Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tinh Vân Tiên Nữ - Ivan Yefremov

Tinh vân Tiên Nữ là một tác phẩm tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của nhà văn, nhà cổ sinh vật học người Nga Ivan Antonovich Efremov viết và xuất bản lần đầu năm 1957, đã được Dovzhenko Film Studios chuyển thể thành phim năm 1967. Truyện được đặt vào bối cảnh tương lai rất xa, khi mã xã hội loài người đã đạt đến cấu trúc chủ nghĩa cộng sản, khi mà khoa học công nghệ đx có thể sáng chế ra nhưng nhiên liệu hạt nhân dạng "hạt K" làm nhiên liệu cho các con tàu vũ trụ bay nhanh gần tốc độ ánh sáng, có thể đưa con người tới các thiên hà nằm ngoài hệ Ngân hà mà con người quan sát được mà gần nhất là "Thiên hà Tiên Nữ" (Tinh vân Andromes). Cuốn tiểu thuyết cũng không bỏ qua những sính hoạt bình thường của con người như tình yêu, sự nhớ nhung khi xa cách, những xung đột trong các quyết định sinh tử, những cảm giác mới lạ chưa từng có trên trái đất, những suy tư của từng con người khi tham gia vào các chuyến hành trình vũ trụ xuyên thời gian.v.v... *** Đ ể miêu tả sự phát triển của xã hội loài người cho đến ngày nay, kỹ sư Gu-xta-vơ Ay-xen-béc (Người Thụy Sỹ) đã đưa ra một hình ảnh thú vị. Ông ví sự phát triển đó như một cuộc chạy Ma-ra-tông sáu mươi ki-lô-mét. Mỗi ki-lô-mét tượng trưng cho một vạn năm. Phần lớn con đường phát triển của nhân loại xuyên qua rừng rậm hoang vu, giữa thiên nhiên nguyên thủy. Mãi đến cây số thứ năm mươi tám, năm mươi chín mới xuất hiện những mầm mống đầu tiên của văn minh: vũ khí thô sơ của người nguyên thủy, hình vẽ trong hang đá. Ở cây số cuối cùng ta gặp những người làm ruộng đầu tiên. Còn ba trăm mét nữa đến đích, các lực sỹ chạy trên con đường lát đá phiến dẫn họ qua các Kim tự tháp Ai-cập và những thành trì cổ La-mã. Còn một trăm mét nữa, trên đường xuất hiện những kiến trúc đô thị thời Trung cổ và họ nghe thấy tiếng kêu thét của những người bị thiêu trên giàn lửa của Tòa án tôn giáo. Còn năm chục mét. "Ở đây có một người đang đứng theo dõi cuộc chạy việt dã bằng cặp mắt thông minh và hiểu biết. Người đó là Lê-ô-na đơ-Vanh-xi"- Ay-xen-béc viết. Chỉ còn mười mét nữa đến đích, tức là đến thời nay. Ở đầu khúc đường ngắn ngủi ấy, phương tiện thắp sáng vẫn là đuốc và ngọn đèn dầu leo lét. Nhưng trên đoạn năm mét cuối cùng, một điều kỳ diệu đáng sửng sốt xảy ra: ánh điện chan hòa trên đường, ô-tô thay cho xe ngựa, có tiếng máy bay và đám mây nấm của vụ nổ nguyên tử tại Hi-rô-xi-ma... Bức tranh mà Ay-xen-béc đưa ra giúp ta hình dung hết sức cụ thể tốc độ phát triển gần như hoang đường của khoa học trong thế kỷ này. Sự phát triển cực kỳ mau lẹ của Khoa học không những có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội, mà còn làm đảo lộn nhiều quan niệm tưởng như bất di bất dịch, khiến ta phải thừa nhận những nghịch lý "trái với lương tri", "không thể hình dung nổi", tuồng như chỉ là "trò chơi ngông cuồng" của của trí tưởng tượng bất trị. Thực vậy: thuyết tương đối chẳng phải là "điên rồ" so với cơ học cổ điển sao? Trong thế giới trông thấy, có cái gì giống với ê-lec-trôn vừa có tính chất sóng, vừa có tính chất hạt? Lại còn các môn hình học phi Ơ-cơ-lít, lại còn phản hạt? Kể sao cho hết những "quái dị" mà khoa học đã đem đến cho chúng ta. Tình thế ấy tất nhiên đề ra cho chúng ta nhiều câu hỏi lớn: trong tương lai, loài người sẽ có những phát minh khoa học vĩ đại như thế nào? Khoa học sẽ đưa xã hội loài người tới đâu? Con người của thời đại ngày nay phải như thế nào và hình ảnh của thế hệ mai sau ra sao? Giáo sư I-van Ê-phơ-rê-mốp là một nhà tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nổi tiếng của Liên-xô. Nhiều tác phẩm của ông như "Đất nổi sóng", "Trái tim của con rắn", "Những con tàu vũ trụ" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và được đông đảo bạn đọc hoan nghênh. Dựa vào nhưng thành tựu mới nhất của khoa học, "Tinh vân Tiên nữ" là một trong những cố gắng trả lời cho những câu hỏi trên bằng cách kết hợp tư duy khoa học với sự bay bổng tuyệt vời của trí tưởng tượng nghệ thuật. Đây là một tác phẩm vẽ lên bức tranh rộng lớn về xã hội cộng sản đã phát triển tới mức hoàn mỹ trên toàn hành tinh chúng ta. Cái tương lai được miêu tả ở đây không phải là tương lai của mấy chục hoặc thậm chí mấy trăm năm sau, mà là tương lai xa xăm mang ý nghĩa khái quát. Trước mắt bạn đọc là một Trái đất hoàn toàn mới lạ, tươi đẹp và được tổ chức hợp lý: sa mạc đã biến thành vườn hoa, thảo nguyên đã biến thành những khu chăn nuôi bất tận; các mũ băng ở địa cực đã bị thu hẹp hẳn lại và châu Nam-cực biến thành kho tàng khoáng sản quí báu; con người đã làm thay đổi căn bản khí hậu trên hành tinh, mọi sự đảo lộn khí hậu một cách dữ dội và bất ngờ đã bị loại trừ hẳn. Tất cả những thay đổi trên có thể thực hiện được là nhờ đã hoàn toàn giải quyết được vấn đề quan trọng số một là vấn đề năng lượng: người ta đã khám phá ra những loại năng lượng hoàn toàn mới. Những kết quả vĩ đại của khoa nông nghiệp cùng với việc chinh phục đại dương, việc sản xuất thức ăn nhân tạo đã vĩnh viễn tiêu diệt nạn thiếu thực phẩm. Việc sản xuất được tự động hóa hoàn toàn, vì vậy các khu dân cư có thể ở rất xa nơi sản xuất. Toàn bộ các khu dân cư và các khu công nghiệp được sắp xếp lại theo phương án tốt nhất. Một thành công vĩ đại khác nữa của việc tổ chức đời sống là hoàn toàn giải thoát con người khỏi sự lệ thuộc vào đồ dùng, đó là kết quả của một phát minh lớn: khám phá ra một số có hạn những chi tiết tiêu chuẩn để từ đó có thể làm ra bất cứ đồ vật và máy móc nào. Về mặt xã hội, chế độ cộng sản đã được thiết lập trên toàn Trái đất từ lâu. Các dân tộc và chủng tộc trên toàn thế giới hòa vào nhau thành một gia đình duy nhất, có chung một ngôn ngữ, một chữ viết. Cùng với sự biến đổi điều kiện sống và hoàn cảnh xã hội, bản thân loài người cũng khác hẳn. Mấy trăm thế hệ sống no đủ, lành mạnh, tươi vui đã tạo nên một nhân loại cường tráng, đầy sức sáng tạo. Tuổi thọ của con người đã được nâng cao đáng kể: ba trăm năm chưa phải là giới hạn của đời người. Mỗi người trong xã hội đều có học vấn sâu rộng, vì vậy có thể mau chóng chuyển từ lãnh vực hoạt động này sang lãnh vực hoạt động khác. Con người không còn bị cột chặt vào một nghề nhất định. Lao động trở nên muôn hình muôn vẻ, đầy hứng thú và sáng tạo. Cuối cùng, một biến chuyển quan trọng đã đến với nhân loại: nhân loại bước vào kỷ nguyên Vành-khuyên vĩ đại, kỷ nguyên liên hệ với các thế giới có lý trí trên các hành tinh gần Trái đất nhất. Cũng như mọi cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, ở đây các bạn sẽ gặp những cái mới lạ về khoa học và kỹ thuật, cũng như những chuyện phiêu lưu ly kỳ: hành tinh Diếc-đa bị hủy diệt do việc sử dụng các chất phóng xạ một cách bừa bãi, đoàn thám hiểm vũ trụ số ba mươi bảy bị Ngôi sao sắt bắt cóc, việc tìm thấy con tàu vũ trụ "Cánh buồm" mất tích từ tám mươi năm về trước và việc khám phá ra con tàu vũ trụ lạ, từ một thế giới xa xăm tới, những con sứa điện và những cây thập tự giết người trên hành tinh đen.v.v.. Nhưng mặc dù có tính chất khoa học nghiêm chỉnh, có tầm khái quát xã hội rộng lớn, "Tinh vân Tiên nữ" không phải là cuốn sách phổ biến khoa học hay nghiên cứu xã hội học, cũng không phải truyện "phiêu lưu mạo hiểm" hấp dẫn, mà là một tác phẩm văn học lớn. Và cũng như mọi tác phẩm văn học có giá trị, vấn đề trung tâm mà nó đề cập tới là con người, những việc làm, tình cảm, cách xử sự của con người, những va chạm giữa các cá tính, các quan điểm, nguyện vọng trong hoàn cảnh khác thường, khiến cho những đặc điểm cá tính càng nổi bật, những va chạm càng căng thẳng... Tất cả các nhân vật trong tác phẩm này đều là những nhà bác học, những nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật (sản xuất vật chất cũng đã trở thành một hoạt động khoa học). Đấy là Éc-gơ No-rơ, trưởng đoàn thám hiểm số 37, là Mơ-ven Ma-xơ, chủ nhiệm các trạm liên lạc ngoài Trái đất, là Vê-đa Công, nhà nữ bác học khảo cổ xinh đẹp... Giữa những người ấy vẫn có những quan hệ và tình cảm bình thường của con người: yêu đương, cãi cọ, giận hờn, đau buồn, tiếc thương... Nhưng những xung đột giữa các nhân vật không xoay quanh các quan hệ cá nhân, mà xoay quanh việc tìm kiếm con đường tốt nhất để đi đến chân lý. Trong việc tìm kiếm đó, họ không sợ mạo hiểm, không sợ hy sinh, không sợ trách nhiệm. Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá việc làm của họ là: việc làm đó phục vụ như thế nào cho hạnh phúc loài người. Mơ-ven Ma-xơ, chủ nhiệm các trạm liên lạc ngoài Trái đất đã cùng với nhà Vật lý Ren Bô-dơ tiến hành một thí nghiệm vĩ đại nhằm khắc phục không gian và thời gian. Thí nghiệm thất bại, vệ tinh số 57 bị hủy diệt cùng với tất cả những người làm việc tại đó. Trước Hội đồng du hành vũ trụ. Mơ-ven Ma-xơ trình bày nguyên nhân nội tâm thôi thúc anh làm thí nghiệm ấy: "Anh kể lại rằng từ thuở mới trưởng thành, anh đã cảm thấy sự trách móc của hàng triệu nấm mồ vô danh của những người bị thời gian khắc nghiệt đánh bại. Anh cảm thấy không thể nào yên tâm được nếu lần đầu tiên trong suốt lịch sử loài người và lịch sử các thế giới lân cận, anh không bước một bước trên con đường chiến thắng không gian và thời gian, không đặt dấu mốc đầu tiên trên con đường ấy... Anh thấy mình không có quyền để cho thí nghiệm bị đẩy chậm lại, có thể là chậm lại một trăm năm, chỉ cốt tránh cho một số ít người khỏi bị nguy hiểm, và cho mình khỏi phải chịu trách nhiệm". Thí nghiệm tuy chưa thành công và có gây ra thiệt hại, nhưng nó mở ra một con đường mới, như một nhân vật là Đa-rơ Vê-te đã nghĩ: "Đa-rơ Vê-te khâm phục tư tưởng táo bạo của Ren Bô-dơ và Mơ-ven Ma-xơ. Dù cho thí nghiệm của họ không thành công, dù cho vấn đề họ nêu ra - cái vấn đề đụng chạm đến nền tảng của vũ trụ - còn xa mới giải quyết được, dẫu rằng vấn đề ấy chỉ là một điều hoang tưởng sai lầm đi nữa, thì những con người điên rồ ấy vẫn là những bậc khổng lồ của tư tưởng sáng tạo của loài người bởi vì ngay cả trong việc tìm cách bác bỏ lý thuyết và thí nghiệm của họ, nhân loại cũng sẽ đi tới một bước nhảy vọt trong việc tìm kiếm kiến thức". Tác giả muốn nói với ta rằng sự điên rồ của hai nhà bác học này là "sự điên rồ của những người dũng cảm", như M. Goóc-ki đã viết trong "Bài ca chim ưng". Đối lập với Mơ-ven Ma-xơ, nhà bác học có bản chất tình cảm phong phú, Bét Lon là "một trí tuệ tài giỏi, phát triển thái quá đến mức chèn lấn cả sự phát triển của nền tảng đạo đức và sự tự kiềm chế". Bét Lon cũng làm một thí nghiệm bị cấm, và thí nghiệm cũng thất bại, gây tổn hại lớn. Hai trường hợp bề ngoài giống nhau, nhưng khác nhau biết bao nhiêu! Một bên là hành động xuất phát từ ý thức trách nhiệm đầy đủ đối với sự tiến bộ của của khoa học, của loài người, một bên là hành động ích kỷ, ương bướng, xuất phát từ động cơ tự ái cá nhân. Ở đây, ta thấy tác giả bảo vệ việc những người đi tìm cái mới được quyền mắc sai lầm. Lịch sử phát triển của khoa học không phải là một chuỗi những thành công, mà còn gắn liền với những sai lầm, những thất bại. Và trong tương lai, công cuộc tìm kiếm những con đường nhận thức mới không thể tránh khỏi sai lầm. Điều quan trọng là ý thức trách nhiệm đầy đủ của nhà bác học, là "giá trị thực của hành động của họ... đối chiếu với cái mặt trái tai hại mà mỗi hành động, mỗi biện pháp đều phải có". Chính đó là cái phân biệt thí nghiệm thất bại của Mơ-ven Ma-xơ và Ren Bô-dơ với thí nghiệm của Bét Lon. Việc khoa học ngày càng xâm nhập vào mọi lãnh vực của đời sống và có vai trò ngày càng lớn trong sinh hoạt xã hội đôi khi cũng đẻ ra một số hiện tượng tiêu cực: khuynh chỉ biết có kỹ thuật, đề cao sự chuyên môn hóa một chiều mà coi rẻ những mặt khác của đời sống tinh thần phông phú của con người, coi rẻ thế giới tình cảm muôn màu muôn vẻ, những cảm xúc thẩm mỹ tinh tế trong sự cảm thụ cái đẹp. Điều đó dẫn tới chỗ "vương quốc của lô-gích" đè bẹp "nền văn hóa của tình yêu" mà chính là nhờ có "văn hóa của tình yêu" mà con người đứng cao hơn loài vật. Khi thế giới cảm xúc, khả năng thẩm mỹ của con người bị chèn lấn thì điều đó ảnh hưởng xấu ngay đến những khả năng trí tuệ của con người, mặt khác nó dẫn đến sự còi cọc, sự quái gở về mặt đạo đức. Dường như để tranh luận với khuynh hướng thực dụng thô thiển, với khuynh hướng kỹ thuật một chiều, trong tác phẩm này, nhà văn luôn đề cao bản chất giàu cảm xúc của các nhân vật, nêu bật lên những vấn đề đạo đức - thẩm mỹ của sự phát triển cá tính, của văn hóa, sự gắn bó của con người với các thế kỷ trước, với thiên nhiên sinh động. Ông khẳng định nhân loại trước hết là lịch sử của sự phát triển cá tính có đạo đức lành mạnh, ông khẳng định cái đẹp là tiêu chuẩn đáng tin cậy nhất của sự tiến hóa, vì cái đẹp chính là cái hợp lý, là biểu hiện của sự hoàn mỹ. Cái đẹp không phải là một mặt riêng biệt của sự sống, mà là cơ sở phát triển của nó. Trong một buổi nhận thông điệp từ vũ trụ, trước những cơ thể đầy vẻ đẹp hoàn mỹ của người trên hành tinh của sao Đỗ-quyên, Đa-rơ Vê-te suy nghĩ: "Con đường tiến hóa mù quáng của động vật để trở thành sinh vật biết suy nghĩ càng khó khăn và lâu dài, thì các hình thức cao nhất của sự sống càng hợp lý và hoàn hảo, tức là càng đẹp... Từ lâu, người Trái đất đã biểu hiện vẻ đẹp chính là tính hợp lý của cấu tạo, của sự thích ứng với với một chức năng nhất định. Chức năng càng nhiều mặt thì hình thức càng đẹp...". Và anh kết luận là họ đẹp hơn người Trái đất, vì họ đã qua con đường con đường phát triển phức tạp hơn chúng ta". Ở một chỗ khác trong tác phẩm, tác giả cho họa sỹ Các-tơ Xan trình bày ý nghĩ này dưới góc độ hơi khác: Tính hợp lý chính là vẻ đẹp, mà mà không có cái đẹp thì tôi không thấy hạnh phúc và ý nghĩa của cuộc sống...". Đọc "Tinh vân Tiên nữ", chúng ta thấy đây không chỉ là tác phẩm hư cấu về tương lai, mà còn đầy tính chất thời sự. Nó bày tỏ mối lo lắng về hậu quả của cuộc cách mạng Khoa học Kỹ thuật thời nay, nó tranh luận một cách nghiêm chỉnh, sâu sắc về hiện thực của thế giới ngày nay. Nó buộc chúng ta phải xúc động và suy nghĩ về việc chúng ta phải làm gì để đi vào ngày mai của chúng ta. Tính lãng mạn đầy thi vị kết hợp với tính khoa học, với cơ sở hiện thực và ý nghĩa xã hội bao quát, sâu sắc khiến cho "Tinh vân Tiên nữ" trở thành tác phẩm đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của thể Khoa học viễn tưởng Xô-viết. Chúng tôi tin chắc rằng tác phẩm này sẽ được bạn đọc nước ta nhiệt liệt hoan nghênh. Một điều nữa cần nói thêm là trong tác phẩm này, nhà văn dùng rất nhiều thuật ngữ khoa học thuộc đủ mọi ngành: Vật lý, Thiên văn, Toán học, Di truyền học, Y học... điều đó đôi khi cũng gây khó khăn cho người đọc. Nhưng, như nhà văn đã trình bày trong "Lời tác giả" (ở bản Tiếng Nga), đấy không phải là "sự sơ xuất hay không muốn giải thích những cách diễn đạt phức tạp. Mà tôi cho rằng chỉ có cách ấy mới có thể tô đậm màu sắc tương lai cho lời ăn tiếng nói và hành động của những con người ở một thời đại mà khoa học đã ăn sâu vào mọi khái niệm, mọi quan niệm và ngôn ngữ". Do đặc điểm trên đây của tác phẩm, việc dịch sang Tiếng Việt cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là khi dịch các thuật ngữ khoa học. Vì vậy, Nhà xuất bản mong nhận được sự góp ý của bạn đọc để giúp cho bản dịch được tốt hơn trong các lần xuất bản sau này. NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG *** Ivan Yefremov vốn là một nhà nghiên cứu cổ sinh vật học tại Viện Cổ sinh vật học (Палеонтологический институт РАН) thuộc viện Hàn lâm Khoa học Nga. Ông bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 1944, với tác phẩm đầu tay xuất bản khi đó là "The Land of Foam" (nguyên bản tiếng Nga: На краю Ойкумены). Nhiều tác phẩm sau đó của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng: "Trái tim của rắn, "Những con tàu vũ trụ", truyện ngắn "Ôl-goiKhoorrr-khôi" (Олгой-Хорхой kể về một loài giun tử thần Mông Cổ) Một tiểu hành tinh trong vành đai tiểu hành tinh chính, phát hiện tháng 2 năm 1976 đã được đặt theo tên ông: 2269 Efremiana Mời các bạn đón đọc Tinh Vân Tiên Nữ của tác giả Ivan Yefremov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cánh Trái - Phan Hồn Nhiên
Cánh trái là tập truyện ngắn của nhà văn Phan Hồn Nhiên, hội ngộ gần 20 truyện ngắn hay của chị như: Cánh trái, Africa, Vụ mất tích, Giờ xanh, Ván cờ, Sapa, Yên tĩnh tuyệt đối, Hồ Cá, Người chơi gương, Bay về phương Bắc, Thành phố trên cốc, Người đi săn, Cột nước đỏ... Là một cây bút nổi tiếng của báo Hoa Học Trò xưa và nay, Phan Hồn Nhiên đã để lại những ấn tượng khó quên cho độc giả qua những trang viết, truyện ngắn nhẹ nhàng mà sâu sắc, mang đậm dấu ấn của một Phan Hồn Nhiên luôn gần gũi với mọi người... *** Cả tập truyện ngắn Cánh trái gồm 18 "mẩu" được tác giả Phan Hồn Nhiên khéo léo xếp gọn vào 3 gian màu Xanh – Trắng – Đỏ, những gam màu được gọi tên cùng những nhân vật, xuất hiện rồi biến mất trong những câu chuyện kể. Mỗi gian màu là một hình khối sắc nét và có cạnh nhọn hoắt, nó chạm vào đến tận cùng những xúc cảm sâu kín nhất... *** 1. Sảnh đợi vắng lặng. Các mặt ghế nhẵn thín, đỏ chói, liên kết với nhau bằng thanh inox trắng lạnh. Hưng thả người xuống chiếc ghế đầu tiên. Cảm giác cứng đờ ghê tởm truyền thẳng vào da thịt khiến anh nhận ra mặt ghế cũng đúc từ kim loại chứ không phải nhựa hay gỗ. Dù rất mỏi, anh tránh dựa vào lưng ghế lạnh toát. Hưng nhìn chăm chú mặt đồng hồ màu trắng với những chữ số La Mã to khác thường treo trên khoảng tường phía sau quầy tiếp bệnh nhân. Vài phút nữa, 12 giờ khuya. Con trai anh đã được đưa vào phòng cấp cứu đặc biệt. Việc của anh lúc này chỉ là chờ đợi. Có tiếng chân bước hối hả. Một thứ tiếng ồn ngẫu nhiên nhưng gây náo loạn. Sau khúc quanh cuối dãy hành lang, một người lao vụt ra. Anh ta cao và gầy một cách đáng sợ, khoảng ngoài hai bảy. Bàn tay bấu chặt phía dưới cổ, như thể anh ta đang gắng sức kiềm chế hỗn hợp âm thanh sắp buột ra khỏi cuống họng. Bước chậm lại, anh ta nhìn quanh rồi ngồi vật xuống đầu kia dãy ghế, run rẩy dữ dội, đến mức sự rung động thấm vào kim loại lan truyền sang Hưng. Anh ta không ngớt lầm bầm điều gì đó, cái yết hầu nhọn hoắt chuyển động cuồng loạn như sắp xé rách lớp da cổ tái nhợt. Chừng mươi phút sau, ngớt run rẩy, anh ta gục mặt vào hai bàn tay. Một cách kín đáo, Hưng quan sát người lạ. Sự kinh hoàng sầu thảm tựa lớp màng trắng đục khiến mọi đường nét đều nhòe nhoẹt, như nhìn trên màn hình TV bị rối nhiễu. Ngoài tường kính, vẳng lên tiếng còi hụ cùng ánh đèn chớp của một xe cấp cứu đang băng qua khoảng sân bệnh viện. Vài y tá trực túa ra sảnh, chạy không tiếng động theo lối thang bộ. Hưng vẫn ngồi im. Nhưng người lạ đã đứng bật dậy, lách qua cửa xoay rồi biến mất. Bác sĩ đồng ý cho anh đưa con về nhà ngay trong đêm. Đứa bé mười một tháng tuổi đã được tiêm thuốc. Nhịp thở trở lại bình thường. Lúc này nó đang ngủ im bên trong chiếc nôi lớn có quai xách. Trao cho anh túi bìa giấy đựng phim, đơn thuốc cùng một danh thiếp, ông ta giải thích đều đều với Hưng về Ehlers-Danlos type bốn - một bệnh hiếm khởi nguồn từ chứng rối loạn gen. Ngưng một chút, ông ta miêu tả biểu hiện một vài biến chứng nguy hiểm. "Tôi có biết về chúng - anh cắt lời bác sĩ - Một căn bệnh dính líu đến gen di truyền. Ông sẽ nói thế, phải không?". Ông ta im lặng nhìn anh bằng đôi mắt hẹp, vằn đỏ vì thức khuya. "Anh có thể đưa thằng bé đến phòng khám riêng của tôi. Bất kỳ lúc nào. Địa chỉ và điện thoại có trên danh thiếp". Ông bác sĩ quay lưng bỏ đi, chẳng buồn nghe lời cảm ơn. Một lần nữa Hưng cúi nhìn đứa con trong nôi. Sau đó anh bước ra khỏi khu vực cấp cứu, bấm thang máy xuống tầng hầm để xe. Khi anh lái xe ra đường thì đã quá nửa đêm từ lâu. 2. Đối diện cổng bệnh viện, hộp đèn trạm xe buýt phả quầng sáng vàng yếu ớt. Khoảng tối quanh đó thẫm lại, dày đặc hơn. Một người đứng im, bóng đổ dài trên mặt đường nhựa. Chỉ có đồ mất trí mới chờ chuyến xe buýt không bao giờ hiện ra trong đêm, Hưng tự nhủ. Đèn pha xe hơi chiếu thẳng. Anh chợt nhận ra gã trai trẻ ban nãy trong sảnh. Anh cho xe chậm lại, trờ sát lề. Bấm nút hạ kính, Hưng lên tiếng lạnh lẽo: "Có muốn quá giang không?". Mất mấy giây, người đứng một mình mới hiểu ra. Anh ta hấp tấp chui vào xe từ cửa bên kia, khựng lại khi thấy chiếc nôi. Hưng cho biết băng sau bỏ không. Tuy nhiên người lạ rụt rè đề nghị được ngồi ghế trước, ôm đứa bé, còn cái nôi có thể xếp ra đằng sau. Anh ta thu xếp mọi thứ nhanh gọn. Khi anh ta tìm được tư thế thoải mái, tựa hẳn vào lưng ghế, đứa bé vẫn nhắm mắt ngủ yên trên ngực anh ta. - Anh cho xe đi thẳng năm cây số nữa. Ngã tư chạm đường cao tốc, tôi sẽ xuống. - Được! - Hưng gật đầu - Cậu chợp mắt chút đi. Đến nơi, tôi sẽ gọi. - Phiền anh thức tôi vậy! - Nụ cười gắng gượng khiến mặt người lạ có các hốc tối khó coi - Gọi tôi là Đông. Đồng hồ báo xăng vẫn còn đầy. Đường nhựa trơn mượt gây cảm giác cái xe cũ đang trôi xuống dốc. Những vệt đèn pha ngược chiều hung hãn cắt xuyên bóng tối như mắt lũ thú rừng. Tiếng rì rầm của động cơ chỉ lan truyền đến khuỷu tay Hưng. Phần cơ thể còn lại nhúng ngập trong tình trạng không cảm giác. Suốt nửa năm vừa qua, anh sống sót nhờ tìm thấy trạng thái yên tĩnh này. Anh không hiểu nổi nguyên nhân tai họa. Anh không nghĩ hay làm được gì hòng ngăn tai họa diễn ra. Sau đó thì tất cả trở thành chuyện đã rồi. Chỉ có đứa con trai nhỏ của anh như tàn tích sót lại, nằm bên bờ lỗ thủng rỗng hoác của cơn ác mộng. Hưng đưa mắt nhìn con trai. Khuôn mặt nhỏ ngoẹo về một bên, bàn tay bé xíu đặt trên vai người lạ lúc ẩn lúc hiện trong bóng tối. Một hình ảnh quen thuộc. Quen thuộc đến mức ghê khiếp. Hệt như anh lại nhìn thấy An, vào cái hôm anh đón cô và con trai mới sinh từ bệnh viện về nhà. Họ mới ngoài ba mươi. Mọi thứ đang vận hành ổn thỏa. Ngay suốt quãng thời gian mang thai mệt mỏi, An vẫn không mất đi vẻ xinh đẹp và sáng suốt luôn khiến anh ngạc nhiên. Cuộc sống gia đình chẳng có gì phàn nàn. Trước đó không lâu, bằng tiền dành dụm, họ vừa mua chiếc xe mà giờ đây anh đang điều khiển. Ngôi nhà thứ hai của họ. Biểu tượng hạnh phúc của họ. Anh nhớ hôm ấy, buổi sáng, trời mưa lây rây. Xe chạy tốc độ trung bình trên đại lộ thưa thớt. Máy lạnh trong xe điều chỉnh ở khoảng 26 độ C, thích hợp với đứa trẻ vừa chào đời ba ngày. Họ không nói gì. Sự tĩnh lặng chia sẻ. Nhìn nghiêng, vầng trán An trắng xanh, thẳng và mịn. Dựa hẳn vào lưng ghế, tay ôm đứa trẻ, cô bỗng cười khe khẽ, rồi nhoài người lấy đĩa chọn lọc The Beatles đặt vào đầu đọc. When I'm sixty four. You'll be older too. And if you say the word I could stay with you... Giọng hát trầm mượt vang lên thong thả, đượm vẻ chế giễu dịu ngọt. Đúng khi ấy, anh chợt nhận ra không khí trong xe phảng phất một mùi gì đó gợi sự bất an. Vợ anh áp môi lên trán con trai, bình thản: "Mùi máu. Từ người em!". Anh gật đầu. Chưa bao giờ anh thấm thía nỗi buồn bã xót thương như giây phút đó... Nhiệt độ trong xe cũng khoảng 26 độ C. Con trai anh được sưởi ấm trên ngực người lạ, ngủ ngon lành. Đường nét gương mặt nhìn nghiêng của gã quá giang khá đẹp. Hưng rùng mình nghĩ vợ anh có vài nét tương đồng với kẻ xa lạ này. Bất thình lình, Đông mở choàng mắt. Đôi mắt ráo hoảnh cho biết anh ta hoàn toàn không ngủ. Những ngón tay dài mảnh đeo mấy chiếc nhẫn cầu kỳ rẻ tiền gõ nhè nhẹ trên gò má. Lúc này, anh ta đượm vẻ tự tin và làm chủ tình thế, khác hẳn hình ảnh hoảng loạn tại bệnh viện. - Hồi nãy, cậu ở khu cấp cứu có chuyện gì? - Hưng phá vỡ sự im lặng. - Người quen của tôi cần đến bệnh viện. Tôi đưa ông ta đi! - Đông ngập ngừng. - Chỉ vậy thôi sao? - Hưng ngờ vực. - Người đó bị chấn thương sọ não - giọng nói thì thào, rồi đột ngột vang to, the thé - Một vết thương sau gáy làm ông ấy bất tỉnh. Chỗ rách máu chảy nhiều không tin nổi... - Ai gây ra chuyện đó? - Hưng hỏi, dù đoán được lời đáp. - Nếu ông ấy không dọa bỏ rơi tôi, thì tôi đâu có phát khùng! - Gã quá giang úp mặt vào bàn tay, đột ngột khóc nức. Nước mắt anh ta nhiều đến mức rỉ qua các kẽ ngón, biến mất trong mấy cái nhẫn - Dù sao thì tôi cũng đã đưa ông ấy đi cấp cứu và gọi điện báo cho người nhà ông ấy để họ tới bệnh viện... Đứa trẻ thở khò khè và bắt đầu khóc to. Bỗng dưng, nỗi chán nản khủng khiếp xâm chiếm Hưng. Mùi máu váng vất từ người ngồi cạnh, quen thuộc. Nhưng anh chẳng hứng thú gì với các bí mật kẻ khác. "Đừng khóc như đàn bà nữa. Dỗ nín con trai giùm tôi!" - Anh lên tiếng, chỉ muốn được yên. Nghiêng đầu chùi khô mắt vào vai áo, Đông vỗ nhẹ lưng đứa trẻ. Thằng bé dịu xuống. Mọi thứ lại im ắng. Nhưng bầu không khí trong xe chẳng còn như cũ. Giao lộ đường cao tốc lấp loáng phía trước. Lơ lửng trên cao, các bảng điện giao thông nhấp nháy. Xe chạy chậm lại. Đông nói yếu ớt: "Về nhà một mình sợ lắm. Giá anh cho tôi trọ qua đêm nay!". Đèn vàng ngã tư chuyển màu đỏ. Chiếc xe lao vụt qua giao lộ như một kẻ tâm thần mù lòa. Bằng hành động liều lĩnh, Hưng ngỡ như đã quyết định bẻ ngoặt cuộc sống anh sang hướng khác, mù mờ và bất ổn. Ở một khía cạnh nào đó, anh chỉ làm cho việc đánh mất khả năng kiểm soát đời mình hiện hình rõ nét hơn. ... Mời các bạn đón đọc Cánh Trái của tác giả Phan Hồn Nhiên.
Xứ Sở của Người Mù - Herbert George Wells
Herbert George Wells (21/09/1866 - 13/08/1946), thường được biết đến với cái tên H. G. Wells, là một nhà văn người Anh nổi tiếng với những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng như Kẻ Vượt Thời Gian, Người Vô Hình, Đảo Bác Sỹ Moreau, Xứ Sở Của Người Mù, Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới, Tiên phong lên mặt trăng.... Ông là một nhà văn của nhiều thể loại truyện, tiểu thuyết, bao gồm cả viễn tưởng, phi viễn tưởng hay các bài bình luận về lịch sử và xã hội. Wells cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội, các tác phẩm của ông sau này thường nặng tính chính trị và giáo điều. Chỉ có những tác phẩm tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của ông là vẫn còn rất được ưu chuộng hiện nay. Wells và Jules Verne thường được coi "cha đẻ của khoa học viễn tưởng". Công việc: Tiểu thuyết gia, Giáo viên, nhà sử học, nhà báo. Wells có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau, trong số đó 5 tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đều là truyện Sci Fi, mỗi cuốn đều tạo ra một dòng văn riêng biệt cho thể loại độc đáo này Wells sống rất đào hoa. Ông trải qua hai đời vợ (1 trong số đó là chị họ mình) và trong quãng đời kết hôn ông vẫn thường xuyên qua lại với nhiều phụ nữ khác. Một số người còn trở thành cảm hứng cho ông viết sách Wells có bút lực hiếm ai bì kịp, bốn năm liền cho xuất bản bốn cuốn bestsellers, và có thể viết 3 cuốn tiểu thuyết hay mỗi năm. Trong một cuốn sách phi hư cấu của mình H. G. Wells dự đoán rất chính xác sự phát triển của các khu thành thị, kinh tế toàn cầu hoá và các cuộc xung đột vũ trang nổ ra trên toàn cầu. Năm 1938, cuốn Chiến tranh giữa các thế giới của H. G. Wells được phát sóng trên radio, gây nổ ra cả một cuộc hoảng loạn vì mọi người tưởng người Sao Hoả đang xâm lăng thật. Lời cuối cùng Wells nói trước khi mất là: "Đi chỗ khác. Ta có sao đâu." *** Ba người đàn ông dừng chân, ngoảnh đầu nhớn-nhác như tìm kiếm xung quanh. Họ quay ngang quay ngửa, còn Nunez thì vung tay rối-rít ra hiệu song có lẽ họ không trông thấy. Sau một lúc, họ tiến về phía dẫy núi xa xa, mé tay phải, và cất tiếng gọi to như để đáp lại. Nunez lại gào lên, vung vẩy tay ra hiệu và khi nhận ra vô ích, đột nhiên chữ " mù " lóe ra trong óc hắn : " Không khéo các cha này mù cả lũ rồi ! " Cuối cùng, sau khi gào chán chê và cáu-kỉnh, Nunez vượt chiếc cầu nhỏ vắt ngang dòng nước, xuyên qua một cái cửa đục trong tường và tiến đến gần họ. Hắn chắc chắn những nguời này đã lòa và biết rõ đây là xứ sở của người mù mà người ta vẫn kể trong những chuyện cổ-tích, thần-thoại. Hắn tưởng như mình đang trải qua một cuộc phiêu-lưu thích-thú mà mọi người hằng mơ tưởng, ước ao. Ba người đàn ông sóng vai nhau đứng, không nhìn hắn nhưng tai lại vểnh về phía hắn, lắng nghe tiếng bước chân khác lạ của hắn. Họ đứng sát cánh nhau ra chiều hơi khiếp-sợ. Hắn thấy rõ mi mắt họ khép kín và sâu trũng làm như nhãn-cầu bên dưới đã teo lại. Mặt họ lộ vẻ hoang-mang. " Có người ? đích thị là có người ? người hay là quỷ thần đi từ phía những tảng đá xuống ". Một người thốt bằng thứ tiếng lơ-lớ Tây-ban-nha. Nunez mạnh dạn tiến lên như một thanh-niên mới bước chân vào đời. Hắn chợt nhớ đến tất cả những chuyện kể về cái thung-lũng đã tuyệt-tích và xứ sở của người mù. Câu ngạn-ngữ cổ cứ láy đi láy lại mãi trong đầu hắn như một điệp-khúc : " Trong Xứ Mù Thằng Chột làm Vua " " Trong Xứ Mù Thằng Chột làm Vua " Hắn cất tiếng chào rất lễ-phép, vừa chào vừa đưa mục-quang quan-sát. " Người này từ đâu đến hở Pedro ? " một người lên tiếng hỏi. " Từ phía những tảng đá trên kia đi xuống." " Tôi từ bên kia dẫy núi đến đây " Nunez sửa lại. " Từ một nước ở rất xa, nơi mà ai ai cũng nhìn được. Ở gần Bogota, chỗ có hàng trăm ngàn dân cư, dẫu chỉ là một thành-phố khuất nẻo. " " Nhìn ? Nhìn ? " Pedro lẩm-bẩm. " Người này từ những tảng đá đi xuống " người mù thứ nhì nhắc lại. Quần áo họ mặc rất kỳ-cục, chắp nối lung-tung các mảnh vụn bằng những đường kim mũi chỉ khác nhau. Hắn giật nẩy mình khi họ đồng loạt tiến lên, cùng vươn tay. Hắn vội lùi lại, tránh những ngón tay xòe ra. " Lại đây " người mù thứ ba lên tiếng, bước theo và tóm ngay được hắn. Họ nắm giữ, sờ nắn Nunez từ đầu đến chân và không nói thêm một tiếng nào cho tới khi sờ nắn xong. " Ấy, cẩn-thận đấy ! " Nunez sợ-hãi kêu lên khi một ngón tay đè lên mắt hắn và biết là họ thấy mắt hắn rất kỳ-quặc, mi mắt rung động được. Họ lại sờ thử một lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Sở của Người Mù của tác giả Herbert George Wells.
Tìm Lại Tình Yêu - Debbie Macomber
Giống như về thăm nhà, Debbie Macomber dùng tài năng hiếm có của mình để mang đến cho độc giả một bức tranh toàn cảnh về đời sống của một thành phố. Macomber viết bằng nhận thức đau đến xé lòng khi phải đứng giữa những quyết định và lựa chọn được hình thành trong tình bạn và mối quan hệ gia đình. Qua những tiếng cười và giọt nước mắt, bà đào sâu các mối quan hệ bằng hiện thực và sự thấu hiểu đáng kinh ngạc trong câu chuyện giàu tình cảm và có nhịp độ nhanh này. Những giọt nước mắt vui mừng sẽ lăn dài trên má khi bạn đọc đến đoạn kết. *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... ***   Bob Beldon liếc nhìn thực đơn trong nhà hàng nhỏ của bãi chơi ki. Thật ra chẳng cần thực đơn thì anh vẫn biết mình muốn gì. Hai quả trứng, thịt lợn muối xông khói, khoai tây chiên và hai miếng bánh nướng kẹp mứt dâu tây. Với hai đô la năm mươi xu, đây thật sự là một bữa ăn ngon miệng. Cô phục vụ bàn bước đến, và rót cà phê cho Bob. “Ông đợi ai nữa phải không ạ?”. Bob gật đầu. Ngay lúc đó, Roy McAfee bước vào nhà hàng đông đúc. “Rất đúng giờ”, Bob nhận xét trong lúc Roy đi qua quầy đối diện mình. “Anh gọi món chưa?”. “Chưa”. Cầm chiếc bình trên tay, cô phục vụ bàn trở lại, rót cà phê vào tách của Roy và đứng chờ họ gọi món. Bob gọi trước. Roy gọi bánh kếp. Người nữ phục vụ thong thả bước đi và xướng thực đơn cho đầu bếp. “Có chuyện gì thế”. Roy hỏi. Tối qua Bob đã gọi anh để hẹn cuộc gặp này. “Hôm kia Peggy kể cho tôi nghe một chuyện khá thú vị. Tôi đã nói chuyện với Troy Davis, nhưng tôi muốn nghe ý kiến của anh nữa.” “Được. Là chuyện gì?”. “Có vẻ như Peggy và Hannah đã có một cuộc tâm sự nho nhỏ.” “Anh có biết thêm được điều gì không?”. “Có”. Bob thêm đường và kem rồi khuấy đều tách cà phê lên. “Hannah buột mồm nói thỉnh thoảng bố cô bé có dùng tên giả. Peggy đã hỏi về chuyện đó và tôi nhận thấy là qua từng ấy năm, Max đã có một cơ số những cái tên và chứng minh thư khác nhau”. Roy nhướng mày lên. “Con bé chưa bao giờ nhắc đến điều đó?.” “Rõ ràng là không”. Bob kể lại nguyên nhân dẫn đến sự thú nhận này. “Con bé để ngỏ bình sữa cả đêm, tôi thấy khó chịu vì sữa bị hỏng. Sau khi tôi đi đánh gôn, Hannah rời khởi giường và bắt đầu nói chuyện với Peggy. Theo cách con bé mô tả, cuộc sống của mẹ con con bé cùng người bố giống như là địa ngục vậy.” “Trước đây, con bé chưa từng nói xấu bố?”. Bob cần suy nghĩ về điều này. Anh nhún vai. “Đúng. Tôi không nhớ mình đã được nghe những chuyện như vậy. Hình như con bé sống trong một thế giới kỳ quặc. Ban đầu, cô bé vẽ lên bức tranh ba người trong một gia đình trải qua những tháng năm hạnh phúc bên nhau. Hoá ra cuộc sống ấy không hề hạnh phúc như cô bé đã kể cho chúng ta”. “Có lý”, Roy nói, hai tay chụm lại giữ tách cà phê. “Cô bé mất cả bố lẫn mẹ chỉ trong một thời gian ngắn. Trong những tình huống bi đát và đau thương như thế, con người thường nhớ lại những phút giây đẹp đẽ”. Bob cho là bạn mình đã nói đúng. “Chẳng lẽ Troy không hỏi liệu con bé có biết gì về việc bố mình dùng những cái tên giả không à?”. “Tôi chắc chắn là có. Thế con bé có giải thích vì sao nó lại không nói không?”. “Peggy đã hỏi. Hannah khẳng định cô bé lo sợ rằng nếu ai đó phát hiện ra thì sẽ gặp rắc rối. Theo những gì cô bé nói, có vẻ như rắc rối đi theo Max tới bất cứ nơi nào ông ta đặt chân đến”. Roy nhíu mày, nhấp một ngụm cà phê. “Cô bé có vô tình nhắc đến một cái tên nào đó mà ông ta đã dùng? Hay ông ta lấy chứng minh thư giả ở dâu không?”. “Không, nhưng nếu Peggy hỏi, có thể Hannah sẽ nói”. Bob không nghĩ Hannah đủ tin tưởng mình để tâm sự những loại thông tin ấy, nhưng cô bé lại rất thân thiết với vợ anh. “Bảo Peggy hỏi cô bé, và tôi sẽ tìm hiểu lại mọi chuyện. Có thể chúng ta sẽ tìm ra manh mối nào đó”. Bob gật đầu. Anh cũng đã hi vọng Roy sẽ tình nguyện điều tra. “Hannah có biết gì về tấm chứng minh thư giả mà bố cô bé mang theo khi chết không?”. “Cô bé nói không biết”. Roy dò xét. “Anh có tin không?”. Bob cân nhắc câu hỏi một cách thận trọng và thực tế là anh không dám chắc chắn. Anh không thích Hannah, nhưng anh không thể giải thích được vì sao, thậm chí anh còn chẳng có một lí do rõ ràng nào để ghét cô bé. Peggy kết bạn với cô rất nhanh chóng, và Chúa mới biết cô gái trẻ có cần vợ anh quan tâm hay không? Nỗi lo lắng của Hannah và thái độ bồn chồn của cô bé khiến Bob không thoải mái. Dù Bob có nói nhẹ nhàng, thì cũng đủ để cô bé khiếp sợ, như thể anh sắp vồ lấy cô ta vậy. Tất nhiên, điều Hannah kể với Peggy đã phần nào giải thích được sự sợ sệt của cô bé khi thấy anh tỏ ra khó chịu với mình. “Mấy ngày nay có ai theo dõi anh không?”. Roy hỏi khi người phục vụ bàn mang bữa sáng đến cho họ. “Theo tôi là không. Không có gì xảy ra kể từ sau đêm đó. Tôi bắt đầu tự hỏi có phải do mình tưởng tượng không. Nhưng tôi biết là mình không tưởng tượng. Có thể chuyện này chẳng liên quan đến Max. Có thể chỉ là một gã điên khùng nào đó”. Roy đổ nước đường lên chiếc bánh kếp. “Anh thất vọng hả?.” “Đúng. Cách sống của tôi và Peggy thật nực cười. Tôi muốn thoát khỏi chuyện này bằng bất cứ giá nào. Nó đã khiến chúng tôi tốn hàng nghìn đôla rồi”. Bob nhấp một ngụm cà phê và nói tiếp. “Nếu thực sự có kẻ nào đó theo dõi tôi, thì chẳng lẽ bây giờ hắn vẫn chưa ra tay sao?”. Roy gật đầu. “Tôi đồng ý với anh. Nếu có kẻ định ra tay, thì mọi chuyện có thể đã xảy ra rồi”. Bob tán đồng trong khi miệng đầy bánh mì nướng và mứt. “Nghĩ đi nghĩ lại thì..”. Roy nói. “Thôi nào, Roy”, Bob phản đối, không cho Roy kịp nói hết. “Anh có muốn nghe lời khuyên của tôi không? “Tôi sẽ cho anh lời khuyên, và nếu thấy nhẹ nhõm, anh nên cảm ơn tôi”. “Thôi được, thôi được”. Bob dùng mẩu bánh mì chia đôi miếng lòng đỏ trứng ra. “Chia sẻ sự khôn ngoan của anh nào”. Roy cười tủm tỉm. “Chỉ chấp nhận cho ở nhờ đối với những người đã từng ở nhà nghỉ. Hoặc những người anh quen biết”. Bob tiếp lời Roy. “Nói cách khác, từ chối tất cả những người lạ mặt đến nhà vào lúc nửa đêm, đặc biệt là những đêm giông bão”. Roy cười thầm. “Anh nói đúng đấy”. Bob ăn xong bữa sáng và với tay lấy tách cà phê đã được rót đầy. “Tôi muốn cho anh biết một giả thuyết tôi vừa nghĩ ra”. Roy thả lỏng người, dựa vào quầy. “Nói cho tôi nghe nào”. “Anh biết mọi chuyện, ý tôi là những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam, đúng không?”. Roy gật đầu, vẻ mặt nghiêm trọng. “Anh nhớ là tôi đã trải qua một thời gian không mấy dễ dàng sau chiến tranh chứ? Tôi đã làm tất cả để có thể chôn vùi kí ức. Tôi đi tìm sự lãng quên. Và hậu quả của nó thật không dễ chịu với mọi người, đặc biệt là với Peggy và bọn trẻ”. Bob dừng lại. “Bề ngoài, Dan Sherman có vẻ thích nghi với cuộc sống thường ngày. Tôi nghĩ thế. Mấy chục năm rồi tôi không gặp anh ấy. Thậm chí khi tôi trở lại vịnh Cedar, chúng tôi còn cố tình tránh mặt nhau. Vì thế tôi không biết anh ấy cũng phải đấu tranh với những con quỷ của quá khứ”. Roy lắng nghe trong lúc Bob sắp xếp câu nói. “Theo những gì Hannah kể với Peggy, cuộc sống của Max không dễ chịu hơn cuộc sống của tôi là bao”. “Anh ta cũng uống rượu?”. “Một chút, nhưng tôi nghĩ đó không phải là vấn đề duy nhất. Anh ta ấy ngày càng bị ám ảnh, mặc dù đó không hẳn là điều mà Hannah đã nói.” “Anh có nhớ mọi thứ được xếp gọn gàng trong vali của anh ta như thế nào không?”. Bob gật đầu. Bọn họ đã rất ấn tượng với chiếc va-li ngăn nắp ấy. “Vậy anh đang nghĩ gì?”. Roy nhấn mạnh. “Khi từ Việt Nam trở về, tôi nhận ra rằng một ngày nào đó, bằng cách nào đó, tôi sẽ phải trả giá cho những gì đã xảy ra ở ngôi làng kia. Nếu tôi học được điều gì từ cuộc sống trong hơn năm mươi năm qua, thì đó là sự công bằng”. Bob hạ thấp giọng. Tôi... đã tước đi những sinh mạng vô tội, và giờ thì có kẻ nào đó muốn lấy đi mạng sống của tôi”. Nói ra được những lời ấy, Bob cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Anh đã nghĩ đến điều này kể từ sau cái chết của Max, nhưng anh không có dũng cảm để nói thành lời. “Tiếp đi”, Roy giục. “Tôi nghĩ Dan cũng nhận ra điều này. Và anh ấy đã tự chọn cho mình một cách riêng để kết thúc cuộc sống”. “Tôi...”. “Hãy nghe tôi đã”, Bob quả quyết. “Tôi không biết liệu người thân của một trong số... những nạn nhân của chúng tôi có săn tìm chúng tôi không. Anh ta có thể đã chạm trán với Dan, buộc Dan phải đối diện với quá khứ. Ngoài ra, còn điều gì khác đưa Max tới vịnh Cedar này? Tôi nghĩ bất cứ kẻ nào chịu trách nhiệm về những chuyện này đều làm vì hành động trả thù”. Roy cân nhắc giả thuyết của Bob. “Tôi không biết. Có thể lắm, nhưng tôi vẫn nghi ngờ”. “Anh nên nhớ là đã có rất nhiều người Việt Nam di cư sang Mỹ kể từ sau chiến tranh”. “Theo tôi, khó có khả năng một trong số họ mang mối thù đó với bốn người lính Mỹ chúng ta trong từng ấy năm. Bởi nếu vậy, sao lại phải đợi đến tận bây giờ?”. Bob nhún vai. “Tôi không biết”. Có thể Roy đúng; suy nghĩ của Bob thật kì quặc, có thể nó chỉ là một sự tưởng tượng trong tâm trạng tuyệt vọng của anh. Nhưng ngoài ra, Bob cũng chẳng có lời giải thích nào hợp lí nữa. ... Mời các bạn đón đọc Tìm Lại Tình Yêu của tác giả Debbie Macomber.
Thập Nhị Binh Thư - Đỗ Mộng Khương & Nguyễn Ngọc Tỉnh
Lịch sử nhân loại luôn gắn liền với lịch sử của những cuộc chiến tranh. Dẫu một nước lớn như Trung Hoa hay một nước nhỏ như Việt Nam cũng không thể tránh khỏi quy luật một xâu chuỗi của những cuộc chiến tranh nối liền nhau tưởng như không dứt. Từ xuất phát đó, việc nâng nghệ thuật chiến tranh, nghệ thuật chiến thắng lên thành Lí thuyết, thành học thuật là một nhu cầu cấp thiết của những người làm tướng . Trong cuộc chiến , ai nắm vững nghệ thuật chiến tranh sẽ có nhiều cơ hội chiến thắng hơn nếu là kẻ mạnh và có nhiều cơ hội để tránh thất bại hơn nếu là kẻ yếu. Mà đã yếu nhưng lại tránh khỏi thất bại thì cũng đáng gọi là thắng rồi…     Binh thư đã ra đời như thế. Ta có thể tìm thấy trong binh thư cổ những bí aaen của phép dụng binh thuở ấy. Từ cách triệt lương phá đường đến đoạt thành chiếm đất. Từ cách trị quân tới cách cứ tướng . Từ những mưu chước đánh vào long tướng địch cho tới mẹo làm tan nhuệ khí địch quân. Kể cả những “ bí pháp” ngắm xem tượng trời , xem những “ điềm” lành và dữ vẫn là nỗi băn khoăn của bao nhiêu người làm tướng . Nhưng binh thư không chỉ đơn giản ở mức ấy. Còn rất nhiều điều ẩn chứa bên trong những trang sách đã được đúc rút qua bao nhiêu đời… *** Trong số 12 bộ binh thư được chúng tôi tập hợp và giới thiệu có 9 bộ của Trung Hoa , 3 bộ của Việt Nam . Lí do có sự lựa chọn đó rất đơn giản : Binh pháp Trung Hoa cổ vốn nổi tiếng là những bộ binh pháp được đúc kết rất chặt chẽ và nâng thành Lí thuyết chiến tranh . Các bậc anh hung dân tộc của Việt Nam đều nắm rất vững binh pháp Trung Hoa mới có thể đánh thắng được những đạo quân phương Bắc hùng mạnh với những viên tướng lâu thông binh pháp. Nhưng không chỉ tiếp thu , người Đại Việt suốt bao nhiêu năm đã sáng tạo nên một Lí luận riêng , một nghệ thuật chiến tranh riêng , chỉ có những dân tộc nhỏ nhưng quật cường mới có. Chỉ trên đất Việt này ta mới hiểu thế nào là : “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn , Lấy chí nhân để thay cường bạo” (Nguyễn Trãi). Chúng tôi sưu tập và giới thiệu cả những tinh hoa binh pháp Trung Hoa và Việt Nam để độc giả của một dân tộc nhỏ bé đã chiến đâu và chiến thắng trước những Lí thuyết chiến tranh tưởng như không thể nào sai nổi.  *** Về binh pháp Trung Hoa :   Lục thao và Tam lược là 2 pho binh thư vào hang cổ nhất với danh nghĩa là của Thái Công Khương Tử Nha – vị Thừa tướng làm nên sự nghiệp 800 năm của nhà Chu. Tuy nhiên  , nhiều nhà nghiên cứu vẫn nghi ngờ vào giá trị thực của 2 bộ sách này, trong đó có những dấu hỏi về vị tác giả nửa thực nửa hư mà người ta biết chủ yếu qua huyền thoại và pho tiểu thuyết Phong Thần viết dưới triều Minh . Sự nghi ngời cũng vậy với bộ Tố thư  thường được đi kèm như phụ lục của Lục thao và Tam lược  với tác giả lại là một vị tiên. Ông tiên Hoàng Thạch Công này, theo tương truyền , là người đã tu chỉnh binh pháp của Khương Thái Công và trao cho Trương Lương .Với bộ Tố thư  đó ( cũng theo tương truyền ) Lưu Hầu Trương Tử Phòng đã làm nên sự nghiệp 400 năm của nhà Hán . Vì vậy, xét về giá trị , 4 bộ binh thư quan trọng nhất phải là binh pháp Tôn Tử, Ngô Tử ( vẫn được gọi là binh pháp Tôn Ngô ),Tư Mã , và phần nào là Đường Thái Tông – Lí Vệ Công vấn đối. Những vị tác giả của các bộ sách này tỏ rõ sự hiện hữu của mình trong lịch sử và hơn nữa, những điều họ viết đi sâu vào thực tế chứ không viển vông và mở hồ. Tôn Tử là tướng nước Ngô, Ngô Tử là tướng nước Ngụy và nước Sở, Tư Mã Điền Nhương Tư là tướng nước Tề. Cả ba người đều góp công dựng nên những nghiệp bá cho vua nước mình giữa thời đại đông Chu đày loạn lạc.Đường Thái Tông – Lí Vệ Công vấn đối được coi là của Vệ Công Lí Tĩnh – một mưu thần mà kế sách cũng vào loại lừng danh . Ngược lại , một nhân vật lịch sử hết sức quan trọng là Võ Hầu Gia Cát Lượng đã bị thần thánh hóa qua tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa nên dường như những gì vẫn được coi là trước tác của ông lại mang đầy vẻ thần bí của một đạo sĩ. Giá như trong này chúng ta gặp sơ đồ của “ trâu gỗ, ngựa máy” thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên lắm . Cho nên ngoài 4 pho binh thư chính đã nói ở trên , các pho còn lại đều có vẻ do hậu sinh trước tác. Dù vậy , cả 9 pho binh pháp đó đều vẫn có những giá trị thực sự không thể chối bỏ. Do đó  , chúng tôi vẫn tập hợp lại toàn bộ các pho binh thư và vẫn để nguyên tên tác giả như bao đời nay đã thế.  *** Về binh pháp Việt Nam :   Pho Binh thư yếu lược hiện nay đến tay người tập hợp chỉ có 2 bản chính : một bản đầy những “ bí pháp” mơ hồ như một cuốn sách dạy chiêm bốc, một bản đầy những ví dụ sau đó cả vài trăm năm ! Đã thế , trải qua mấy phen binh lửa, mấy phen giặc Minh đốt sách , thật khó để biết rằng liệu Binh thư yếu lược thực có còn không chứ đừng nói đến sự phân biệt xem đâu là bản “ chính” .Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một vị anh hùng dân tộc , nhưng hậu thế cũng đã thần thánh hóa ông thành một “ Đức Thánh Trần “ mang nhiều màu sắc tín ngưỡng tôn giáo. Nếu nhìn theo khía cạnh ấy, về một mặt nào đó , dường như có nhiều “ bí pháp “ lại còn có vẻ “ đáng tin” hơn. Bởi dù sao phía sau một chương ngắn về các “ bí pháp” đó , các chương sau có vẻ đúng là bộ binh thư với đủ phép mộ binh , chọn tướng…Trong khi đó, bản Binh thư yếu lược sau này lại dẫn ra những ví dụ mà chỉ người tiếp theo vài thế kỉ mới biết đến.Thậm chí, ngay trong bản Binh thư yếu lược này, ta còn bắt gặp khá nhiều đoạn trích dẫn từ Hổ trướng khu cơ.Chắc chắn bản này không là bản chính mà đã qua một bàn tay tu chỉnh của hậu thế nếu không nói là một trước tác của hậu thế hẳn hoi ( mà phải là dưới thời Nguyễn vì như thế thì mới có được cả những ví dụ phép dụng binh của nhà Tây Sơn ). Dẫu vậy, chúng tôi vẫn tập hợp cả 2 bản Binh thư yếu lược và tạm để tên Hưng Đạo Vương gắn với bản thứ nhất mà để trống tên tác giả ở bản thứ hai.Dù gì thì gì  , đã quả quyết bản thứ hi do hậu thế tu chỉnh thì không đặt tên Hưng Đạo Vương ở ngôi tác giả thì phải nhẽ hơn…         Hổ trướng khu cơ gắn liền với tên một vị tướng tài ba trong cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh : Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ . Có lẽ tác phẩm Hổ trướng khu cơ mà chúng tôi tập hợp tại đây đúng là của Đào Duy Từ vì mấy lẽ : Thứ nhất , thời ông sống khá gần với chúng ta. Thứ hai, ông là một công thần của Nguyễn triều, triều đại cuối cùng của phong kiến Việt Nam nên tác phẩm của ông sẽ không còn bị “vướng” phải một cuộc hủy sách nào nữa. Thứ ba, văn bản Hổ trướng khu cơ thiên về thực hành quân sự như một sự đúc rút từ thực tế chứ không phải là lí thuyết đơn thuần. Như thế , nếu không phải đích là một vị võ tướng than trải trăm trận tự tổng kết kinh nghiệm thì e khó mà ngụy tạo cho nổi. Cho nên, vãn bản Hổ trướng khu cơ là có nhiều chứng cứ đáng tin cậy để ghi nhận đúng là trước tác của Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ.   Mời các bạn đón đọc Thập Nhị Binh Thư của tác giả Đỗ Mộng Khương & Nguyễn Ngọc Tỉnh.