắn “Yêu một người vô tâm”)

Rõ là có yêu, tại sao không nói?

Rõ là có thương, tại sao lại buông?

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tuyển Tập Truyện Ngắn: Yêu Một Người Vô Tâm PDF của tác giả Hà Vũ nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Bãi Hoang
JEAN-RENÉ HUGUENIN VÀ BÃI HOANG Một con ong chết. Nắng xế qua triền cửa sổ. Mùa hè đổi hướng. Cummings chết: tôi không buồn. Hemingway, Blaise Cendrars, Hermann Hesse, Faulkner chết: tôi không buồn. Một con ong chết: tôi buồn lắm. Jean-René Huguenin chết: tôi buồn lắm. Anh mới hai mươi sáu tuổi và chỉ mới xuất bản một tác phẩm: La Côte Sauvage (Bãi hoang) là quyển tiểu thuyết duy nhất của anh. Anh viết tiểu thuyết quá buồn. Nắng chiều. Đêm. Đêm tối. - Tôi không biết. Anh đã tìm thấy gì? - Một con ong chết. Je ne sais pas. Qu’est - ce que vous avez trouvé? Une abeille morte. Jean-Rene Huguenin đã viết hai câu trên trong quyển La Côte Sauvage (tr. 57). Pierre, nhân vật trong quyển ấy, là một chàng trai trẻ rất buồn, một người cô độc, một kẻ ích kỷ không tự thương mình: L’egoiste qui ne s’aime pas (tr. 70). Pierre yêu người em gái của một người bạn thân chàng… Một hôm, Pierre bỗng tìm thấy một con ong chết trên triền cửa sổ. Et ce fut l’autre versant de l’été, le jour où Pierre découvrit, sur le rebord de sa fenêtre, une abeille morte (tr. 65). Lòng người luân lưu thay đổi như những cây dương xỉ vàng sẫm, như hoa bát tiên chóng tàn, như những ngày xế bóng thoi đưa, như những con ong khô chết. Alors l’évidence éclatait: les fougères brunissaient, les hortensias se fanaient, les jours déclinaient plus vite, les abeilles mouraient - c’était l’autre versantde l’été (tr. 65). Ừ, hỏi làm gì? Đời là ngộ nhận triền miên. Người làm gì biết được. Mỗi người là một vạn lý trường thành, chắn lại hết giao thông. Người làm gì hiểu được ta. Ngộ nhận chân lý: chắc người không hiểu tôi đã tìm thấy gì trên triền cửa sổ vào buổi sáng nay? Vous ne savez pas ce que j’ai trouvé ce matin sur le rebord de ma fenêtre?(tr. 66). * * * Năm 1962, báo Pháp đăng tin rằng Jean-René Huguenin đụng xe chết. Như James Dean, Albert Camus. Tôi giở lại quyển La Côte Sauvage và tình cờ gặp lại một đoạn văn như sau: - Người ta không chết vì buồn chán. - Không, không phải vì buồn chán. Mà không vì một căn cớ nào. Tôi sẽ chết như vậy, không một căn cớ nào. On ne meurt pas d’ennui. Non, pas d’ennui. De rien… Je mourais comme çà, de rien. (tr. 86). Jean-René Huguenin sinh ngày 1 tháng 3 năm 1936 tại Paris, bắt đầu viết văn hồi còn rất nhỏ, viết báo vào năm 18 tuổi, xuất bản quyển La Côte Sauvage vào năm 24 tuổi và chết ở tuổi 26. * * * Nhân vật chính của La Côte Sauvage là Olivier. Chàng đi quân dịch vài năm rồi được giải ngũ trở về sống lại với gia đình. Gia đình chàng chỉ gồm có mẹ, chị và em gái. Quê hương chàng buồn lắm. Biển. Gió. Đá cuội. Sương mù. Olivier rất yêu em gái, nhưng không thích chị. Sau hai năm nhập ngũ, lúc trở về lại đời sống bình thường, Olivier thay đổi. Chàng cảm thấy cô đơn dị thường. Đứa em gái chàng tên là Anne, chàng thương Anne ngay từ thuở bé thơ. Bây giờ chàng được tin em sắp lấy chồng; chồng Anne là bạn thân của chàng, tên Pierre. Pierre và Anne đầm ấm xoắn xuýt nhau. Olivier cô đơn. Olivier định ngăn cản đám cưới. Những thoáng nhìn, những câu hỏi xa xôi, những cử chỉ thông thường của Olivier đã khiến Pierre buồn nhiều. Pierre chán nản. Một dạo, Olivier cũng khiến Anne chán Pierre. Olivier vẫn muốn Anne sống mãi bên cạnh chàng. Tại sao thế? Thực khó trả lời. Sau cùng, Pierre và Anne vẫn lấy nhau. Họ dẫn nhau đi Paris và Tây Ban Nha. Chỉ còn Olivier ở lại sống cô đơn. Quyển La Côte Sauvage đưa tôi vào nỗi cô đơn mênh mông của Olivier, của Pierre. Lối văn của Huguenin rất ngắn và giản dị. Tôi đã đọc quyển La Côte Sauvage đến hai lần. Thế mà tôi không thể nào viết nhiều về quyển này vì La Côte Sauvage là một quyển sách để đọc, cảm và im lặng. Chúng ta đã tìm được sao mai rồi? PHẠM CÔNG THIỆN *** Bãi hoang là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Jean – Rene. Xoay quanh câu chuyện của Oliver, Pirre, và Anna, những tâm tình sâu kín của tuổi trẻ mênh mang được biểu hiện sâu sắc. Jean – Rene Huguenin viết Bãi hoang khi anh 24 tuổi. Hai năm sau, anh mất vì tai nạn giao thông. Anh lưu dấu lại cuộc đời ở tuổi 26, mãi mãi tuổi hoa niên. Ở Pháp. Mùa hè. Trên những bãi biển. Hoàng hôn. Bình minh. Những bữa tiệc trà. Những buổi đi dạo. Những nhân vật của Bãi hoang loanh quanh trong cái khoảng không gian mùa hè bao trùm ấy. Không khí mùa hè ấy từng khiến Meursault vô thức giết người (Người xa lạ, Albert Camus); Aschenbach chết trong trạng thái mê man đẹp đẽ (Chết ở Venice, Thomas Mann)... Trong mùa hè, Elio Perlman và Oliver đã sống rực rỡ bên nhau trong tình yêu (Gọi em bằng tên anh, đạo diễn Luca Guadagnino); François và Maïté đã trải qua những xúc cảm nổi loạn trước ngưỡng cửa trưởng thành (Những cành lau dại, đạo diễn André Téchiné)… Ở Bãi hoang của Jean - Rene, Oliver là người lính giải ngũ từ Paris trở về quê nhà sống với gia đình, có mẹ, em gái và chị gái. Oliver sống mùa hè trẻ tuổi cuối cùng bên cạnh người yêu dấu của riêng mình. Anne là người yêu dấu của Oliver. Tình cảm giữa họ không giống như những tình cảm anh trai em gái thông thường. Jean – Rene bằng ngòi bút văn chương tinh tế, dịu dàng của mình đã gợi ra nhiều khoảnh khắc tuyệt đẹp của Anne và Oliver. Họ sát gần nhau, thì thầm với nhau, họ an ủi nhau, trách hờn nhau, nhưng ở đó, dưới ánh hoàng hôn của bãi biển, khi mặt trời dần xuống, họ lặng lẽ đi bên cạnh nhau, như đan cài trong nhau. Khi hay tin Anne sắp kết hôn với Pierre, người bạn thân nhất của chàng, Oliver hoang mang, chàng đóng mình trong tình cảm của chính bản thân. Hai người thương mến ấy bỏ chàng lại quê nhà buồn bã, bên bờ biển vắng lặng, để đi Paris, đi Tây Ban Nha. Họ kết hôn. Chỉ còn lại Oliver, buồn bã, cô đơn, và đợi chờ. Cho đến những trang cuối cùng của cuốn sách, biển vẫn mênh mang ngoài kia, cùng Oliver mỏi mệt. Cốt truyện giản đơn, nhưng đượm không khí hư ảo của mùa hè, với những gặp gỡ và tan rã, Jean - Rene đã tạo nên tiểu thuyết đẹp đẽ vô cùng. Khung cảnh ba người trẻ tuổi ở bên cạnh nhau, trên bãi biển, cảm giác “luôn tránh làm tổn thương nhau, làm mất đi sự đồng tình tế nhị”, cũng đã diễn tả được một vòng tròn ba người vừa gắn bó, vừa thân tình, vừa sợ sệt. Khung cảnh mờ nhòe bởi lớp mù sương của thời gian, của kỷ niệm càng dễ tạo được sự cảm động đối với độc giả. Theo dõi bóng dáng Anne, Pierre và Oliver bên nhau, tưởng như họ vừa có mặt ở đây (hiện tại), vừa có mặt ở đó (quá khứ). Thế giới của họ, thật mơ hồ như những ảnh hình trong nắng chói mùa hè. Khi mùa hè gần tàn, chỉ còn Oliver ở lại quê nhà. Khi ấy, chàng nghĩ gì chăng? Chàng có còn buồn vì “một con ong mới chết”, hay chàng vẫn buồn vì “mùi hương” Anne đã rời bỏ chàng hẳn rồi. Dẫu mùa hè đã đi qua, người yêu đã xa lìa nhưng trong mộng tưởng của Oliver, Anne ngự trị ở đó, hệt như lời William Shakespeare đã viết trong bài thơ Sonnet số 18 của mình: “But thy eternal summer shall not fade” (Chỉ mùa hạ của nàng không chút hư phai). Anne trong tâm hồn Oliver, sẽ mãi lấp lánh ở đó, mặc mùa hè trôi đi. Bãi hoang của Jean - Rene không phải nhấn ý vào tình cảm loạn luân. Tình cảm giữa Oliver và em gái Anne, là thứ tình cảm thuần khiết, như sự gắn kết tự nhiên của đất trời. Jean –-- Rene chết trẻ quá. 26 tuổi, trẻ như mãi mãi tuổi 20. Anh chỉ có một tác phẩm để lại. Jean - Rene cũng giống như Alain Fournier, tử trận khi 27 tuổi, với cuốn tiểu thuyết duy nhất, Kẻ lãng du. Bãi hoang và Kẻ lãng du đều là những mộng mơ tuyệt đẹp của tuổi trẻ, với những tình cảm thênh thang về tình bạn, tình yêu, về mộng ước. Nhưng nếu Kẻ lãng du, Meaulnes chìm đắm trong cuộc phiêu lưu quyến rũ, với nhiều thi vị, thì Oliver của Bãi hoang tự ấp ủ mình trong nỗi cô đơn buồn bã. Một nỗi buồn thật thanh tân của Kẻ lãng du, hay một nỗi buồn ngập tràn cô độc của Bãi hoang, đều khiến tuổi trẻ trở thành dấu vết rực rỡ. Hai nhà văn trẻ tuổi tạo nên hai nhân vật trẻ tuổi, dẫu họ đã từ biệt cõi tạm này rồi, nhưng tuổi trẻ của họ, Oliver và Meaulnes, độc giả không thể nào quên. Bãi hoang được viết bằng ngôn ngữ văn chương giản dị, ngắn gọn, nhưng đẫm chất tình thơ. Chàng tác giả trẻ tuổi đã thực sự dụng công trong việc trau chuốt ngôn từ, dùng ngôn từ để bộc bạch, nâng niu những rung động của tâm tư Oliver, Anne hay Pierre. Bản tiếng Việt của Bãi hoang do dịch giả Huỳnh Phan Anh chuyển ngữ. Một tác phẩm dịch xuất sắc. Bản dịch cô đọng, súc tích, với tiếng Việt tinh hoa được chắt lọc tinh tế, cẩn trọng. Huỳnh Phan Anh đã dịch nhiều tác phẩm kinh điển nổi tiếng như Tình cuồng (Raymond Radiguet, dịch chung với Nguyễn Nhật Duật), Tình yêu và lý tưởng (Thomas Mann), Tình yêu và tuổi trẻ (Valery Larbaud), Thời gian của một tiếng thở dài (Anne Philipe), Lạc lối về (Heinrich Boll)… Ngoài dịch thuật, ông còn viết phê bình, nghiên cứu, làm báo, viết văn, và mảng nào cũng để lại dấu ấn quan trọng. Thủy Nguyệt   Mời các bạn đón đọc Bãi Hoang của tác giả Jean-René Huguenin & Huỳnh Phan Anh (dịch).
Agatha (Tiểu Thuyết)
Agatha (tên gốc: Agathe) là tiểu thuyết tâm lý hư cấu đầu tay của Anne Cathrine Bomann – một chuyên gia tâm lý học kiêm nhà văn sống tại Copenhagen, Đan Mạch. Ngay khi ra mắt năm 2017, tác phẩm đã tạo được dấu ấn mạnh mẽ bởi đề tài và cách viết hết sức mới lạ. Chỉ trong hai năm, tác phẩm đã được mua bản quyền và xuất bản tại 23 nước trên toàn thế giới. Agatha là một tác phẩm thú vị kể về hành trình nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống của một con người đã ở dốc bên kia cuộc đời. Vị bác sĩ điều trị tâm thần 72 tuổi Bernard đang đếm ngược từng ngày để chờ nghỉ hưu. Ông sống cô độc, không bạn bè, không người thân. Thú vui duy nhất của ông là đếm ngược thời gian và phác thảo những bức biếm họa chim trong khi nghe những người bệnh mà ông chẳng hề quan tâm than vãn. Cho tới một ngày, nữ bệnh nhân tên Agatha xuất hiện. Cô gái trẻ đặc biệt ấy đã thức tỉnh tình yêu thương con người tưởng đã chai sạn nơi vị bác sĩ già và giúp ông nhận ra ý nghĩa cuộc sống mà ông không hề biết trước đó… *** Bác sĩ tâm lý cũng cần được trị liệu tinh thần. Với nhân vật chính là một bác sĩ tâm lý, tiểu thuyết "Agatha" gửi thông điệp về vai trò của kết nối thực sự trong cuộc sống của con người. Tiểu thuyết tâm lý Agatha của tác giả kiêm nhà tâm lý học Anna Cathrine Bomann là tác phẩm được ưa thích và được dịch ra 23 ngôn ngữ trên toàn thế giới. Lấy bối cảnh ở Paris những năm 1940, nhưng câu chuyện của vị bác sĩ trị liệu tâm lý và những bệnh nhân của ông, đặc biệt là người phụ nữ trẻ gốc Đức Agatha Zimmermann hầu như không có khoảng cách với hiện tại.  Ở tuổi 72, vị bác sĩ trị liệu tâm lý giấu tên sống một mình trong căn nhà được cha mẹ để lại. Ông không có người thân, bạn bè, đồng thời luôn cố gắng né tránh mọi kết nối và mối quan hệ bên ngoài phòng khám. Thứ quen thuộc duy nhất với ông là những tiếng động và âm nhạc phát ra từ ngôi nhà sát vách; nhưng ông cũng không hề có ý định tìm hiểu hay bắt quen với người hàng xóm đã sống cạnh mình hàng chục năm trời qua. Tại phòng khám, ông chỉ có những cuộc trò chuyện ngắn ngủi với người trợ lý tỉ mỉ Madame Surrugue, người đã làm việc cùng ông hơn 30 năm qua. Chỉ còn 5 tháng nữa vị bác sĩ sẽ được nghỉ hưu, thời gian này được ông quy đổi tương đương với 800 buổi điều trị và ông đang đếm ngược từng ngày cho đến thời điểm đó. Vị bác sĩ đã tưởng tượng: chờ đợi ông ở thời điểm đó hẳn sẽ là một cuộc sống thú vị, một phần thưởng to lớn cho những gì ông đã phấn đấu.  Tuy nhiên trong những tháng ngày cuối cùng trước khi nghỉ hưu, trải qua nhịp sống đơn điệu, cảm nhận rõ ràng những dấu hiệu tuổi già trên cơ thể, ông nhận ra “tôi không thể biết được sự tồn tại đó sẽ chứa đựng những gì đáng mong đợi. Nhưng điều duy nhất tôi có thể chắc chắn là nỗi sợ hãi và sự cô đơn". Công việc và cuộc sống của vị bác sĩ già bắt đầu có sự thay đổi khi người phụ nữ trẻ gốc Đức Agatha Zimmermann, có tiền sử bệnh tâm thần khá nặng, đang mất cảm hứng sống, khăng khăng muốn được ông điều trị, bất chấp thời gian ông làm việc còn lại khá ít ỏi, có thể không đủ để ông giúp đỡ cô. Agatha được các bác sĩ trước đó chẩn đoán “mắc chứng hưng cảm nặng sau một lần cố gắng tự tử cách đây vài năm". Hành trình trị liệu hóa ra lại là một quá trình soi chiếu và trị liệu cùng nhau của vị bác sĩ già và người phụ nữ có vẻ ngoài mong manh, nhưng ẩn sâu lại là một con người mạnh mẽ, hấp dẫn. Để rồi qua các phiên trị liệu cả hai người họ đều có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống của mình.  Agatha cuối cùng cũng có thể nói ra nỗi đau thuở thơ bé từng bị người cha ruột lạm dụng tinh vi, để bước qua tổn thương và tìm lại được khát vọng sống. Vị bác sĩ cuối cùng cũng có những kết nối xã hội đầu tiên khi ông quyết vượt qua ngại ngần thăm chồng bà thư ký bị bạo bệnh đang ở bên ranh giới mong manh của cái chết. Ông cũng quyết định đến cửa hàng bán đồ làm bánh, mua nguyên liệu, hỏi công thức làm một chiếc bánh táo để gửi tặng người hàng xóm câm điếc bao lâu nay vẫn chơi đàn cho ông nghe. Hơn thế, ông không còn đếm các phiên trị liệu để chờ tới ngày về hưu nữa. Câu nói kết thúc cuốn tiểu thuyết được bệnh nhân Agatha nói với vị bác sĩ khi ông đứng ngập ngừng sau cô trước cửa một quán café: “Thế cuối cùng ông có định vào không bác sĩ?” thể hiện vai trò thúc đẩy của cô trong quá trình trị liệu, đồng thời mang đến cho cuốn tiểu thuyết cái kết mở đầy hy vọng. Với 200 trang cỡ chữ vừa, được trình bày thoáng đãng với những chương sách ngắn, tiểu thuyết tâm lý Agatha là tác phẩm mỏng nhẹ mà độc giả có thể đọc nhanh trong thời gian ngắn. Đây cũng là cuốn sách nên đọc cho bất cứ ai quan tâm đến việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, cũng như vai trò của những kết nối thực sự trong cuộc sống của con người. *** ANNE CATHRINE BOMANN là nhà tâm lý học sống tại Copenhagen, Đan Mạch. Anne bắt đầu sáng tác từ năm 15 tuổi và đã xuất bản một số tập thơ, sách. Agatha (tên gốc Agathe) là tiểu thuyết tấm lý hư cấu đầu tay của Anne. Ngay khi ra mắt năm 2017, tác phẩm đã tạo được dấu ấn mạnh mẽ bởi đề tài và cách viết hết sức mới lạ. Chỉ trong hai năm, tác phẩm đã được mua bản quyền và xuất bản tại 23 nước trên toàn thế giới. 2020 - Đề cử Giải thưởng Văn học Libr’à Nous. 2019 - Đạt giải thưởng The Scrivere per Amore. *** Những  ô  kính  cửa  sổ Chuyện đó xảy ra khi tôi đang ngồi trong phòng khách và nhìn ra ngoài cửa sổ. Ánh nắng mùa xuân chiếu lên tấm thảm của tôi tạo thành bốn hình vuông so le di chuyển một cách chậm rãi nhưng quả quyết trên chân tôi. Bên cạnh tôi là ấn bản đầu tiên còn chưa được mở của cuốn Buồn nôn*, cuốn tiểu thuyết mà tôi đã cố đọc suốt nhiều năm nay. Hai chân con bé gầy và xanh xao, và tôi ngạc nhiên khi con bé được phép ra đường trong khi chỉ mặc một chiếc váy vào lúc đầu năm thế này. Nó vẽ những ô nhảy lò cò trên đường và nhảy một cách hết sức tập trung, đầu tiên là trên một chân, rồi cả hai, sau đó đổi lại. Tóc của con bé được buộc thành hai bím, con bé khoảng tầm bảy tuổi, nó sống cùng mẹ và một người chị gái ở nhà số 4 trên con phố này. Tên tiếng Pháp là La Nausée, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nhà triết học hiện sinh Jean-Paul Sartre, được xuất bản năm 1938. Có lẽ bạn sẽ nghĩ rằng tôi là một nhà hiền triết, cả ngày ngồi bên cửa sổ và suy ngẫm về những điều lớn lao hơn trò nhảy lò cò và sự di chuyển của tia nắng trên sàn nhà. Nếu vậy thì bạn đã nhầm! Sự thật là tôi ngồi đó bởi vì tôi không có việc gì khác để làm, và cũng có thể là bởi có một điều gì đó tích cực truyền đến tôi mỗi lần con bé reo lên đắc thắng sau khi thực hiện thành công một chuỗi những động tác nhảy cực khó. Vào một thời điểm nào đó, tôi đứng lên đi pha một tách trà, và khi tôi trở lại vị trí của mình thì con bé đã biến mất. “Có lẽ nó đã tìm ra một trò chơi thú vị hơn ở chỗ khác”, tôi thầm nghĩ. Cả phấn và đá đều đã bị bỏ lại ở giữa đường. Và đó là lúc mà chuyện đó xảy ra. Tôi vừa đặt chiếc cốc lên bậu cửa sổ cho nguội và trải tấm khăn lên đùi thì bỗng một thứ gì đó lọt vào tầm nhìn của tôi. Một tiếng thét chói tai truyền đến, tôi lập tức để cơ thể cứng nhắc của mình đứng lên và bước tới gần cửa sổ. Phía bên phải của tôi, con bé đang nằm trên đường ở ngay ngã rẽ về phía hồ, dưới một gốc cây. Trên cành cây, một chú mèo đang ngoe nguẩy đuôi, ở dưới, con bé nhấc người ngồi dậy, lưng dựa vào thân cây, tay ôm mắt cá chân và khóc nức nở. Tôi thu đầu về. Tôi có nên đến chỗ con bé không? Tôi chưa từng nói chuyện với trẻ con trừ lúc nhỏ và lúc đó thì không nói làm gì. Liệu con bé có sợ hãi hơn nếu một người đàn ông lạ mặt đột nhiên xuất hiện và an ủi nó không? Tôi ngó ra ngoài một lần nữa, con bé vẫn ngồi trên bãi cỏ nó ngước khuôn mặt đẫm nước mắt của mình lên, ánh nhìn hướng về phía xa, vượt qua căn nhà của tôi. Tốt nhất là đừng để ai nhìn thấy tôi vào lúc này. Đó chẳng phải là ông bác sĩ sao, họ sẽ bàn tán với nhau. Tại sao ông ta lại chỉ trơ mắt nhìn như vậy? Thế là tôi liền cầm lấy tách trà đi vào bếp và ngồi yên vị xuống ghế. Và mặc dù tôi đã tự nhủ với bản thân rằng chẳng mấy chốc con bé sẽ tự đứng dậy được và đi tập tễnh về nhà, rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn, tôi vẫn ngồi đó như một kẻ hèn nhát trong căn bếp của mình suốt nhiều giờ. Cốc trà đã trở nên đục và lạnh ngắt mặt trời đã tắt bóng trước khi tôi rón rén trở về phòng khách và liếc xuống đường trong khi nửa người vẫn núp phía sau tấm rèm. Dĩ nhiên, lúc này con bé đã không còn ở đó. Mời các bạn đón đọc Agatha (Tiểu Thuyết) của tác giả Anne Cathrine Bomann & Phương Anh (dịch).
Giữa Trời Và Đất
Paris, 1934. Buổi lễ thụ phong linh mục trước nhà thờ Đức Bà bỗng nhiên bị những kẻ lạ mặt phá đám. Thoát chết trong gang tấc, chàng tu sĩ trẻ Vango biết mình không thể tiếp tục trốn chạy quá khứ được nữa. Vango không biết mình là ai, không biết tại sao lũ người hắc ám kia quyết thủ tiêu cậu. Khát khao tìm cho ra sự thật, chàng trai trẻ có biệt tài leo trèo lại bước vào những ngày tháng hiểm nguy, khởi đầu từ bậc thềm nhà thờ Đức Bà, bồng bềnh trên chiếc khí cầu Graf, rong ruổi khắp các hòn đảo ngoài khơi Địa Trung Hải, giữa sương mù lạnh giá xứ Scotland... Và lẩn khuất quanh những hiểm nguy rình rập cậu là bóng ma đe dọa của một cuộc chiến tranh thế giới mới... “Tôi đã đặt vào đây tất cả những gì tôi cảm thấy cần thiết : hơi thở của cuộc sống phiêu lưu, vẻ mong manh, sự tàn ác, nét đẹp của những sự sống. Tôi mong câu chuyện này sẽ cuốn độc giả đi, nhưng dấu ấn về nó sẽ vẫn lưu lại trong lòng họ.” - Timothée de Fombelle. *** Timothée de Fombelle sinh năm 1973, là tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch trẻ người Pháp. Thiên hướng dành cho kịch bộc lộ từ rất sớm, năm mười bảy tuổi, anh thành lập một nhóm kịch và đảm nhận nhiệm vụ viết kịch bản cũng như dàn dựng. Năm 2002, vở kịch Le Phare giành giải thưởng Prix du Souffleur, bước đầu tạo dựng tên tuổi anh trên sân khấu kịch. Anh đến với tiểu thuyết qua bộ truyện hai tập Tobie Lolness, một dự án rất được kỳ vọng và quả thật đã đưa tên tuổi tác giả ra toàn thế giới. Bộ truyện đã được dịch ra 26 thứ tiếng và nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá trong nước cũng như quốc tế. Tháng 3/2010, tập đầu tiên của bộ truyện phiêu lưu Vango ra mắt tại Pháp và đã giành được Giải thưởng của Thư viện Paris, Giải thưởng Livre en tête, hạng mục tác phẩm dành cho thanh thiếu niên. *** CON ĐƯỜNG CỦA NHỮNG THIÊN THẦN Paris, tháng Tư năm 1934 Bốn mươi con người trong trang phục trắng nằm rạp trên mặt đường. Người ta ngỡ như thấy một cánh đồng tuyết. Lũ chim nhạn sà lên những thân hình ấy, kêu rin rít. Hàng ngàn người chứng kiến cảnh tượng này. Nhà thờ Đức Bà Paris in bóng lên đám đông tụ tập. Bỗng nhiên, xung quanh, thành phố dường như trở nên trầm lặng. Vango tì trán lên đá. Cậu lắng nghe hơi thở của chính mình. Cậu nghĩ đến cuộc đời đã đưa cậu đến đây. Lần đầu tiên, cậu không sợ hãi. Cậu nghĩ đến biển, đến làn gió mặn chát, đến vài giọng nói, khuôn mặt, đến những dòng nước mắt nóng hổi của người đã nuôi nấng cậu. Lúc này, mưa đang rơi trên sân trước nhà thờ nhưng Vango vẫn không hay biết gì. Nằm rạp trên đất giữa đám bạn đồng hành, cậu không nhìn những chiếc ô đang lần lượt xòe ra. Vango không thấy đám đông dân chúng Paris đang tụ tập, không thấy những gia đình xúng xính quần áo đẹp, không thấy thái độ sùng kính của mấy bà lão, không thấy lũ trẻ luồn chân người lớn chơi đùa, không thấy bọn chim bồ câu đờ đẫn, không thấy lũ nhạn nhảy nhót, không thấy những kẻ hiếu kỳ đứng trên xe ngựa, và không hề thấy đôi mắt xanh, ở đó, phía bên cạnh, đang chỉ nhìn mỗi cậu. Đôi mắt xanh ngấn lệ, giấu dưới lớp mạng gắn mũ. Vango, mắt vẫn nhắm. Cậu đã tròn hai mươi tuổi đầu. Đây là ngày trọng đại của cuộc đời cậu. Một niềm hạnh phúc lớn lao đang dâng trào từ đáy lòng cậu. Lát nữa thôi, cậu sẽ trở thành linh mục. - Một sự điên rồ ngọt ngào! Người gác chuông nhà thờ Đức Bà, ở trên cao, lẩm bẩm khi liếc mắt về phía quảng trường. Ông đợi. Ông đã mời Clara bé nhỏ đến ăn trứng chần nước sôi trong tháp chuông của mình. Ông biết cô ấy sẽ không đến, như tất cả những người phụ nữ khác. Và, dưới quả chuông khổng lồ, khi nước đang réo rắt trong xoong, người gác chuông nhìn những con người trẻ tuổi sắp được phong làm linh mục kia. Còn vài phút nữa, họ vẫn nằm rạp dưới đất trước khi đi tu mãi mãi. Lúc này, ở trên cao, cách đám đông năm mươi mét, không phải khoảng không làm Simon, người gác chuông, chóng mặt, mà chính là những mảnh đời nằm rạp dưới đất kia, dâng hiến, sắp dấn thân vào thế giới xa lạ. - Điên rồ, ông nhắc lại. Điên rồ! Ông ra dấu chữ thập, như thường lệ và quay lại với những quả trứng của mình. Đôi mắt xanh vẫn không rời Vango. Đó là một cô gái trẻ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mặc chiếc áo măng tô nhung màu tro. Bàn tay cô lục tìm trong túi rồi lại rút ra mà không thấy chiếc khăn mùi soa. Mu bàn tay trắng trẻo ấy rón rén dưới lớp voan, lau nước mắt trên má. Mưa bắt đầu thấm qua lớp áo măng tô. Cô gái rùng mình đảo mắt sang phía bên kia sân trước nhà thờ. Một gã đàn ông bất ngờ quay đầu lại. Hắn nhìn cô chăm chăm. Cô chắc chắn điều đó. Đây là lần thứ hai cô nhận ra hắn trong buổi sáng hôm nay, nhưng cô biết, từ rất xa xôi trong ký ức, cô đã gặp hắn ở đâu đó. Mặt trắng như sáp, tóc bạc, ria mép lưa thưa và gọng kính nhỏ bằng dây sắt. Cô đã gặp hắn ở đâu vậy nhỉ? Âm thanh lớn của bộ đàn ống đưa cô trở lại với Vango. Giờ phút trọng đại đã đến. Vị hồng y già đứng dậy và đi xuống phía những người vận đồ trắng. Ông gạt cái ô mà người ta giơ ra để che cho ông, ông gạt cả những bàn tay muốn đỡ ông bước xuống bậc thềm. - Cứ để mặc ta! Ông nắm cây trượng tổng giám mục nặng trịch của mình và mỗi bước đi của ông như thể một điều kỳ diệu. Vị hồng y đã già và yếu. Buổi sáng hôm đó, Esquirol, bác sĩ của hồng y, không cho phép ông tổ chức buổi lễ. Hồng y mỉm cười đuổi hết mọi người ra, rồi ông dậy, ra khỏi giường để mặc quần áo. Lúc chỉ còn một mình, ông mới cho phép mình rên rỉ mỗi khi cử động. Còn ở chỗ đông người, ông là một khối đá. Lúc này, ông đang bước xuống bậc, dưới trời mưa. Hai tiếng trước, khi thấy những đám mây đen lớn dần, mọi người nài nỉ ông nên tổ chức buổi lễ bên trong nhà thờ. Lại một lần nữa, ông không nghe. Ông muốn buổi lễ diễn ra bên ngoài, trước thế giới mà những người trẻ tuổi kia sẽ sống trọn cả cuộc đời mình. - Nếu họ sợ bị cảm, họ nên chọn cái nghiệp khác. Họ sẽ lại gặp những cơn bão khác mà thôi. Đến bậc cuối cùng, vị hồng y dừng lại. Ông là người đầu tiên nhận thấy sự nhốn nháo trên quảng trường. Phía trên, Simon, người gác chuông, chẳng mảy may nghi ngờ gì. Ông quẳng trứng vào nước và bắt đầu đếm. Ai có thể nói được điều gì sẽ xảy ra trong thời gian vừa đủ để chần một quả trứng cơ chứ? Ba phút để làm thay đổi một số phận. Trong khi nước đang sôi lại, tiếng rì rầm như tiếng nước sủi từ những hàng sau cùng bắt đầu lan ra cả đám đông. Cô gái trẻ lại rùng mình. Xảy ra chuyện gì trong sân trước nhà thờ rồi. Vị hồng y ngẩng đầu lên. Khoảng hai chục người đang rẽ lối đi giữa đám đông. Tiếng xì xào to hơn. Người ta nghe thấy cả những tiếng kêu la. - Để họ đi qua! Bốn mươi tu sĩ không hề động đậy. Chỉ riêng Vango quay đầu sang một bên, áp má và tai lên đất giống như chàng chiến binh Apache đang nghe ngóng. Cậu nhìn thấy những bóng người đang di chuyển sau hàng đầu tiên. Tiếng xì xào rõ hơn. - Chuyện gì xảy ra vậy nhỉ? - Tránh ra nào! Dân chúng hoài nghi. Hai tháng trước, những vụ bạo động tại quảng trường Concorde đã gây ra chết chóc và làm hàng trăm người bị thương. - Cảnh sát đấy…, một phụ nữ kêu lên để trấn an đám đông. Họ đang tìm ai đó. Những con chiên cố gắng dập tắt tiếng ồn ào. - Suỵt… Có im đi không nào. Năm mươi chín giây. Dưới tháp chuông, Simon vẫn đếm. Ông nghĩ đến Clara bé nhỏ, cô ấy hứa là sẽ đến mà. Ông nhìn bộ đồ ăn cho hai người được bày trên cái hòm. Ông nghe thấy tiếng réo rắt từ chiếc xoong trên bếp. Một tu sĩ vận áo dài trắng tiến lại gần hồng y và thì thầm vào tai ông. Ngay phía sau họ, một người đàn ông thấp, béo cầm mũ trên tay. Đó là cảnh sát trưởng Boulard. Người ta nhận ra mí mắt chảy xệ như mắt của một con chó già nua, cái mũi đánh hơi, hai gò má hồng và nhất là hai đồng tử sáng rực lanh lẹ của ông. Auguste Boulard. Điềm tĩnh, dưới cơn mưa rào tháng Tư, ông đang rình từng cử động nhỏ nhất của đám người trẻ tuổi nằm rạp trên đất kia. Một phút hai mươi giây. Chính lúc đó, một người trong số họ đứng dậy. Cậu không quá cao lớn. Chiếc áo dài nặng trĩu nước mưa. Khuôn mặt đầm đìa nước. Cậu quay một vòng tại chỗ giữa những cơ thể không hề nhúc nhích. Từ mọi phía, cảnh sát mặc thường phục xổ ra khỏi hàng và tiến một bước về phía cậu. Cậu thanh niên nắm hai tay, rồi lại thả ra. Trong mắt cậu, dường như gói trọn tất cả mây đen trên trời. Cảnh sát trưởng hô to: - Vango Romano? Chàng trai nghiêng đầu. Trong đám đông, ở một chỗ nào đó, đôi mắt xanh đang đảo tứ phía, giống như mấy con bướm bị mắc lưới. Người ta muốn gì ở Vango chứ? Rồi Vango bắt đầu chuyển động. Cậu bước qua những người bạn và tiến về phía cảnh sát trưởng. Đám cảnh sát tiến dần lại. Vừa bước, Vango vừa cởi lớp khoác màu trắng khỏi chiếc áo dài và xuất hiện trong bộ đồ đen. Cậu dừng lại trước mặt hồng y, quỳ gối. - Hãy tha thứ cho con, thưa cha. - Con đã làm gì vậy, Vango? - Con không biết, thưa cha, xin cha hãy tin con. Con không biết mà. Một phút năm mươi giây. Vị hồng y già bám chặt tay vào cây trượng. Ông tì cả người lên đó, cánh tay và vai quấn lấy thân gỗ nạm vàng, tựa như dây thường xuân quấn lấy thân cây vậy. Ông buồn bã nhìn xung quanh. Ông thuộc tên từng người trong số bốn mươi con người trẻ tuổi này. - Cha tin con, đứa con bé bỏng của ta, nhưng ta sợ ở đây chỉ có mỗi mình ta thôi. - Thế đã là nhiều rồi, nếu cha thật sự tin con. - Không đủ đâu con, vị hồng y thì thầm. Hồng y nói đúng. Boulard và quân của ông ta chỉ còn cách có vài bước. - Hãy tha thứ cho con, Vango van nài một lần nữa. - Con muốn ta tha thứ gì đây, trong khi con chẳng gây ra chuyện gì? Khi cảnh sát trưởng Boulard, ở ngay đằng sau, đặt tay lên vai cậu, Vango trả lời hồng y: - Đây là những gì mà con muốn cha tha thứ… Và, bằng bàn tay rắn chắc, cậu tóm tay cảnh sát trưởng, đứng dậy bẻ quặt cánh tay ông ra sau lưng. Cậu ném ông về phía một nhân viên cảnh sát. Bằng vài bước nhảy, Vango thoát khỏi hai cảnh sát đang lao về phía cậu. Viên cảnh sát thứ ba giơ súng lên. - Đừng bắn, Boulard hét, vẫn nằm trên đất. Tiếng hét lớn làm đám đông trở nên hỗn loạn, nhưng chỉ cần giơ lòng bàn tay lên, hồng y khiến đám đông im bặt. Vango vượt lên mấy bậc thềm. Đám lễ sinh vừa hét vừa chạy toán loạn khi cậu đi qua. Toán cảnh sát ngỡ như đang băng qua một sân trường. Mỗi bước chân, họ lại vấp phải một đứa trẻ hoặc bị một cái đầu tóc vàng húc vào bụng. Boulard gào lên với hồng y: - Cha nói chúng xếp thành hàng đi chứ! Bọn này nghe lời ai đây? Hồng y chỉ ngón tay lên trời, thích thú. - Chỉ Chúa thôi, thưa ngài cảnh sát trưởng. Hai phút ba mươi giây. Vango đã đến trước cửa chính nhà thờ. Cậu trông thấy một người phụ nữ thấp, hơi đậm người, da xanh xao, biến mất sau cánh cửa và đóng lại. Cậu lao vào cánh cửa gỗ. Phía trong, then đã cài. - Mở cửa ra đi! Vango kêu to. Mở cho tôi! Một giọng nói run run trả lời cậu: - Tôi biết mình không được làm thế. Tôi xin lỗi. Tôi chẳng muốn làm điều gì không tốt. Chính người đánh chuông đã hẹn tôi mà. Phía sau cánh cửa, người phụ nữ khóc. - Mở cửa ra đi, Vango nhắc lại. Tôi thậm chí chẳng biết chị đang nói gì nữa. Tôi chỉ nhờ chị mở cửa thôi mà. - Ông ấy có vẻ tốt bụng… Tôi xin cậu. Tôi tên là Clara. Tôi không phải là người hư hỏng đâu. Vango nghe thấy tiếng cảnh sát ở đằng sau. Cậu cảm thấy đôi chân mình mềm nhũn. - Chị ơi, tôi không trách gì chị đâu. Tôi chỉ cần chị giúp thôi mà. Mở cửa cho tôi đi. - Không… Tôi không thể… Tôi sợ. Vango quay người lại. Mười người đàn ông đã đứng đó, thành hình vòng cung quanh cánh cửa chạm trổ. - Không được nhúc nhích, một người trong số họ nói. Vango tựa lưng sát cánh cửa ánh đồng. Cậu thì thầm: - Bây giờ thì, chị ơi, muộn quá rồi. Đừng có mở cửa nữa đấy. Đừng mở, dù với bất kỳ lý do gì. Tôi sẽ đi đường khác. Cậu tiến một bước về phía đám người đó, rồi quay lại và ngước mắt lên. Đó là cánh cửa Phán Quyết. Cậu biết nó quá rõ. Một viền đá chạm trổ quanh cánh cửa. Bên phải, là những kẻ bị đày xuống địa ngục. Bên trái, là thiên đường và những thiên thần. Vango thích con đường của những thiên thần hơn. Lúc này, cảnh sát trưởng Boulard đã đến nơi. Ông suýt ngất xỉu khi chứng kiến những gì đang diễn ra. Trong vòng chưa đầy một giây, Vango Romano đã leo qua những hàng tượng đầu tiên. Cậu cách mặt đất năm mét. Ba phút. Simon, người gác chuông, chẳng nhìn thấy gì, đang lấy muôi vớt trứng ra. Dường như Vango không trèo, mà đang từ từ trườn trên bức tường mặt tiền nhà thờ. Ngón tay bám chặt vào những hình chạm nổi nhỏ nhất. Tay và chân cậu di chuyển dễ dàng. Như thể cậu đang bơi theo chiều thẳng đứng. Đám đông nhìn cậu, miệng há hốc. Một phụ nữ ngất xỉu và ngã lăn khỏi ghế như một mảnh vải. Dưới chân bức tường, đám cảnh sát đang nháo nhác tứ phía. Cảnh sát trưởng sững sờ. Phát súng đầu tiên vang lên. Boulard lấy được chút hơi để quát: - Dừng lại! Tôi đã nói các anh không được bắn cơ mà. Nhưng có viên cảnh sát nào rút súng ra đâu. Một người còn chìa vai cho đồng nghiệp trèo lên nhưng không được. Mấy gã đàn ông tội nghiệp leo được không quá tám mươi xăng ti mét so với bậc thềm, số khác đang cố gắng lấy móng tay cậy cánh cửa nặng hai tấn. Lại một tiếng nổ nữa. - Ai bắn? Boulard gào lên, tóm lấy cổ một tay cấp dưới. Tìm cho tôi kẻ nào đã bắn đi, thay vì các anh cứ bám riết lấy cánh cửa này. Các anh muốn vào làm gì cơ chứ? Để thắp nến à? - Chúng tôi nghĩ sẽ tóm được hắn trên tháp, thưa cảnh sát trưởng. - Có cầu thang ở hướng Bắc đây, Boulard nổi xung chỉ ngón tay sang bên trái. Rémi và Avignon ở lại với tôi. Tôi muốn biết ai đang bắn con gà gô của mình. Vango đã lên đến hành lang Vua. Cậu đứng dậy và bám vào một cái cột. Cậu thở nhẹ nhàng. Trên gương mặt cậu, sự quyết tâm xen lẫn nỗi tuyệt vọng. Cậu nhìn xuống sân trước nhà thờ. Hàng nghìn con mắt mở to đang dõi theo cậu. Một viên đạn làm nổ tung chiếc vương miện bằng đá, ngay sát tai cậu, làm văng bụi trắng lên má cậu. Cậu nhìn thấy, ở phía dưới, viên cảnh sát trưởng đang quay tròn như một gã điên. - Ai đã làm thế? Boulard gào lên. Không phải cảnh sát bắn cậu. Vango nhanh chóng hiểu ra điều đó. Cậu còn có những kẻ thù khác trên quảng trường này. Cậu tiếp tục trèo, bằng vài động tác, cậu đã lên đến chân ô cửa kính hoa hồng. Lúc này, cậu đang leo trên một mảng kính ghép màu đẹp nhất thế giới, giống như một chú nhện trượt trên mạng vậy. Phía dưới, đám đông câm lặng. Cô ở đó, lặng thinh, bị thôi miên khi nhìn chàng trai bám vào mảng kính ghép màu phía Tây nhà thờ Đức Bà. Lũ chim nhạn bay thành đội tàu nhỏ siết chặt quanh cậu, như thể để bảo vệ Vango bằng những tấm thân bé nhỏ phủ lông vũ của chúng. Nước mắt lưng tròng, Simon, dưới tháp chuông, đang dùng dao bóc quả trứng đầu tiên. Lại một lần nữa, cô ấy không đến. - Đời thật buồn, ông nhẹ nhàng nói. Khi nghe thấy cầu thang gỗ dẫn lên gác chuông kêu cọt kẹt, ông dừng lại và ấp úng: - Cô đó hả? Ông nhìn quả trứng thứ hai. Luống cuống, trong giây lát, ông ngỡ như hạnh phúc đang ở ngoài cửa. - Clara? Cô đấy ư? - Cô ấy đợi ông phía dưới. Đó là Vango, viên đạn sau cùng sượt qua sườn khi cậu đặt chân lên hành lang Quái vật đầu sư tử. - Cô ấy cần ông, cậu nói với người gác chuông. Simon cảm thấy có cái gì đó vui vui trong lồng ngực. Từ trước đến nay có ai cần ông đâu. - Thế còn cậu? Cậu là ai? Cậu đang làm gì ở đây? - Cháu không biết, Vango nói. Cháu chẳng biết gì. Cháu cũng thế, cháu cần ông. Trên quảng trường, cô gái trẻ kia, người có đôi mắt xanh và khoác chiếc áo măng tô màu tro, đang vùng vẫy trong đám đông. Lúc Vango bỏ chạy, cô phát hiện gã đàn ông có khuôn mặt sáp ong đang rút súng ra khỏi áo choàng. Cô lao đến nhưng đám đông nhộn nhạo không cho cô tiến bước. Khi cô sang đến phía bên kia, hắn không còn ở đó nữa. Cô không còn chút gì của hình ảnh mèo con sướt mướt mà người ta thấy trước đó. Cô đã biến thành con sư tử xổng chuồng, hất tung mọi thứ trên lối đi. Sau đó, cô nghe thấy phát súng đầu tiên. Lạ thay, cô hiểu ngay là nó nhằm vào Vango. Phát súng thứ hai, mắt cô hướng về phía bệnh viện Hôtel-Dieu, bao lấy mạn Bắc quảng trường. Rồi cô nhìn thấy gã đàn ông. Hắn chót ở tầng hai. Khẩu súng ngắn vươn ra từ sau một tấm kính vỡ và trong bóng tối, phản chiếu khuôn mặt lạnh lùng của kẻ sát nhân. Chính hắn. Cô phóng ánh mắt lên cao. Vango đang giữ thăng bằng. Ông trời vừa kéo cậu ra khỏi định mệnh vào phút cuối. Đối với cô, ngược lại, một lần nữa, tất cả đều trở nên có thể. Với điều kiện cậu ấy còn sống. Cô gái mắt xanh lao về phía bệnh viện. Đột nhiên, trên bầu trời nhà thờ Đức Bà, xuất hiện một con quái vật khổng lồ. Nó gần như làm cho đám đông quên đi những gì đang xảy ra trên mặt đất. Dài và uy nghi như nhà thờ, láng bóng nước mưa, một quả khí cầu xuất hiện. Nó choán cả bầu trời. Ở mặt trước cabin chắn kính, Hugo Eckener, viên chỉ huy lớn tuổi của Khí cầu Graf, đang dõi mắt tìm kiếm bóng dáng bạn ông trên sân trước nhà thờ. Từ Braxin trở về, trên đường tới hồ Constance, ông đã chuyển hướng quỹ đạo bay của khí cầu qua Paris, để cái bóng của khí cầu vuốt ve thời khắc trọng đại ấy của cuộc đời Vango. Đến phát súng thứ ba, ông hiểu rằng có điều gì đó chẳng lành. - Phải đi thôi, thưa chỉ huy, đội trưởng Lehmann nói. Một viên đạn lạc suýt nữa làm thủng quả bóng mà trong cái vỏ rực rỡ của nó chứa đến sáu mươi hành khách và phi hành đoàn. Tiếng nổ sau cùng vang lên dưới mặt đất. - Nhanh lên, chỉ huy… Eckener hạ kính xuống buồn bã nói: - Ừ thôi, chúng ta đi vậy. Phía dưới, một con chim nhạn chết rơi xuống chân Boulard. Và chuông nhà thờ Đức Bà bắt đầu điểm. Mời các bạn đón đọc Vango - Giữa Trời Và Đất của tác giả Timothée de Fombelle & Hà Thảo.
Thanh Lâu - Tập 1
Tôi là người phụ nữ khổ nhất thế giới (Tự bạch của nhân vật chính) Tôi sinh ra vào thời kỳ đầu những năm 30 trong cuộc hỗn chiến quân phiệt. Vừa sinh ra cõi đời, tôi hoàn toàn không được lựa chọn, phải sống cảnh đói nghèo, khổ nạn và gian nguy. Bảy tuổi mất mẹ, tôi thành cô nhi, chín tuổi bị bán vào công quán làm kẻ hầu hạ, mười tuổi lưu lạc làm ăn xin, mười một tuổi vào đại vũ đoàn Hóa Nghinh tập võ học kịch, mười hai tuổi làm con dâu, mười bốn tuổi bị người ta gạt bán vào kỹ viện làm kỹ nữ. Tuy thân mang tuyệt kỹ, cũng từng thi triển võ công để phản kháng, nhưng tôi không thể thoát khỏi hắc động của xã hội ghê gớm đó. Trong cuộc sống bán thân bán nụ cười, tôi bị người ta bán như bán súc vật, từ Thành Đô đến Bảo Kê, đến Lan Châu, chuyển bán qua ba thành phố lớn, bốn kỹ viện. Tôi, thân nô lệ phải theo họ của chủ nhân, từng có sáu cái tên: Lưu Hồng Chi, Khang Tiểu Muội, Tô Thu Chi, Điền Thanh Đệ, Mã Hương Ngọc, Thù Hương Ngọc. Trong sáu tên này, thời gian gọi tên Khang Tiểu Muội là dài nhất, vì lúc này tôi mười một tuổi tập võ học kịch, trưởng đoàn ban ân, cho tôi giả làm cháu của Khang Tử Lâm thuộc hàng thái sơn bắc đẩu của võ học Tứ Xuyên. Tôi từng tiếp khách là sĩ quan Mỹ, cũng từng tiếp qua nhân vật trọng yếu của Quốc Dân Đảng là Hồ Tông Nam, Mã Bộ Phương. Cuối cùng tôi theo Ngụy Sấu Bằng lớn hơn tôi ba mươi tám tuổi, là thư ký của tướng quân Phùng Ngọc Tường. Từ đó tôi thoát khỏi hầm chông sống đời hoàn lương. Tháng 8 năm 1949, Lan Châu giải phóng, tôi bước lên bến bờ mới, làm lại con người mới, cũng từ đây tôi chính thức có một cái tên công dân thuộc về mình, trong nước Trung Quốc mới – Khang Tố Trân. Nhớ lại chuyện cũ, những chị em trong thanh lâu đã tử nạn luôn sống trong lòng tôi. Tôi vừa học văn hóa, vừa tập luyện võ công, tôi muốn tra tìm hung phạm để báo thù cho chị em tử nạn, nhưng tâm nguyện lớn nhất của tôi chính là viết một quyển sách, đem những chuyện bi thảm của chị em chúng tôi viết ra, truyền lại đời sau. Mùa xuân năm 1951, Sấu Bằng đi Tây An công tác, ông đưa tôi đến những nơi tôi từng chịu khổ: Bảo Kê, Thành Đô để khảo sát thực địa. Ở Tây An, tôi làm quen Điền Cửu Hồng là danh kỹ Tây An mà tôi gọi là cô cô. Cô cô giúp tôi tích lũy tài liệu phong phú hơn cho việc viết sách sau này. Năm 1957, tôi từ biệt Tây Bắc, theo người chồng đã về hưu trở lại quê hương làng Mộc Điếm, huyện Thúc Lộc (nay là thành phố Tân Tập) tỉnh Hà Bắc. Thoái ẩn điền viên, vốn muốn luyện võ viết sách, thay đổi nhanh chóng cuộc đời, tôi đến vùng đất công nghiệp Hải Hà, rèn luyện trong lao động gian khổ. Tôi dần mất đi hương thơm và dịu dàng của nữ tính, tay chân tôi trở nên thô kệch. Hàng ngày tôi cùng các dân công vật lộn trong con kênh mới đào, tôi có thể vật ngã hàng mấy thanh niên hai mươi mấy tuổi khỏe mạnh. Ngày tháng sau này là thời kỳ khốn khó: lũ lụt dìm huyện Thúc Lộc, thiên tai vừa qua, lại gặp phải cách mạng văn hóa. Tôi và Sấu Bằng cùng chịu đả kích trở thành phản cách mạng, bị nhốt vào chuồng bò. Hơn một trăm ảnh của chị em mà tôi trân quí cất giấu gần như toàn bộ bị Hồng Vệ binh lục xét tịch thu, coi là văn hóa phẩm độc hại, thảy vào lửa đốt. Sấu Bằng bị đàn áp đến nhảy giếng tự tử. Tôi cũng ba lần cải giá, từ Mộc Điếm đến Hình Gia Trang đến Quách Tây. Tôi chịu khổ tận cùng bị chồng đánh đập tàn nhẫn. Sau đó, tôi kiên quyết ly hôn, may là cán bộ của Quách Tây cho tôi con đường sống, cho tôi làm cấp dưỡng của đội sản xuất, chuồng bò trở thành nhà chính thức của tôi... Mãi đến sau đại hội toàn Tam Trung, tôi mới được giải phóng lần thứ hai. Ngày giờ vừa thong thả, giấc mộng cao xa mà tôi chôn vùi bao năm nay dần dà sống lại trong lòng tôi. Đúng lúc này, tôi nghe người ta đồn rạp phim Tân Tập đang chiếu bộ phim “Vọng hương”, tả lại cuộc sống của kỹ nữ, thế là tôi xin nghỉ phép một ngày vào thành phố xem phim. Quyết tâm viết sách lại sôi sục như núi lửa phun trào, tôi nghĩ rằng chuyện của tôi và các chị em so với “Vọng hương” của Nhật Bản phong phú hơn nhiều lắm, màu sắc hơn nhiều lắm. Người ta có thể quay thành phim, tôi không thể viết một quyển sách sao? Sau khi về làng, tôi lập tức đến quầy hàng mua giấy bút. Nửa đêm ở trong chuồng bò, bên cạnh ánh đèn dầu leo lét và đám bò ngựa hiền hòa, tôi âm thầm viết lại cuộc đời mình: Tôi không biết viết tiểu thuyết, chuyện xưa theo máu và nước mắt của tôi và các chị em mà chảy ra, khóc khóc viết viết, viết viết khóc khóc. Mặc dù viết đầy chữ sai tôi cũng viết xong mấy quyển lớn. Tôi nhảy lên xe đạp, đạp cả hai mươi lăm cây số, giao bản thảo cho Phòng Văn hóa huyện. Sau đó tôi biết bản thảo ấy như muối liệng vào biển. Tôi lại lần nữa chết cả lòng... Tháng 5 năm 1985, Liên hiệp Văn hóa thành phố được thành lập (năm 1986 Tân Tập được nâng thành thành phố cấp huyện). Đảng và Chính phủ giúp tôi cầm lại bút. Cấp trên cử người giúp tôi chỉnh bản thảo thành tiểu thuyết. Sự tích tôi “viết sách” từng vang dội một thời và việc người khác chỉnh lý bản thảo giúp tôi biên tập thành tiểu thuyết cũng gây xôn xao mấy năm. Nhưng khi đó tôi không xác định được rốt cuộc ai có thể đem cuộc đời truyền kỳ của tôi viết thành một bộ toàn tập có phong cách thống nhất, chân thực, cảm động lòng người. Mãi đến năm 1995, tôi mới biết hai bộ “Thanh lâu hận” và “Thanh lâu hận tục tập” có ảnh hưởng tương đối lớn. Vương Diên Niên là tác giả chấp bút cho tôi hoàn thành bộ tiểu thuyết này. Tuy ông đã chuyển sang viết trường thiên tiểu thuyết khác nhưng tôi nghĩ mình không thể mất đi người này. Tôi kiên trì trong một tháng viết cho ông ba bức thư. Tôi muốn ông tiếp tục viết toàn tập cho tôi. Đáng tiếc, tôi khổ nhọc viết mười năm, gần hai trăm quyển viết tay của tôi thất lạc trong dân gian tìm lại không được. Mùa đông năm 1996, tôi u uất thành bệnh. Tôi dự cảm mình sắp làm “láng giềng” của Diêm vương rồi. Tối rất sợ một khi tôi xuôi tay nhắm mắt thì chuyện kể đầy lòng của tôi sẽ chui vào quan tài. Thời gian không cho phép chậm trễ, tôi lập tức nhờ chồng sau của tôi là Dã Hoài Khởi gửi thư cho Vương Diên Niên mời ông đến giường bệnh của tôi. Tôi đem một phần hình ảnh tư liệu quý giá cất giấu bấy lâu giao hết cho ông, ủy thác ông viết toàn tập cho tôi, tuy bản thảo viết tay thất lạc khó tìm lại được nhưng chuyện kể chân thật nhất nằm trong tim tôi. Đối diện với Vương Diên Niên cũng bằng như đối mặt với hàng ngàn hàng vạn độc giả trên xã hội, tôi muốn tố cáo với mọi người, muốn đem cả cuộc đời mình dùng chân tình, dùng nước mắt kể ra, khóc ra, ngâm ra, hát ra... Mở đầu của câu chuyện chính là năm đại tai nạn mà tôi ra đời. *** Năm 1931, huyện An Nhạc, tỉnh Tứ Xuyên lại hạn hán mất mùa. Đời sống của nông dân quá khó khăn, cha mẹ tôi phải rời quê nhà ở làng Hoàng Giác đi bộ đến Thành Đô, sống nhờ vào ông nội và bác tôi. Khi đó tôi còn nằm trong bụng mẹ. Ông nội và bác tôi bán đậu hủ ở Hậu Tể Môn, mua gánh bán bưng nên nuôi không nổi một nhà ba miệng ăn chúng tôi (sắp thành bốn miệng). Cha mẹ tôi lưu lạc đến kênh Đại Dương. Kênh Đại Dương là khu dân nghèo nổi tiếng ở Thành Đô, một con kênh nước đen hôi thối dài 1,5 cây số. Trên mặt nước đen lềnh bềnh rêu xanh. Suốt ba mùa xuân, hạ, thu ruồi muỗi ken dày. Có ba cây cầu ván bắc qua kênh. Hai bên bờ là những dãy nhà được dựng lên bằng cỏ sơ sài. Bảo trưởng Phan Điền Hải chuyên cho người nghèo chạy nạn thuê phòng, cũng chính mùa đông năm này mẹ sinh ra tôi trong một gian nhà cỏ. Vừa đến thế giới hắc ám, ác ôn, hôi thối này tôi liền nếm đủ mùi bần cùng đói rét khủng khiếp. Tôi chưa từng biết đường có vị ngọt, thịt là thơm. Mẹ tôi giặt quần áo cho Phan bảo trưởng, cha tôi thì kéo xe cho nhà Trần dinh trưởng. Cha mẹ làm việc quần quật nhưng chúng tôi vẫn thường chịu đói rách. Tôi nhớ lại, hưởng thụ lớn nhất là tết mỗi năm mẹ tôi bẻ mấy cây mía lau từ vùng ven về cho chúng tôi nhai nhóp nhép. Những ngày đông giá là những ngày tháng hành hạ chúng tôi khổ sở nhất, gió bấc lùa qua khe ùa vào nhà tranh, cả nhà bốn người đắp chung chiếc mền bông rách vá chằng vá đụp. Tôi lớn được năm sáu tuổi vẫn phải ở trần không có áo mặc. Ban ngày để lưng trần đen thui, cầm cái kẹp sắt nhỏ đi theo anh lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm để bới rác, lượm thức ăn giống như hai con chó hoang nhỏ. Cuộc sống khốn khổ đã thế mà cha tôi lại lao vào hút thuốc phiện, tiền kéo xe kiếm được càng lúc càng ít đem về nhà. Về sau hiếm hoi ông mới về nhà, nếu có về thì cũng say bét nhè, vừa đặt chân vào cửa đã nổi cơn ghiền, bắt buộc mẹ đưa tiền. Mẹ khóc lóc chống đối thì bị cha đánh đập, cuối cùng ông cũng giật nốt chút xíu tiền trong nhà rồi bỏ đi. Trước nay tôi không nhớ cha quan tâm tôi như thế nào. Những năm tháng đó, chết chóc là chuyện bình thường, cái chết như hình bóng bám sát con người, đặc biệt là người nghèo. Lũ quỷ Nhật xâm chiếm hơn phân nửa Trung Quốc, móng vuốt ma quỷ của chúng tuy chưa thò đến Thành Đô nhưng máy bay của giặc Nhật thường quần đảo trên không, ném bom xuống Thành Đô. Tôi nhớ có một chiều thu, tôi theo anh đi đường Nam Phủ lượm rau vụn. Cảnh báo vang lên, đông đảo người đi đường nhốn nháo cuống cuồng như chim sợ ná. Chớp mắt, máy bay địch quần đảo giống như bầy diều hâu hung hăng thả bom xuống liên hồi. Tiếng nổ ầm đùng vang không ngớt, khói bụi mịt mù, đất đai rung chuyển, tường ngã nhà sập. Tôi và anh kinh sợ chui vào trong một cái hầm chờ chết, cảm thấy lục phủ ngũ tạng sắp bị xé toang ra. Sau oanh tạc, không gian yên tĩnh khoảnh khắc rồi khắp đường phố vang rân tiếng khóc la. Tôi và anh từ trong hầm bò lên, đường Nam Phủ đã hoàn toàn biến dạng. Trong hố bom chằng chịt là ngổn ngang thi thể không toàn vẹn, đầy máu, trên cây cháy nám treo lòng thòng ruột người, trên tường đổ nát dính máu thịt óc của người, thật thê thảm! Không lâu, chính phủ Quốc Dân phái người tới, hai chiếc xe hơi xuyên qua đám cảnh sát da vàng chạy đến hiện trường. Họ đào từ một hầm phòng không đã bị sập bịt kín, lôi ra từng xác chết ngộp, lột tiền bạc, đồng hồ, dây chuyền... những vật đáng tiền trên thi thể cho vào một bao tải ném lên xe rồi chạy mất. Giữa ranh giới của sự sống và cái chết đó, tôi lây lất đến bảy tuổi. Con gái phải có áo che chỗ xấu hổ. Một tối, mẹ tôi gương mặt tiều tụy ôm tôi vào lòng, vuốt lưng trần của tôi, nói: — Tiểu Muội, con ráng lượm ve chai nhiều nghe, bán có tiền mẹ mua cho con một cái áo đầm bông. Tôi mừng nhảy tưng tưng như gặp chuyện vui nhất trong đời. Tôi muốn có áo đầm bông mới để mặc, thế là tôi cố sức lượm ve chai, tôi thức dậy sớm hơn cả anh mình. Chạng vạng hôm đó tôi vác một bao tải hí hửng đi về nhà. Đến kênh nước thối, xa xa nhìn thấy cửa nhà đông người chen chúc, tôi đoán trong nhà đã xảy ra chuyện lớn vội xoải bàn chân đen thui loạng choạng chạy vào nhà cỏ. Mẹ nằm trên giường, gương mặt trắng nhợt, mắt nhắm nghiền, miệng rên nho nhỏ, thân dưới của bà máu tuôn dầm dề. Anh đang ở bên cạnh mẹ khóc nức nở. Hàng xóm tốt bụng đứng chung quanh chắt lưỡi hít hà. Tôi ngơ ngác không biết đã xảy ra chuyện gì. Thì ra cha tôi lại về nhà, cha và mẹ gây một trận um sùm rồi cha gom đi hết hai đồng cuối cùng của mẹ. Mẹ không trả được tiền nhà tháng này cho Phan bảo trưởng. Phan bảo trưởng mang đôi giầy bốt màu đen, đội nón sa đen, giắt bên mình cây côn màu đen, đến nhà đòi nợ. Mẹ tôi nhỏ nhẹ xin khất. Phan bảo trưởng nổi lòng tà dâm, thô bỉ trêu chọc, mó máy tay chân nhưng mẹ tôi hết sức phản kháng. Phan bảo trưởng thẹn quá hóa giận giơ chân mang đôi giầy bốt đá vào bụng hơi nhô lên của mẹ khiến mẹ ngất xỉu tại chỗ, hạ bộ chảy đầy máu. Nhìn thấy mẹ gặp thảm cảnh như vậy nhưng tôi không khóc cũng không bi thương vì tôi cho rằng mẹ sẽ mau chóng mở mắt ra gọi tên tôi, mẹ đã hứa mua áo đầm mới cho tôi mà! Lúc này người tôi hận nhất chính là cha, chính cha đã gây nên đại nạn như vậy cho cả nhà, không biết cha lại chui vào tiệm hút nào nữa rồi? Mẹ rên rỉ hấp hối đến nửa đêm thì chết thật! Trong chiếc quần tuôn đầy máu, còn đẻ non một bé gái mới thành hình, nó là em gái của tôi. Khi tôi biết mẹ thật sự bỏ chúng tôi đi rồi, tôi mới bật gào khóc, thạm chí phát điên! Hôm sau, ông nội, bác trai, bác gái tôi đều đến. Ông nội và bác muốn tìm Phan bảo trưởng nói lý lẽ, muốn thưa kiện tên ác ôn này. Hàng xóm vừa nghe có thưa kiện ai nấy len lén tản đi, ngay cả thím Lưu nhân chứng cũng không thấy bóng dáng. Bác gái khẽ giật chéo áo bác trai ngăn cản: — Ôi, có bầu trời không có mặt trời, cáo trạng, nha môn chỉ mở ra cho kẻ có tiền! Chỉ nội hai con chó lông vàng to như trâu của nhà họ Phan thôi, anh cũng đừng mơ bước được vào cửa, trước mắt lo chuyện chôn người kìa! Bác trai thở dài ai oán, ông nội trợn mắt nhìn trời, miệng run run phún máu tươi. Ông nội kéo tôi và anh dập đầu với những chòm xóm nghèo xin giúp đỡ. Làng xóm giúp chúng tôi chôn mẹ trên một bãi tha ma phía tây bắc kênh nước thối. Gió thu hiu hắt thổi mấy tờ giấy tiền bị đốt bay lên trời. Tôi mơ hồ nhớ năm đó mẹ khoảng hai mươi tám tuổi, đôi má đầy đặn đôi mắt to vô cùng xinh đẹp. Tôi và anh từ đó thành cô nhi. Cùng lúc này chú họ từ quê hương chạy nạn cũng đến Thành Đô, vừa thấy tình cảnh trước mắt chú họ quyết định đến Trùng Khánh, đồng ý mang anh theo. Tôi bảy tuổi chỉ còn nước theo nội và bác. Bác gái mặt không vui, giật mạnh vạt áo bác trai một cái đề nghị cho tôi cùng đi Trùng Khánh, nhưng ông nội giữ tôi lại, ông đưa bàn tay thô ráp như cây táo già ôm tấm lưng trần của tôi, hai mắt đầy nước mắt, kiên quyết nói: — Cháu ngoan, cháu sẽ chẳng đi đâu, có gì ăn ông cháu ta cùng ăn. Anh ôm tôi khóc lóc đau khổ một hồi rồi thiểu não đi Trùng Khánh. Tôi theo ông nội, lần đầu giống một con người, mặc được bộ đồ vải thô mà ông mua cho tôi trong tiệm cầm đồ, chân cũng được mang đôi giày cỏ. Nhà ông nội lại thêm một miệng ăn, chân mày bác gái rõ ràng càng nhíu chặt. Bác gái là một phụ nữ thấp bé, chân nhỏ nhanh nhẹn, trên gương mặt nhỏ trắng trẻo suốt ngày giống như phủ lớp băng, trong đôi mắt to khá đẹp giống như có băng tuyết lấp lánh. Cứ nhìn sắc mặt và ánh mắt của bác gái là tôi liền luống cuống. Từ khi có tôi, ngày ngày cứ nửa đêm là đã nghe giọng nói lanh lảnh của bác gái dội vào cái ổ nhỏ của tôi: — Thức dậy! Thức dậy làm đậu hủ! Đông người ăn cơm như vậy ông trời không có rớt bánh, xuống đâu. Tôi đang mơ mơ màng màng vội dụi hai mắt, mặc đồ vào đi giúp ông nội, bác trai nấu đậu hủ. Bận rộn cho đến khi nấu đậu hủ thành hai sọt lớn, thừa lúc còn nóng ông nội và bác trai mỗi người gánh một gánh, trời còn tờ mờ phải đến được đại lộ Hậu Tể Môn, gõ thanh tre rao bán. Còn tôi ư, cũng bắt đầu đi lượm rau cải vụn, lượm ve chai. Con không mẹ muốn đáng thương cỡ nào thì có đáng thương cỡ đó, bác gái keo kiệt rất ghét tôi. Bà thường giấu đồ ăn chỉ cho tôi một ít nước rau, lại hay dùng ánh mắt sắc lạnh lườm nguýt tôi, riết róng: — Trong bụng mầy bộ có máy xay hả? Nhỏ mà không làm chỉ có nước ăn xin! Bác trai tốt bụng nhưng không dám hó hé với bác gái, có thể thương yêu tôi chỉ có ông nội. Tôi thường thấy đói, ông nội mò trong ngực áo lấy ra khi củ khoai lang, khi cái bánh nướng nóng mua trên chợ mang về lén lút giấm giúi vào tay tôi. Chưa bao lâu, một tai nạn lại rơi vào gia đình này cướp đi người thân duy nhất của tôi. Ông nội bị người ta đánh! Hai cảnh sát của Hậu Tể Môn lấy mấy miếng đậu hủ của ông nội mà không trả tiền. Chúng dùng báng súng đập ông một trận tàn nhẫn. Ông nội hơn bảy mươi tuổi được người ta cõng về nhà, nằm sóng soài trên giường. Ông vừa tức vừa giận thổ ra máu tươi, không mấy chốc ông nhắm mắt từ bỏ thế giới bất công này. Không có ông nội việc mua bán đậu hủ càng sa sút, bệ rạc. Bác gái đối với tôi càng thêm vô tình. Chúng tôi chịu đựng qua mùa đông khắc nghiệt. Đến năm sau, mùa xuân ấm áp hoa nở có người tìm được công việc lao công trong phi trường cho bác trai, bác gái, thế là tôi đi theo bác trai, bác gái dời đến một nơi gọi là Sa Hà Phố. Nơi đó có một khoảng rừng trúc nhỏ, trong rừng trúc có mấy căn nhà tranh. Đến hoàn cảnh mới, bác gái giỏi tính toán tuyệt đối không nuôi tôi ăn cơm suông, bảo bác trai làm một cái chuồng thỏ đặt chỗ râm mát trong vườn, mang về hai mươi thỏ con, tiếp theo ném cho tôi một cái liềm nhỏ, sầm mặt ra lệnh: — Cắt cỏ đi, hai mươi con thỏ này giao mầy nuôi. Thỏ no thì mầy no, đừng có làm biếng! Thân thể gầy gò của tôi vác cái sọt tre to đùng đi ra vùng ven trong ngày xuân. Trước kia, cắt rau dại chỉ cần dùng cái dao nhỏ, cắt cỏ phải dùng liềm. Đây là lần đầu tôi sử dụng liềm. Tôi cắt xuống dưới, cái liềm cắm vào trong đất giật lên trên, lưỡi liềm lướt trên rễ ngọn cỏ mà không cắm xuống dưới nên cứa vào ngón tay tôi, máu tươi chảy tuôn ra. Tôi đau quá gọi: — Mẹ ơi! Tôi xé một miếng vạt áo quấn ngón tay. Ngón tay bị thương làm việc không tiện, đến trưa về nhà chỉ cắt được một lớp cỏ. Bác gái thấy thế, miệng ngoác ra cười mỉa mai, oang oang nói: — Ồ, giỏi quá nhỉ! cắt thật không ít, đủ nuôi cào cào rồi. Ra công không chịu ra sức, mầy nói bữa cơm này mầy ăn thế nào đây? Tôi nín thinh gục đầu ôm ngón tay bị đứt, nước mắt rơi lộp độp. Bác trai ra mặt giải vây cho tôi: — Được rồi, được rồi, nó mới tám tuổi, lại chưa làm qua chuyện này, vào nhà ăn cơm, chiều cắt thêm. Vì để không bị mắng, vì để được ăn cơm no, tôi gắng sức tìm kiếm khắp nơi để cắt cỏ, cỏ cắt càng lúc càng nhiều nhưng tôi vẫn thường bị đói. Bác gái bủn xỉn luôn luôn tiếc không cho nhiều cơm. Tôi ăn cơm bằng một chén gỗ nhỏ, không chờ tôi ăn xong một chén bác gái đã giật lấy bới thêm cơm, cơm còn lại trong nồi thì vét hết cho bác trai, khi tôi muốn ăn thêm trong nồi chỉ còn một lớp nước cơm. Từ từ tôi tìm được một cách, lần đầu tôi chỉ bới nửa chén, ăn nhanh cho xong rồi mới bới đầy chén, chỉ có ăn cơm no mới có đủ sức cắt cỏ nhiều. Sáng hôm nay, tôi cắt được đầy một sọt cỏ non xanh mướt, lưng đẫm mồ hôi vác nó về nhà. Nhưng chờ đón tôi là hai cánh cửa tre đan mắt cáo đã đóng chặt, được khóa bằng ống khóa lớn. Lúc này tôi mới hay trời đã quá trưa, bác gái chắc đi đưa quần áo cho phi trường rồi. Không có chìa khóa tôi không vào nhà được, bụng đói cồn cào, thế là tôi quyết định nhấc cánh cửa lên. Tôi đặt sọt xuống, nhấc trục cánh cửa lên, quả nhiên mở được một cánh. Tôi vào nhà, trước tiên chạy đến chuồng thỏ, hai mươi con thỏ như nước lũ tràn ra giành ăn cỏ xanh tôi đổ xuống. Tôi không màng rửa tay chạy ngay vào nhà bếp giở nắp nồi lên. Tôi chưng hửng, trong nồi trông trơn không còn một hột cơm. Tôi bất giác tức uất đến ngực đập thình thịch, bác gái nhẫn tâm không chừa cho tôi một chút cơm. Sục sạo khắp nơi cũng không tìm được chút thức ăn, cuối cùng tôi lôi ra được một cái khạp nhỏ cạnh bàn, bên trong còn phân nửa gạo trắng. Người đói khát cái gì cũng ăn được, tôi bốc gạo sống trong khạp nhét vào miệng giống như súc vật nhai nhóp nhép. Chạng vạng bác gái phát hiện trong khạp mất gạo, bà dằn mạnh nắp khạp, rít giọng: — Ồ... hay quá nhỉ... Gạo trong khạp đãi chuột rồi, một con chuột to! Bác trai nghe vậy hỏi thẳng tôi: — Cháu à, là cháu làm à? Tôi cũng tình thực kể buổi trưa tôi không có cơm ăn. Lần này chọc giận bác gái, đôi chân nhỏ của bác từ trong ngạch cửa nhảy phóc một cái xông tới mặt tôi xỉa xói: — Mầy là đứa mất dạy chết mẹ. Mầy dám nói dóc nói láo, nói tao không cho mầy ăn cơm, mầy ói đồ ăn ra đây xem, mầy ói ra đây cho mau! Bác gái gầm lên, ánh mắt lạnh băng, thuận tay chụp cây sào bên cửa đuổi đánh tôi, vừa đánh vừa rít: — Mầy ăn không ăn ói ra cho tao coi... Bác trai chạy qua giật lấy “hung khí” của bác gái, hét vào bộ mặt giận dữ của bác gái: — Bà không được đánh nó. Nó là đứa con mất mẹ. Bác gái lại nghiến răng ken két nói: — Không mẹ nhưng nó có cha, bảo nó đi tìm cha nó đi! Bác trai xuống giọng: — Thôi dừng gây nữa, không sợ người ngoài cười sao? Bác gái càng rống lên tru tréo: — Cười hả? Đứa nào cười đứa đó là con hà mã. Hỏi trời này, hỏi đất này, hỏi lương tâm của nó, hồi mẹ nó còn nó có được mặc áo không? Nó có được một ngày ăn ba bữa cơm không? ông thử thịt trên người nó là mập hay ốm? Được, tôi không thèm quản nữa, máu thịt họ Khang ông thì ông thương đi tôi không quản nữa. Bác gái quay ngoắt người phe phẩy đi ra trước cửa nhà ngồi phịch trên ngạch cửa, bù lu bù loa kể lể. Bảc trai vừa gấp vừa giận vừa bó tay đi loanh quanh hai vòng, cố gắng dằn cơn giận, lựa lời khuyên giải bác gái. Tôi âm thầm chảy nước mắt, căm hận người cha hút thuốc phiện của tôi. Vì để nuôi được bản thân, tôi chỉ đành nhẫn nhịn đi cắt cỏ nuôi thỏ. Có một ngày vì đói quá tôi cắt cỏ không nhiều về đến nhà ánh mắt lạnh băng của bác gái chiếu vào sọt tre của tôi mấy lượt, hừ một tiếng, cố ý không nói, liếc bác trai ra dấu xử lý tôi. Bác trai đang ngồi hút thuốc trước cửa sổ quả nhiên lên tiếng: — Cháu à, sao cắt ít cỏ vậy, ham chơi phải không? Tôi không dám nói đói, mím miệng cúi gục đầu. Bác gái trái lại giả làm người tốt: — Bỏ đi, ngày mai cắt nhiều một chút, chắc đã đói rồi mau ăn cơm thôi. Cháu nè, bưng cơm trên lò ra bàn đi. Tôi vừa nghe bác gái nói, nhất thời có vẻ được thương yêu mà hết hồn vội chạy thẳng vào lò mà bưng cơm. Cơm trong nồi đất chỉ là cơm cháy mà bác gái đem từ nhà ăn phi trường về, thêm nước nấu thành một nồi lớn. Tôi dùng sức bưng mép nồi đi ra ngoài bàn, chợt phát giác nồi cháo quá nóng giống như bưng phải sắt nung đỏ, tôi mau chân bước, cháo trong nồi sóng sánh trào ra hai lưng bàn tay đau như bị đốt, tôi giật mình “Cảng” nồi cháo rớt xuống đất bể tan tành thành đông vụn. Lần này bác gái nhảy nhổm lên: — Coi kìa, coi kìa, mầy làm chút việc cũng hư hỏng! Tụi tao hôm nay ngán đến tận cổ rồi. Bác trai lần đầu nổi giận, mặt hầm hầm xông vào tôi quát: — Làm gì vậy hả? Mầy thật không nên thân! Bác gái ở bên cạnh “đổ thêm dầu vào lửa” nói: — Hôm nay rớt nồi, ngày mai đập nồi. Tao có được cơm này dễ lắm hả? Tao phải dày mặt gọi người ta bằng ông bằng bà mới xin về đó... Mời các bạn đón đọc Thanh Lâu - Tập 1 của tác giả Vương Diên Niên.