Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hà Nội Lầm Than

"Tác giả Trọng Lang cũng là cây bút viết phóng sự sớm và chuyên nhất với thể văn này trong một thời gian dài. Các tác phẩm chính của Trọng Lang có Trong làng chạy, Đời bí mật của sư, vãi, Gà chọi (1935), Đồng bóng (1935-1936), Hà Nội lầm than (1937), Làm dân (1938), Làm tiền (1939); và sau này còn có thêm Thầy “lang”, Vợ lẽ nàng hầu, Những đứa trẻ (1941-1944)... Các phóng sự, ghi chép của Trọng Lang in khá rõ phong cách điều tra, kể chuyện, khai thác tư liệu thực tế. Nhà văn đã mở rộng diện đề tài, bao quát cả những khía cạnh đời sống tinh thần, phong tục tập quán và thực trạng những lối sống mới đang nảy sinh. Ở đây có cả thế giới muôn màu vẻ của bọn trộm cắp (Trong làng chạy), đời sống nhếch nhác cùng cực nơi thị thành (Hà Nội lầm than, Làm tiền) và muôn mặt những tệ nạn sau luỹ tre làng (Làm dân, Xôi thịt)... Nhiều trang viết thực sự sinh động, phô bày được những góc khuất tối của bọn người trộm cắp, đồng cốt, gái làm tiền, tệ nạn thuốc phiện... Không chỉ phản ánh và bộc lộ thái độ trước các vấn đề xã hội mà Trọng Lang còn tỏ bày khuynh hướng tư tưởng, chỉ ra những nỗi cơ cực, đau xót của lớp người “làm dân” dưới đáy xã hội. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan từng khái quát ý nghĩa sáng tác của Trọng Lang: “Trong số các nhà văn viết phóng sự gần đây, Trọng Lang có óc phê bình hơn cả. Văn ông đanh thép và sắc cạnh, chuyên về tả cảnh nhiều hơn tả tình... Muốn hiểu tâm hồn những hạng dân quê đã bị “lây” ít nhiều thói tỉnh thành, phải đọc những phóng sự của Trọng Lang; nhưng muốn hiểu tâm hồn những người dân quê còn đặc quê mùa, cần phải đọc những tập phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của Ngô Tất Tố”. (Nguyễn Hữu Sơn) "Người ta có khi khoe rằng đã đi hát cô đầu, và biết nhảy đầm. Nhưng, tôi quyết rằng không ai dám nhận đã có đi vào..."nhà thổ", dù chỉ có một lần nhỏ thôi, trong đời mình... Tôi đã đàng hoàng bước vào nhà thổ...." Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt. Một góc nhìn riêng Hà Nội lầm than (1938)1 có thể coi là thiên phóng sự đặc sắc và được nhắc đến nhiều nhất của Trọng Lang và cho đến hôm nay, sẽ vẫn nằm trong số những diễn ngôn đáng chú ý nhất về mảnh đất này ở giai đoạn nó bị/được bao trùm không khí Âu hóa đa sắc thái. Hà Nội lầm than là Hà Nội của giai tầng dưới đáy, của những hạng người và hạng nghề nghiệp từng bị đặt trong sự dè bỉu, coi thường của đám đông xã hội. Trong vai một tay chơi có máu điều tra, Trọng Lang đã lần lượt chứng kiến và tái dựng nguyên trạng tình cảnh của những phụ nữ “nô lệ tạm thời” tại các quán bar, tiệm nhảy, nhà thổ…, nơi lui tới thường xuyên của tầng lớp giàu có và ưa thích thú vui xác thịt. Những nhân vật cụ thể được tiếp cận; các mánh khóe buôn da bán thịt được phơi bày; thói thực dụng tiền bạc được liệt kê; những ngóc ngách thân phận được chi tiết tường tận; những tàn tạ, nhếch nhác nhân hình được đặc tả…, tất cả, như vết chàm vô phương cứu chữa, đã là bằng cứ thuyết phục cho đời sống đô thị ở khía cạnh thị trường hóa, hàng hóa hóa len vào mọi nơi chốn, mọi mối quan hệ. Cố gắng giữ điềm tĩnh nhưng không ít lần, Trọng Lang đã phải thừa nhận sự bất lực trong việc miêu tả “những nỗi thống khổ ê chề của một hạng nô lệ cho xác thịt”, phải gay gắt mỉa mai thay vì cảm thương những nhà thổ “ô uế cực kì, một chỗ để chứng rằng tâm hồn, xác thịt của một đám đàn bà trụy lạc đã thối nát đến bực nào”, hay đám “nhà thổ đực” – “một cái nhục rất đau đớn cho người ‘có râu’”… Trong khi đẩy cao cảm giác bi phẫn, Trọng Lang đã dừng lại rất lâu ở sự phi lí, ngang trái của những biến đổi văn hóa (chẳng hạn, cô đầu khi xưa là “một cái thú nên thơ” nhưng giờ chỉ là trò mua vui giả dối), những tai ương, bệnh tật, khổ ải đổ xuống bất kì ai trong chốn ăn chơi và sau cùng, những thực tế khó lường của nếp sinh hoạt tiểu nông đang bị tha hóa khi xuất hiện “hạng ăn mày không đói, không rách, có khi sang trọng hơn người viết bài này, có tên là ‘tụi secours’, đi ăn xin nói bằng tiếng Pháp để lấy tiền bao gái và hút thuốc phiện”. Không chịu im tiếng, người quan sát-tác giả đã tham gia vào các màn đối thoại sinh động, đã khéo léo huy động các tiếng lóng, “từ chuyên môn” và sắc sảo nhất là những so sánh tạt ngang để khóa chặt đối tượng trong không gian tương ứng (“Như chim sơn ca, buồn bã, với tiếng gọi của rừng núi rộng, các cô sống theo tiếng gọi của đàn tâm có trăm ngàn điệu”; “Nếu tất cả những nhà thổ có thể ví được là những miếng thịt trâu ngâm nước, thì ả này là một miếng bạc nhạc, bụng nhụng mà người đồ tể thường cắt vất đi cho chó ăn, và đã rữa ra rồi…”; “Ông khách đó là một mẩu người tủn hoẳn, vừa gầy vừa xanh, quần áo xốc xếch, ngực bó cao, ống quần hẹp”…). Đằng sau các thủ pháp viết lách linh hoạt, Hà Nội lầm than có nhiều câu chuyện “có thể làm cho mặt trăng u ám đi được” vì mức độ tê tái, trắng phớ của nó. Hà Nội lầm than đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường (1943) của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt, bắt đầu từ tiểu sử trở đi. Nhưng cần thiết nhớ rằng, Vũ Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại, bằng khả năng chọn lọc nhanh nhạy của mình, đã giới thiệu Trọng Lang thật nồng nhiệt: “Trong số các nhà văn viết phóng sự gần đây, Trọng Lang có óc phê bình hơn cả. Văn ông đanh thép và sắc cạnh, chuyên về tả cảnh nhiều hơn tả tình”. Tiếng kêu thương Hà Nội lầm than, vào năm 1938, quả thật, đã khía rất sâu vào một trong những thực tế đang trương phình ở các đô thị thuộc địa: nạn mua bán dâm, sự phát triển thiếu kiểm soát của hệ thống nhà thổ, các địa điểm kinh doanh tình dục trá hình. Báo chí thời ấy đã không bỏ qua thực tế này, và theo nhiều cách khác nhau, lần lượt lên tiếng như một nỗ lực khảo tả kĩ càng hơn về vị thế người phụ nữ. Không phải ngẫu nhiên mà Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Phụ nữ tân tiến, Đàn bà mới,… là những tờ báo xông xáo theo đuổi vấn đề mại dâm và hầu hết đều coi đây là một vấn nạn xã hội cần bài trừ. Tờ Trung Bắc chủ nhật ra ngày 27/9/1942 cho biết năm 1938 có tới 216 nhà hát, gần 2.000 cô đầu ở vùng ngoại ô Hà Nội và nạn hoa liễu do các cô đầu gây ra lan nhanh đến mức không thể ngăn chặn. Cô đầu hay rộng hơn, gái mại dâm, là hình ảnh trung tâm của sự khó khăn, bế tắc, mâu thuẫn mà phụ nữ ở các đô thị rất dễ mắc phải bởi những cạm bẫy sinh kế liên tục bủa vây, trong khi khoảng cách giàu nghèo và địa vị hoặc sự nới lỏng đạo đức ngày một nhiều hơn. Trong thiên phóng sự của mình, Trọng Lang không hoàn toàn đứng về phía bênh vực những cô đầu, gái nhảy, tầng lớp xét cho cùng là bị bóc lột, bị gạt ra rìa dù ông “đàng hoàng bước vào nhà thổ, với ngòi bút và lòng thương”. Về cơ bản, ông phê phán và liên tục chỉ ra thảm trạng bi đát mà họ đang chịu đựng. Với ông, nạn nhân cũng đồng thời là kẻ chủ ý chuốc lấy đau khổ vì đã tự mình lựa chọn một đời sống như vậy. Vì thế, nữ giới trong Hà Nội lầm than không đem lại thiện cảm nhan sắc, tính cách hay những nỗi niềm trắc ẩn số phận. Thái độ này không có nghĩa ông vô can với tha nhân mà trái lại, muốn tỉnh táo ghi chép, phân tích những tiếp nhận thiếu phản kháng từ lối sống chú mục hưởng lạc tai hại trong một đô thị trên đà hiện đại hóa như Hà Nội. Tính chất lưỡng phân của sợi dây đạo đức, vừa căm giận, khinh bỉ vừa xót xa, cảm thông đối với nghề mại dâm, trong trường hợp này, đã không thắt chặt được các ngả rẽ văn hóa của thị dân, nơi nhu cầu thuận mua vừa bán là hiển nhiên công khai. Trọng Lang kết thúc thiên phóng sự của mình trong sự vỡ lẽ rằng, chẳng có một giọt nước cam lồ nào đủ tưới hàng vạn người lầm than, còn bản thân thì lại thêm đau đớn. Khả năng dấn thân của một nhà văn, dù quyết liệt đến đâu, rút cuộc, cũng vẫn chỉ là “tiếng kêu thương”, hi vọng xã hội và chính thể thời điểm đó lắng nghe và thấu tỏ hơn mà thôi. Đọc Hà Nội lầm than để, bên cạnh những mĩ từ thanh lịch, hào hoa, hào hùng, văn hiến, cần thiết hiểu và cập nhật thêm một Hà Nội, xưa lẫn nay, không thiếu cơ cực, cam chịu và khuất lấp ngoài rìa muôn mặt nhân sinh. Trọng Lang tên thật là Trần Tán Cửu, sinh năm 1906 tại Hà Nội trong một gia đình Nho học. Sau khi học xong bậc trung học, ông bắt đầu viết văn, viết báo, trở thành cây bút phóng sự thường xuyên trên các tờ Phong Hóa, Ngày Nay, Hà Nội tân văn… Sự nở rộ của phóng sự giai đoạn này, như ta thấy, đã được nuôi dưỡng bởi sự phát triển đa dạng của báo chí và nhất là một môi trường xã hội mà những vấn đề cấp bách, thời sự trong đó chưa bao giờ lắng xuống, “những điều trông thấy” chưa bao giờ tạm ngưng thúc giục, khiêu khích người cầm bút phải đối mặt trực tiếp, mô tả và lí giải nó. Đời sống nhân sinh từ đô thị đến nông thôn, với tất cả những biến đổi khốc liệt, dữ dội, trái khoáy và thậm chí, đầy bẽ bàng, cay đắng của nó, trong giai đoạn các lực xung va chạm giữa hai thế giới (cũ-mới, truyền thống-hiện đại, phong kiến-thực dân, Việt Nam - Pháp…) đạt đến cao trào, đã trở thành mảnh vỡ nguyên liệu để các ngòi bút phóng sự, vốn nhiệt huyết và sắc bén, giải phẫu một cách chi tiết. Khả năng xét nghiệm chân xác văn hóa đô thị của Vũ Trọng Phụng, mức độ lật tẩy kịp thời hủ tục làng xã của Ngô Tất Tố ởViệc làng, hay tài miêu tả chân thực của Tam Lang trong Tôi kéo xe…, về cơ bản, không chỉ làm đầy thêm các tri nhận về diện mạo, bản chất xã hội Việt Nam thuộc địa mà rõ ràng, còn thúc đẩy sự trưởng thành vượt bậc của thể phóng sự, của văn xuôi quốc ngữ. Giữa những tiếng nói nổi bật đó, Trọng Lang không hề bị mờ đi. Vì trước nhất, ông đã kiên trì theo đuổi nhiều đề tài gai góc như một cây bút ý thức rất cao trách nhiệm can dự xã hội của mình và thứ nữa, ông lựa chọn kênh phát ngôn chính yếu ở phóng sự, một loại hình lao động chữ nghĩa cần đến cả bản lĩnh và sự trung thực tận đáy. Phẩm chất đó, cùng với việc kịp đứng trong chiến tuyến của tinh thần duy tân sẵn sàng phê phán mọi đối tượng, đã giúp Trọng Lang hoàn thành văn nghiệp đáng kể của mình ngay trước 1945 với những Trong làng chạy; Đời bí mật của sư, vãi; Đồng bóng; Làm tiền; Với các ông lang; Làm dân; Thi vị đồng ruộng… Năm 1954, Trọng Lang di cư vào Nam, tiếp tục hoạt động văn chương báo chí. Ông mất tại Sài Gòn ngày 29-4-1986. ---------------------------- 1 Ấn bản đầu do Đời Nay thực hiện năm 1938. Ấn bản 2015 do NXB Hội nhà văn và Nhã Nam thực hiện. Mời các bạn đón đọc Hà Nội Lầm Than của tác giả Trọng Lang

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Du Ký Xanh - Hành Trình Cứu Biển
Ghi lại hành trình đi chụp ảnh rác thải nhựa gây ô nhiểm khắp Việt Nam của nhiếp ảnh gia Lekima Hùng. Hùng Lekima đã đi gần 7000km trong đó có 3.269km bờ biển từ Bắc chí Nam bằng xe máy. - Bố cục: Gồm 3 phần: Trước hành trình; Chặng đầu của hành trình; Chặng thứ hai của hành trình. - Văn phong: Giản dị, chân thực. *** Có những cuộc hành trình khám phá những miền đất mới đem đến cho con người những kỷ niệm vô cùng đẹp thế nhưng khác với những du ký khám phá đó thì Lekima Hùng lại đem đến cho bạn đọc một góc nhìn về “thực trạng” ô nhiễm môi trường biển ở Việt Nam thông qua cuộc hành trình mà anh tự mình thực hiện một tháng rưỡi qua 3.260km bờ biển Bắc Chí Nam. Mời bạn đọc cùng Lekima Hùng khám phá hành trình đầy ý nghĩa qua cuốn sách “Du ký xanh – hành trình cứu biển” “Ở Thụy Điển, rác thải của họ dường như được tái sử dụng mãi mãi. Lượng rác thải ở Thụy Điển chiếm cần phải chôn lấp chiếm 1%, rác thải được tái chế là 47% và 52% được đốt để sản xuất nhiệt và điện” Nếu chúng ta trân trọng hơn nữa từng đồ vật, quan tâm hơn nữa đến không chỉ là nhu cầu của con người là cả sự sống của tất cả sinh vật, động vật trên Trái Đất này thì có lẽ đã không có quá nhiều rác thải không thể xử lý khiến chúng ngày một chiếm lấy không gian sống của những sinh vật dưới biển hay tình trạng ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. “Cái vòng luẩn quẩn của rác thải nhựa sẽ bám lấy cuộc sống của người dân miền Trung” Những cảnh đẹp thiên nhiên khi chưa bị con người tác động đến mang một vẻ đẹp rất tuyệt diệu nhưng dường như nó chỉ còn trong ký ức như cách mà Lekima Hùng đã tận mắt chứng kiến. Con sông được hiện lên trong từng câu thơ của nhà thơ Tế Hanh: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương soi tóc những hàng tre Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng” Nếu không chịu thay đổi ý thức để bảo vệ môi trường, chắc chắn trong tương lai khi rác thải bị quá tải, chúng ta sẽ phải gánh chịu những “tai họa” do mình tự tạo ra. Rác thải nhựa trôi nổi trên biển, những sinh vật dưới biển ăn nhựa và con người lại đánh bắt thủy, hải sản để ăn. Chúng ta sẽ không thể thoát khỏi vòng tròn luẩn quẩn ảnh hưởng đến sức khỏe của chính mình. Từng chặng đường anh đi qua, vẻ đẹp thiên nhiên cùng sự giản dị của những con người trên khắp mọi miền tổ quốc Việt Nam được anh viết lại rất sinh động. Nhưng cầm trên tay cuốn sách, bạn đọc cũng mang một cảm xúc đau đáu về sự ô nhiễm đến mức báo động của môi trường biển. Từng sinh vật sinh sống ở biển đã và đang gồng gánh rác thải do chính con người thải ra mỗi ngày, bởi chúng ta không xử lý hết được. Đáng buồn hơn nữa là thực trạng này chẳng thuyên giảm đi mà còn tăng lên mỗi ngày chỉ vì phục vụ “nhu cầu sống tiện lợi của chính con người”. Chúng ta có thể “ba hoa” với người khác về một điều gì đó qua những lời nói của mình nhưng chắc chắn rằng không có gì có thể thật hơn “thực trạng”, đó là những bức ảnh tác giả đã chụp Rác trùm lên rác ở làng chài Việt Nam, đổ rác ven kênh tại Tiền Giang,…là thực tế vô cùng đau buồn, là tiếng kêu cứu của mẹ thiên nhiên. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn vào thực tế để điều chỉnh hành vi tiêu dùng cùng lối sống thân thiện hơn với môi trường. Lối sống nhanh đã khiến chúng ta chỉ quan tâm đến cuộc sống của chính mình mà hiếm ai chọn cho mình những lối sống giảm thiểu ít rác thải. Khác hẳn so với những chuyến du ký thông thường, Lekima Hùng lại muốn dùng chuyến đi “để đời” này của mình để cống hiến, để lan tỏa hơn nữa thông điệp về bảo vệ môi trường. Thức tỉnh bạn đọc nhìn vào thực tế, hướng đến lối sống bền vững để cải thiện những thực trạng ô nhiễm đáng báo động. Hãy thay đổi từ nhận thức đến hành động để cứu lấy sự sống của hàng triệu sinh vật dưới biển, sức khỏe của chính mình cùng sự sống của con cháu chúng ta. Cuộc chiến giảm thiểu rác thải nhựa cần đến ý thức của tất cả chúng ta, chung tay vì môi trường để “mẹ thiên nhiên” bớt đi phần nào nỗi đau đang gồng gánh vì cuộc sống của con người. Hội An xả 100 tấn rác/ ngày, trong khi nhà máy xử lý rác ở xã Cẩm Hà chỉ xử lý tối đa 30 tấn/ ngày. Nhựa chiếm 50%-80%  rác thải biển. Ước tính, hơn 80% nhựa có nguồn gốc đất liền, phần còn lại là nhựa được xả trực tiếp trên biển. Hiện có tới 3,5 tấn triệu rác được thải ra mỗi ngày. Con số này cao gấp 10 lần so với 100 năm trước và dự kiến sẽ xảy tăng lên 11 triệu tấn vào cuối thế kỷ 21. Chúng ta sẽ xử lý chúng ra sao? Trái Đất đã bị tổn thương rất nhiều bởi sự tác động của con người. Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi để cứu lấy hành tinh xanh này. Đọc “Du ký xanh – Hành trình cứu biển” của Lekima Hùng, bạn đọc như được tiếp thêm động lực để bảo vệ môi trường. Mỗi một cá nhân đều mang trên mình trách nhiệm sống thân thiện hơn với môi trường, hãy thay đổi từ những điều nhỏ nhất ngay từ hôm nay để góp một phần tuy nhỏ nhưng ý nghĩa với sự sống của cả Trái Đất nhé. Review bởi Dương Hà *** Lời giới thiệu   Tôi đã từng đọc nhiều tác phẩm du ký trong nước và nước ngoài kể về những hành trình khác nhau trên thế giới. Con người, lịch sử, xã hội và văn hóa hiện lên một cách sinh động qua từng trang sách, câu chữ của các tác giả. Nhưng tôi chưa từng đọc một cuốn sách du ký nào kể lại một hành trình đặc biệt như của Lekima Hùng, với các cung đường rác từ Bắc tới Nam. Đó không phải là hành trình như bản thân tôi đã từng đi trên các nẻo đường thế giới, tìm hiểu về văn hóa và con người trên các điểm đến, thưởng thức văn hóa và những trải nghiệm vui buồn. Đó là một hành trình hoàn toàn khác, đau đáu, buồn nhiều hơn vui và mỗi chặng đường đi qua là những khám phá về mức độ ô nhiễm mà chính chúng ta đã gây ra cho những bờ biển, vùng đất, tác động trực tiếp và lâu dài lên chính cuộc sống của mình. Có người mà Lekima Hùng gặp và nói chuyện hiểu được điều gì đang xảy ra. Nhưng nhiều người thì không, chặc lưỡi không quan tâm. Qua từng trang sách, bức tranh ô nhiễm càng hiện ra một cách rõ ràng, nhức nhối và đau đớn, trong một cuộc tự hoại mang tính tập thể theo suốt chiều dài đất nước. Cuốn sách do đó đánh động cho chúng ta rằng, hiểm họa môi sinh không ở đâu xa xôi cả, không ở một nơi nào đó chỉ được tiếp cận qua tivi hay internet, mà đang ở ngay bên chúng ta rồi. Lekima Hùng đi và chụp. Thực ra anh không phải nhà văn, cũng không phải là một người lữ hành. Do đó, cuốn sách được viết một cách chân thực nhất, không lãng mạn mà giản dị, nhưng rất sinh động. Anh là một nhiếp ảnh gia và với chủ đề thực hiện, anh là một người cầm máy rất khác với nhiều người chụp ảnh chỉ thường chú ý đến các yếu tố đơn thuần về thẩm mỹ và hay ca ngợi cái đẹp tôi đã quen. Lekima Hùng chụp rác thải nhiều, và anh còn có biệt danh là “Hùng rác”. Chụp về môi trường không chỉ là một thể loại mang tính “xanh”, đó còn là một tuyên ngôn của nhiều người có lương tri và trái tim trên thế giới. Cuốn sách này chỉ đơn giản là ghi lại một phần những gì đáng chú ý nhất trong những hành trình đi chụp của Hùng trong những năm qua và đọc nó đã thấy nhức nhối rồi. Nó không chỉ là phản ánh, mà còn thúc đẩy những hành động cho cả cộng đồng. “Du ký xanh” là để bảo vệ và nhân lên những màu xanh, trước tiên ở trong chính suy nghĩ và sau đó là hành động của tất cả mọi người. Tôi có thể làm và sẽ làm. Còn bạn? TRƯƠNG ANH NGỌC Nhà báo, nhà lữ hành, tác giả du ký Mời các bạn đón đọc Du Ký Xanh - Hành Trình Cứu Biển của tác giả Lekima Hùng.
Trái Tim Trên Những Con Đường
"Thành thị đôi khi làm người ta ngột ngạt dù ở châu Âu, cuộc sống rất thảnh thơi, có sự thanh bình, chậm rãi ngay ở những thành phố lớn... Thế nhưng sau tất cả, thiên nhiên vẫn nhiều sức vẫy gọi nhất, về với những cánh đồng, những con đường, những ngôi làng hoặc những thành phố nhỏ bé. Có rất nhiều vẻ đẹp tiềm tàng ở đó, không chỉ trong cảnh sắc dân dã mà còn trong bầu không khí thật tươi mới, trong những con người hiền lành - những con người thật sự Pháp, Ý hay Đức. Tôi sẽ kể một tẹo về những hành trình ấy - những hành trình sẽ đưa bạn đi giữa bát ngát hoa cỏ, núi rừng, mặt trời, chạy theo những vòng quay, những nỗi nhớ biển, những câu chuyện không thể lãng quên, và tình yêu chưa bao giờ lụi tàn trên con đường tít tắp". *** Review sách Trái Tim Trên Những Con Đường  Phan Thị Thu Thảo đã review       28 tháng 12, 2018 Tôi biết đến tác giả Mai Thanh Nga qua cuốn sách Paris trong hộp giày, rồi sau cuốn sách này tôi mới tìm đến Trái tim trên những con đường. Tôi thích cả hai cuốn sách này nhưng có lẽ tôi thích Trái tim trên những con đường hơn, có lẽ vì tôi thích thể loại du ký, cũng có thể vì hình ảnh một Mai Thanh Nga lạc quan, vui vẻ hơn hiện lên qua cuốn sách này. Nếu Paris trong hộp giày chỉ lấy bối cảnh riêng về thành phố Paris vừa cổ kính lại vừa hiện đại thì Trái tim trên những con đường lại là hành trình chạy dọc xuyên suốt các thành phố của Châu Âu từ những thành phố lớn như Paris, London hay Venice rồi đến những thành phố nhỏ, cả những thành phố mà đến bây giờ tôi vẫn chẳng nhớ tên. Trái tim tôi cứ lửng lơ theo từng hành trình, cứ theo dấu chân của tác giả mà băng qua biển, qua rừng, hòa mình với thiên nhiên và với mong ước được một lần đặt chân đến những thành phố Châu Âu đó để đi, để yêu và để trải nghiệm. Trái tim trên những con đường được tác giả Mai Thanh Nga viết theo lối văn du ký, giọng văn nhẹ nhàng nhưng mang đầy sự lạc quan và mang hơi thở của thiên nhiên đem đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc giản dị và chân thành nhất. Thật sự đây là một cuốn sách rất tuyệt vời cho những ai đam mê xê dịch, không gượng ép, cứ trôi theo dòng chảy của trái tim như vậy. *** Đời vẽ tôi tên mục đồng, rồi vẽ thêm con ngựa hồng Từ đó tôi nguyện suốt đời rong chơi.* *Câu gốc: “Đời vẽ tôi tên mục đồng, rồi vẽ thêm con ngựa hồng. Từ đó lên đường phiêu linh” trong bài “Chỉ có ta trong cuộc đời” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bạn nói ôi trời, hát sai lời rồi kìa, tôi nói tôi có hát nhạc Trịnh đâu, tôi đang nói về kim chỉ nam cuộc sống của mình lúc này. Tôi không biết liệu cách sống ấy sẽ còn đúng tới bao giờ, khi tôi qua tuổi 20? Khi tôi đầu bốn? Khi tôi tóc bạc, cháu quấn chân? Hay khi tôi không còn tự ngồi dậy mỗi sáng được nữa? Tôi nghĩ nó sẽ thực sự chấm dứt khi tôi đủ lười, đủ lười để trái tim hết cảm giác với những bước chân. Khi căn bệnh nan y và đáng sợ ấy tới, tôi sẽ bước đi chỉ là bước, không nghĩ suy, không hoài bão, không tò mò, không xao động, và không trăn trở trong những giấc ngủ đêm. Dĩ nhiên tôi vẫn sống tốt khi không di chuyển, chỉ là cuộc sống sẽ hơi thiêu thiếu, thiếu một cái gì đó như là chính bản thân mình. Giờ thì tôi vẫn thích đi, thích điên lên được, bởi đi làm tôi hết đau lưng. Cái ghế đang làm tôi biến dạng cột sống, lại còn cài thêm mấy cái gai tinh túy vào, dĩ nhiên giết dần cơ thể và tâm hồn. Thật đấy! Người ta bảo “Con người hình thành khi khỉ đi hai chân”, đạo diễn Lê Hoàng phản pháo theo đúng kiểu đanh đá của ông: “Con người hình thành khi họ bắt đầu di chuyển”. Di chuyển ở đây chắc không chỉ nói về tình trạng địa lý mà còn trong tư duy. Nếu ta đi, không nghĩ suy, chỉ rong chơi, đơn giản đó là kẻ hành khất, giống người Gipsy một đời không nơi nương náu. Nếu ta đi, mang theo suy nghĩ khám phá vùng đất mới, say mê phiêu lưu thì sẽ thành như Gristoforo Colombo tìm thấy châu Mỹ hay James Cook cập bến châu Úc. Nếu ta đi, lòng chất đầy ham muốn chiếm đoạt thì sẽ thành thực dân Anh, Pháp, Bồ. Còn nếu ta đi, vì không có nơi nào để sống, khát khao tìm vùng đất của mình, xã hội của mình, thì sẽ thành những người Do Thái khôn ngoan. Thực chất, khi họ đến với châu Âu, ngày đó người ta coi giao thương là nhơ nhớp, dân Do Thái làm việc đó và thành công xuất sắc, có tiền nhưng không địa vị. “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Họ là những người sáng lập nên mô hình ngân hàng, mà sau này cả thế giới phải đi theo. Vậy mới là đi, thực sự là đi bằng chân và bằng đầu. Chủ nghĩa xê dịch đang “làm loạn” thế giới này, trong cộng đồng những người trẻ có nhiệt huyết, đam mê, và hơn cả là dũng cảm. Cuộc sống của con người có sinh, lão, bệnh, tử, trong đó quá trình “lão” kéo dài nhất: trẻ nhỏ, niên thiếu, trưởng thành, người già. Nhưng ở thế kỷ XXI, có thêm giai đoạn nữa gọi là hậu niên thiếu, tiền trưởng thành - quá độ Peter Pan* . Về cơ bản, giai đoạn này nằm trong quá trình “lão” bất di bất dịch, nhưng già thể xác mà trẻ tâm hồn. Bạn có thể gặp họ ở hình thái ông cụ Benjamin Button* tập nhảy, chơi đu quay, khóc oe oe gọi mẹ. Tôi nằm trong thế hệ này, thích rong chơi, vô lo vô nghĩ, không gò bó bản thân trong gia đình, nhà cửa, xe cộ, coi mình là trẻ con. Mà thế hệ này ngày càng nhiều người sống với khẩu hiệu “Forever Young”. Thật sự không biết đó là tốt hay xấu nữa? Sống theo bản năng, tự do với xã hội, bứt mình ra mọi khuôn khổ, nâng cao nhân quyền, sống thế thật tuyệt, nhưng có phần ích kỉ với gia đình. Hòa hợp giữa sống vì mình và vì gia đình khó như xã hội hiện đại cố gắng giữ bản sắc truyền thống. * Peter Pan - nhân vật hư cấu của nhà văn J.M.Barrie - mang hình hài của một thiếu niên 15-16 tuổi biết bay, luôn muốn vui chơi và hưởng thụ cuộc sống, luôn chối bỏ “sự trưởng thành”. * Nhân vật trong phim “Dị nhân Benjamin Button” (tên gốc “The Curious Case of Benjamin Button) - một cậu bé có chu trình sinh học ngược với bình thường, sinh ra đã già, dần dần trẻ ra. Phim do David Fincher đạo diễn, dựa trên một truyện ngắn cùng tên của nhà văn Mỹ F. Scott Fitzgerald xuất bản năm 1992. Dù thế nào tôi và vô số người vẫn đang xê dịch, đi chỉ vì muốn đi, hoặc đi vì chán ngồi một chỗ. Đi thì cứ đi, làm thì cứ làm, vui cứ vui, miễn sao thoải mái, chỉ đừng hô khẩu hiệu: “Người ta chỉ sống khi xê dịch”. Ông bà tôi, bố mẹ tôi nghìn đời vẫn sống, sống đẹp là đằng khác. Nhiều người lại thích câu “Đừng nói với tôi bạn giỏi thế nào, hãy nói với tôi bạn đi những đâu”. Thomas Edison cả ngày chỉ ngồi trong phòng và ông ấy mang văn minh cho toàn nhân loại. Ông Mạc Ngôn chỉ ngồi yên ở huyện Cao Mật để vẽ lên toàn bộ hiện thực Trung Quốc, giật về giải Nobel. Ngày xưa có bài báo nói vui rằng nếu nhà văn Tô Hoài lên Tây Bắc trước khi viết truyện thì “Truyện Tây Bắc” đã không hay như thế. Mỗi người một cách sống, hãy để mình tự do trong suy nghĩ về người khác. Chúng ta về cơ bản chỉ khác nhau ở đam mê. Chỉ hy vọng rằng mỗi vùng đất mình tới, mỗi trải nghiệm mình có, mỗi bước chân mình đi sẽ làm con người lớn lên. Người ta khổng lồ trong tư duy, còn tư duy khổng lồ lại nằm trong hình hài đơn giản. Đi cho sự ngu xuẩn giảm bớt, can đảm tăng lên, trí tuệ rèn giũa để đương đầu với một cuộc sống ổn định trong xã hội bất ổn phía trước. Tôi đi không hẳn đã nhiều, chỉ đủ để viết cho mình một cuốn cẩm nang nho nhỏ, có những bức ảnh, những tranh vẽ về ngày tháng tuổi trẻ ít biếng lười. Thông thường những chuyến đi sẽ bắt đầu từ các thành phố lớn: Paris, London, Prague, Venice… lâu dần con đường hẹp về những thành phố nhỏ hơn như Torino, Strasbourg, Heidenberg… rồi lại dẫn tới những thành phố kém tiếng hơn như Echallens, Founteinbleau, Biella… cứ thế đi về phía những cánh rừng, những bãi biển, những ngọn núi, về với thiên nhiên. Thành thị đôi khi làm người ta ngột ngạt dù ở châu Âu, cuộc sống rất thảnh thơi, có sự thanh bình, chậm rãi ngay cả ở những thành phố lớn. Nếu không phải chen lấn nhiều tại tàu điện ngầm thì người ta sẽ thấy cuộc sống ở nơi hỗn độn như Paris cũng còn yên lành lắm. Thế nhưng sau tất cả, thiên nhiên vẫn nhiều sức vẫy gọi nhất, về với những cánh đồng, những con đường, những ngôi làng, hoặc những thành phố nhỏ bé. Có rất nhiều vẻ đẹp tiềm tàng ở đó, không chỉ trong cảnh sắc dân dã mà còn trong bầu không khí thật tươi mới, trong những con người hiền lành - những con người thật sự Pháp, Ý hay Đức. Tôi sẽ kể một chút về những hành trình ấy - những hành trình sẽ đưa bạn đi giữa bát ngát hoa cỏ, núi rừng, mặt trời, chạy theo những vòng quay, những nỗi nhớ, biển, những câu chuyện không thể lãng quên, và tình yêu chưa bao giờ lụi tàn trên con đường tít tắp. Mời các bạn đón đọc Trái Tim Trên Những Con Đường của tác giả Mai Thanh Nga.
Hồi Ký Trần Vàng Sao
Lời người sưu tầm: Tài liệu mà tôi gởi tới độc giả sau đây là một tập hồi ký, dày 134 trang A4 đánh máy vi tính chữ nhỏ xuất hiện dưới hình thức samizdat được photocopy (thứ văn chương chuyền tay khá phong phú ở Việt Nam sau những năm “đổi mới”) cách đây có hơn 10 năm [1] . Tác giả của nó là Trần Vàng Sao (tên thật là Nguyễn Đính), một người làm thơ ở miền Nam, nhưng vào những năm 60 của thế kỷ trước, đã cùng với nhiều bạn bè đồng lứa đứng lên chống lại chế độ chính trị của miền Nam lúc đó bằng cách “đi lên núi” để cuối cùng, sau khi thoát khỏi bom đạn Mỹ, anh đã vướng phải một tai hoạ cực kỳ tệ hại. Cuốn hồi ký này kể lại cái tai hoạ đó khi từ chiến khu, anh được đưa ra miền Bắc trị bệnh: ở nơi đây, sau một thời gian quan sát, anh đã ghi lại những suy nghĩ của mình về cái gọi là “hậu phương xã hội chủ nghĩa” đó bằng nhật ký và chính vì những suy nghĩ ghi thành chữ viết này anh bị các đồng chí của mình truy bức, nguyền rủa, phỉ nhổ, cô lập, đến chỗ như anh cho biết anh không còn được coi là con người mà đã thành “một con vật, một con chó”. Trong rừng, tôi đã nghe biết một số trường hợp những trang nhật ký bị tố cáo, nhưng chưa thấy có trường hợp nào sự tố cáo lại dẫn đến một cuộc hành hạ, trừng trị độc địa như trường hợp của Trần Vàng Sao. Những ai đã đọc Đặng Thuỳ Trâm cùng những bàn tán về nhật ký của chị, khi đọc xong hồi ký của Trần Vàng Sao, sẽ thấy rất khó mà coi các tài liệu chiến tranh này là những “bản chứng nghiệm chân thực của lịch sử” – như có một tác giả nào đó đã cho là vậy. Tuy cùng “chung một chiến hào”, thuộc cùng một thế hệ những người đi vào chiến tranh (Trần Vàng Sao cũng sinh năm 1942 như Đặng Thuỳ Trâm), nhưng những giá trị mà Đặng Thuỳ Trâm tin tưởng một cách “chân thực” để sống và để chết thì đối với Trần Vàng Sao lại chỉ là những điều huyễn hoặc đơn thuần. Không thể nói là không “chân thực” nỗi thất vọng của một trí thức như anh, một người đi qua máu lửa để tìm đường chợt thấy trước mắt mình hiện ra một khoảng hư vô mù mịt. Với tai hoạ ấy, anh đã bị đẩy vào tình thế đứng giữa hai lằn lửa. Là người miền Nam, nhưng anh đã phủ định cái huyền thoại ngô nghê về một “một miền Nam đúng nghĩa” dưới một chính thể mệnh danh “dân chủ, tự do, no ấm” để chọn lựa đi về “phía bên kia”, cuối cùng đã bị cả “phía bên kia” lẫn “phía bên này” kết án. Ngày nay, với sự xuất hiện lại của hồi ký này, không thể loại trừ những tố cáo ấy sẽ tái diễn, và nếu như vậy thì cũng chẳng có gì khó hiểu. Như có người đã nói rồi, cuộc chiến đã chấm dứt 30 năm nhưng những vết thương mà nó để lại trong lòng người còn quá sâu đậm: bên cạnh hàng triệu người vui vẫn còn hàng triệu người buồn. Những vướng mắc trong quá khứ vẫn chưa tìm được cơ sở chung để tháo gỡ một cách thanh thản, hoà bình. Dù sao, tôi thấy giới thiệu lại những trang hồi ức của Trần Vàng Sao như dấu tích của một thời đã qua vẫn là cần thiết, nhất là với những ai chợt thấy có mong muốn nhìn lại cái thời đã qua ấy một cách nhiều mặt hơn: ngoài những tiếng nói của hai phe đối nghịch có đủ lý do (Bắc/Nam, quốc/cộng…) để tố cáo nhau một cách ác liệt, còn có tiếng nói của những người cũng có đủ lý do để không còn phải đứng về phe nào trong hai phe ấy nữa. Có thể chẳng giải quyết được gì: nhiều lắm cũng chỉ là trải nghiệm của một cuộc dấn thân máu lửa, cần được nhắc đến để rọi sáng thêm một cuộc máu lửa mà những hệ luỵ của nó chưa chịu nằm yên trong những nấm mồ. Sự chân thực mang tính chất nhân chứng ở đây không có lý do nào chính đáng để nâng mình thành sự chân thực của bản thân lịch sử, dù đó là sự chân thực của một niềm tin hay là sự chân thực của một hận thù. Sài Gòn ngày 2.11.2005 Lữ Phương *** Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 (Tân Tỵ) ở Thừa Thiên Huế. Năm 1961 ông thi đỗ tú tài rồi vào Đại học Huế, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha. Từ 1965 đến 1970, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao. Năm 1970 ông được đưa ra miền Bắc an dưỡng, chữa bệnh. Ở nơi đây, ông có viết nhật ký gồm những suy nghĩ của ông về cái gọi là "hậu phương xã hội chủ nghĩa" và sau đó bị tố cáo, đấu tố và cô lập [2] đến nỗi ông có cảm giác không còn được coi là con người mà đã thành "một con vật, một con chó, theo như Hồi ký "Tôi bị bắt (Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù)" sau này của ông[3]. Sau khi Việt Nam thống nhất (tháng 4 năm 1975), Trần Vàng Sao xung phong về quê công tác nhưng không được chấp nhận; ông tự trở lại Huế làm liên lạc ở xã, sau đó được bố trí công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế rồi được điều về làm liên lạc ở xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), Huế cho đến khi nghỉ hưu năm 1984. Ông sống tại thành phố Huế và mất hồi 14h45 phút ngày 09/5/2018. Ông hầu như không cho xuất bản thơ nhưng vẫn nổi tiếng với "Bài thơ của một người yêu nước mình" ký bút danh Trần Vàng Sao sáng tác tháng 12 năm 1967 và được chọn trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20. Theo nhà phê bình văn học Đặng Tiến hiện định cư ở Pháp: Năm 1993 nhà xuất bản Tân Thư (California, Hoa Kỳ) in tập “Bài thơ của một người yêu nước mình” của nhà thơ Trần Vàng Sao. Năm 2008, Nhà xuất bản Giấy Vụn đã cho in tập thơ "Bài thơ của một người yêu nước mình" của ông [2]. Tháng 8/2020 tập thơ BÀI THƠ CỦA MỘT NGƯỜI YÊU NƯỚC MÌNH của nhà thơ Trần Vàng Sao do Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty Nhã Nam hợp tác xuất bản. Một ấn phẩm đặc biệt về thơ và mỹ thuật. Sách được bán trên toàn bộ hệ thống của Công ty Nhã Nam. Ngày 12/11/2021, tập thơ được trao thưởng Giải thưởng sách Quốc gia 2021.   Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Trần Vàng Sao của tác giả Trần Vàng Sao.
Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp
“Bản án chế độ thực dân Pháp” (Le Procès de la Colonisation Française) là tác phẩm của Hồ Chủ tịch viết bằng tiếng Pháp trong khoảng những năm 1921-1925, đăng tải lần đầu tiên năm 1925 tại Paris (thủ đô nước Pháp) trên báo Imprékor của Quốc tế Cộng sản. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục, với cách hành văn ngắn gọn, súc tích, cùng với những sự kiện đầy sức thuyết phục, tác phẩm tố cáo thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khốc liệt bắt “dân bản xứ” phải đóng “thuế máu” cho chính quốc... để “phơi thây trên chiến trường châu Âu”; đày đọa phụ nữ, trẻ em “thuộc địa”; các thống sứ, quan lại thực dân độc ác như một bầy thú dữ, v.v... Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn ngay từ khi ra đời, thức tỉnh lương tri của những con người yêu tự do, bình đẳng, bác ái, hướng các dân tộc bị áp bức đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác – Lênin, thắp lên ngọn lửa đấu tranh cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam. Nhân hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trẻ in tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” – một trong những đỉnh cao của văn chương chính luận cách mạng.  *** Hồ Chí Minh (chữ Nho: 胡志明; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh Nguyễn Sinh Cung (chữ Nho: 阮生恭), là một nhà cách mạng và chính khách người Việt Nam. Ông là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 1945–1969, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những năm 1945–1955, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1956–1960, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951 cho đến khi qua đời. Trong quãng thời gian sinh sống và hoạt động trước khi lên nắm quyền, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều quốc gia và châu lục, ông được cho là đã sử dụng 50[1] đến 200 bí danh khác nhau.[2] Về mặt tư tưởng chính trị, Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Marx – Lenin. Ông là nhà lãnh đạo phong trào độc lập Việt Minh tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ông cũng là người đã soạn thảo, đọc bản Tuyên ngôn độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và trở thành Chủ tịch nước sau cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Trong giai đoạn diễn ra chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, Hồ Chí Minh là nhân vật chủ chốt trong hàng ngũ lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hồ Chí Minh giảm dần hoạt động chính trị vào năm 1965 vì lý do sức khỏe rồi qua đời vào năm 1969. Năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiến thắng, hai miền Việt Nam được thống nhất, dẫn đến sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976. Thành phố Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để tôn vinh ông cũng như sự kiện này. Ngoài hoạt động chính trị, Hồ Chí Minh cũng là nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp.   Mời các bạn đón đọc Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp của tác giả Nguyễn Ái Quốc.