Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sau Bữa Tiệc

Tuyết Sinh dịch YUKIO MISHIMA (1925-1970)Yukio Mishima (三島 由紀夫; phiên âm: (Tam Đảo Do Kỷ Phu), tên thật Hiraoka Kimitake (平岡 公威; phiên âm: Bình Cương Công Uy) (14 tháng 1 1925 - 25 tháng 11 1970) là một nhà văn và nhà biên kịch Nhật Bản, nổi tiếng với các tác phẩm như Kinkakuji (1956), bộ bốn tác phẩm "豐饒の海" (Hōjō no Umi, Biển cả muôn màu, 1965-70). Mishima sinh ra tại quận Yotsuya ở Tokyo (ngày nay là một phần của Shinjuku). Cha ông là Azusa Hiraoka, một nhân viên chính phủ, trong khi mẹ ông Shizue, là con một hiệu trưởng tại Tokyo. Ông bà nội của Mashima là Jotarō và Natsuko Hiraoka. Ông có một người em trai tên là Chiyuki và một em gái tên Mitsuko, người qua đời sớm do sốt ban. Tuổi thơ của Mishima bị phủ bóng bởi người bà Natsu, người đã nuôi và cách ly ông khỏi gia đình trong vài năm. Natsu là cháu nuôi của Matsudaira Yoritaka, một daimyo của Shishido tại tỉnh Hitachi và lớn lên trong gia đình công chúa Arisugawa Taruhito; bà vẫn duy trì lễ giáo quý tộc ngay cả sau khi kết hôn với ông của Mishama. Natsu là một người cục cằn và dễ nổi nóng, điều này thường xuyên được ám chỉ trong các tác phẩm của Mishima. Chính qua tìm hiểu Natsu mà một số người đã phát hiện nỗi ám ảnh với cái chết của Mishima. Natsu thường không cho Mishima ra ngoài ánh nắng hay tham gia vào bất hoạt động thể thao nào với các cậu bé khác; điều này khiến ông phải dành phần lớn thời gian một mình hoặc chơi đồ chơi con gái. Mishima trở lại gia đình năm 12 tuổi. Cha ông, một con người của kỉ luật quân đội, đã áp dụng kỉ luật sắt với cậu bé Mishima bằng cách bồng cậu bé lên thành của một con tàu cao tốc; cha của Mishima cũng thường xuyên lùng sục phòng của ông và phát hiện những sở thích "ẻo lả" về văn chương của Mishima và xé các bản thảo đó của ông. Ở tuổi 12, Mishima viết những câu chuyện đầu tiên của ông. Ông đọc ất nhiều các tác phẩm của Oscar Wilde, Rainer Maria Rilke và vô số những tác gia kinh điển Nhật Bản khác. Ông nhập học một trường dành cho tầng lớp quý tộc ở Nhật. Sau sáu năm học, Mishima trở thành thành viên trẻ nhất trong ban biên tập văn học của trường, ông bị cuốn hút bởi các tác phẩm của Tachihara Michizō. Những tác phẩm xuất bản đầu tiên của ông bao gồm thơ Waka, trước khi chuyển hướng sang thể loại văn xuôi. Mishima được mời viết chuyện ngắn văn xuôi cho tạp chí văn học của trường và gửi bản Hanazakari no Mori (花ざかりの森 The Forest in Full Bloom), một câu chuyện trong đó người kể mô tả cảm xúc về những người tổ tiên còn sống trong nội tâm nhân vật. Giáo viên của Mishima rất ấn tượng với câu chuyện và họ giới thiệu nó cho tạp chí văn học uy tín, Bungei-Bunka (文芸文化 Literary Culture). Câu chuyện với ngôn ngữ ẩn dụ và cách ngôn, đã được xuất bản năm 1944, giới hạn trong 4000 bản do việc thiếu nguyên liệu giấy thời chiến tranh. Để bảo vệ ông khỏi phản ừng từ các bạn đồng môn, các giáo viên của Mishima đã đặt cho ông bút danh "Yukio Mishima". Chuyện Tabako (煙草, tạm dịch: Thuốc lá), xuất bản năm 1946, mô tả sự khinh miệt và đối xử mà Mishima gặp phải ở trường khi ông thổ lộ với những thành viên của CLB Rugby trường rằng ông gắn bó với nghề văn chương. Những kí ức này cũng là nguồn tư liệu cho tác phẩm Shi o Kaku Shōnen (詩を書く少年, tạm dịch: Cậu bé làm thơ) sau này, xuất bản năm 1954. Mishima bị gọi kiểm tra sức khỏe quân ngũ trong thế chiến II. Nhưng khi kiểm tra sức khỏe, ông bị cảm lạnh và đã nói dối với bác sĩ quân đội rằng mình bị lao, vì vậy Mishima đã được tuyên bố là không đủ tiêu chuẩn sức khỏe nhập ngũ. Dù cho người cha cấm ông không được viết truyện nữa, nhưng Mishima vẫn tiếp tục bí mật viết vào buổi đêm, dưới sự ủng hộ và bảo vệ của mẹ ông, bà luôn là người đầu tiên đọc một chuyện mới của Mishima. Tham dự các buổi thuyết giảng ban ngày và viết chuyện ban đêm, Mishima tốt nghiệp trường Đại học Tokyo năm 1947. Sau đó ông dành được một vị trí nhân viên bộ tài chính trong chính phủ, một tương lai sáng lạn đang chờ đón. Tuy nhiên, Mishima lại cảm thấy kiệt sức và cha ông đồng ý cho ông từ chức trong năm đầu tiên để tập trung thời gian cho viết lách. Mishima bắt đầu viết chuyện ngắn Misaki nite no Monogatari (岬にての物語 A Story at the Cape) năm 1945 và tiếp tục viết cho đến cuối thế chiến thứ 2. Vào tháng 1 năm 1946, ông tới thăm nhà văn Yasunari Kawabata tại Kamakura và mang theo bản thảo chuyện Chūsei (中世 The Middle Ages) và Tabako, nhằm xin lời khuyên và sự giúp đỡ của Kawabata. Tháng 6 năm 1946, nhờ lời khuyên của Kawabata, Tabako được tạp chí văn chương mới Ningen (人間 Humanity) xuất bản. Cũng trong năm 1946, Mishima bắt đầu viết tiểu thuyết đầu tay, Tōzoku (盗賊 Thieves), trong đó câu chuyện kể về hai thành viên trẻ trong gia đình quý tộc luôn muốn được tự vẫn. Tiểu thuyết này xuất bản năm 1948, nhờ nó mà Mishima đã được xếp vào hàng ngũ thế hệ thứ hai của những nhà văn thời hậu chiến. Sau đó, ông cho ra đời Confessions of a Mask, một tác phẩm bán tự truyện kể về người đồng tình luôn phải lấp sau mặt nạ để hòa nhập vào xã hội. Cuốn tiểu thuyết đã rất thành công và biến Mishima trở thành một nhân vật nổi tiếng ở tuổi 24. Vào khoảng năm 1949, Mishima cho xuất bạn một serie tiểu luận trong Kindai Bungaku về Kawabata Yasunari, người mà ông dành cho một sự ngưỡng mộ sâu sắc. Mishima là một nhà văn đa tài, ông không chỉ viết tiểu thuyết, tiểu thuyết ngắn, chuyện ngắn, tiểu luận mà còn là một nhà biên kịch có tiếng cho sân khấu kịch Kabuki và những phiên bản hiện đại của thể loại kịch Nō. Các tác phẩm của ông đã dành được tiếng vang quốc tế và rất nhiều trong số đó đã được dịch sang tiếng Anh. Mishima đã đi tới rất nhiều nơi; năm 1952, ông tới thăm Hy Lạp, đất nước đã từng làm say đắm ông từ thời thơ ấu. Những kinh nghiệm thu được từ chuyến thăm đã xuất hiện trong Shiosai (Sound of the Waves), xuất bản năm 1954, câu chuyện lấy cảm hứng từ thần thoại Daphnis và Chloe của Hy Lạp. Mishima cũng khắc họa những sự kiện đương thời trong các tác phẩm của mình. The Temple of the Golden Pavilion xuất bản năm 1956, là một câu chuyện tiểu thuyết hóa về vụ cháy ngôi chùa nổi tiếng ở Kyoto. Utage no Ato (After the Banquet), xuất bản năm 1960, bám sát những sự kiện xung quanh chiến dịch tranh cử thị trưởng Tokyo của chính trị gia Hachirō Arita, vì tác phẩm này mà Mishima đã bị kiện vị tội xâm phạm cá nhân. Năm 1962, tác phẩm Utsukushii Hoshi (Beautiful Star), một tác phẩm gần với thể loại khoa học viễn tưởng thời đó, được xuất bản và nhận được những phản ứng trái ngược. Mishima từng ba lần được đề cử giải Nobel và là một nhà văn yêu thích của rất nhiều nhà xuất bản quốc tế. Tuy nhiên, năm 1968, người thầy đầu tiên của ông Kawabata dành được giải Nobel và Mishima hiểu rằng cơ hội nhận được giải thưởng cho người Nhật Bản trong tương lai gần là rất nhỏ. Cũng có tin đồn rằng Mishima muốn chuyển giải thưởng cho bậc lão thành Kawabata, người đã giới thiệu ông tới văn đàn Tokyo trong thập niên 1940. Năm 1955, Mishima tham gia lớp tập thể thao và chế độ dinh dưỡng cho tập luyện ba buổi một tuần được ông tuân thủ trong suốt 15 năm cuối đời. Trong bài tiểu luận xuất bản năm 1968, Sun and Steel, Mishima phàn nàn về việc những nhà trí thức coi trọng đầu óc hơn thân thể. Mishima sau đó đã trở nên rất điêu luyện với môn kendō. Dù cho đã từng thăm các quan bar dành cho gay ở Nhật Bản, vấn đề định hướng giới tính của Mishima hiện vẫn là một chủ đề bàn thảo ở Nhật. Mishima kết hôn với Yoko Sugiyama ngày 11 tháng 6 năm 1958 và có hai con là Noriko (1959) và Lichiro (1962). Năm 1967, Mishima gia nhập Lực lượng phòng vệ đất liền Nhật Bản và trải qua việc tập luyện cơ bản. Một năm sau đó, ông thành lập Tatenokai (Hội lá chắn) nhằm tập hợp các thanh niên trai tráng có võ và thề sẽ bảo vệ Nhật Hoàng. Trong 10 năm cuối cuộc đời, Mishima viết một vài vở kịch và tham gia đóng trong vài bộ phim cũng như đồng chỉ đạo một bộ phim chuyển thể từ một trong những chuyện của ông, Patriotism, the Rite of Love and Death. Ông cũng tiếp tục viết bộ bốn tác phẩm , Hōjō no Umi (Sea of Fertility), những tác phẩm xuất bản theo khổ định kỳ từ tháng 9 năm 1965. Ngày 25 tháng 11 năm 1970, Mishima và bốn thành viên của Hội lá chắn, tới thăm sĩ quan chỉ huy doanh trại Ichigaya, một trụ sở ở Tokyo của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Bên trong trụ sở, họ dựng chướng ngại vật và trói vị chỉ huy trên ghế. Với một bản tuyên ngôn và khẩu hiệu chuẩn bị sẵn nêu rõ các yêu cầu, Mishima bước ra ban công để hô hào các binh sĩ tụ tập phía dưới và xúi dục họ đảo chính để thiết lập lại sức mạnh của hoàng đế. Tuy nhiên, những lời nói của Mishima chỉ khiến chọc giận các binh sĩ và bản thân ông thì bị chế giễu. Ông hoàn thành bài diễn văn đã chuẩn bị sẵn, trở lại phòng chỉ huy và tự sát theo nghi thức seppuku, nhiệm vụ sau cùng truyền thống của nghi thức này được giao cho thành viên Masakatsu Morita của Hội lá chắn thực hiện, tuy nhiên Morita không đủ khả năng thực hiện điều này và cuối cùng Mishima cho phép một thành viên khác của Hội lá chắn, là Hiroyasu Koga ,chặt đầu ông. Những nghi vấn được đặt ra xung quanh sự tự vẫn của Mishima. Vào thời điểm Mishima qua đời, ông đã hoàn thành tác phẩm cuối cùng The Sea of Fertility. Ông được công nhận là một trong những nhà văn hậu chiến phong cách nhất trong văn học ngôn ngữ Nhật. Mishima viết 40 tiểu thuyết, 18 vở kịch, 20 sách về chuyện ngắn, khoảng 20 sách về tiểu luận cũng như một kịch bản. Phần lớn các tác phẩm này bao gồm những cuốn sách được viết nhanh nhằm thu lợi nhuận, dù chúng bị coi nhẹ nhưng những phần quan trọng của các cuốn sách này vẫn được lưu giữ. Vào cuối đời, Mishima là một người tán dương chủ nghĩa dân tộc. Các nhân vật cánh tả không ưa gì ông, đặc biệt là vì ý tưởng chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo (bushidō) của Mishima, ông cũng bị rất nhiều những người theo chủ nghĩa dân tộc chỉ trích vì luận điểm nêu ra trong Bunka Bōeiron (文化防衛論 A Defense of Culture), cho rằng Hirohito nên thoái vị và phải nhận trách nhiệm cho sự chết chóc trong chiến tranh. ∙ Giải Shincho của Nhà xuất bản Shinchosha, 1954, cho The Sound of Waves. ∙ Giải Kishida của Nhà xuát bản Shinchosha cho các tác phẩm kịch, 1955. ∙ Giải Yomiuri của Báo Yomiuri Newspaper Co., cho tiểu thuyết xuất sắc nhất, 1957, The Temple of the Golden Pavilion. ∙ Giải Yomiuri của Báo Yomiuri Newspaper Co., cho vở kịch xuất sắc nhất, 1961, Toka no Kiku. LỜI NGƯỜI DỊCH Từ thế kỷ 15, nước Nhật có một loại nghệ thuật sân khấu giống tương tự như hát bội ở Việt Nam. Những đề tài được bộ môn này đưa lên diễn tả trên sân khấu phần nhiều bắt nguồn từ những chuyện cổ tích Nhật. Nghệ thuật sân khấu này tiếng Nhật gọi là Noh. Sau đây là quang cảnh của một sân khấu hát Noh. Những nhân vật chánh đeo mặt nạ, mặc quần áo đặc biệt tượng trưng cho những vai liên hệ tới đề tài diễn tả. Một ban hợp ca đề xướng lên những bài hát được dùng làm âm thanh phụ hoạ cho những lời nói của nhân vật chánh. Ngoài ra còn có tiếng sáo và tiếng trống đệm. Sau đây là thí dụ về tuồng tích của một tuồng Noh. Chuyện cổ tích có kể rằng: ngày xưa có một chàng trai thuộc dòng dõi nho phong, thanh lịch. Anh ta yêu một thiếu nữ và nàng đặt điều kiện là anh ta phải tới hầu hạ tại nhà nàng trong chín mươi chín đêm liền, để rồi tới đêm thứ 100 thì nàng sẽ ban tình yêu cho. Anh ta đã kiên nhẫn tới nhà nàng liên tiếp trong 99 đêm liền để rồi sau đó lại ra về không. Tới đêm thứ 100, khi sắp sửa tới lúc được quyền yêu nàng, thì anh ta lại chỉ tới để tự tìm cái chết ngay trước mặt nàng. Tên người con trai đó là Fuka-kusa-no- Shosho và người con gái: Kayoi Komachi. Trên đây là đoạn chuyện cổ tích, và tuồng Noh chỉ bắt đầu diễn tả từ khúc nối tiếp vào câu chuyện đó như sau: Khi màn kéo lên, trên sân khấu khán giả thấy một bóng ma đàn bà mặc quần áo đỏ, có hoa sặc sỡ tượng trưng cho gia đình giàu có, đang thơ thẩn hái những hạt đậu. bóng ma đeo mặt nạ đó chính là hồn của Komachi hiện lên. Tiếng sáo và trống dạo đầu rồi ban hợp ca đồng xướng lên những câu hát: “Hỡi nàng con gái kia, nhặt những hạt đậu gì vậy?...” Sau đó xuất hiện một nhà sư đi qua, nhìn thấy biết nàng là hồn ma hiện về, nên đến hỏi han. Nàng liền thú thật mọi chuyện tiền oan, nghiệp chướng đã lỡ gây ra nên bây giờ mặc dầu chết rồi hồn vẫn còn lẩn quẩn với mối tình chốn dương gian. Nghe xong, nhà sư liền niệm Phật, tụng kinh và dùng triết lý khuyên giải để đưa hồn người đàn bà bất hạnh về Tây Trúc. Nhờ đó, hồn nàng mới siêu thoát được và không còn hiện về nữa. Mishima rất thích loại tuồng Noh này, tháng nào cũng đi coi một lần. Và từ đó ông rút ra một quan niệm triết lý về cái Đẹp của nghệ thuật như sau: “Đẹp là cái gì tàn bạo, dũng mãnh để đi tới chỗ tự huỷ hoại.” Theo Mishima, loại văn chương mô tả tâm lý quằn quại đau khổ của con người như văn của Shakespeare chỉ là những món ăn tinh thần của giới trưởng giả “bourgeois”. Loại văn chương đó không thể hiện được cái Đẹp tuyệt đối của sự vật. Cái Đẹp âm thầm, cuối cùng, vĩnh cửu chỉ có thể tìm thấy trong sự bạo động và nhất là trong sự chết. Chính cái Đẹp đó đã được thể hiện trong văn thơ của Thomas Mann với cuốn truyện “Death in Venice” (Bản dịch của Nguyễn Tử Lộc, Trẻ xuất bản) hay Edga Allan Poe trong tập thơ “Con Quạ.” Năm 1970, Mishima có viết một bài nguyên văn bằng Anh ngữ, đăng trong Đặc san “This is Japan” dưới nhan đề Japan Within (Bề trong Nhật Bản) để diễn tả triết lý về cái Đẹp của sự Chết như sau: “Nếu những sự bành trướng, kỹ nghệ và tân tiến hoá, với một đời sống xô bồ gần như điên dại của đám dân thành thị là “bộ mặt bề ngoài” của nước Nhật thì tôi tự cảm thấy cần phải cương quyết bảo vệ và tái lập nội dung “Nhật Bản bên trong”. Tuồng Noh chính là một tiêu chuẩn để tạo ra sự thanh tịnh của tâm hồn. Chính vẻ Đẹp của sự thanh tịnh đó đã lôi kéo tôi rời bỏ đời sống xô bồ hời hợt của nước Nhật bề ngoài hiện nay. Một cái xô bồ bề ngoài đã huỷ hoại những giá trị bên trong –và thúc đẩy tôi tạo ra một bộ mặt mới khác cho Nhật Bản. Và chính sự Chết đã nằm dưới cái Đẹp đó. Một ngày nào đó rất có thể, tôi sẽ đi theo sức lôi cuốn của vẻ đẹp này để tìm tới cái chết trong sự huỷ hoại, im lặng.” Bốn năm sau khi viết câu chuyện này, Mishima đã tự tử theo nghi lễ võ sĩ đạo. Ông sống tất cả 48 năm, kể từ lúc mở mắt chào đời tại Tokyo năm 1925. VÀI ĐIỀU GHI NHẬN VỀ CUỐN TIỂU THUYẾT “SAU BỮA TIỆC” Đây là một cuốn tiểu thuyết luận đề tương tự như loại tiểu thuyết luận đề Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Những luận đề được lồng vào Sau Bữa Tiệc là: Vấn đề đạo đức: Có ba khuôn mặt điển hình, tượng trưng cho 3 quan niệm đạo đức khác nhau: Noguchi. Tượng trưng cho quan niệm Đạo Đức Bổn phận theo kiểu Đạo Đức của Kant. Phải tuân theo những nguyên tắc tối thượng, bất di bất dịch của Đạo Đức. Đây là những nguyên tắc phổ quát chi phối mọi hoạt động của con người. Kazu. Đại diện cho quan niệm đạo đức cởi mở, đạo đức sáng tạo của Bergson. Quan niệm đạo đức này cho rằng phải tuỳ hoàn cảnh mà áp dụng những quy luật đạo đức một cách uyển chuyển, luôn sáng tạo ra những lề luật mới, những cách áp dụng mới. Nagayama. Đại diện cho khuynh hướng đạo đức cá nhân. Câu châm ngôn phát biểu cho quan niệm đạo đức này như ông ta đã nói với Kazu là “Tôi làm việc tôi làm.” Vấn đề Chánh trị. Ông đưa ra hai loại chánh khách: loại chánh khách lý tưởng (Noguchi) và loại chánh khách theo chủ nghĩa Hiện thực – Realism (Yamazaki). Mishima chứng minh sự thất bại của các chánh khách lý tưởng và ca tụng cái đẹp của những chánh khách theo thuyết Hiện thực với nỗ lực tạo ra những “phép lạ chánh trị” và chấp nhận đường lối ma giáo của đối thủ. Đã lao mình vào chánh trường thì phải chấp nhận sự phản bội, tàn bạo của đối phương. Chấp nhận không phải để đi theo, nhưng để nỗ lực bằng đường lối chân chánh ngõ hầu lật ngược thế cờ. Điều đó gọi là những phép lạ chánh trị. Những người chủ trương đường lối đó được gọi là theo Hiện thực chủ nghĩa. Chúng ta thấy Hiện thực có nhiều điểm giống với chủ thuyết Machiavelli nhưng hoàn toàn khác hẳn về căn bản. Vấn đề Gia đình. Tác giả Sau bữa tiệc chủ trương con người cần có một gia đình. Nhưng nếu vợ chồng lấy nhau mà không hợp tánh tình, quan điểm thì nên ly dị. Theo ông nếu không tìm thấy hạnh phúc khi sống chung với nhau thì “chim nào nên trở về tổ nấy”. Như thế là hay hơn cả. Tiếc rằng trong cuốn tiểu thuyết này, vợ chồng Noguchi không có con, nên vấn đề ly dị dễ dàng. Nhưng nếu trong trường hợp có con, không biết tác giả sẽ giải quyết thế nào cho êm đẹp cả. Trong khi đang dịch cuốn truyện này, một người bạn có bảo tôi: “Tiểu thuyết đã hết thời. Bây giờ người ta có phương tiện đi du lịch rộng rãi, nên không cần đọc truyện. Cuộc sống thực tế có phần còn sôi động, gay cấn hơn tiểu thuyết.” Khi đọc xong cuốn truyện của Mishima, chúng tôi thấy tiểu thuyết vẫn là thế giới riêng biệt khác hẳn cuộc sống thực tế. Cuộc sống hàng ngày ví như địa hình, địa vật bên ngoài, và tiểu thuyết là tấm hoạ đồ của địa hình, địa vật đó. Nhiều khi nhờ có bản đồ mà ta tìm ra lối đi bên ngoài. Tiểu thuyết vẫn là một phương tiện suy tư và giáo dục, là một công trình căn bản của truyền thông trong lúc hai phạm vi âm thanh và hình ảnh chỉ là những phương tiện phụ thuộc rút ra từ tiểu thuyết. Không tin, các bạn cứthửđọc cuốn truyện này xem. Saigon, ngày 25 tháng 4 năm 1974 Dịch giả Mời các bạn đón đọc Sau Bữa Tiệc của tác giả Yukio Mishima & Tuyết Sinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuồn Chuồn Hổ Phách - Tập 1
Outlander - Chuồn Chuồn Hổ Phách 1 là cuốn thứ hai trong bộ tiểu thuyết lịch sử xuyên thời gian của Diana Gabaldon. Bà đã dệt nên một câu chuyện đầy ma lực đan xen giữa lịch sử và thần thoại, nó chứa đầy những đam mê mãnh liệt và sự táo bạo. Vô tình bị kéo về quá khứ, Claire - một nữ y tá quân đội người Anh - đã gặp gỡ và kết duyên với Jamie, một chàng chiến binh trẻ người Scot dũng mãnh, hào sảng. Sau nhiều biến cố, họ buộc phải rời nước Anh để sang Pháp. Tại đây, khi biết cuộc nổi dậy của phái Jacobite bắt đầu nhen nhóm, Jamie và Claire quyết định tìm mọi cách để ngăn chặn trận chiến Culloden đẫm máu xảy ra, nhằm bảo vệ sinh mạng của hàng nghìn người Scot vô tội. Thế nhưng thay đổi lịch sử có phải là chuyện dễ dàng? Liệu họ có thể cải biến vận mệnh của cả một dân tộc hay đành chịu cúi đầu khuất phục trước bàn tay tàn nhẫn của số phận? *** Ở nơi bờ Tây Scotland năm 1945, khi Thế chiến thứ hai kết thúc, đôi vợ chồng Frank và Claire gặp nhau sau bao năm xa cách, trao nhau những lời ân ái ngọt ngào. Nhưng 200 năm trước, chính tại nơi đây, trên ngọn đồi Craigh na Dun, những chiến binh dũng mãnh nhất đấu đá nhau trong cuộc chiến tranh giành vương quyền. Trong một lần dạo chơi quanh những vòng tròn đá thiêng cổ xưa tọa lạc trên đồi, Claire đã bị kéo từ hiện tại ngược dòng quá khứ về với Scotland thế kỉ 18. Từ một nữ y tá quân đội, giờ đây Claire trở thành kẻ ngoại tộc – Sassenach, như cái cách đầy yêu thương mà chàng chiến binh Jamie dùng để gọi cô. Chính nơi đây, thời đại này, với chút kiến thức y học về thảo dược của mình, cô đã tìm cách ngăn cản cuộc chiến đẫm máu nơi đầm lầy Culloden mà sử sách ghi chép, để bảo vệ người đàn ông của đời mình. Liệu một cô gái đến từ tương lai có thể thay đổi quá khứ? Hay chính cô là tác nhân khiến cho dòng chảy lịch sử được khơi thông? Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn nằm trong top 10 bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất mọi thời đại. Là người hiện đại, nhưng Claire lại thích nghi nhanh chóng với cuộc sống rong ruổi trên lưng ngựa. Nhưng điều quan trọng hơn, cô đã rơi vào tình yêu mãnh liệt, nồng cháy với Jamie dẫu cho trong trái tim vẫn luôn khắc khoải và day dứt về Frank. Nếu ở trong tình cảnh của Claire, bạn sẽ lựa chọn bên nào, một quá khứ bấp bênh hay hiện tại rạn vỡ? Claire có thể đeo hai chiếc nhẫn, một vàng của Frank, một bạc của Jamie. Cô cũng có thể bảo vệ cả hai, như cái cách cô đặt bàn tay trái nơi có chiếc nhẫn vàng lên che chở chiếc nhẫn bạc nơi bàn tay phải. Hay cách cô cầu xin Jamie, khiến anh chấp nhận hy sinh linh hồn mình cho sự sống của Frank. Và cách cô dùng những hiểu biết và kiến thức lịch sử của Frank để giúp đỡ và giữ mạng sống cho Jamie. Thế nhưng với ngăn cách thời gian và không gian, cô không thể nào có được cả hai người đàn ông, dẫu cho họ đều yêu cô với một trái tim chân thành và thuần khiết. Như một quy luật tất yếu của tự nhiên, khi ánh vàng rực rỡ mặt trời lùi về phía bờ tây, ánh bạc dịu dàng và huyền bí mặt trăng sẽ chiếm ngự bóng tối. Và ngược lại. Cũng như con người ta không thể khiến bản thân mình vừa có thể sống với hiện tại rạn vỡ nhưng thực tế, lại vừa có thể sống ở quá khứ bấp bênh nhưng tươi đẹp. Định mệnh trớ trêu bắt buộc Claire phải lựa chọn. Và dù lựa chọn thế nào, đau đớn vẫn là một kết quả chắc chắn. Bóng hình của người đàn ông còn lại vẫn mãi khắc ghi nơi tận cùng linh hồn, thỉnh thoảng lại cứa vào lòng cô những vết cắt khiến trái tim rỉ máu. Nếu ở trong tình cảnh của Claire, bạn sẽ lựa chọn bên nào, một quá khứ bấp bênh hay hiện tại rạn vỡ? Có một truyền thuyết kể rằng, hổ phách được hình thành nên từ nước mắt của mẹ và chị gái của Phaethon - con trai thần Mặt trời - khi Phaethon bị thần Zeus đánh chết. Còn chuồn chuồn, loài côn trùng nhỏ bé với đôi cánh mỏng manh yếu ớt nhưng lại có sức hút diệu kì, ẩn chứa nguồn sức mạnh phi thường để phá kén, chuyển cuộc sống trong bọc kén thành cuộc sống tự do nơi bầu trời cao rộng- hệt như một sự thoát khỏi quá khứ và hướng đến tương lai. Sống trong tình yêu của Jamie, Claire như con chuồn chuồn nhỏ đang tung cánh giữa thiên nhiên tươi đẹp và trời xanh rộng lớn. Nhưng khi cô buộc phải bước qua những vòng tròn đá lần nữa để trở về thực tại, những giọt nước mắt thấm đẫm bờ mi và khuôn mặt cô, như những giọt hổ phách kia. Con chuồn chuồn Claire vẫn mãi bị giữ chặt và giam cầm trong chính miếng hổ phách đã được kết tinh ấy, mãi chẳng thể nào bay xa được. Claire đã lựa chọn. Tôi cũng đã có quyết định cho riêng mình. Vậy, sao bạn không thử lựa chọn? Giữa Frank với Jamie, giữa quá khứ và hiện tại. Outlander là bộ tiểu thuyết về du hành xuyên thời gian lãng mạn bậc nhất do Goodreads bình chọn. Kể từ lần đầu xuất bản năm 1991, 8 tập truyện Outlander của tác giả Diana Gabaldon đã dịch ra hơn 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bộ phim chuyển thể từ tác phẩm cũng đã được kênh truyền hình Starz (Mỹ) phát sóng từ năm 2014. Chỉ trong vòng 1 năm sau khi phim ra mắt, ước tính doanh thu sách đã thu về 6 triệu USD - gấp 2 lần con số mà quyển thứ 8 của Outlander bán được từ năm 2010. Tú Văn - vietnamnet.vn *** Tôi tỉnh dậy ba lần trong đêm. Lần đầu tiên là trong nỗi đau buồn, thất vọng, kế đó là trong niềm vui sướng, và cuối cùng là trong sự cô độc. Những giọt nước mắt tuôn rơi vì cảm giác mất mát sâu sắc thấm vào xương tủy khiến tôi từ từ thức giấc, chúng tắm ướt đẫm khuôn mặt tôi như sự vuốt ve an ủi đến từ những bàn tay dịu dàng. Tôi vùi mặt vào chiếc gối ẩm ướt và dể tâm trí mình trôi theo dòng sông mặn chát, tiến vào những hang động nơi nỗi nhớ nhung sầu khổ ngự trị, tiến vào từng tầng sâu của giấc ngủ. Rồi tôi tỉnh giấc trong niềm vui sướng điên cuồng, người uốn cong lên như chiếc cầu vồng giữa những cơn đau dữ dội đến từ khoái cảm của sự hòa hợp thể xác, cảm giác mơn trớn vẫn còn hiển hiện trên da thịt, cảm giác chết lặng lan tỏa dọc theo từng thớ thần kinh. Tôi khước từ sự tỉnh táo, trở lại lần nữa, kiếm tìm mùi hương ấm áp của sự khát khao được thỏa mãn từ một người đàn ông, trong vòng tay an ủi của người tôi yêu, giấc ngủ. Lần thứ ba, tôi thức dậy trong nỗi cô độc, rời xa những xúc cảm yêu đương hay đau đớn. Hình ảnh những tảng đá vẫn còn hiển hiện trong tâm trí tôi. Một vòng tròn nhỏ, những tảng đá dựng đứng trên đỉnh đồi xanh dốc đứng. Tên của ngọn đồi đó là Craigh na Dun; ngọn đồi tiên. Có người nói ngọn đồi đó bị bỏ bùa, những người khác nói nó bị nguyền rủa. Cả hai đều đúng. Nhưng không ai biết cơ chế hoạt động hay mục đích của những hòn đá đó. Ngoại trừ tôi. *** Tập hợp danh sách Roger Wakefield đứng giữa phòng, cảm thấy như bị bao vây tứ phía. Anh nghĩ cảm giác đó là hiển nhiên khi xung quanh là những chiếc bàn chất kín các món đồ cổ và vật lưu niệm, bộ đồ nội thất nặng nề theo phong cách thời Victoria, hàng đống vải bọc ghế, vải lông và khăn trải giường bằng len, những tấm thảm trải sàn được bện sợi nhỏ xíu trải trên sàn gỗ bóng loáng chờ đợi cơ hội trượt đi ngay khi có một bàn chân hớ hênh bước lên. Bị mười hai căn phòng đầy đồ đạc, vải vóc, quần áo và giấy tờ bao quanh. Rồi còn những cuốn sách nữa - Chúa ơi, những cuốn sách! Ba mặt của căn phòng làm việc nơi anh đứng kê kín những giá sách thẳng hàng tăm tắp, mỗi cái giá đều bị nhồi chật ních. Những cuốn tiểu thuyết kỳ bí bìa mềm nằm trong đống sách sáng màu rách nát trước mặt những bộ sách nghiên cứu bằng da bê, chen vai thích cánh với những cuốn được hội những người yêu sách lựa chọn, các cuốn cổ thư được chôm chỉa từ những thư viện nay đã không còn tồn tại, và hàng trăm hàng ngàn cuốn sách mỏng, tờ rơi, và bản sách cổ được khâu tay. Tình trạng tương tự xảy ra ở khắp nơi trong nhà. Sách và giấy tờ nằm la liệt trên mọi bề mặt nằm ngang, và bản lề của mọi chiếc tủ xép đều kêu kẽo kẹt. Ông bố nuôi quá cố của anh đã sống một cuộc đời dài lâu và trọn vẹn, sáu mươi lẻ hai chục tuổi[1]. Và trong tám mươi năm có lẻ đó, mục sư Reginald Wakefield chưa bao giờ vứt đi bất cứ thứ gì. Roger áp chế nỗi thôi thúc muốn chạy ngay ra ngoài, nhảy lên chiếc xe Morris Minor của anh và phóng thẳng về Oxford, kệ xác ngôi nhà mục sư này cùng với những thứ bên trong nó, mặc cho thời tiết và lũ phá hoại xử lý nó. Bình tĩnh lại nào, anh tự nhủ, hít thở thật sâu! Mày có thể giải quyết việc này mà. Sách là phần dễ nhất rồi; chỉ việc phân loại chúng rồi gọi người đến khuân đi là xong. Cứ cho là sẽ cần đến một chiếc xe tải cỡ lớn đi nữa thì chí ít việc này cũng có thể thực hiện được. Quần áo vải vóc - không vấn đề gì! Oxfam[2] sẽ bao hết cả lố. Anh không biết Oxfam sẽ làm gì với cả mớ com lê vải xẹc màu đen từ năm 1948, nhưng có lẽ những người nghèo thực sự sẽ không kén cá chọn canh. Anh bắt đầu hít thở dễ dàng hơn một chút. Anh đã xin nghỉ phép một tháng ở khoa Lịch sử trường Oxford để dọn dẹp tư gia của mục sư. Xem ra từng đó thời gian là đủ. Trong một thoáng tuyệt vọng, anh đã tưởng như nhiệm vụ này phải mất tới vài năm mới xong. Anh tiến đến một chiếc bàn, nhấc lên một cái đĩa sứ. Nó đựng đầy những mẩu kim loại nhỏ hình chữ nhật; những chiếc gaberlunzie bằng chì, thứ huy hiệu mà các linh mục cấp cho những tên ăn mày ở thế kỷ mười tám và được coi như một dạng giấy phép hành nghề. Một bộ sưu tập chai lọ bằng sành đứng bên cây đèn bàn, và cạnh chúng là một chiếc sừng đựng thuốc lá khảm bạc. Tặng chúng cho viện bảo tàng ư? Anh đắn đo. Ngôi nhà này đầy những món đồ tạo tác thời Jacobite[3]; mục sư vốn là một sử gia nghiệp dư, và thế kỷ mười tám là mảnh đất săn lùng tư liệu yêu thích của ông. Các ngón tay anh vô thức mơn trớn bề mặt chiếc sừng đựng thuốc lá, men theo những dòng chữ khắc thẳng tắp - bao gồm tên và ngày tháng của người trợ tế và người giữ quỹ trong Liên đoàn Thợ may của Canongate, Edinburgh năm 1726. Có lẽ anh nên giữ lại vài món đồ mà mục sư kiếm được… nhưng rồi anh rụt tay lại và lắc đầu quả quyết. “Chẳng để làm gì, đồ ngốc,” anh nói to, “cách sống này thật điên rồ.” Hoặc ít nhất giống cuộc đời của một bầy chuột. Khởi đầu bằng việc tích cóp những món đồ này, và kết thúc cuộc đời trong một ngôi nhà kỳ quái ngập ngụa rác rến. “Lại còn tự nói chuyện với bản thân nữa chứ!” Anh lẩm bẩm. Mời các bạn đón đọc Chuồn Chuồn Hổ Phách - Tập 1 của tác giả Diana Gabaldon & Diệu Hằng (dịch).
Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 2
Thoạt đầu nhìn tên của cuốn sách Outlander, được để nguyên không dịch ra tiếng Việt, cứ nghĩ cuốn sách thuộc dòng sách khoa học viễn tưởng, du hành ngoài không gian gì đó. Hóa ra không phải. Cuốn sách không mới - tác phẩm của Diana Gabaldon xuất bản lần đầu năm 1991, suốt 26 năm qua luôn là một trong những bộ tiểu thuyết lãng mạn hấp dẫn nhất của thời hiện đại, được dịch ra 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bản dịch tiếng Việt mới xuất hiện năm 2017. Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn là một trong những  bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất Trong một thời buổi hễ cứ nhìn thấy nhiều chữ là nhức đầu, cuốn sách phần nào làm người ta ngại: nó dày lắm, nặng trịch, dịch chưa hết nhưng đã tới tập 4 rồi, mỗi tập đều gần 500 trang, chữ không là chữ!   Nhưng đọc rồi, nhận ra cuốn sách cũng như một vòng tròn đá thiêng bí ẩn, người đọc mở trang đầu tiên là như đã ngã vào trong cánh cửa đá ấy, bị cuốn vào một không gian hun hút, mê đắm, dữ dội, và không muốn quay về. Outlander là một thông điệp nữ quyền ở dạng quyến rũ nhất, đàn bà nhất, thực tế trần trụi nhất, và do đó, cũng đẹp đẽ khó quên nhất.  Sau chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1945, một nữ y tá người Anh đang cùng chồng hưởng lại tuần trăng mật sau thời gian vợ chồng bị chiến tranh chia cắt, tại một vùng nông thôn cao nguyên Scotland. Một buổi bình minh trên ngọn đồi có một vòng tròn đá cổ xưa, cô được chứng kiến một nghi lễ ngợi ca mặt trời của những người đàn bà trong vùng. Ngày hôm sau, cô quay lại đó, khi chạm tay vào một phiến đá, cô bất ngờ bị hút vào quá khứ, rơi thẳng xuống thế kỷ XVIII với nghèo đói, lạc hậu, bệnh tật, chiến tranh và tình yêu. Cuộc hành trình bắt đầu, giữa hai cuộc sống là khoảng cách 200 năm, cô vẫn phải sống tiếp vì không thể quay trở về thời hiện đại. Với cuộc hôn nhân đầu tiên ở thế kỷ XX, cô là người vợ mất tích một cách bí ẩn; với thế kỷ XVIII và lãnh địa của dòng Mackenzie, cô mãi mãi là một người ngoài.  Những cuộc chinh phục của nhân loại thường được tiến hành về phía tương lai, phía những vùng đất mới, cùng với nam tính mạnh mẽ, thống trị. Trong khi cuộc du hành này được thực hiện ngược chiều kim đồng hồ, một cuộc trở về quá khứ, chuyến đi bất đắc dĩ của một người đàn bà mỏng manh. Kỳ lạ thay, cuộc trở về ấy giúp người ta hiểu rõ hơn bao giờ hết lịch sử và con người, tình yêu và thù hận, từ khởi đầu thụ động của chuyến đi, người đàn bà ngoại tộc ấy - mà xét cho cùng, người đàn bà nào chẳng là “người ngoại tộc”, đã chủ động, quyết liệt trong chọn lựa của mình, tồn tại, chữa lành, yêu và sống, tranh đấu và chiến thắng. Cô gái có tên Claire, nhưng cái tên ấy không ấn tượng bằng cái tên “Sassenach”, cũng là “Outlander”, chữ được dùng để gọi một người “ngoại tộc”. Chẳng phải không có dụng ý gì khi để cho một người ngoại tộc làm người xới lật lại lịch sử gia tộc và hơn thế nữa, đi ngược chiều phả hệ để hiểu và trải nghiệm: những kẻ ngoại tộc có con mắt quan sát và bản năng tìm hiểu để thích nghi, tồn tại. Đây là hành trình mang tính biểu tượng của một người đàn bà. Đây cũng chính là ý nghĩa sâu xa của thông điệp mang màu sắc nữ quyền ở tầm bản chất: chính người ngoại tộc ấy đã kết nối những thế hệ tổ tiên với con cháu của mình, chẳng phải thế sao? Nếu không có người đàn bà ngoại tộc ấy, những người đàn ông gieo hạt giống của mình ở đâu để có những vụ mùa kế tiếp? Sassenach có cuộc hôn nhân thứ nhất, và ở cuộc đời thứ hai này, cô có một người chồng nữa. Cô yêu cả hai. Một người đàn bà có thể yêu cả hai người đàn ông, một cách nào đó chung thủy với cả hai người, không phải chọn lựa, được không? Câu trả lời của cuốn sách này là: được. Cô đã đeo trên hai bàn tay mình hai chiếc nhẫn, chiếc nhẫn vàng từ người chồng trong cuộc hôn nhân thứ nhất, và chiếc nhẫn bạc của người chồng trong cuộc hôn nhân thứ hai. Không thể loại bỏ cái nào. Hai chiếc nhẫn, một vàng một bạc, là bí ẩn của nguồn cội sức mạnh của cô. Nó nhắc rằng phải có quá khứ, quá khứ phải diễn ra theo cách của nó, thì mới có hiện tại. Hiện tại ấy được quyết định từ trong quá khứ, và cho dẫu biết trước những đau thương, mất mát, cũng không thể tùy tiện thay đổi quá khứ để mong xếp đặt một hiện tại khác.  Claire, với khát vọng ban đầu cháy bỏng là trốn thoát khỏi thế kỷ XVIII để trở về với thế kỷ XX, trở về với cuộc đời hiện đại của cô, đã dần thay đổi: cô chọn ở lại với thế kỷ XVIII, với cuộc sống thiếu tiện nghi và lạc hậu, với sự mông muội hoang dã. Cô dùng khả năng của một nữ y tá để trị thương, để giúp đỡ mọi người, giảm thiểu những thiệt hại trong cái thất bại của tương lai mà cô biết trước. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái.  Cô ở lại vì tình yêu của mình, thứ tình yêu hoang dã, bản năng, gắn chặt với cuộc tồn sinh khó nhọc. Trách nhiệm với quá khứ, với lịch sử đã được chuyển thành ý thức cá nhân. Cô góp sức lực nhỏ bé của mình để phần nào làm cho cuộc sống của những người tốt xung quanh cô tốt hơn, thanh thản nhẹ nhàng hơn. Quyết định cuối cùng của Sassenach, một lần nữa dấn thân xuyên qua vòng tròn đá, trở lại thế kỷ XX, là một quyết định không vì cô, mà vì đứa con trong bụng. Đứa trẻ đã thay đổi ý nghĩa cuộc sinh tồn của cô, thay đổi quyết định của cô. Thiên chức làm mẹ chiến thắng. Thông điệp của tính mẫu, của nguyên lý mẹ có thể nhìn thấy ở đây. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái. Câu chuyện về hổ phách lại là một ẩn dụ mang tính biểu tượng nữa: những giọt nhựa cây ứa ra trong veo, nước mắt của loài thông, qua hàng ngàn năm kết tinh thành hổ phách. Con chuồn chuồn nhỏ bé, mỏng manh đông cứng trong mảnh hổ phách ấy, không hiểu sao cứ gợi người ta nghĩ đến những thân phận đàn bà. Chuồn chuồn hổ phách và sự bất tử mong manh mà nó chọn cũng chính là nước mắt của người phụ nữ, gói giấc mơ của mình - được bay lượn tự do giữa trời, trong sự hy sinh đã gần như là định mệnh.  Cuốn sách nói với người ta rằng: hiện tại là quan trọng, nhưng quá khứ chưa bao giờ là thứ chỉ ngủ yên, chỉ là những dòng lịch sử sách vở vô hồn. Quan trọng hơn, cuộc sống hiện tại của mỗi người thực ra đã được quyết định bằng chính quá khứ của họ, dù có khi họ không hay biết. Con đường để mình hiểu và đến với những người khác quanh mình nằm ở bên trong mỗi một con người, ở tầm bản lai diện mục, là sự chia sẻ mạnh mẽ của những tình cảm nguyên thủy cổ xưa, mà đôi khi, những thứ màu sắc hiện đại của ngày hôm nay vô tình che lấp. Thế giới đang toàn cầu hóa. Lúc nào đó, cách nào đó, mỗi con người đều có thể là một người ngoại tộc. Những cánh cửa mở ra không ngừng. Thế giới thay đổi mỗi ngày, công nghệ vùn vụt phát triển, nhưng nỗi băn khoăn tìm hiểu về chính bản thân mình, hiểu được người thương yêu của mình, hiểu để chia sẻ và sống cùng nhau trong tình yêu dưới một mái nhà… luôn luôn là nỗi băn khoăn hiện hữu. Con người chưa bao giờ thôi tự nhìn vào nguồn cội của mình, bản chất của mình. Theo cách đó, Outlander không viết về quá khứ theo kiểu tiểu thuyết lịch sử. Outlander viết về quá khứ như một cuộc du hành viễn tưởng, lãng mạn, thú vị, gai góc. Con người hiện tại muốn thực sự hiểu về quá khứ cần phải dấn thân vào cuộc du hành ấy. Lịch sử nằm trong chính trải nghiệm của mỗi con người. Hoàng Mai - phunuonline.com.vn *** Linh tính Sự xôn xao do chuyến trở về bất ngờ và lời thông báo về cuộc hôn nhân của chúng tôi bị át đi gần như ngay lập tức bởi một sự kiện quan trọng hơn. Ngày hôm sau, chúng tôi ngồi ăn tối ở đại sảnh và nhận những lời chúc tụng. “Buidheachas, mo caraid”[1]. Jamie cúi đầu duyên dáng với người chúc tụng cuối cùng rồi ngồi xuống giữa tiếng vỗ tay đang dần thưa thớt. Băng ghế gỗ lung lay dưới sức nặng của anh và anh thoáng nhắm mắt. “Anh uống hơi quá chén rồi phải không?” Tôi thì thầm. Trong khi anh phải gánh trọng trách đáp lễ những lời chúc tụng, uống cạn từng cốc rượu, thì tôi chỉ phải nhấp môi lấy lệ và nở nụ cười rạng rỡ trước những lời chúc bằng tiếng Gaelic mà tôi không tài nào hiểu nổi. Anh mở mắt nhìn tôi, mỉm cười. “Ý em là anh có say không hả? Không, anh có thể uống thứ này suốt đêm.” “Anh gần như đã uống suốt đêm rồi,” tôi nói, nhìn những chai rượu và bia rỗng xếp thành hàng trên tấm ván trước mặt. “Khuya lắm rồi.” Những ngọn nến trên bàn của Colum chỉ còn ngắn ngủn, lớp sáp lỏng ánh lên màu vàng kim, ánh nến hắt lên người anh em nhà MacKenzie những cái bóng kỳ lạ và khiến da thịt họ lấp lánh khi họ ghé lại gần nhau, thì thầm trò chuyện. Trông họ giống như những cái đầu tượng được chạm khắc quanh viền chiếc lò sưởi khổng lồ, và tôi tự hỏi bao nhiêu trong số những cái đầu tượng biếm họa đó được lấy hình mẫu từ những đường nét đầy vẻ trịch thượng của những vị lãnh chúa MacKenzie trước đây - có lẽ người thợ chạm khắc phải có khiếu hài hước lắm... hoặc phải là một người vô cùng thân thiết với gia đinh họ. Jamie khẽ vươn vai, nhăn mặt, tỏ vẻ không thoải mái. “Tuy nhiên,” anh nói, “bàng quang của anh sắp nổ tung rồi. Anh sẽ quay lại ngay.” Anh chống hai tay lên mặt ghế, lanh lẹ nhảy qua nó và biến mất qua cái cửa tò vò ở đầu thấp hơn của đại sảnh. Tôi chuyển sự chú ý sang Geillis Duncan đang ngồi từ tốn nhấm nháp một cốc bia ở bên còn lại của tôi. Chồng cô ta, Arthur, ngồi ở bàn kế bên bàn Colum, phù hợp với địa vị biện lý của vùng, nhưng Geilie khăng khăng ngồi cạnh tôi với cái cớ là cô ta không muốn mệt mỏi vì phải nghe những câu chuyện của đàn ông suốt bữa tối. Arthur đang lim dim, đôi mắt thâm quầng trũng sâu vì rượu và sự mệt mỏi. Ông ta nặng nề chống tay lên cằm, khuôn mặt uể oải, chẳng buồn đoái hoài đến cuộc trò chuyện của anh em nhà MacKenzie ở bên cạnh mình. Trong khi ánh nến làm cho những đường nét sắc sảo của lãnh chúa và em trai trở nên thanh thoát hơn thì nó chỉ khiến cho Arthur Duncan trông càng béo ị và ốm yếu. “Chồng chị trông không được khỏe lắm,” tôi nhận xét. “Chứng bệnh về dạ dày của ông ấy đã tệ hơn à?” Những triệu chứng của ông ta khá khó hiểu; không giống như bị loét, cũng không phải ung thư - khi mà ông ta vẫn còn núng nính thế kia - có lẽ chỉ là viêm dạ dày kinh niên, như Geilie khẳng định. Geilie liếc qua chồng mình trước khi quay lại nhìn tôi và nhún vai. “Ồ, ông ấy vẫn khỏe,” cô ta nói. “Ít nhất cũng không tệ hơn. Còn chồng cô thì sao?” “Ơ, chuyện gì về anh ấy cơ?” Tôi thận trọng đáp. Cô ta hích mạnh cùi chỏ vào mạng sườn tôi với vẻ thân thiết, và tôi nhận ra ở đầu bàn của cô ta có khá nhiều cái chai rỗng. “Chà, cô nghĩ thế nào? Khi không mặc quần áo, trông anh ta có tuyệt như lúc có mặc quần áo không?” “Ừm...” Tôi tìm câu trả lời khi cô ta nghển cổ về phía cửa. “Vậy mà cô dám tuyên bố mình chẳng quan tâm tới anh ta chút nào! Thông minh lắm! Một nửa số con gái trong lâu đài sẽ muốn giật trụi tóc cô đấy - nếu tôi là cô, tôi sẽ cẩn thận với những gì mình ăn.” “Những gì tôi ăn ư?” Tôi hoang mang nhìn xuống cái đĩa lớn bằng gỗ hiện trống trơn ngoài một vệt mỡ và một miếng hành luộc trơ trọi. “Thuốc độc,” cô ta rít lên vẻ kịch tính bên tai tôi, phả ra mùi brandy. “Vớ vẩn,” tôi lạnh lùng nói, rụt người lại. “Sẽ chẳng có ai muốn đầu độc tôi chỉ đơn giản vì tôi... ờ, vì...” Tôi hơi lúng túng, và chợt nghĩ ra rằng có thể tôi đã uống nhiều hơn tôi tưởng. “Chà, thực sự thì, Geilie, cuộc hôn nhân này... tôi đã không lường trước. Tôi không hề muốn nó!” Tôi không nói dối. “Đó chỉ là một... sự... thu xếp cần thiết,” tôi nói, hy vọng ánh nến che giấu được khuôn mặt đỏ lựng của mình. “Ha,” cô ta nói, vẻ chế nhạo. “Chỉ cần nhìn là tôi nhận ra ngay cô gái nào có đời sống chăn gối mãn nguyện.” Cô ta liếc về phía cửa tò vò nơi Jamie đã đi qua. “Và tôi không ngốc đến nỗi nghĩ rằng những dấu vết trên cổ chồng cô là vết muỗi đốt.” Cô ta nhướng một bên lông mày màu bạc. “Nếu đây chỉ là một cuộc hôn nhân sắp đặt thì cô đã vớ được một món bở rồi đây.” Cô ta lại ghé sát tôi. “Chuyện đó có đúng không?” Cô ta thì thầm. “Chuyện về hai ngón tay cái ấy?” “Hai ngón tay cái? Geilie, nhân danh Chúa, chị đang nói linh tinh gì vậy?” Cô ta nhìn tôi, nhíu mày vẻ tập trung. Đôi mắt xám xinh đẹp hơi lờ đờ, và tôi hy vọng cô ta sẽ không ngã nhào. “Cô hẳn phải biết chứ? Ai cũng biết mà! Hai ngón tay cái của một người đàn ông sẽ cho cô biết kích cỡ “cái đó” của anh ta. Đương nhiên là cả những ngón chân cái nữa,” cô ta thận trọng nói thêm, “nhưng thường thì chúng khó đánh giá hơn vì đã bị giày che mất. Con cáo con đằng kia,” cô ta hất đầu về phía cửa tò vò, nơi Jamie vừa xuất hiện trở lại, “hai bàn tay anh ta có thể ôm trọn một quả bí xanh cỡ to. Hoặc một cái mông to, nhỉ?” Cô ta nói thêm, lại hích tôi cái nữa. “Geillis Duncan, chị... im... miệng... được không?” Tôi rít lên, mặt đỏ bừng. “Ai đó sẽ nghe thấy lời chị nói đấy!” “Ồ, không ai là...” Cô ta ngừng lại nửa chừng, nhìn chằm chằm. Jamie đã đi thẳng qua bàn chúng tôi như thể không trông thấy chúng tôi. Khuôn mặt anh tái nhợt, môi mím chặt, vẻ như đang quyết tâm làm nhiệm vụ gì khó chịu lắm. “Có chuyện gì thế nhỉ?” Geilie hỏi. “Trông anh ta giống như Arthur sau khi ăn củ cải sống vậy.” “Tôi không biết.” Tôi đây ghế lại, ngập ngừng. Jamie đang tiến về phía bàn của Colum. Tôi có nên đi theo anh không? Rõ ràng đã xảy ra chuyện gì đó. Geilie nhìn xuôi theo căn phòng, đột nhiên kéo tay áo tôi, chỉ về chỗ Jamie xuất hiện lúc nãy. Một người đàn ông đứng ngay ở cửa tò vò, cũng ngập ngừng như tôi. Quần áo anh ta lấm lem bùn đất và bụi đường; có lẽ anh ta vừa từ xa tới. Một người đưa tin. Dù tin tức đó là gì thì anh ta cũng đã truyền nó cho Jamie, và giờ đến lượt Jamie cúi người thì thầm vào tai Colum. Không, không phải là Colum. Là Dougal. Mái đầu đỏ cúi thấp giữa hai mái đầu tối sẫm, những đường nét đẹp đẽ của cả ba khuôn mặt trông giống nhau đến ngỡ ngàng trong ánh nến dần tàn lụi. Tôi nhận ra rằng trông họ giống nhau đến vậy là do cả ba người đang cùng mang vẻ mặt đau đớn, bàng hoàng. Bàn tay Geilie bấu chặt cánh tay tôi. “Tin xấu,” cô ta nói một câu thừa thãi. ••• “Hai mươi tư năm,” tôi khẽ nói. “Có vẻ là một cuộc hôn nhân lâu dài.” “Ừ, đúng vậy,” Jamie đồng ý. Một làn gió ấm áp khuấy động những nhành cây trên đầu chúng tôi, thổi mái tóc tôi tung bay, khiến những sợi tóc lòa xòa cọ vào mặt tôi nhột nhạt. “Còn dài hơn cả tuổi đời của anh nữa.” Anh đang dựa vào hàng rào của bãi giữ ngựa, cao ráo và chắc khỏe. Tôi thường quên mất anh còn rất trẻ; anh luôn có vẻ quá tự tin và giỏi giang. “Tuy nhiên,” anh nói, búng một cọng rơm vào đống bùn nhão ở bãi giữ ngựa, “anh nghĩ Dougal ở với mợ ấy không quá ba năm. Ông ấy thường ở Leoch hoặc đi đây đi đó quanh lãnh địa, làm việc cho Colum.” Vợ của Dougal, Maura, đã mất ở điền trang Beannachd của họ vì một cơn sốt bất ngờ. Dougal đã rời khỏi lâu đài từ lúc bình minh cùng với Ned Gowan và người đưa tin đêm qua để lo liệu tang ma và giải quyết vấn đề tài sản của vợ ông ta. “Vậy ra đó không phải là một cuộc hôn nhân khăng khít?” Tôi tò mò hỏi. Jamie nhún vai. “Anh nghĩ nó cũng khăng khít như hầu hết các cuộc hôn nhân khác. Mợ ấy còn bận rộn với con cái và việc trông nom nhà cửa; có lẽ mợ ấy cũng không nhớ Dougal nhiều lắm, dù mợ ấy có vẻ vui mừng mỗi khi Dougal về nhà.” “Phải rồi, anh đã sống với họ một thời gian, đúng không?” Tôi im lặng suy nghĩ. Liệu đây có phải là quan niệm của Jamie về hôn nhân không? Bình thường thì sống riêng, chỉ thi thoảng mới ở với nhau để sinh con. Tuy nhiên, từ những câu chuyện vụn vặt anh đã kể, cha mẹ anh rất gần gũi và yêu thương nhau. Như thể có một mánh lới thần bí nào đó để đọc được những ý nghĩ của tôi, anh nói: “Với gia đình anh thì khác. Cuộc hôn nhân của Dougal là một cuộc hôn nhân sắp đặt, giống như cuộc hôn nhân của Colum vậy, họ kết hôn vì đất đai và những lợi ích khác chứ không phải vì ham muốn nhau. Nhưng cha mẹ anh - ờ, họ lấy nhau vì tình yêu, trái với ý muốn của cả hai bên gia đình, vì vậy nhà anh... không hẳn là bị cắt đứt quan hệ; nhưng hầu như không giao thiệp với ai khi ở Lallybroch. Cha mẹ anh không hay đi thăm người thân hoặc đi làm việc ở bên ngoài, vì thế anh nghĩ họ gắn bó với nhau nhiều hơn những cặp vợ chồng thông thường.” Anh đặt tay lên eo lưng tôi, kéo tôi lại gần, rồi cúi đầu, lướt môi qua vành tai tôi. “Cuộc hôn nhân của chúng ta là một sự sắp đặt,” anh khẽ nói. “Tuy nhiên, anh mong... có lẽ một ngày nào đó...” Anh vụng về ngừng lời, nở nụ cười nửa miệng và xua tay như muốn gạt đi câu nói ấy. Không muốn khuyến khích anh tiếp tục, tôi mỉm cười đáp lại với vẻ bình thản nhất có thể và quay mặt về phía bãi giữ ngựa. Không cần chạm vào nhau, tôi vẫn có thể cảm nhận được anh đang ở bên cạnh tôi, bàn tay to lớn của anh nắm lấy thanh chắn trên cùng của hàng rào. Tôi cũng nắm lấy thanh chắn để ngăn mình không cầm lấy tay anh. Tôi rất muốn quay sang để an ủi, trấn an anh bằng cả cơ thể và lời nói rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi không chỉ dừng lại ở mức độ của một cuộc hôn nhân sắp đặt. Nhưng chính sự thật ấy đã ngăn tôi lại. Cảm xúc giữa hai chúng ta, anh đã nói, khi anh chạm vào em, khi em nằm bên anh. Không, nó không bình thường chút nào. Nó cũng không phải là một sự say nắng đơn thuần, như tôi đã nghĩ ban đầu. Tuy nhiên, tôi đã bị trói buộc với một người đàn ông khác bởi những lời thề, lòng chung thủy và luật pháp. Và cả tình yêu nữa. Tôi không thể, không thể nói với Jamie tình cảm tôi dành cho anh. Nói ra rồi sau đó lại bỏ đi, như thế sẽ là sự độc ác tột cùng. Tôi cũng không thể nói dối anh. ... Mời các bạn đón đọc Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 của tác giả Diana Gabaldon & Khánh Vân (dịch).
Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1
Outlander - Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 Outlander - Vòng Tròn Đá Thiêng 1 là cuốn đầu tiên trong bộ tiểu thuyết lịch sử xuyên thời gian của Diana Gabaldon. Bà đã dệt nên một câu chuyện đầy ma lực đan xen giữa lịch sử và thần thoại, nó chứa đầy những đam mê mãnh liệt và sự táo bạo. Năm 1945, sau khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Claire - một nữ y tá quân đội - vừa được trở về đoàn tụ cùng chồng là Frank Randall sau tám năm xa cách vì chiến tranh. Họ quyết định hưởng tuần trăng mật thứ hai tại vùng cao nguyên Scotland huyền bí. Một lần tình cờ, Claire dạo chơi lên ngọn đồi tiên nơi có vòng tròn đá cổ xưa và bị kéo về quá khứ tới năm 1743. Ở đó, cô bị các phe phái nghi ngờ là gián điệp, bị mắc kẹt trong những âm mưu ngấm ngầm và cuộc chiến giữa các lãnh chúa vùng cao nguyên với quân Anh. Claire bị ép buộc kết hôn với một chiến binh trẻ người Scot để có được sự bảo vệ và an toàn. Claire bị giằng xé giữa hai cuộc hôn nhân, giữa lòng chungthủy và những khao khát đam mê, giữa hai người đàn ông khác xa nhau về mọi mặt trong hai cuộc đời không thể dung hòa… *** Thoạt đầu nhìn tên của cuốn sách Outlander, được để nguyên không dịch ra tiếng Việt, cứ nghĩ cuốn sách thuộc dòng sách khoa học viễn tưởng, du hành ngoài không gian gì đó. Hóa ra không phải. Cuốn sách không mới - tác phẩm của Diana Gabaldon xuất bản lần đầu năm 1991, suốt 26 năm qua luôn là một trong những bộ tiểu thuyết lãng mạn hấp dẫn nhất của thời hiện đại, được dịch ra 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bản dịch tiếng Việt mới xuất hiện năm 2017. Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn là một trong những  bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất Trong một thời buổi hễ cứ nhìn thấy nhiều chữ là nhức đầu, cuốn sách phần nào làm người ta ngại: nó dày lắm, nặng trịch, dịch chưa hết nhưng đã tới tập 4 rồi, mỗi tập đều gần 500 trang, chữ không là chữ!   Nhưng đọc rồi, nhận ra cuốn sách cũng như một vòng tròn đá thiêng bí ẩn, người đọc mở trang đầu tiên là như đã ngã vào trong cánh cửa đá ấy, bị cuốn vào một không gian hun hút, mê đắm, dữ dội, và không muốn quay về. Outlander là một thông điệp nữ quyền ở dạng quyến rũ nhất, đàn bà nhất, thực tế trần trụi nhất, và do đó, cũng đẹp đẽ khó quên nhất.  Sau chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1945, một nữ y tá người Anh đang cùng chồng hưởng lại tuần trăng mật sau thời gian vợ chồng bị chiến tranh chia cắt, tại một vùng nông thôn cao nguyên Scotland. Một buổi bình minh trên ngọn đồi có một vòng tròn đá cổ xưa, cô được chứng kiến một nghi lễ ngợi ca mặt trời của những người đàn bà trong vùng. Ngày hôm sau, cô quay lại đó, khi chạm tay vào một phiến đá, cô bất ngờ bị hút vào quá khứ, rơi thẳng xuống thế kỷ XVIII với nghèo đói, lạc hậu, bệnh tật, chiến tranh và tình yêu. Cuộc hành trình bắt đầu, giữa hai cuộc sống là khoảng cách 200 năm, cô vẫn phải sống tiếp vì không thể quay trở về thời hiện đại. Với cuộc hôn nhân đầu tiên ở thế kỷ XX, cô là người vợ mất tích một cách bí ẩn; với thế kỷ XVIII và lãnh địa của dòng Mackenzie, cô mãi mãi là một người ngoài.  Những cuộc chinh phục của nhân loại thường được tiến hành về phía tương lai, phía những vùng đất mới, cùng với nam tính mạnh mẽ, thống trị. Trong khi cuộc du hành này được thực hiện ngược chiều kim đồng hồ, một cuộc trở về quá khứ, chuyến đi bất đắc dĩ của một người đàn bà mỏng manh. Kỳ lạ thay, cuộc trở về ấy giúp người ta hiểu rõ hơn bao giờ hết lịch sử và con người, tình yêu và thù hận, từ khởi đầu thụ động của chuyến đi, người đàn bà ngoại tộc ấy - mà xét cho cùng, người đàn bà nào chẳng là “người ngoại tộc”, đã chủ động, quyết liệt trong chọn lựa của mình, tồn tại, chữa lành, yêu và sống, tranh đấu và chiến thắng. Cô gái có tên Claire, nhưng cái tên ấy không ấn tượng bằng cái tên “Sassenach”, cũng là “Outlander”, chữ được dùng để gọi một người “ngoại tộc”. Chẳng phải không có dụng ý gì khi để cho một người ngoại tộc làm người xới lật lại lịch sử gia tộc và hơn thế nữa, đi ngược chiều phả hệ để hiểu và trải nghiệm: những kẻ ngoại tộc có con mắt quan sát và bản năng tìm hiểu để thích nghi, tồn tại. Đây là hành trình mang tính biểu tượng của một người đàn bà. Đây cũng chính là ý nghĩa sâu xa của thông điệp mang màu sắc nữ quyền ở tầm bản chất: chính người ngoại tộc ấy đã kết nối những thế hệ tổ tiên với con cháu của mình, chẳng phải thế sao? Nếu không có người đàn bà ngoại tộc ấy, những người đàn ông gieo hạt giống của mình ở đâu để có những vụ mùa kế tiếp? Sassenach có cuộc hôn nhân thứ nhất, và ở cuộc đời thứ hai này, cô có một người chồng nữa. Cô yêu cả hai. Một người đàn bà có thể yêu cả hai người đàn ông, một cách nào đó chung thủy với cả hai người, không phải chọn lựa, được không? Câu trả lời của cuốn sách này là: được. Cô đã đeo trên hai bàn tay mình hai chiếc nhẫn, chiếc nhẫn vàng từ người chồng trong cuộc hôn nhân thứ nhất, và chiếc nhẫn bạc của người chồng trong cuộc hôn nhân thứ hai. Không thể loại bỏ cái nào. Hai chiếc nhẫn, một vàng một bạc, là bí ẩn của nguồn cội sức mạnh của cô. Nó nhắc rằng phải có quá khứ, quá khứ phải diễn ra theo cách của nó, thì mới có hiện tại. Hiện tại ấy được quyết định từ trong quá khứ, và cho dẫu biết trước những đau thương, mất mát, cũng không thể tùy tiện thay đổi quá khứ để mong xếp đặt một hiện tại khác.  Claire, với khát vọng ban đầu cháy bỏng là trốn thoát khỏi thế kỷ XVIII để trở về với thế kỷ XX, trở về với cuộc đời hiện đại của cô, đã dần thay đổi: cô chọn ở lại với thế kỷ XVIII, với cuộc sống thiếu tiện nghi và lạc hậu, với sự mông muội hoang dã. Cô dùng khả năng của một nữ y tá để trị thương, để giúp đỡ mọi người, giảm thiểu những thiệt hại trong cái thất bại của tương lai mà cô biết trước. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái.  Cô ở lại vì tình yêu của mình, thứ tình yêu hoang dã, bản năng, gắn chặt với cuộc tồn sinh khó nhọc. Trách nhiệm với quá khứ, với lịch sử đã được chuyển thành ý thức cá nhân. Cô góp sức lực nhỏ bé của mình để phần nào làm cho cuộc sống của những người tốt xung quanh cô tốt hơn, thanh thản nhẹ nhàng hơn. Quyết định cuối cùng của Sassenach, một lần nữa dấn thân xuyên qua vòng tròn đá, trở lại thế kỷ XX, là một quyết định không vì cô, mà vì đứa con trong bụng. Đứa trẻ đã thay đổi ý nghĩa cuộc sinh tồn của cô, thay đổi quyết định của cô. Thiên chức làm mẹ chiến thắng. Thông điệp của tính mẫu, của nguyên lý mẹ có thể nhìn thấy ở đây. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái. Câu chuyện về hổ phách lại là một ẩn dụ mang tính biểu tượng nữa: những giọt nhựa cây ứa ra trong veo, nước mắt của loài thông, qua hàng ngàn năm kết tinh thành hổ phách. Con chuồn chuồn nhỏ bé, mỏng manh đông cứng trong mảnh hổ phách ấy, không hiểu sao cứ gợi người ta nghĩ đến những thân phận đàn bà. Chuồn chuồn hổ phách và sự bất tử mong manh mà nó chọn cũng chính là nước mắt của người phụ nữ, gói giấc mơ của mình - được bay lượn tự do giữa trời, trong sự hy sinh đã gần như là định mệnh.  Cuốn sách nói với người ta rằng: hiện tại là quan trọng, nhưng quá khứ chưa bao giờ là thứ chỉ ngủ yên, chỉ là những dòng lịch sử sách vở vô hồn. Quan trọng hơn, cuộc sống hiện tại của mỗi người thực ra đã được quyết định bằng chính quá khứ của họ, dù có khi họ không hay biết. Con đường để mình hiểu và đến với những người khác quanh mình nằm ở bên trong mỗi một con người, ở tầm bản lai diện mục, là sự chia sẻ mạnh mẽ của những tình cảm nguyên thủy cổ xưa, mà đôi khi, những thứ màu sắc hiện đại của ngày hôm nay vô tình che lấp. Thế giới đang toàn cầu hóa. Lúc nào đó, cách nào đó, mỗi con người đều có thể là một người ngoại tộc. Những cánh cửa mở ra không ngừng. Thế giới thay đổi mỗi ngày, công nghệ vùn vụt phát triển, nhưng nỗi băn khoăn tìm hiểu về chính bản thân mình, hiểu được người thương yêu của mình, hiểu để chia sẻ và sống cùng nhau trong tình yêu dưới một mái nhà… luôn luôn là nỗi băn khoăn hiện hữu. Con người chưa bao giờ thôi tự nhìn vào nguồn cội của mình, bản chất của mình. Theo cách đó, Outlander không viết về quá khứ theo kiểu tiểu thuyết lịch sử. Outlander viết về quá khứ như một cuộc du hành viễn tưởng, lãng mạn, thú vị, gai góc. Con người hiện tại muốn thực sự hiểu về quá khứ cần phải dấn thân vào cuộc du hành ấy. Lịch sử nằm trong chính trải nghiệm của mỗi con người. Hoàng Mai - phunuonline.com.vn *** Ở nơi bờ Tây Scotland năm 1945, khi Thế chiến thứ hai kết thúc, đôi vợ chồng Frank và Claire gặp nhau sau bao năm xa cách, trao nhau những lời ân ái ngọt ngào. Nhưng 200 năm trước, chính tại nơi đây, trên ngọn đồi Craigh na Dun, những chiến binh dũng mãnh nhất đấu đá nhau trong cuộc chiến tranh giành vương quyền. Trong một lần dạo chơi quanh những vòng tròn đá thiêng cổ xưa tọa lạc trên đồi, Claire đã bị kéo từ hiện tại ngược dòng quá khứ về với Scotland thế kỉ 18. Từ một nữ y tá quân đội, giờ đây Claire trở thành kẻ ngoại tộc – Sassenach, như cái cách đầy yêu thương mà chàng chiến binh Jamie dùng để gọi cô. Chính nơi đây, thời đại này, với chút kiến thức y học về thảo dược của mình, cô đã tìm cách ngăn cản cuộc chiến đẫm máu nơi đầm lầy Culloden mà sử sách ghi chép, để bảo vệ người đàn ông của đời mình. Liệu một cô gái đến từ tương lai có thể thay đổi quá khứ? Hay chính cô là tác nhân khiến cho dòng chảy lịch sử được khơi thông? Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn nằm trong top 10 bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất mọi thời đại. Là người hiện đại, nhưng Claire lại thích nghi nhanh chóng với cuộc sống rong ruổi trên lưng ngựa. Nhưng điều quan trọng hơn, cô đã rơi vào tình yêu mãnh liệt, nồng cháy với Jamie dẫu cho trong trái tim vẫn luôn khắc khoải và day dứt về Frank. Nếu ở trong tình cảnh của Claire, bạn sẽ lựa chọn bên nào, một quá khứ bấp bênh hay hiện tại rạn vỡ? Claire có thể đeo hai chiếc nhẫn, một vàng của Frank, một bạc của Jamie. Cô cũng có thể bảo vệ cả hai, như cái cách cô đặt bàn tay trái nơi có chiếc nhẫn vàng lên che chở chiếc nhẫn bạc nơi bàn tay phải. Hay cách cô cầu xin Jamie, khiến anh chấp nhận hy sinh linh hồn mình cho sự sống của Frank. Và cách cô dùng những hiểu biết và kiến thức lịch sử của Frank để giúp đỡ và giữ mạng sống cho Jamie. Thế nhưng với ngăn cách thời gian và không gian, cô không thể nào có được cả hai người đàn ông, dẫu cho họ đều yêu cô với một trái tim chân thành và thuần khiết. Như một quy luật tất yếu của tự nhiên, khi ánh vàng rực rỡ mặt trời lùi về phía bờ tây, ánh bạc dịu dàng và huyền bí mặt trăng sẽ chiếm ngự bóng tối. Và ngược lại. Cũng như con người ta không thể khiến bản thân mình vừa có thể sống với hiện tại rạn vỡ nhưng thực tế, lại vừa có thể sống ở quá khứ bấp bênh nhưng tươi đẹp. Định mệnh trớ trêu bắt buộc Claire phải lựa chọn. Và dù lựa chọn thế nào, đau đớn vẫn là một kết quả chắc chắn. Bóng hình của người đàn ông còn lại vẫn mãi khắc ghi nơi tận cùng linh hồn, thỉnh thoảng lại cứa vào lòng cô những vết cắt khiến trái tim rỉ máu. Nếu ở trong tình cảnh của Claire, bạn sẽ lựa chọn bên nào, một quá khứ bấp bênh hay hiện tại rạn vỡ? Có một truyền thuyết kể rằng, hổ phách được hình thành nên từ nước mắt của mẹ và chị gái của Phaethon - con trai thần Mặt trời - khi Phaethon bị thần Zeus đánh chết. Còn chuồn chuồn, loài côn trùng nhỏ bé với đôi cánh mỏng manh yếu ớt nhưng lại có sức hút diệu kì, ẩn chứa nguồn sức mạnh phi thường để phá kén, chuyển cuộc sống trong bọc kén thành cuộc sống tự do nơi bầu trời cao rộng- hệt như một sự thoát khỏi quá khứ và hướng đến tương lai. Sống trong tình yêu của Jamie, Claire như con chuồn chuồn nhỏ đang tung cánh giữa thiên nhiên tươi đẹp và trời xanh rộng lớn. Nhưng khi cô buộc phải bước qua những vòng tròn đá lần nữa để trở về thực tại, những giọt nước mắt thấm đẫm bờ mi và khuôn mặt cô, như những giọt hổ phách kia. Con chuồn chuồn Claire vẫn mãi bị giữ chặt và giam cầm trong chính miếng hổ phách đã được kết tinh ấy, mãi chẳng thể nào bay xa được. Claire đã lựa chọn. Tôi cũng đã có quyết định cho riêng mình. Vậy, sao bạn không thử lựa chọn? Giữa Frank với Jamie, giữa quá khứ và hiện tại. Outlander là bộ tiểu thuyết về du hành xuyên thời gian lãng mạn bậc nhất do Goodreads bình chọn. Kể từ lần đầu xuất bản năm 1991, 8 tập truyện Outlander của tác giả Diana Gabaldon đã dịch ra hơn 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bộ phim chuyển thể từ tác phẩm cũng đã được kênh truyền hình Starz (Mỹ) phát sóng từ năm 2014. Chỉ trong vòng 1 năm sau khi phim ra mắt, ước tính doanh thu sách đã thu về 6 triệu USD - gấp 2 lần con số mà quyển thứ 8 của Outlander bán được từ năm 2010. Tú Văn - vietnamnet.vn Mời các bạn đón đọc Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 của tác giả Diana Gabaldon & Khánh Vân (dịch).
Phù Thuỷ Xanh
Ra đời từ 1974, Phù Thủy Xanh đã chứng tỏ được sức sống bền lâu với vị trí của mình trong số các tác phẩm kinh điển của dòng văn học thiếu nhi kỳ ảo và đến nay vẫn được tái bản bằng nhiều ngôn ngữ. Susan Cooper một lần nữa thành công ở thể loại sách từng đem lại cho bà Huân chương Newbery cao quý, lần này là một chuyến phiêu lưu nữa trong cuộc đối đầu Thiện - Ác bất tận. Một chiếc chén thánh vô giá bị đánh cắp, một hình nhân đẩy sức mạnh kết bằng cành lá được thả xuống biển khơi, một cuộc truy lùng ly kỳ, cuộc đụng độ nghẹt thở giữa phe Ánh Sáng và Bóng Tối - quá đủ cho một tập sách lôi cuốn đồng thời nuôi dưỡng niềm tin cho các độc giả trẻ vào sức mạnh vô song của cái Thiện. *** Phù Thuỷ Xanh là tập thứ 3 trong series kỳ ảo làm nên tên tuổi cho tác giả Susan Cooper. Bộ sách gồm 5 tập, được Nhã Nam xuất bản chắc phải hơn chục năm rồi. - Tập 1: Trên biển khơi, dưới đá thẳm - Tập 2: Bóng Tối Trỗi Dậy - Tập 3: Phù Thuỷ Xanh - Tập 4: Vua Xám - Tập 5: Bạc Trên Cây (Nhã Nam không xuất bản tập cuối có lẽ do bộ này không hút khách nên muốn đọc các bạn có thể tìm bản tiếng Anh) *** Susan Mary Cooper sinh năm 1935 tại Burnham, Buckinghamshire, nước Anh. Bóng tối trỗi dậy là bộ sách quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tác của bà, đem lại cho tác giả các giải Newbery và Carnegie danh tiếng cùng một chỗ đứng không thể bỏ qua trong nền văn học thiếu nhi thế giới. Tác phẩm đã dung hợp những huyền thoại cổ của nước Anh với các chất liệu dân gian độc đáo, làm nên một thế giới nơi Thiện và Ác đối đầu trên một bình diện sử thi, thường được ví với những gì J. R. R. Tolkien và C. S. Lewis đã sáng tạo ra.   Khi Bóng Tối trỗi dậy, sáu vật đẩy lùi ngay, Ba từ vòng tròn đến, ba từ giữa đường ra; Gỗ, đồng và sắt; nước, lửa và đá; Năm vật quay trở lại, một lẻ loi lên đường Sắt cho ngày sinh nhật, đồng luôn được mang theo; Gỗ có từ lửa cháy, đá từ tiếng hát ra; Lửa trong vòng đựng nến, nước từ khối tuyết tan; Vòng tròn sáu Dấu Hiệu, chén Thánh đi trước rồi.   Lửa trên núi sẽ tìm thấy được đàn hạc vàng; Tiếng đàn làm tỉnh giấc những Người Ngủ già nua; Sức mạnh Phù Thủy Xanh bị mất dưới đáy biển; Đưa ánh sáng trở về, bạc dát đầy trên cây.   CHƯƠNG MỘT   Chỉ có một tờ báo duy nhất đăng chi tiết câu chuyện dưới tít: BÁU VẬT BỊ ĐÁNH CẮP KHỎI VIỆN BẢO TÀNG. Một số cổ vật Xen tơ* (Khối cộng đồng ngôn ngữ và văn hóa bao gồm Ireland, Scotland, Wales, và Cornwall - ND) đã bị đánh cắp khỏi viện Bảo Tàng Anh Quốc ngày hôm qua, một trong số đó đáng giá hơn 50,000 bảng. Cảnh sát cho biết có vẻ vụ trộm là kết quả của một kế hoạch rất tinh vi và cho đến giờ vẫn khiến họ đau đầu. Không cái chuông báo động nào reo, tủ trưng bày những hiện vật trên không hề bị hư hại, và không có dấu hiệu nào cho thấy đã có kẻ đột nhập vào bảo tàng. Những hiện vật bị đánh cắp bao gồm một chiếc chén vàng, ba chiếc trâm nạm ngọc và một chiếc khóa thắt lưng bằng đồng. Chiếc được biết đến với cái tên Chén Thánh Trewissick, mới được đưa tới viện bảo tàng hè năm ngoái, là phát hiện ngoạn mục của ba em nhỏ trong một hang đá ở Cornwall. Nó ước tính trị giá 50,000 bảng, nhưng một phát ngôn viên của viện bảo tàng đêm qua nói rằng giá trị thật của nó là “không thể tính nổi,” do những nét chạm độc nhất vô nhị trên thành chén mà cho đến nay các học giả vẫn chưa thể giải mã được. Phát ngôn viên cũng nói thêm rằng viện bảo tàng đã kêu gọi bọn trộm đừng làm bất kỳ điều gì tổn hại đến chiếc chén, và sẽ trả một khoản tiền chuộc lớn nếu chiếc chén được hoàn lại. “Chiếc chén là một bằng chứng lịch sử có một không hai, chưa từng có trong toàn bộ ngành nghiên cứu về văn hóa Xen tơ,” ông nói, “và tầm quan trọng của nó đối với các học giả vượt xa giá trị thực của nó.” Huân tước Clare, một ủy viên quản trị của viện Bảo Tàng Anh Quốc, đêm qua đã nói rằng chiếc chén... “Thôi rời tờ báo ra đi, Barney,” Simon bực dọc bảo. “Mày đã đọc nó đến cả năm chục lần rồi, đọc nữa thì cũng có được gì đâu.” “Ai biết đâu được đấy,” cậu em trai đáp, gấp tờ báo lại và nhét vào túi. “Nhỡ đâu lại có một manh mối nào ẩn trong bài báo thì sao.” “Chẳng có gì ẩn giấu hết,” Jane buồn bã nói. “Tất cả đều rõ rành rành rồi.” Chúng rầu rĩ đứng thành một hàng trên sàn nhà bóng loáng của phòng trưng bày ở viện bảo tàng, trước một tủ kính nằm giữa phòng cao vượt lên so với những hàng tủ kính giống y hệt nhau ở xung quanh. Chiếc tủ trống trơn, chỉ có độc một cái bệ gỗ màu đen, rõ ràng trước kia từng đặt một vật trưng bày ở đây. Một vuông bạc nguyên chất gắn trên bệ gỗ được khắc mấy chữ: Cốc đựng rượu lễ bằng vàng, tác phẩm của nghệ nhân Xen tơ vô danh, dự đoán chế tác từ thế kỷ thứ sáu. Tìm thấy tại Trewissick, miền Nam Cornwall, do Simon, Jane và Barnabas Drew trao tặng. “Bọn mình đã phải mất bao nhiêu công sức mới đem được nó về đây,” Simon nói. “Thế mà bây giờ bọn chúng chỉ việc đến nẫng đi. Nhưng thật ra thì tao cũng đã luôn nghĩ rằng chúng sẽ làm thế.” Barney nói, “Tệ nhất là không thể nói cho ai biết kẻ nào đã làm chuyện này.” “Mình có thể thử chứ,” Jane nói. Simon nghiêng đầu nhìn em. “Thưa ông, chúng cháu có thể cho ông biết ai đã đánh cắp chiếc chén Thánh giữa thanh thiên bạch nhật mà không bẻ một cái khóa nào. Đó chính là thế lực Bóng Tối.” “Xéo đi, nhóc con” Barney nói. “Và đem cả chuyện cổ tích của chú mày theo nữa.” “Em nghĩ là anh nói đúng, Jane nói. Em lơ đãng giật giật món tóc đuôi ngựa. “Nhưng nếu vẫn là mấy kẻ đó, thì chí ít cũng phải có ai đấy nhìn thấy chúng chứ. Cái gã Hastings đáng sợ ấy...” “Không thể nào. Gã Hastings đó có thể thay hình đổi dạng, Ông Merry đã bảo vậy mà. Em không nhớ à? Hắn sẽ không mang cái tên đó, hay khuôn mặt đó nữa. Hắn có thể là những người khác nhau, vào những thời điểm khác nhau.” “Không biết Ông Merry có biết không nhỉ?” Barney nói. “Về chuyện này ấy mà.” Nó nhìn trân trân vào ngăn tủ kính và cái bệ màu đen nằm lẻ loi trong đó. Hai bà có tuổi đội mũ đi đến bên cạnh nó. Mũ của một bà nhìn như cái chậu hoa màu vàng, bà kia thì mang cả một kim tự tháp hoa màu hồng trên đầu. “Nhân viên bảo tàng bảo đây chính là cái tủ nơi bọn trộm đã lấy nó đi đấy,” một bà bảo bà kia. “Thử tưởng tượng mà xem! Những cái tủ khác thì ở đằng kia." “Chậc-chậc-chậc-chậc,” bà kia thích thú nói, và họ đi tiếp. Barney lơ đãng nhìn theo họ, tiếng giày của họ gõ lách cách xuyên suốt cả gian phòng trưng bày cao vút. Họ dừng lại bên tủ kính có một người cao lớn đang cúi xuống. Barney cứng người lại. Nó nhìn chằm chằm vào người ấy. “Bọn mình phải làm cái gì đó chứ.” Simon nói. “Phải nghĩ cách gì thôi.” Jane hỏi, “Nhưng bắt đầu từ đâu bây giờ?” Mời các bạn đón đọc Phù Thuỷ Xanh của tác giả Susan Cooper.