Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miếng Ngon Hà Nội

Miếng Ngon Hà Nội

Miếng Ngon Hà Nội

Miếng Ngon Hà Nội là một bút ký của nhà văn Vũ Bằng, một nhà văn người Hà Nội gốc và rất sành về các món ăn Hà Nội. Tác phẩm được viết tại Hà Nội vào mùa thu 1952.

Cuốn truyện tập trung giới thiệu mười bảy món ăn đặc sản của Hà Nội cũng như cảm nhận , tâm tình và kỷ niệm của tác giả với Hà Nội thông qua các món ăn.

Vũ Bằng là nhà văn cách mạng, người Hà Nội gốc, nên ông rất sành các món ăn Hà Nội. Mỗi khi nghĩ về ông lại nhớ đến món ăn Hà Nội, hoặc khi thưởng thức món ăn Hà Nội ta lại nhớ đến ông.

Hà Nội Băm Sáu Phố Phường Con Đường Việt Nam Thi Nhân Việt Nam

Ông viết về Miếng Ngon Hà Nội là viết về chính đời mình: “Miếng ngon Hà Nội, vì thế, nhiều khi làm cho ta yêu Hà Nội thấm thía, nhớ Hà Nội nao lòng, làm cho ta cảm giác ta là người Hà Nội hơn… Những miếng ngon mà người Việt Nam ăn vào thấy ngát mùi đất nước, thấy mình Việt Nam hơn…”.

Mỗi món ăn là một thiên bút ký, 15 món trong sách “Miếng ngon Hà Nội” được nhà văn mô tả chăm chút, kỹ lưỡng, đều là các món “quốc hồn, quốc túy” mà bao thế hệ người Hà Nội đều mê, đều thèm: đầu bảng là phở bò, rồi phở gà, bánh cuốn, bánh đúc, bánh khoái, bánh Xuân Cầu, cốm Vòng, rươi, ngô rang, khoai lùi, gỏi, quà bún, chả cá, thịt cầy, tiết canh cháo lòng, hẩu lốn! Tất cả đã làm nên diện mạo ẩm thực Hà Nội, làm nên hương vị cuộc sống truyền đời.

Thư viện Sách Mới trân trọng gửi đến bạn đọc cuốn sách Miếng Ngon Hà Nội.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

Xem Quẻ Chân Gà PDF
Theo phong tục tập quán, thì ngày mùng 3 Tết có tục cúng gà hóa vàng tiễn ông bà sau 3 ngày về nhà ăn Tết, nhưng cúng ở tại gia hay cúng tại đền đình (nơi thở các Thần Thánh), chứ cúng ở chùa thì không, vì chùa chỉ nhận cúng chay thôi. Tuy nhiên ở miền Bắc cũng có nhiều chùa thờ “Tiền Phật hậu Thánh” .Xem Quẻ Chân GàNXB Huế 1978Bảo Trai Đường56 TrangFile PDF-SCAN
Văn Hóa Là Gì - Đào Duy Anh PDF
Về ý nghĩa của chữ Văn-hóa và chữ Văn-minh (tương đương với tiếng Pháp là Civilisation và tiếng Đức là Kultur), các nhà học giả thế giới, nhất là Tây-phương, bàn cãi đã nhiều lắm ; ở đây tôi đã không thể nhắc lại tất cả những cuộc thảo luận ấy thì cũng xin gác bỏ hẳn ra ngoài, mà chỉ nói khái quát về cái ý nghĩa mà chính tôi đã thừa nhận. Người ta thường nói dân tộc văn-minh, thời đại văn-minh để đối với dân tộc dã-man, thời đại dã-man. Trái lại, người ta thường nói văn-hóa Tây-phương, văn-hóa Đông-phương (văn-minh), văn-hóa các dân tộc Da-đen, Da-đỏ (dã-man), văn-hóa đồ đá cũ, văn-hóa điện khí. Xem thế, ta nhận thấy ngay chữ văn-hóa khác với chữ văn-minh thế nào, tuy rằng theo các ý-niệm khác nhau ấy, tiếng Pháp đều nhất tề dùng một chữ CIVILISATION thôi.Văn Hóa Là GìNXB Tân Việt 1947Đào Duy Anh80 TrangFile PDF-SCAN
Lược Khảo Việt Ngữ PDF (NXB Mai Lĩnh 1942) - Lê Văn Nựu
Vấn đề tiếng Nam ở vào trong phạm vi một vấn đề rộng rãi hơn, phức tạp hơn - sự tiến hóa của dân tộc Việt Nam. Ngày nay vấn đề ấy tuy không khẩn cấp cho mọi vấn đề về kinh tế, hay chính trị, nhưng trái lại nó có tính cách phổ thông hơn hết. Thật vậy, đang khi những phong trào tư tưởng mới phôi thai, cùng những quyền lợi kinh tế, hầu gây nên những mối phân tranh mâu thuẫn trong xã hội, vấn đề ngôn ngữ vẫn giữ được tính cách quốc gia hoàn toàn.Lược Khảo Việt NgữNXB Mai Lĩnh 1942Tác giả: Lê Văn NựuSố trang: 89Kiểu file: PDF-SCANNgôn ngữ: Tiếng Việt
Hán Văn Qui Tắc PDF (NXB Trương Phát 1941) - Nguyễn Di Luân
Chữ Nho (chữ Hán) là thứ chữ đã thông dụng ở nước ta từ mấy ngàn năm đến nay, nó đã giúp cho ta được nhiều ích lợi về mọi phương diện của xã hội Việt-nam ta. Từ khi ta chưa có chữ quốc ngữ thì chữ Nho là thứ chữ thông dụng của nước nhà mà người Việt-Nam ta không ai là không học chữ nho, Chữ Nho là thứ chữ của Á Đông, tuy lối viết và cách đọc có khác nhưng bản pháp và văn thể thì cũng giống như các thứ chữ của Âu tây. Thế mà từ xưa đến nay, cả người Tầu và người Nam ta ai cũng đồng thanh cho là học chữ các nước thì dễ mà học chữ Nho thì khó. Bất cứ là học chữ nước nào, chỉ học ba bốn năm thì đã khá, mà học đến sáu bẩy năm thì phải giỏi.Hán Văn Qui TắcNXB Trương Phát 1941Nguyễn Di Luân106 TrangFile PDF-SCAN