Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Làm Người Chịu

Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Mấy bữa rày nhựt báo ở Sài Gòn rập nhau mà khen ngợi rạp hát Casino hát tuồng “Les Miserables”[1] hay lắm. Nàng Lý Tố Nga ưa coi hát bộ, chứ ít ham coi hát bóng, nhưng vì nàng ở nhà cứ đọc truyện hoài rồi cũng buồn, mà lại thấy nhựt báo khen quá, nên tối lại nàng rửa mặt, gỡ đầu, thay quần, đổi áo, tính đi coi hát bóng một bữa mà chơi. Nàng bước vô rạp hát thấy có người ta ngồi rải rác các hạng ước chừng năm sáu chục người. Nàng lựa hàng ghế trống rồi phăng phăng đi lại ngồi cái ghế đầu, đặng vãn hát đi ra cho dễ. Nàng Tố Nga mình mặc một cái áo tố đen phía trong lót màu bông hường lợt, dưới bận một cái quần lục trắng chơn mang một đôi giày nhung đen. Tuy tay có đeo một bộ cà rá hột xoàn, tai có đeo một đôi bông hột xoàn, và cổ cũng có đeo một sợi dây chuyền cũng nhận hột xoàn, song sự trang sức của nàng coi cũng tầm thường, chớ không có vẻ chưng diện chi hết. Chẳng hiểu vì cớ nào lúc nàng mới đi vô thì người ta lại chong mắt, day đầu lại mà ngó nàng, rồi chừng nàng kiếm chỗ ngồi yên, người ta lại cũng cứ ngó nàng hoài nữa. Có lẽ nàng thấy người ta ngó thì nàng e lệ, nên nàng lột cái khăn màu hột gà xuống mà bỏ trong lòng, rồi với tay lấy tờ chương trình hát bóng cầm mà coi. Cách chẳng bao lâu có hai người đàn bà đi vô, rồi xăm xăm lại hàng ghế của Tố Nga mà ngồi, người nhỏ chừng mười bảy mười tám tuổi, thì ngồi một bên Tố Nga, còn người lớn, tóc đã bạc hoa râm thì ngồi kế đó nữa. Tố Nga liếc mắt ngó người trẻ tuổi, mà người ấy cũng liếc mắt ngó nàng hai người ngó nhau rồi cười nhưng vì không quen với nhau, nên không chào hỏi chi hết. Hai người mới vô đó vừa ngồi yên chỗ, thì người trẻ tuổi nói với người kia rằng: “Mình ngồi hàng ghế nầy có gần một chút. Chớ chi mình vô sớm, mình mua giấy ngồi phía sau dễ coi hơn?” Người kia đáp nhỏ rằng: “Ngồi đây cũng được. Phía sau có Tây nhiều, khó lòng.” Tố Nga nghe người nhỏ kêu người lớn bằng dì, thì biết không phải là mẹ con. Nàng coi kỹ thấy người lớn mặc áo xuyến đen, quần lãnh đen tay đeo một chiếc huyền, mang một đôi dõn.[2]Người ấy trắng trẻo, mập mạp, tuy tóc đã điểm bạc mà da mặt còn chưa dùn. Còn người nhỏ mặc áo màu nguyệt bạch, quần lãnh đen, đầu choàng khăn lục trắng có thêu bìa, chơn mang giày thêu kim tuyến, tai đeo bông hột xoàn, cổ đeo một sợi dây chuyền nhỏ có nhận ba hột xoàn lớn tay trái đeo một chiếc cẩm thạch, tay mặt đeo một chiếc huyền[3] cẩn. Người dong dảy, không mập không ốm nhưng cườm tay no tròn, ngón tay suông đuột, bàn tay dịu nhiễu, da mặt không dồi phấn mà trắng trong, môi không thoa son mà ửng đỏ, răng nhỏ rức lại trong ngần, mắt hiền lương lại sáng rỡ. Tố Nga thấy người dung nhan thiệt là đẹp đẽ, muốn làm quen đặng hỏi thăm coi người ở đâu, song nàng chưa kiếm được chước mà làm quen, thì lại nghe rung chuông sửa soạn hát. Đèn trong rạp tắt hết, rồi nghe phía ngoài cửa máy quay lạch xạch. Chẳng bao lâu khởi sự coi hát. Người lớn ai cũng ngồi im lìm chống mắt mà coi, duy có sấp con nít la ó rồi lại vỗ tay vang rân. Tố Nga mắc coi, nên cái khăn rớt xuống đất nàng không hay. Người con gái ngồi một bên đó dòm thấy lật đật cúi xuống lượm giùm, rồi đưa cho nàng. Tố Nga cười và nói: “Cám ơn cô.” Tiếng nghe ngọt xớt. Hai người đều có ý muốn làm quen với nhau, lại cũng muốn thừa dịp ấy mà nói, ngặt vì bóng đương chớp, đèn còn tắt, liệu thế nói nhiều không tiện, nên làm lơ mà coi hát. Bóng chớp đến lúc nàng Fantine khốn khổ, phải cắt tóc nhổ răng mà bán đặng lấy tiền trả cho người lãnh nuôi con mình thì hai nàng đều cảm xúc nên ứa nước mắt một lượt. Thình lình hết lớp, họ vặn đèn khí bực lên sáng lòa. Hai nàng người nào cặp mắt cũng ướt rượt, người nào cũng sợ hổ thẹn, nên đồng thò tay vào túi móc khăn nhỏ ra mà lau nước mắt. Tố Nga thấy nàng ngồi một bên đó cũng lạc lõng như mình, thì nàng hết ái ngại nữa, nên nàng day qua má nói rằng: “Tuồng nầy hát coi động lòng quá cô há.” Nàng ấy liền chúm chím cười và đáp rằng: “Nãy giờ tôi khóc ngay. Tôi thấy người đàn bà mà bị khốn khổ quá như vậy tôi chịu không được. Tôi hay mủi lòng lắm, nên tôi ít muốn đi coi hát.” Tố Nga nghe mấy lời thật thà ấy rất hiệp với ý nàng nên nàng nói tiếp rằng: - Tôi cũng vậy. Tôi coi hát hễ tới mấy khúc người ngay mà bị hoạn nạn, thì tôi chảy nước mắt. Hổm nay tôi thấy nhựt báo khen tuồng nầy hay lắm, nên nữa nay tôi đi coi thử, té ra tuồng hay thiệt. - Tôi cũng vậy.Tại tôi thấy nhựt báo khen quá, nên tôi mới xin dì tôi dắt tôi đi coi đây. - Nhà cô ở đâu? - Tôi ở trong Chợ Lớn. - Dì đây là dì ruột của cô hay là dì sao? - Dì ruột tôi. Chị ruột của má tôi. Còn cô ở Sài Gòn hay là ở lục tỉnh lên chơi? - Tôi ở Sài Gòn. Tôi người gốc Trà Vinh, mới mua nhà về ở trên nầy chừng vài năm nay. - Thầy đổi về làm việc ở trên nầy hay sao? - Không. Ở nhà tôi làm việc Tòa án dưới Mỹ Tho. Vì thằng em tôi nó còn học trường Chasseloup, mà tôi muốn gần gũi nó, nên mới mua nhà mà ở trên nầy. - Thầy làm việc dưới Mỹ, sao cô lại ở trên nầy? Tố Nga nghe hỏi câu đó, thì nàng cúi mặt bộ coi buồn xo, song nàng gượng mà đáp rằng: - Vì tôi còn có một mình má tôi, nên tôi phải ở hủ hỉ với má tôi cho vui…Cô có chồng hay chưa? Chuyến nầy tới nàng mặc áo màu nguyệt bạch ấy nghe hỏi như vậy, có sắc hổ thẹn, nên cũng cúi mặt xuống và đáp nhỏ rằng: - Chưa. - Hai bác còn mạnh giỏi hết há? - Tía má tôi đều khuất hết. - Nếu vậy thì bây giờ cô ở với dì đây phải hôn? - Phải. - Cô năm nay được mấy tuổi? - Tôi mười bảy tuổi. - Té ra cô nhỏ hơn tôi ba tuổi. Hai nàng mới nói chuyện tới đó, kế họ tắt đèn hát tiếp nên phải nín thinh để coi hát. Từ đó về sau hễ hết chớp thì hai nàng nói chuyện với nhau, lúc thì luận về tuồng hát, lúc thì hỏi việc gia đình, tuy mới gặp một lần đầu, mà câu chuyện có hơi dan díu, chẳng khác nào như đã quen biết lâu rồi vậy. Gần mười một giờ rưỡi mới vãn hát. Tố Nga khuyên dì cháu nàng ở Chợ Lớn đó ngồi nán đợi họ ra bớt rồi mình sẽ ra sau, cho dễ. Khi đứng dậy đi ra Tố Nga mới nói với hai dì cháu rằng: “Về Chợ Lớn đường vắng quá, tôi sợ đi xe kéo không tiện.” Người lớn tuổi đáp rằng: “Dám đi xe kéo đâu. Để ra ngoài kiếm xe mui mướn đi.” Ra tới cửa rồi, Tố Nga từ giã, bèn nói với người con gái rằng: “Nhà tôi ở đường Thuận Kiều, số 112; tôi mời cô với dì bữa nào có dịp ra ngoài nầy ban ngày thì ghé nhà tôi chơi.” Nàng ấy cúi đầu và đáp rằng: “Cám ơn cô, để khi nào có dịp tôi sẽ ra thăm cô. Còn cô có vô Chợ Lớn chơi, tôi cũng xin cô ghé nhà tôi uống nước. Tôi ở đường Cây Mai, số 82.” Hai nàng cúi đầu chào nhau rồi lên xe kéo mà đi. Tố Nga về dọc đường, trong trí nàng thầm khen nàng ấy hoài, không biết nàng là con của ai mà dung nhan đẹp đẽ văn nói có duyên, tướng đi tướng đứng dịu dàng, cách ngó cách cười đằm thắm, thuở nay chưa gặp một nàng nào ngôn dung được vậy. Nàng nầy là con gái của ông Bang Siêu, tên nàng là Thái Cẩm Vân năm nay được 17 tuổi rồi mà chưa có chồng. Ông Bang Siêu từ Triều Châu ở bên Tàu qua Việt Nam hồi 22 tuổi. Ông buôn bán làm ăn khá lần rồi mới lập một tiệm trà tại đường Gia Long. Ông cưới một người vợ Việt Nam ở phía dưới Cần Giuộc, cách ít năm mới sanh nàng Cẩm Vân. Ông buôn bán ngày càng thêm khá. Vả ông là người chơn chất ngay thẳng bởi vậy người một nước đều tin cậy ông, nên có một năm nọ đều hiệp nhau mà cử ông làm Ban Trưởng. Khi Cẩm Vân được 9 tuổi, ông Bang Siêu để tiệm trà cho vợ coi, đặng ông về Tàu mà thăm tổ quán. Ai cũng tưởng ông về Tàu ít tháng rồi ông trở qua, nào dè ông đi mới có một tháng rưỡi thì có thơ bên Tàu gởi qua nói ông chết. Vợ ông Bang Siêu lấy làm bối rối, phần thì tiệm lớn mua bán bạc muôn, phần thì bà không biết chữ Tàu, bà không xem sổ sách được. Bà sợ tài phú gian lận, bởi vậy bà sang tiệm cho người khác, lấy ba muôn rưỡi đồng bạc bà mua năm căn phố sầu tại đường Cây mai, giá hai muôn tám còn bảy ngàn bà để làm vốn mà nuôi con. Bà dọn ở căn đầu, còn lại bốn căn bà cho mướn, mỗi tháng góp tiền phố được vài trăm đồng. Qua năm sau bà cho Cẩm Vân vào nhà trắng[4] Chợ Lớn mà học, Cẩm Vân sẳn khiếu thông minh, lại nhờ tánh cần cố, nên nàng mới học 5 năm đã biết nói tiếng Tây, biết viết chữ Tây đủ dùng, mà nàng lại biết thêu thùa và may vá khéo lắm. Nàng tính học luôn cho đến 20 tuổi mới thôi chẳng dè khi nàng mới được 15 tuổi, mẹ nàng tỵ trần nhà cửa không ai coi bởi vậy nàng phải thôi học đặng về nhà mà cai quản sự nghiệp. Nàng không có bà con đông: bên nội thì có vài người chú họ mà thôi, chớ không có bà con ruột; còn bên ngoại thì có một người dì, chồng chết không có con, ở dưới Rạch Kiến chớ không còn ai nữa. Vả Cẩm Vân là con khách Triều Châu nhưng vì cha chết hồi nàng còn nhỏ dại, rồi từ ấy về sau ở nhà thì gần gũi với mẹ Việt Nam, vô trường thì bầu bạn với con gái Việt Nam, nàng tập tánh nết lễ nghĩa theo con người Việt Nam bởi vậy nếu ai không rõ cội rễ của nàng thì chẳng bao giờ mà nghi nàng là con khách trú. Khi mẹ nàng khuất rồi nàng liệu ở một mình không tiện, nên năn nỉ với dì, là cô ba Hài, về ở với nàng. Cô ba Hài cũng có vốn năm bảy trăm, chớ không phải nghèo cực gì, nhưng vì bà không chồng, không con, ở một mình quạnh hiu, lại thấy cháu còn nhỏ dại không lỡ không bảo bọc nó, bởi vậy bà mới bán nhà về ở Cẩm Vân. Cẩm Vân cư tang báo hiếu cho mẹ thiệt là chính chắn. Trọn hai năm nàng xẩn bẩn ở trong nhà mà hủ hỉ với dì chẳng khi nào nàng ló ra đường, họ khen hát Quảng đông hay nàng làm lơ mà họ đồn lễ Khổng Tử lớn nàng cũng không kể. Nàng mới mãn tang mẹ được vài tháng mà đã có hai người mái chính[5] với một người con ông Bang cậy mai nói mà cưới nàng. Trong ba chỗ ấy nàng không ưng chỗ nào hết. Hai người chú một họ đến khuyên lơn nàng hết sức, mà nàng cũng không chịu. Họ giận họ rầy và hỏi vì cớ nào mà mấy chỗ đều giàu có xứng đáng mà nàng lại chê hết thảy, thì nàng nói rằng, nàng còn nhỏ, nên chưa muốn lấy chồng, chớ nàng không nói duyên cớ nào khác. Bữa nay nàng đọc nhựt báo thấy có lời khen rạp hát Casino ngoài Sài Gòn hát tuồng mới hay lắm nàng mời dì đi coi thử nên nàng mới gặp nàng Tố Nga mà làm quen đó. Còn nàng Tố Nga là con bà Tổng Hiền, gốc ở Láng Thé, thuộc tỉnh Trà Vinh. Không ai biết ông Tổng Hiền sanh đẻ tại xứ nào. Theo lời mấy ông già bà cả nói tại, thì lúc Hiền còn trai tráng anh ta đến Láng Thé kiếm chỗ làm ăn. Anh ta vào ở đợ với cựu Hương cả Khoan. Hương cả Khoan có chừng vài chục mẫu ruộng mà thôi, chớ không giàu chi lắm.Vợ ông chết sớm, để lại cho ông một đứa con gái tên là Thị Lài. Lúc ông mướn tên Hiền ở thì Thị Lài được 21 tuổi rồi mà chưa có chồng. Tuy Hiền nghèo đi ở đợ, nhưng mà anh ta biết chữ nho chút ít, bộ tướng mạnh dạn, văn nói khôn lanh, mặt mày sáng láng. Anh ta ở được có ít tháng thì đã tư tình với con gái ông chủ nhà, Hương cả Khoan sợ làm rầy ra càng thêm xấu hổ, bởi vậy gả phứt Thị Lài cho tên Hiền, đặng trong khỏi oán thù, ngoài khỏi dị nghị. Hiền là tay khôn ngoan, khi Hương cả Khoan chết rồi, anh ta kế nghiệp thì anh ta tung hoành, quyết dùng gia tài chút đỉnh của cha vợ để lại đó mà làm một sự nghiệp lớn ở trong tỉnh Trà Vinh. Anh ta nghĩ nếu không có quyền thế thì khó mà làm giàu được. Anh ta mới ra làm làng, ban đầu làm Hương hào, xã trưởng, lần lần mò lên chức Hương quản Hương sư. Anh ta dùng cái quyền Hương chức mà hung hiếp lường gạt những Thổ dân khờ khạo ở trong làng, nhờ làm như vậy nên làm tương chức trong mười năm thì ruộng đất đã tăng số lên tới một trăm mẫu. Anh ta tại gặp dịp may, lúc ấy trong tổng khuyết chức Phó Tổng. Anh ta ra tranh cử, nhờ trong nhà có tiền, hể nói đâu người ta nghe đó bởi vậy cho nên lo có một tháng, tốn có một ngàn đồng, mà được làm thầy Phó. Anh ta làm Phó Tổng không có quyền hành gì bao nhiêu, nhưng mà anh ta là người thấy xa, nên không lấy sự đó làm buồn nghĩ vì ông Cai Tổng đã già rồi nếu mình biết nhẫn nhịn trong một ít năm thì cái quyền cai Tổng không lọt khỏi tay mình được. Thiệt quả ông Hiền làm phó Tổng mới ba năm, kế Cai Tổng qua đời, ông ta được cấp bằng làm Cai Tổng. Quyền thế đã sẵn rồi, oai nghi lập thêm không khó gì, ông Hiền mới dùng quyền thế, lập oai nghi mà sửa trị dân làng trong tổng. Cách ông sửa trị khác hơn người ta hết thảy; ông sửa là sửa bộ điền bộ địa; ông trị là trị thổ tá canh chớ không phải ông sửa tục xấu thói hèn, không phải ông trị côn đồ cướp đản như một hai ông Cai Tổng khác. Ông sửa trị có mấy năm mà ruộng đất của dân Thổ mười phần đã sang tên ông đứng bộ hết bảy tám phần. Ông Tổng Hiền có hai đứa con: đứa con gái lớn tên là Lý Tố Nga, đứa con trai nhỏ tên là Lý Chánh Tâm. Tuy ông làm quan ông ít thương dân, nhưng ông làm cha thì ông thương con nhiều lắm. Đứa con gái ông cho lên Nữ học đường mà học, còn đứa con trai thì ông gởi nhà người quen đặng đi học trường tỉnh Trà Vinh. Tố Nga học tới 16 tuổi, có bằng sơ học rồi ông mới đem về tính gả lấy chồng. Cách ba năm trước ông xin phép đi Sài Gòn hầu Toà Phúc Án về vụ ông kiện giành 120 mẫu đất với tên Thạch Gồng. Khi ông về đến nhà thì khí sắc ông hân hoan lắm. Ông nói cho vợ con hay rằng, ông đã đặng kiện rồi, mà ông đã hứa gả Tố Nga cho con trai ông Cai Tổng Hỉ ở Mỹ Tho, chàng ấy tên là Lê Phùng Xuân, đương làm thông ngôn Toà Phúc Án trên Sài Gòn. Mời các bạn đón đọc Kẻ Làm Người Chịu của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bức Thư Tình Cuối - Jojo Moyes
Anh yêu em – ngay cả khi trên trái đất này không có anh, không có tình yêu hay thậm chí không tồn tại cuộc sống này – anh vẫn yêu em. Thư Zelda gửi ScottFitzgerald Đó là vào năm 2010. Khi Jennifer Stirling tỉnh dậy trong bệnh viện, cô không thể nhớ gì - kể cả tai nạn xe hơi trước đó đã khiến cô bất tỉnh, kể cả người chồng và thậm chí bản thân cô. Cô cảm thấy mình như người xa lạ trong chính cuộc sống của mình cho đến khi cô bắt gặp lá thư tình, ký tên là B, rủ cô bỏ chồng theo anh ta. Nhiều năm sau, năm 2003, nhà báo Ellie phát hiện ra một lá thư tương tự trong xấp hồ sơ bị bỏ quên của mình. Cô bị cuốn hút bởi câu chuyện và hy vọng câu chuyện đó sẽ giúp ích cho sự nghiệp của cô. Có lẽ nếu những người yêu nhau này có kết cục hạnh phúc, cô sẽ tìm ra được một kết cục hạnh phúc cho chính cuộc đời cô. Ellie tìm kiếm mọi thứ để viết lại và giúp cô nhìn ra được sự thật trong mối quan hệ tình cảm của cô. Trong tác phẩm này, câu chuyện tình song đôi được tác giả lồng ghép khéo léo, với nhiều chi tiết hấp dẫn, lãng mạn, và đôi lúc nóng bỏng. Một ngày vào năm 1963, Jennifer Stirling tỉnh dậy trong bệnh viện, cô không thể nhớ gì - kể cả tai nạn xe hơi trước đó đã khiến cô bất tỉnh, kể cả người chồng và thậm chí bản thân cô. Cô cảm thấy mình như người xa lạ trong chính cuộc sống của mình cho đến khi cô bắt gặp lá thư tình, ký tên là B, rủ cô bỏ chồng theo anh ta. Kể từ đó, cô phải sống trong sự giằng xé nội tâm, cũng như luôn muốn tìm kiếm người kí tên B đó là ai. Song song đó là phải luôn đối phó với người chồng, một doanh nhân thành đạt, chuyên quyền và dường như ông biết về người tên B của cô… Nhiều năm sau, năm 2003, nhà báo Ellie phát hiện ra một lá thư tương tự trong xấp hồ sơ bị bỏ quên của mình. Cô bị cuốn hút bởi câu chuyện một phần là vì cô tìm thấy mình giống như nhân vật nữ trong bức thư - Jennifer và một phần hy vọng câu chuyện đó sẽ giúp sự nghiệp của cô thăng hoa. Cô nghĩ rằng có lẽ nếu Jennifer và “B” có kết cục hạnh phúc, cô sẽ tìm ra được một kết cục hạnh phúc cho chính mình. Do đó, Ellie tìm kiếm mọi thứ để viết lại câu chuyện tình yêu đó. Có thể nói, Bức thư tình cuối là câu chuyện tình yêu đẹp, sâu sắc, cuốn hút với cái kết bất ngờ. Tác giả Jojo Moyes:  Cô sinh năm 1969. Năm1992, cô nhận được học bổng cao học báo chí của tờ The Independent để theo học tại City University. Năm 1994, cô làm việc tại Hồng Kông cho tờ Sunday Morning Post. Jojo Moyes làm cho The Independent được mười năm, từ trợ lý biên tập tin tức đến phóng viên mảng truyền thông và nghệ thuật. Từ năm 2002, cô theo đuổi nghề viết tiểu thuyết, với quyển đầu tiên Sheltering Rain. Với tác phẩm Bức thư tình cuối, cô được đông đảo bạn đọc biết đến và đã đoạt giải tiểu thuyết lãng mạn năm 2011 tại Anh. Mời các bạn đón đọc Bức Thư Tình Cuối của tác giả Jojo Moyes.
Hồ Sơ Một Tử Tù - Nguyễn Đình Tú
Đọc xong cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Đình Tú, tôi nghĩ đến một khái niệm còn khá mới mẻ với nền văn học nước ta, đó là loại Tiểu thuyết tội phạm học. Khuất Quang Thụy Cũng phải nói ngay rằng đây cũng chỉ là một khái niệm tương đối mà chúng tôi nghĩ tới trong khi tìm cách tiếp cận cuốn tiểu thuyết đầu tay này của một tác giả trẻ. Nếu bạn không đồng ý với khái niệm này thì cũng chả sao, bạn có thể có một cách hình dung khác để tiếp cận tác phẩm kể trên và có thể cũng sẽ có được những kiến giải lý thú Trở lại cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Nội dung của cuốn sách dường như chả có gì mới. Câu chuyện xoay quanh một tên tội phạm bị khép án tử hình với một quá trình diễn biến khá phức tạp để biến một thanh niên nhà quê hiền lành chất phác trở thành một tên giết người nguy hiểm... Nhưng đọc xong cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, ta không có được cảm giác kiểu như "thế là đã rõ", "thế là xong việc", và rồi chúng ta có thể yên tâm bỏ cuốn sách xuống để chìm vào giấc ngủ hay thanh thản bước vào những công việc thường nhật mà không còn bất kỳ sự vương vấn nào về số phận của nhân vật hay về những vấn đề mà cuốn sách đã xới lên. Sự kiện cuối cùng trong cuốn sách của Nguyễn Đình Tú đặt dấu chấm hết cho số phận của nhân vật chính bằng đoạn đầu đài. Tất cả dường như rất minh bạch, rất đúng trình tự pháp luật. Nhưng không hiểu sao, đọc đến đây, chúng ta vẫn có cảm giác rằng cái chết chưa phải là sự trả giá cuối cùng cho những tội ác mà kẻ tử tù và những kẻ tòng phạm của hắn ta đã gây ra với đời. Vụ án chưa phải là đã khép lại. Vì còn có những câu hỏi quan trọng khác chưa được trả lời. Trong đó có cả câu hỏi: những ai, cái gì, hoàn cảnh nào đã xô đẩy một con người vốn có "tính bản thiện" trở thành một kẻ giết người? Khi đưa kẻ tử tội lên đoạn đầu đài, trong mỗi con người chúng ta đều xuất hiện một cảm giác giống như cảm giác của nhân vật Bằng, bạn học cũ của kẻ tử tội, nay lại là một luật sư bào chữa cho kẻ tội đồ, ấy là dường như mình cũng là kẻ có lỗi, có can dự vào quá trình trở thành kẻ tội phạm của bị cáo. Anh ta nhắc lại lời một ông thầy chung rất đáng kính của cả hai người: “Đáng tiếc, nhưng đáng tiếc hơn là tất cả chúng ta đều có lỗi mà không biết". Cái cảm giác gột rửa ấy xuất hiện khi đọc xong cuốn sách, chúng ta bỗng hiểu rằng, dường như kẻ bị đưa lên cọc xử bắn kia cũng là một nạn nhân mà mỗi chúng ta, ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đều có lỗi, đều tham gia xô đẩy hắn ta vào con đường tội lỗi để dẫn tới kết cục bi thảm này. Trong cuộc đời nhiều khi chúng ta vô tình gây ra tội ác, hoặc gieo những mầm mống tội ác mà không biết. Đến khi cáimầm ác ấy nảy cành, xanh lá gây hoạ cho đời thì chúng ta lại dửng dưng, coi như mình là kẻ ngoài cuộc vô can, thậm chí chúng ta lại nhân danh pháp luật và đạo đức để phán xử chính những tội ác mà chúng ta đã góp phần gieo mầm và nuôi dưỡng mà không hề hay biết? Có lẽ đây chính là điều khác biệt quan trọng nhất khiến cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú vượt qua khỏi sự thường tình của những cuốn "sách hình sự" "sách vụ án" và có giá trị như một cuốn tiểu thuyết tội phạm học rất đáng được chú ý. Là một cử nhân luật và cũng từng là một cán bộ pháp lý của quân đội một thời gian trước khi trở thành nhà văn, chắc chắn Nguyễn Đình Tú có kiến thức khá vững vàng về "tội phạm học". Nhưng khi khảo sát khái niệm này ở góc độ một nhà văn, Nguyễn Đình Tú đã có những ý tưởng mới mẻ sâu sắc hơn những dòng lý luận khô khan. Anh đã cố gắng thông qua ngôn ngữ và hệ thống hình tượng để lý giải quá trình hình thành nhân cách của một con người cũng như quá trình tha hoá một nhân cách. Anh cũng đã hiểu một cách cặn kẽ khái niệm của Max - Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội - nên đã đi tìm câu trả lời từ những nguyên nhân xã hội, từ môi trường sống để tìm cách lý giải vì sao con người có thể trở thành những kẻ tội phạm, để từ đó đi đến một định đề rằng, quá trình hình thành nhân cách của một con người là một quá trình xã hội, trong đó mỗi con người chỉ có thể hoàn thiện mình thông qua sự không ngừng vươn lên chiến thắng mọi hoàn cảnh, khắc phục những hạn chế của hoàn cảnh và những cái mà chúng ta vẫn thường gọi là sự trớ trêu của số phận. Phạm Bạch Đàn, nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết sinh ra và lớn lên tại một làng quê nghèo có một nghề truyền thống khá oái oăm là nghề khai thác đá. Cái nghề khai sơn phá thạch ấy tuy gian khổ thật, nhưng chắc chắn nó cũng nuôi sống nổi nhiều kiếp người và sẽ cứ tự nhiên nhi nhiên mà sống nếu không có những sự tác động của thời cuộc. Trong cái làng nhỏ bé ấy cũng có đủ thứ chuyện do thời thế đưa lại như cải cách ruộng đất với những nỗi oan sai làm đảo lộn thang giá trị đạo đức truyền thống, với cuộc kháng chiến chống Mỹ long trời lở đất và rồi với những cái sai, cái đúng trong những chính sách quản lý kinh tế, quản lý xã hội ở nông thôn. Trầm luân là vậy nhưng cái cậu bé đẻ rơi bên gốc cây bạch đàn ngày nào vẫn vượt qua được những hạn chế của hoàn cảnh và số phận để trở thành một học sinh giỏi, thi đỗ vào một trường đại học tại thủ đô. Số phận của Phạm Bạch Đàn đã bước sang một trang mới với những thách thức mới thoạt nhìn tưởng như không ác liệt, gian khổ như bao năm sống vật vã với luống cày và hòn đá ở quê hương, ăn đói mặc rách để cắp sách đến trường, nằm trong ổ rơm nhưng vẫn mơ tới một chân trời tươi đẹp. Những gì mà cậu sinh viên mới này nhìn thấy ở trường đại học hóa ra còn có nhiều điều kinh khủng hơn, đáng ngạc nhiên hơn những gì cậu từng nhìn thấy trong suốt cả quãng đời niên thiếu cộng lại? Tiện đây cũng xin nói ngay rằng người viết những dòng này cũng không khỏi ngạc nhiên và thán phục trước sự dũng cảm, chân thành của tác giả đã khiến những người đọc yếu bóng vía như tôi toát cả mồ hôi hột khi chỉ với vài chục trang sách, tác giả đã cho ta thấy sự băng hoại đến như thế nào của "nền văn hoá và đạo đức học đường" của xã hội ta. (Tôi rất mong đó chỉ là một sự thật đã được “tiểu thuyết hoá” và nó chỉ là sự thật của một thời điểm ngắn ngủi nào đó mà thôi). Thế là từ giảng đường trường đại học, chứ không phải từ đời sống lam lũ ở làng quê là nơi Phạm Bạch Đàn đi những bước đầu tiên tới đoạn đầu đài, anh đã bị đuổi khỏi trường đại học. Dĩ nhiên những lỗi lầm của Đàn cũng có căn nguyên từ quá khứ xa xôi, từ gốc gác xuất thân của anh, nhưng điều quan trọng nhất là bản thân anh cũng chưa đủ bản lĩnh để vượt qua những thử thách đó. Không phải ở vào thời buổi ấy, tất cả sinh viên có xuất thân từ những gia đình nông dân nghèo khổ đều hư hỏng cả. Tuy vậy, Đàn cũng đã quyết tâm làm lại từ đầu. Sau một năm vừa lao động vừa học tập, anh lại thi đỗ vào Đại học. Nhưng con đường làm lại của anh lại "vướng vào cơ chế", một quy chế vu vơ nào đó được đặt ra rằng những sinh viên đã bị đuổi học thì phải hai năm sau mới được thi để trở lại trường. Anh đã nhanh nhảu đoảng trong việc sửa chữa khuyết điểm! Nếu có được cơ hội thứ hai trở lại trường Đại học, số phận Đàn có thể đã khác đi chẳng? Chán nản, thất vọng, anh trở lại làng quê trong bối cảnh ở đó đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa cơ chế cũ và cái mới đang hình thành nhưng chưa thắng thế. Anh ủng hộ cái mới, nên anh càng thất vọng hơn. Anh vừa thương cho phận mình vừa thương cho làng xóm “Đói. Đói dài rạc. Đất ấy, ruộng ấy, màu mỡ thế, tươi tốt thế mà thóc cứ lép, sản cứ thấp, sống trên đất luá mà cứ thèm gạo, sống bên núi đá mà cứ nhà tranh vách đất, cứ lầy lội lép nhép trên con đường nhão nhoét, lồi lõm ổ trâu ổ gà. Đám trai làng bạn Đàn kéo nhau đi đào vàng...." Đàn cũng buông trôi theo số phận, nhập vào cái số đông đi tìm vận may nơi rừng thiêng nước độc, để mình rơi vào một môi trường hắc ám, đầy cạm bẫy, đó chính là bước trượt dài của nhân cách, của số phận, đó là cú hích đưa anh tới con đường tội lỗi và... tới đoạn đầu đài. Những gì diễn ra sau đó trên bãi vàng dường như đã là điều tất nhiên, tuy rằng anh cũng đã có đôi lần tìm cách chống lại hoàn cảnh, chống lại số phận, chống lại cả những cái ngẫu nhiên, chống lại cả sự trôi trượt để giữ lấy chút phẩm giá còn lại, nhưng rốt cuộc anh là người bại trận. Xung quanh hình tượng trung tâm kể trên, Nguyễn Đình Tú đã có những thành công nhất định khi xây dựng nên hàng loạt nhân vật phụ, tạo nên sự đa dạng về nhân cách trên cái nền chung của xã hội nước ta ở vào một giai đoạn nhập nhằng giữa quá khứ và hiện tại. Qua những nhân vật này, chúng ta có được sự hình dung về cuộc sống của những làng quê nghèo, của trường đại học và cả một phần xã hội của những con người sống mấp mé giữa lằn ranh đen - trắng, đó là thế giới của những kẻ tội phạm và những người có thể trở thành tội phạm bất kỳ lúc nào. Cái ranh giới giữa có tội và không có tội ở đây thật mỏng manh. Vả chăng, sự mong manh ấy đâu chỉ có ở cái xã hội thu nhỏ quanh những bưởng vàng? Khảo sát những mối quan hệ nhân quả trong cuốn sách của Nguyễn Đình Tú, chúng ta còn có thể chỉ ra nhiều kẻ tội phạm vô hình khác. Đó là kẻ tội phạm mắc những tội danh không được ghi trong những bộ luật thành văn, nhưng không phải vì thế mà sẽ không bị kết án, ít ra cũng là tại toà án lương tâm. Triết lý Nhân - Quả, Thiện - Ác của đạo Phật, tình thương Cơ đốc giáo và những quan niệm đạo đức truyền thống cũng đã được tác giả huy động để làm rõ thêm cái vùng còn mờ nhoè bất cập của những thứ lý luận khô khan, duy lý về luật pháp, về tội ác và sự trừng phạt và về nhiều thứ oái oăm, nhiêu khê do con người đặt ra để tự ràng buộc mình và ràng buộc đồng loại nữa Với những vấn đề rất nghiêm túc được đặt ra trong cuốn sách, Nguyễn Đình Tú đã chứng tỏ mình là một cây bút có trách nhiệm và có tham vọng. Tuy vậy, cũng có thể dễ dàng nhận thấy anh chưa đạt được nhiều lắm cho những mục tiêu nghệ thuật, nhất là nghệ thuật tiểu thuyết. Bố cục của cuốn sách chưa thật chặt chẽ, có chương còn rời rạc. Những đoạn trích dẫn hoặc thuật kể điển tích của Phật giáo, Ki tô giáo chưa nhuyễn và hơi tham lam. Ngoài nhân vật chính, những nhân vật có hình hài, có cá tính chưa nhiều. Có một số nhân vật xuất hiện có "tính thời vụ", được tác giả tung ra khi cần thiết và sau đó thì mất hút hoặc chỉ là những cái bóng mờ nhạt... Bù lại, Nguyễn Đình Tú đã thành công khi tạo ra được cho mình một cách tiếp cận hiện thực khá mới mẻ và một lối kể chuyện có sức cuốn hút. Ít nhất khi đọc cuốn sách này, chúng ta cũng bị lay động và buộc phải suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn, ít phiến diện hơn về một số vấn đề đặt ra trong cuộc sống hôm nay. Đó chính là sự khởi đầu tốt đối với một nhà tiểu thuyết. Và sau 8 năm ra đời, Hồ sơ một tử tù cũng đã khẳng định được sức sống riêng của nó với bốn lần tái bản, một lần làm phim, hai lần vinh danh giải thưởng lớn của Bộ Công an. 8 năm ấy Nguyễn Đình Tú cũng đã chứng tỏ khả năng tiểu thuyết của mình với một loạt tác phẩm như Bên dòng Sầu Diện, Nháp và mới đây nhất là Phiên bản. Đến tiểu thuyết Phiên bản, lại một lần nữa, khái niệm tiểu thuyết tội phạm học trở nên rõ ràng hơn trong tôi, nhưng đó sẽ là nội dung của một bài viết khác khi có dịp quay trở lại vấn đề này. Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Một Tử Tù của tác giả Nguyễn Đình Tú.
Phiên Bản - Nguyễn Đình Tú
"Phiên bản" là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Diệu, cô nữ sinh ngây thơ trong sáng, sinh ra trong một gia đình có người anh trai phạm tội, phải đi tù. Bí bức, gia đình cô, trừ bà nội, còn bố, mẹ và cô liều lĩnh thuê tầu vượt biển đi nước ngoài. Cuộc vượt biên trốn chạy và giải thoát không thành. Hơn một trăm con người trên chuyến tầu bị bọn cướp biển giết chết hết. May mắn, cô cùng một người đàn ông theo đạo và đứa cháu trai mới chín tháng tuổi của ông - sau này nó sẽ là một nhà nghiên cứu tội phạm học - thoát chết, sống sót trở về được đất liền. Trở lại cuộc sống bên người bà, Diệu gặp Hưng, một gã lưu manh, bạn tù của anh trai Diệu, rồi từng bước một, như một định mệnh, một tất yếu không sao cởi thoát được, cô dấn thân dần dần vào cuộc đời gió bụi giang hồ. Giang hồ gió bụi ngẫm ra vậy mà có nhiều cung bậc! Hạ đẳng nhất phải kể là loại đao búa côn đồ, gặp người là đánh, thấy của là cướp. Kế đó là lớp bất tri lý, coi thường công an, chính quyền, cả gan chống lại cả người thi hành công vụ, được đồng loài mệnh danh là những kẻ thích tự sát. Loại ba là loại ma xui quỷ khiến, chuyên dùng thuốc kích thích để gia cường “bản lĩnh” chém giết, hiếp đáp, cướp giật. Đại để là vậy! Chứ còn chi ly ra thì có thể phân thành nhiều loại nữa; chẳng hạn, loại chỉ chuyên kiếm tiền, loại chỉ thích ra oai, loại trộm cắp vặt, loại đi ăn cướp chỉ vì phẫn chí, loại bần cùng mà sinh đạo tặc, loại làm ẩu vì chứng rối loạn tâm thần, loại vì tình ái mà gây thù chuốc oán, loại manh động vì ăn phải bùa mê thuốc lú... Diệu lưu manh hoá theo quy luật nội tại, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, trong khi lương tâm vẫn le lói chút tiếc nuối và vài tia ánh sáng nhân phẩm. Vì thực tình là sau cuộc vượt biển không thành trở về, thoạt kỳ thuỷ cô mới chỉ là một cô bé bán thuốc lá lẻ ở bến xe bến tầu, rồi tiến thêm một bước nữa, thấy thiên hạ bao nhiêu đứa sống được bằng ăn cắp, trong khi mình cũng có đủ hai con mắt, hai bàn tay và cái đầu được học đến tận lớp chín mà chỉ trông chờ vào lờ lãi mấy điếu thuốc thì làm sao sống nổi, nhưng cũng mới chỉ là sa chân vào tội tiếp tay cho kẻ gian, nghĩa là mang hộ đồ ăn cắp của bọn chôm chỉa đi bán để ăn hoa hồng thôi. Bước đường tha hóa tiếp diễn ngay sau đó chẳng lâu la gì đối với một kẻ tay đã nhúng chàm, ngày đêm phiêu diêu trong những dục vọng tăm tối, trên mảnh đất nhan nhản những tay anh chị khét tiếng ranh ma quỷ quái hung ác bạo tàn. Rất nhanh thôi Diệu đã lên ngôi nữ chúa, một siêu sao trong giới giang hồ, lập nên một đế chế dọc ngang không còn biết sợ ai! Tập hợp xung quanh và có quan hệ dây mơ rễ má với nữ quái này là một lũ lĩ, những là Lân "Sói", Cộc "Ba Tai", Hưng "Mã", Tùng "Hê rô", Châu "Điên", Tuấn "Chợ"… tàn ác, bạo ngược có thừa, những thành tố bất hảo của một xã hội đen, một thế giới tội phạm! Thế giới tội phạm, một lát cắt của đời sống hiện thực! Của đời sống hiện thực! Xa lạ chăng chỉ là, ở nơi đây không có cái thường quy, cái phổ biến. Thống trị ở nơi đây là cái hỗn mang chi sơ, là những bản năng kinh thiên động địa, là cái ác độc, là thói tàn bạo thâm căn. Thế giới tội phạm! Một bước lùi của lịch sử nhân loại! Nhà văn không viết chỉ bằng cảm hứng. Ortega Y Gasset, tiểu thuyết gia Tây Ban Nha nói đại ý: Chiếc rìu của một tiều phu giỏi chẳng có nghĩa lý gì trên một sa mạc không cây cối. Muốn viết được một cái gì đó cho ra hồn, nhà văn phải có chất liệu và đừng tưởng chất liệu là cái vốn tự có, là nước ở cái giếng sâu không đáy, là vỉa quặng vô tận, thả sức đào bới. Tôi đã hơn một lần rất có cảm tình và thật sự là khâm phục năng lực hiểu biết thấu đáo cái lĩnh vực đời sống, cái đối tượng nghệ thuật mà cây bút Nguyễn Đình Tú, một triển vọng đầy hứa hẹn của văn xuôi hôm nay, đã cầy xới trong tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù và mới đây, trong cuốn sách có cái tên rất lạ tai là Nháp của anh. Tất nhiên là chàng sĩ quan - cử nhân Luật này có sẵn cái vốn liếng cơ bản về học thuật đã được trang bị của mình. Nhưng dẫu thế nào thì cái sự sống trực tiếp nhằm khám phá kỹ lưỡng vào chiều sâu bên trong cái thế giới kỳ quái này của nhà văn, vẫn là một nét nổi trội, nó khiến người đọc rơi vào trạng thái say mê với một niềm tin cậy chắc chắn là đã không bị lừa! Một cốt truyên hay! Trước nay tôi vẫn là kẻ bảo thủ, khi cho rằng, cốt truyện, với tổng số các tình tiết éo le, giàu kịch tính cùng các nhân vật có số phận độc đáo của nó, chính là cái khung thép cần có để làm chỗ dựa cho tất cả, là một nhu cầu, là cái khôn ngoan đặc biệt của tiểu thuyết, của truyện dài; vậy thì tội gì mà không tận dụng; huống hồ đây là một tiểu thuyết thuộc dòng hành động và tâm lý. Tất nhiên, cốt truyện hay của Phiên bản chỉ là một mặt mạnh và như một lẽ phải thông thường, đó cũng không phải là mặt chủ yếu nhất của cuốn tiểu thuyết này. Bởi vì, điều đáng kể hơn, sâu sắc hơn còn là, sau cái nhu cầu được nhìn thấy, được hình dung ra nhân vật trong diễn tiến của các sự kiện nối tiếp, người đọc tiểu thuyết còn cái khát khao là được lặn ngụp trong cái vùng còn đang vô cùng mung lung, bí ẩn, mơ hồ của suy tưởng. Tội phạm là vấn đề toàn cầu! Cái ác sinh ra từ khi có loài người, nhưng liệu có phải là nhân chi sơ tính bản ác và con người thì hoàn toàn bất lực, không thể triệt tiêu, không bao giờ chế ngự nổi cái ác, cái ác sẽ tồn tại mãi mãi, nó song hành cùng cái thiện? Tư duy truyền thống trước nay vẫn thường quy tội cho xã hội khi lý giải số phận của các tội phạm. Tám Bính trong Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng cũng không ở ngoại lệ. Nhưng còn những trường hợp khác? Chi tiết nhà văn Nguyễn viết chuyện một nữ tặc sinh ra và hoành hành ở chính mảnh đất quê hương, vùng không gian sinh tỏa của nhân vật Diệu trong Phiên bản là một ẩn dụ nghệ thuật, một điểm nhấn có dụng ý của nhà văn. “Đất này dữ, trai gái đều thành nghịch tặc cả”. Cùng với câu nói đã hơn một lần bà nội Diệu đay đi đay lại với Diệu, công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Chín Tháng có nhan đề Tội phạm học dưới giác độ địa văn hoá, phải chăng chính là chủ đích của nhà văn, anh muốn dùng pháp lý đồng thời với Kinh thánh - con người là phiên bảncủa Chúa - để giải minh vấn đề? Và nếu đúng là vậy thì sự kiện Diệu bắn chết Hưng ngay trên giường ngủ của mình ở đoạn kết của cuốn tiểu thuyết có thể coi là một cuộc tự chối bỏ của cái ác từ trong tiềm thức, cái ác tự huỷ hoại cái ác, một mệnh đề mang tính tường luận khá lý thú? Phiên bản là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Khúc được kể bằng ngôi Thị nhằm trần thuật những diễn biến sự kiện của nhân vật chính. Khúc được kể bằng ngôi Em là dòng chảy nội tâm của nhân vật chính. Và các khúc người kể đứng ở ngôi Ta có dáng dấp một cuộc hỏi cung, một cuộc vượt thoát để tìm về bản ngã. Chắc đó cũng sẽ là những thủ pháp tạo thêm hứng thú cho bạn đọc cuốn sách này.   Mời các bạn đón đọc Phiên Bản của tác giả Nguyễn Đình Tú.
Đèn Không Hắt Bóng - Watanabe Dzunichi
AudioBook Đèn Không Hắt Bóng Lâu lắm rồi mới tìm lại được cảm giác thích đọc truyện, mà lại là một cuốn tiểu thuyết dày, giấy đen thui, chữ mờ câm nữa chứ. Nhưng khi ngoài trời mưa rơi rả rích, nằm cuộn chăn trên giường để theo dõi từng bước chân của các nhân vật thì đúng là chẳng còn gì bằng. Y hệt cái cảm giác của những ngày còn nhỏ. Đã đóng trang cuối của cuốn truyện lại từ tối hôm qua nhưng tôi vẫn còn ám ảnh bởi đoạn cuối cùng. Hình ảnh Noriko đứng lặng lẽ, một mình trong phòng mổ, dưới ngọn đèn không hắt bóng, cô độc, lạnh lẽo. Cô chờ đợi Naôê xuất hiện như những ngày xưa. Mọi vật xung quanh cô đều không có gì thay đổi, cuộc sống cũng không có gì thay đổi, nó quen thuộc với cô đến mức cô có cảm tưởng rằng chỉ chốc lát nữa thôi, Naôê sẽ xuất hiện ngay lập tức mà thôi. Nhưng không, anh sẽ không bao giờ có thể mở cửa bước vào phòng mổ như mọi khi được nữa. Giờ đây anh đã yên nghỉ thanh thản vĩnh viễn dưới lòng hồ Sikôtsu, không còn đau đớn, không còn dằn vặt, không có mưu toan, không còn thủ đoạn. Cô không thể hiểu nổi tại sao Naôê không thể xuất hiện, căn hộ của anh vẫn còn kia mà, cái quán café cô và anh hay ngồi vẫn còn, cái bàn quen thuộc vẫn y như ngày nào, ngay cả phòng mổ, cái giường phẫu thuật, chùm đèn mổ, vẫn chẳng có gì thay đổi, tại sao anh không thể xuất hiện lại, ngay trước mặt cô trong lúc này đây. Cảm giác cô đơn đến mức rợn người, cô đơn khủng khiếp. Rồi đây cô sẽ sống thế nào khi không có anh bên cạnh, cô sống vì anh, hạnh phúc vì anh, tất cả đều dành cho anh kia mà, không có anh, rồi thì cuộc đời cô sẽ ra sao? Có nhiều người nói rằng tình yêu của Noriko đối với Naôê là một thứ tình yêu cam chịu, rằng cô không đáng phải làm như vậy, cô nhẫn nhục một cách bất bình thường. Cô mù quáng, cô dại dột, cô khờ khạo. Nhưng tôi lại thấy đó là một tình yêu đẹp. Một thứ tình yêu hiến dâng, tình yêu say đắm, tình yêu cuồng nhiệt, yêu mà không đòi hỏi lại bất cứ một điều gì, cô chỉ biết rằng cô yêu anh, như vậy là đủ. Một người phụ nữ như vậy đáng để yêu lắm chứ. Nhưng, ngược lại, Naôê có yêu Noriko không? Hay đó chỉ là một sự thương hại, một sự hối hận vào lúc cuối đời. Anh muốn đền bù cho Noriko vì anh đã làm khổ cô quá nhiều? Tôi không tin điều đó. Tôi nhìn thấy ẩn sau cái vẻ lạnh lùng, băng giá, bất cần đời và bộ mặt ác quỷ của vị bác sĩ ngoại khoa này là cả một tấm lòng. Có lẽ nó bị căn bệnh ác tính mà anh mắc phải che lấp đi mất, nó bị sự từng trải, những thăng trầm mà anh gặp phải trong cuộc sống che khuất đi mất. Những sóng gió của cuộc đời là đánh tan hết những lý tưởng sống, những hoài bão của anh và trao lại cho anh một đôi mắt biết nhìn xoáy sâu vào tận bản chất của mọi vấn đề. Nhưng “Đèn không hắt bóng” không chỉ có tình yêu giữa Noriko và Naôê. Tôi thích “Đèn không hắt bóng” vì còn nhiều điều khác nữa. Watanabe Dzunichi (tác giả) không chỉ là nhà văn mà ông còn là một tiến sĩ y khoa nữa. Có lẽ chính vì điều đó mà ông đã xây dựng được một hình tượng bác sĩ Naôê rất thật. Có nhiều người khó chịu vì hình tượng này, họ cho rằng Naôê không đáng được tôn vinh vì ông lấy lý do bệnh tật của mình mà chà đạp lên thân phận người phụ nữ v.v… Hơi buồn cười cho những suy nghĩ đó. Naôê không phải là một samurai, cũng chẳng phải là một vĩ nhân, anh chỉ là một bác sĩ bình thường như bao bác sĩ khác, có khác chăng là anh có tài hoa, kinh nghiệm, kiến thức. Cũng phải thôi, anh là phó giáo sư của trường ĐH Y mà. Mà đã là một người bình thường thì những hành động của anh trong hoàn cảnh đó hoàn toàn có thể hiểu được, những hành động rất người, rất thật. Không chỉ có Naôê, tôi còn nhìn thấy một Kobasi tràn đầy lý tưởng sống nhưng cũng vô cùng ngờ nghệch, một Yutaro thực dụng, và cả những bệnh nhân nữa, ông già Isikura bị K dạ dày di căn xương đã đến giai đoạn cuối mà cứ giữ vững niềm tin là mình đã khỏi bệnh, sẽ còn sống vui sống khỏe rất lâu sau đó nữa, hai vợ chồng cụ Uênô và bà Chiyô đã già lắm rồi nhưng lại nghèo, không có con cháu, chỉ có cụ bà lụm cụm chăm sóc cụ ông cho đến chết, cụ ông không đủ tiền truyền máu để tiếp tục sống nhưng sau khi ông mất, cụ bà vẫn đi lùng khắp nơi với số tiền ít ỏi của mình mua cho bằng được vài món quà nho nhỏ biếu bác sĩ để cảm ơn. Tôi cảm nhận được cái cảm giác nghẹn ngào của Kobasi khi buộc phải nhận gói quà đó. Cái cảm giác của người thầy thuốc khi thấy mình bất lực trước sức mạnh của tử thần, bất lực trước sự thật phũ phàng của cuộc sống. Tất cả những nhân vật ấy, tôi thấy rất quen, tôi có cảm giác tôi đã gặp họ ở đâu đó trong bệnh viện rồi. Họ là những mảnh ghép rời rạc, những nét chấm phá của tác giả để cố gắng vẽ nên một bức tranh trung thực nhất của ngành Y. Trong bức tranh ấy, không có những thứ giá trị “Y Đức” hão huyền được đề cao, tâng bốc, không có những hành động cao thượng, không có những câu chuyện cổ tích, không có anh hùng, không có hiệp sĩ, cũng chẳng có vĩ nhân. Chỉ có một sự thật, một sự thật trần trụi như thân thể con người ta dưới ngọn đèn không hắt bóng của phòng mổ vậy. Bạn có thể thấy hình ảnh của bệnh viện Oriental ở đâu đó trong bất cứ bệnh viện nào mà bạn có dịp ghé qua. Câu chuyện còn thú vị vì những xung đột, những mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa lý tưởng của anh chàng bác sĩ mới ra trường Kobasi với sự từng trải của bác sĩ Naôê. Có đôi khi tôi cảm thấy không ưa anh chàng Kobasi này, nhưng cũng có lúc anh làm tôi bật cười vì đôi khi tôi bắt gặp hình ảnh của chính tôi trong đó. Mâu thuẫn giữa quan niệm về “Y Đức” (đạo đức trong nghề Y) và đạo đức theo quan niệm thông thường. Cách giải quyết những mâu thuẫn trên của Naôê hoàn toàn hợp lý. Ít nhất là hợp lý đối với bản thân tôi. Chắc cũng phải còn lâu lắm tôi mới đủ nội lực để có thể giải quyết được như Naôê. Một câu chuyện hay, hoàn toàn xứng đáng với 1 đêm thức trắng như đêm qua. Mời các bạn đón đọc Đèn Không Hắt Bóng của tác giả Watanabe Dzunichi.