Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả

Tác phẩm - Năm 1989, Những cậu bé kẽm lần đầu được xuất bản - Tháng 7 năm 1992, những đơn kiện Những cậu bé kẽm và S. Alexievich đầu tiên được gửi đi - Ngày 20 tháng 1 năm 1993, phiên xử đầu tiên diễn ra - Ngày 10 tháng 8 năm 2015, giải Nobel Văn học thứ 112 trong lịch sử gọi tên Svetlana Alexievich, dư luận một lần nữa lại dậy sóng… Vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Những cậu bé kẽm là thiên thứ ba trong loạt năm quyển của bộ Những giọng nói không tưởng gồm: Những nhân chứng cuối cùng, Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Lời nguyện cầu Chernobyl và Thời second hand. Những cậu bé kẽm, một nhan đề khốc liệt – những xác người trong quan tài kẽm – những cái xác vừa mới mười tám đôi mươi – những cậu bé đẹp đẽ rạng ngời, vừa rời vòng tay cha mẹ, người thương để rồi trở về trong những cỗ quan tài kín bưng – “hàng vận chuyển 200”. Được viết bằng thể loại văn xuôi tư liệu cùng với tâm thế của một con người vị nhân phản chiến, cuốn sách đã khuấy lên một giai đoạn lịch sử đầy những tổn thương đau đớn, đã phác họa một bối cảnh, đã soi chiếu bằng một góc nhìn trước nay chưa từng được công bố. Những cậu bé kẽm là lời bộc bạch của những người sống sót trở về từ chiến tranh Afghanistan và của thân nhân những người đã mất. Đó là những dòng hồi ức khốc liệt, đẫm máu, thống khổ và vĩnh viễn làm thương tổn không chỉ thân thể mà còn tinh thần con người. Nó phơi bày cái phi nghĩa, vô nhân của một cuộc chiến tranh vô vọng. Những “Afghan” – những người Nga tham gia chiến tranh ở Afghanistan 1979 – 1989, những người ra đi trên danh nghĩa làm “nghĩa vụ quốc tế” rồi rút về trong thất bại, không bao giờ được biết niềm tự hào của thế hệ cha ông trong cuộc chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại. Người “may mắn” nằm lại trong những chiếc quan tài kẽm, số khác thân xác lang bạt nơi chiến trận. Kẻ sống sót trở về cũng không bao giờ có thể quay lại cuộc sống của một người bình thường bởi những sang chấn khủng khiếp mang tên hội chứng Afghanistan. Người ngoài cuộc nhìn nhận họ như những kẻ sát nhân, kẻ bại trận, còn chính họ cũng quên mất phải sống bình thường là thế nào! Hơn năm trăm cuộc phỏng vấn đã được Svetlana Alexievich thực hiện để tạo nên bức tranh toàn cảnh về những góc khuất của chiến tranh. Cũng chính những trang tư liệu về nỗi đau của những nỗi đau này, ngày 20 tháng 1 năm 1993, cuốn sách của Svetlana Alexievich bị đưa ra tòa xét xử bởi những người cung cấp tư liệu đâm đơn kiện với lý do phỉ báng danh dự và ngụy tạo lời kể. Phiên tòa kéo theo sự chú ý của chính quyền và công chúng tạo thành làn sóng dư luận ở cả hai phía, ủng hộ và chống đối Svetlana Alexievich. Ở những lần tái xuất bản sau, Svetlana Alexievich đã đồng ý thêm vào toàn bộ biên bản vụ kiện cùng những sự kiện có liên quan. Vậy, vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Có lẽ câu trả lời sẽ nằm trong suy nghĩ mỗi người khi bước vào thế giới của Những cậu bé kẽm. “Tôi tự hỏi Svetlana Alexievich có cần phải viết một cuốn sách về những điều kinh khủng của chiến tranh không? Có! Những bà mẹ có cần phải bảo vệ con trai mình không? Có! Và những “người Afghan” có cần phải bảo vệ đồng đội mình không? Lại một lần nữa - có! …Các đạo diễn và nhạc trưởng, các chính khách và nguyên soái, những kẻ tổ chức cuộc chiến tranh này, không có mặt trong phòng xử án. Ở đây chỉ toàn những phía bị hại: là tình yêu, không chấp nhận sự thật cay đắng về chiến tranh; là sự thật, cần phải được nói ra mặc cho tình yêu thế nào chăng nữa; là danh dự, không thể chấp nhận tình yêu lẫn sự thật...” Pavel Shetko Một “cựu Afghan” Tác giả Nhà văn Svetlana Alexievich tại Ukraine trong một gia đình công chức. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học. Theo Viện Hàn lâm Thụy Điển, giải thưởng này được trao cho bà để “tôn vinh những dòng văn phức điệu của bà. Văn của bà là tượng đài tri ân sự đau khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta.” Sau khi tốt nghiệp khoa Báo chí Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus, bà làm việc cho tờ Báo nông nghiệp và tạp chí Neman ở Minsk. Trong suốt vài thập niên bà đã viết biên niên tư liệu – nghệ thuật Những giọng không tưởng – gồm năm quyển sách (Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ - 1983, Những nhân chứng cuối cùng - 1985, Những cậu bé kẽm - 1989, Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997, Thời second-hand - 2013) và để những “con người nhỏ bé” đích thân kể về số phận của mình. Thực chất, đây là một thể loại đặc biệt, một loại tiểu thuyết chính trị đa giọng, trong đó những câu chuyện nhỏ bé hợp thành một lịch sử lớn. Các tác phẩm của Svetlana Alevievich đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng, là nền tảng cho hằng trăm bộ phim điện ảnh, kịch sân khấu và truyền thanh trên khắp thế giới, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. *** LỜI GIỚI THIỆU “Văn chương đang ngạt thở trong những biên giới của mình”. Với tâm tình đó, nữ nhà văn Svetlana Alexievich đã quyết định chọn hình thức “truyện vừa tư liệu” cho cuốn sách Những cậu bé kẽm, được in lần đầu tiên năm 1989. Hai mươi sáu năm sau, cuốn sách đã góp phần đưa bà đến giải Nobel văn học năm 2015, cùng với bốn quyển sách khác trong loạt sách Những giọng nói không tưởng: Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ (1983), Những nhân chứng cuối cùng (1985), Lời nguyện cầu từ Chernobyl (1997) và Thời second hand (2013). Nhưng cũng chính thể loại truyện vừa tư liệu của Những cậu bé kẽm đã khiến bà phải ra tòa (phần cuối quyển sách đã giới thiệu tiến trình tố tụng này). Phiên tòa mà, từ một phía bà bị cáo buộc là “xúc phạm danh dự và phẩm giá” của những người lính đã chết trong cuộc chiến tranh Afghanistan, của những người mẹ vẫn còn đang ngồi bên mộ chí con mình. Còn từ phía những người ủng hộ nữ nhà văn, đó là phiên tòa “xử án văn chương”, “xử án một quyển sách”, “xử án sự thật”. Cuộc tranh cãi đó, cuối cùng được cố gắng ngã ngũ ở việc thế nào là thể loại truyện vừa tư liệu; vẫn chưa giải đáp được câu hỏi “sự thật là sự thật nào”, khi chính nữ nhà văn cũng hoài nghi như Pilatus đặt câu hỏi về sự thật trong phiên tòa xử Chúa. Phiên tòa đã khép lại đầu những năm 1990. Nhưng cuộc tranh cãi về sự nghiệp của nữ nhà văn Belarus viết bằng tiếng Nga một lần nữa được nhắc lại nhân Nobel 2015. Nếu bà được ngợi khen trên báo chí phương Tây như một “bậc thầy xuất sắc trong lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật tư liệu”(Frankfurter Allgemeine), thì nhà phê bình Nga Olga Tukhanitsa, lại nhận xét vào tháng 12-2015: “Một mặt, Alexievich khăng khăng biện hộ mình không phải là nhà văn nhưng lại chứng minh những gì bà đang làm trong thế giới hiện đại là văn học chân chính; mặt khác, bà - như một nữ sinh, đoàn viên Komsomol, cố nhồi vào thông điệp của mình tất cả những khuôn mẫu định kiến về nước Nga…” Dẫu sao, chúng ta sẽ không thể tranh luận với cả hai ý kiến trên nếu chưa đọc hết Những cậu bé kẽm. Bản dịch tiếng Việt dựa trên nguyên bản tiếng Nga đã được tác giả hiệu đính và NXB Vremya (Moskva) phát hành năm 2017. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả, và thành thật cảm ơn bà Marina Vladimirovna Sharoiko (Giảng viên Bộ môn Lý luận Văn học Nga, Đại học Tổng hợp Kuban) và bà Irina Letiagina (cựu biên tập viên NXB Cầu vồng, và NXB Tiến bộ - Liên Xô cũ) đã giúp chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan 10-2017 *** LỜI MỞ ĐẦU Tôi đi một mình. Giờ đây tôi sẽ phải đi một mình. Nó giết người. Con trai tôi. Bằng cái rìu nhà bếp tôi dùng xẻ thịt. Nó quay về từ trận chiến và giờ thì giết người. Buổi sáng nó mang cái rìu đặt về chỗ cũ, trong tủ bếp, nơi tôi cất chén dĩa. Hình như ngày hôm đó tôi còn làm cho nó món sườn hầm. Một lúc sau ti vi và báo buổi chiều đưa tin các ngư dân vớt được một thi thể từ dưới hồ. Từng mảnh. Bạn tôi gọi điện: - Chị đọc báo chưa? Một vụ giết người chuyên nghiệp. Kiểu Afghanistan. Con trai tôi đang ở nhà, nằm đọc sách trên xô pha. Tôi không biết và cũng chẳng đoán ra gì, nhưng chẳng hiểu sao sau những lời ấy tôi lại nhìn nó. Trái tim người mẹ. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Không à? Còn tôi thì nghe đấy, vừa bắt đầu kể chuyện này là tôi đã nghe tiếng chó sủa. Lũ chó đang chạy. Ở đó, nơi con trai tôi đang ngồi tù có những con bẹc giê lớn. Và mọi người mặc toàn đen, rặt một màu đen. Tôi trở về Minsk, đi ngang qua cửa hàng bánh mì, qua vườn trẻ, tay cầm ổ bánh mì với sữa và nghe thấy tiếng sủa. Tiếng sủa chói tai. Nó làm tôi như đui mù. Có lần tôi suýt lọt vào gầm xe. Tôi sẵn sàng ở rịt bên mộ con mình, sẵn sàng nằm cạnh nó. Nhưng tôi không biết… không biết sẽ sống thế nào với chuyện này. Đôi khi tôi sợ xuống bếp, sợ nhìn thấy cái tủ bếp đó, nơi cất cái rìu. Cô không nghe thấy gì hết à? Không à? Giờ đây tôi không biết nó sẽ ra sao, con trai tôi. Tôi sẽ đón nó về thế nào sau mười lăm năm nữa. Nó bị tuyên mười lăm năm khổ sai. Tôi đã nuôi dạy nó thế nào? Nó mê khiêu vũ. Tôi và nó đã đến bảo tàng Hermitage ở Leningrad. Chúng tôi đã đọc sách cùng nhau. (Khóc.) Chính Afghanistan đã cướp mất con trai tôi. …Tôi nhận được điện tín từ Tashkent: “Hãy đón chuyến bay số…” Tôi lao ra ban công, gào to hết sức: - Còn sống! Con tôi còn sống! Cuộc chiến khủng khiếp này kết thúc với tôi rồi. Rồi tôi ngất đi. Dĩ nhiên chúng tôi đã ra sân bay trễ, chuyến bay đã hạ cánh từ lâu, tôi tìm thấy con trai mình trong vườn hoa. Nó nằm trên đất và níu lấy cọng cỏ, ngạc nhiên sao cỏ xanh đến thế. Nó không tin mình có thể trở về. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi tối những người láng giềng kéo sang nhà chúng tôi, họ có một cô con gái nhỏ, bé thắt một cái nơ xanh trên tóc. Nó đặt con bé ngồi lên gối, ôm vào lòng và khóc, nước mắt cứ thế lã chã tuôn rơi. Bởi ở đó chúng đã giết người, cả nó. Mãi sau này tôi mới hiểu ra. Ở biên giới, hải quan đã “tỉa” quần lót của nó. Hàng Mỹ. Không được phép. Vì thế nó về nhà mà không có đồ lót. Nó mang về cho tôi cái áo choàng, cái áo cũng bị tịch thu. Nó mang cho bà ngoại cái khăn trùm đầu, họ cũng lấy mất. Nó đành về với những bông hoa lay ơn. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi sáng thức dậy nó còn bình thường: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”. Đến chiều mặt nó tối dần, khóe mắt nặng trĩu. Tôi không thể tả nổi điều đó. Lúc đầu nó chẳng uống giọt nào. Nó ngồi quay vào tường rồi bật dậy khỏi xô pha, với lấy cái áo khoác. Tôi đứng ngay cửa: - Con đi đâu, Valyushka? Nó nhìn tôi như nhìn vào thinh không. Rồi bỏ đi. Tối muộn tôi đi làm về, nhà máy ở xa, lại làm ca hai, tôi gọi cửa nhưng nó không mở. Nó không nhận ra giọng tôi. Chuyện đó thật kỳ quặc, ừ thì giọng bạn bè có thể không nhận ra, nhưng đây là giọng mẹ nó! Hơn nữa, lại là “Valyushka” - chỉ có tôi mới gọi nó như thế. Dường như lúc nào nó cũng đang đợi ai đó, sợ sệt. Tôi mua cho nó cái sơ mi mới, ướm thử và thấy trên tay nó có những vết cắt. - Cái gì đây? - Chuyện nhỏ mà mẹ. Sau đó tôi mới biết. Sau phiên tòa. Trong thời gian huấn luyện nó đã cắt cổ tay. Trong một giờ diễn tập, nó là nhân viên điện đài, nhưng không kịp ném điện đài xách tay lên cây đúng lúc, không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định nên thượng sĩ phạt nó múc 50 thùng chất thải từ nhà vệ sinh diễu qua đội hình. Nó đã xách và ngất xỉu. Bệnh viện chẩn đoán: chấn động tâm thần nhẹ. Đêm đó nó đã cắt ven tay. Lần thứ hai là ở Afghanistan. Trước cuộc bố ráp, họ kiểm tra và điện đài không hoạt động. Thiếu một số phụ kiện khan hiếm khi đó. “Kẻ nào đã lấy trộm chúng. Ai?” Chỉ huy cáo buộc nó hèn nhát giấu các chi tiết đó đi để không phải hành quân cùng mọi người. Mà ở đó trộm cắp như rươi, thậm chí các bộ phận ô tô cũng bị tháo rời đem bán cho các dukan*. Để mua ma túy, thuốc lá, thức ăn. Họ lúc nào cũng đói. Trên truyền hình đang có chương trình về Edith Piaf*, chúng tôi luôn xem cùng nhau. - Mẹ, - nó hỏi, - mẹ có biết ma túy là gì không? - Không. - Tôi nói dối, còn chính mình bắt đầu dõi theo nó: nhỡ nó hút thì sao? Tôi không phát hiện ra dấu vết nào. Nhưng ở đó họ sử dụng ma túy - tôi biết điều này. - Ở Afghanistan thế nào hở con? - Có lần tôi hỏi. - Thôi mà mẹ! Khi nó đi khỏi nhà, tôi đọc lại hết những bức thư từ Afghanistan của nó, tôi muốn đào xới, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với nó. Tôi không tìm thấy gì đặc biệt, nó viết buồn nhớ cỏ xanh, bảo bà ngoại chụp hình trên nền tuyết rồi gởi cho nó. Nhưng tôi đã nhận ra, cảm thấy đã có gì đó xảy ra với nó. Họ đã trả về cho tôi một con người khác. Đó không phải là con tôi. Mà chính tôi đã đưa con vào quân ngũ, nó vốn được hoãn nghĩa vụ. Tôi muốn nó thành người dũng cảm. Tôi thuyết phục con và chính mình rằng quân đội sẽ trui rèn nó tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Tôi tiễn nó đi Afghanistan với tiếng ghi-ta cùng một bữa tiệc ngọt chia tay. Nó mời bạn bè và các cô gái… Tôi nhớ đã mua tới mười cái bánh kem. Chỉ có một lần nó nói về Afghanistan. Vào một buổi tối. Nó ghé vào bếp, lúc tôi đang làm thịt thỏ. Cái bát đầy máu. Nó nhúng các ngón tay vào máu rồi nhìn cái bát. Nhìn chằm chằm. Rồi nói với chính mình: - Họ chở cậu ấy về với cái bụng bị thủng. Cậu ấy đề nghị mình bắn. Và mình đã bắn. Những ngón tay đầy máu thỏ. Với những ngón tay dính máu đó nó vớ lấy điếu thuốc rồi bỏ ra ban công. Tối hôm đó nó không nói thêm với tôi một lời nào. Tôi tìm tới các bác sĩ. “Hãy trả lại con trai cho tôi! Xin cứu giúp!” Tôi kể lại tất cả… Họ kiểm tra nó, thăm khám, nhưng ngoài chứng đau thần kinh tọa, họ chẳng phát hiện gì. Một lần nọ về nhà, tôi thấy bốn cậu trai lạ ngồi sau bàn. - Mẹ, họ từ Afghanistan về. Con gặp họ ở nhà ga. Họ chẳng có chỗ nào để qua đêm cả. - Tôi sẽ nướng một cái bánh ngọt cho các cậu. Nhanh lắm. - Chẳng hiểu sao tôi lại mừng rỡ. Chúng sống ở nhà tôi một tuần lễ. Tôi không đếm, nhưng tôi nghĩ chúng uống cỡ bốn thùng vodka. Mỗi tối tôi lại gặp ở nhà năm người lạ, người thứ năm là con tôi. Tôi không muốn nghe những câu chuyện của chúng, tôi sợ lắm. Nhưng vì ở chung một nhà nên tôi tình cờ nghe thấy. Chúng kể suốt hai tuần mai phục, chúng được phát thuốc kích thích để bạo gan hơn. Nhưng tất cả những chuyện đó được giữ kín. Vũ khí nào giết người hiệu quả hơn. Từ khoảng cách nào… Sau này tôi mới nhớ lại những câu chuyện đó, khi sự việc đã xảy ra. Chỉ sau đó tôi mới nghĩ ra, hoảng hốt nhớ lại. Còn trước đó chỉ có nỗi sợ: “Ôi,” tôi nói thầm, “chúng điên làm sao. Tất cả đều dở người”. Ban đêm. Trước cái ngày nó giết người. Tôi nằm mơ thấy mình đang đợi con nhưng mãi vẫn không thấy nó. Thế rồi người ta đưa nó về. Bốn “người Afghan” đó đưa về. Và họ ném nó xuống sàn xi măng dơ dáy. Cô hiểu không, sàn xi măng trong gian bếp chúng tôi ấy…* Cái sàn như sàn nhà tù. Lúc đó nó đã vào học khoa dự bị trường Đại học Kỹ thuật Phát thanh. Nó viết tốt bài luận. Nó hạnh phúc và mọi việc đều ổn. Tôi đã nghĩ nó đang nguôi ngoai. Sẽ đi học. Rồi cưới vợ. Nhưng cứ tối đến, tôi sợ những buổi tối, nó ngồi và nhìn chằm chằm vào vách rồi thiếp ngủ trên ghế bành. Tôi muốn nhào tới, lấy thân mình che chở và không thả cho nó đi đâu nữa hết. Bây giờ tôi nằm mơ thấy nó còn nhỏ và đòi ăn. Lúc nào nó cũng đói. Nó chìa hai tay. Trong mơ lúc nào tôi cũng thấy nó nhỏ bé và bị hạ nhục. Còn trong đời thật? Mỗi tháng hai cuộc gặp. Bốn tiếng chuyện trò qua lớp kính. Mỗi năm hai lần thăm nuôi, đó là khi tôi được mang gì đó cho nó ăn. Và tiếng chó sủa. Tôi nằm mơ thấy tiếng chó sủa. Chúng đuổi theo tôi khắp chốn. Có một người đàn ông tán tỉnh tôi. Tặng cả hoa. Khi ông ta mang hoa tới, “Ông tránh xa khỏi tôi,” tôi bắt đầu hét, “tôi là mẹ của tên giết người”. Thời gian đầu tôi sợ gặp những người quen, tôi trốn trong nhà tắm và chờ những bức tường đổ sập xuống người. Tôi ngỡ như người ngoài đường đều nhận ra tôi, chỉ trỏ nhau xem rồi xầm xì: “Nhớ vụ ghê rợn đó không? Chính con trai bà ta giết người đấy. Chặt làm tư. Kiểu Afghanistan”. Tôi chỉ ra đường vào buổi tối, tìm hiểu hết những loài chim đêm. Tôi nhận biết chúng qua tiếng hót. Vụ án được điều tra. Vài tháng trôi qua. Nó im lặng. Tôi đến quân y viện Burdenko ở Moskva. Ở đó tôi tìm được vài cậu trai từng phục vụ trong đội đặc nhiệm như nó. Tôi bộc bạch cùng họ. - Các cháu này, vì cái gì mà con trai bác giết người? - Hẳn là có chuyện gì đó. Tôi phải thuyết phục mình rằng con tôi có thể đã làm điều đó. Giết người. Tôi gặng hỏi họ rất lâu để hiểu ra rằng: nó có thể! Tôi hỏi họ về cái chết. Không, không phải về cái chết, mà về việc giết chóc. Nhưng cuộc trò chuyện đó không gợi được ở họ những cảm xúc đặc biệt nào, những cảm xúc mà bất kỳ việc giết chóc nào cũng đều có thể gợi lên ở một con người bình thường chưa từng thấy máu. Họ nói về chiến tranh như nói về một công việc, một công việc cần phải giết người. Sau đó tôi đến gặp những cậu trai cũng từng ở Afghanistan, và khi Armenia động đất họ đã tới đó cùng những đội cứu hộ. Tôi muốn biết, tôi bị ám ảnh vì chuyện đó: họ có sợ không? Họ cảm giác thế nào khi chứng kiến cái chết? Không, họ chẳng thấy sợ gì cả, thậm chí lòng thương hại ở họ cũng đã cùn mằn. Những hộp sọ vỡ tung, bẹp dí, những khúc xương người… Nhiều trường học bị vùi trong lòng đất. Những lớp học. Bọn trẻ ngồi học và cứ thế mà đi vào lòng đất. Còn họ thì nhớ và kể lại những chuyện khác, nào là họ đã đào được những kho rượu vang béo bở ra sao, họ đã uống những loại vang nào, loại cô nhắc nào. Họ đùa cợt: phải chi có thêm động đất ở đâu đó. Nhưng phải ở chỗ nào ấm áp cơ, nơi nho có thể mọc và làm được vang ngon. Họ sao thế? Tâm lý họ có bình thường không vậy? “Con căm thù cái đứa bị giết đó.” Nó viết cho tôi như thế cách đây không lâu. Sau năm năm. Chuyện gì đã xảy ra ở đó? Nó câm nín. Tôi chỉ biết, cậu trai đó tên Yura, khoác lác rằng đã kiếm chác được nhiều chi phiếu ở Afghanistan. Nhưng sau đó hóa ra cậu ta phục vụ ở Ethiopia, là chuẩn úy. Cậu ta đã nói dối về Afghanistan. Tại phiên tòa, chỉ một mình luật sư biện hộ nói rằng chúng ta đang xử án một người bệnh. Trên ghế bị can không phải là tội nhân, mà là bệnh nhân. Anh ta cần được điều trị. Nhưng đó là bảy năm về trước, khi sự thật về Afghanistan chưa được hé lộ. Và chúng ta đã gọi tất cả là anh hùng. Những chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế. Còn con trai tôi là kẻ giết người. Bởi nó làm cái việc mà họ từng làm ở đó. Vì việc đó mà họ được trao mề đay và huân chương. Nhưng tại sao họ lại buộc tội mình con tôi? Tại sao không buộc tội những kẻ đẩy nó vào nơi đó? Dạy nó giết người! Tôi đâu có dạy con mình việc đó. (Bùng nổ và gào thét.) Nó giết người bằng cái rìu bếp của tôi. Rồi buổi sáng nó mang đặt cái rìu lại vào tủ bếp. Như một cái muỗng hay một cái nĩa bình thường. Tôi ganh tị với những bà mẹ có con trở về cụt cả hai chân. Cứ để nó căm thù mẹ mình sau khi đã nốc say. Căm thù cả thế giới. Cứ để nó lao vào bà ta, như lao tới kẻ thù. Bà ta sẽ trả tiền cho gái mại dâm, để nó không phát rồ. Bản thân bà ta từng một lần trở thành tình nhân cho nó, bởi nó đã trườn ra ban công và muốn lao xuống từ tầng mười. Tôi chấp nhận tất cả. Tôi ganh tị với tất cả những bà mẹ, kể cả những ai có con đã nằm trong huyệt mộ. Tôi sẽ ngồi bên mộ chí của con và hạnh phúc. Tôi sẽ mang hoa tới. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Nó đuổi theo tôi. Tôi nghe thấy chúng. Một bà mẹ Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả của tác giả  Svetlana Alexievich & Phan Xuân Loan (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Kiếp Lênh Đênh
Bối cảnh truyện là Sài Gòn những năm trước giải phóng, đầy hoa lệ mà cũng cực kỳ phóng túng. Ở đó, sau những ánh đèn chớp nháy đầy xa hoa là bao mảnh đời, số phận vật vã, nổi trôi. Liên là một trong số đó, số kiếp cô lênh đênh hết biến cố này lại sóng gió khác. Từ một cô bé ngây thơ như bao cô gái khác, chỉ vì cảnh nhà túng bấn, bố mất sớm mẹ đi bước nữa. Đến năm mười bốn tuổi, sự thô bạo và dâm tục của bố dượng đã buộc Liên bước chân ra lề đường, chấp nhận kiếp sống bụi đời. Như thứ nọc độc, nó chiếm lĩnh cô dần dần bằng những nét phù hoa giả dối, những ảo mộng cuộc sống trong tiện nghi vật chất với lối sống an nhàn, vương giả. Qua bà mẹ nuôi và cô chị kết nghĩa, từ lúc nào Liên đã thành thạo với cách kiếm tiền từ kinh doanh thân xác con người. Và rồi, chính lối sống ấy đã buộc cô phải trả giá bằng sự trinh trắng của mình. Từ đó, phần vì kế sinh nhai, phần để trả thù đời, Liên đã điên cuồng lao vào các cuộc tình đỏ đen. Cứ vậy, Liên ngụp lặn trong dòng đời ngầu đục, bất kể những biến thiên thời cuộc… Tiểu thuyết Một Kiếp Lênh Đênh đã đề cập phần lớn về góc khuất trong xã hội tạp nham đương thời. Đồng thời cuốn sách này cũng sẽ chạm tới trái tim bạn đọc để kiếm tìm sự đồng cảm với những số phận nghiệt ngã, đắng cay. *** Lối đi quen thuộc chứa chấp nhiều mạo hiểm... NGUYỄN KHẮC PHỤC Đọc “Một kiếp lênh đênh” của Thu Trang, tôi bỗng miên man nghĩ ngợi. Và gợi ra khá nhiều điều về nghề tiểu thuyết. Mà cụ Tố Như bảo “nghề chơi cũng lắm công phu”, huống hồ cái nghề khó nhằn trên... Nghĩ cho cùng, văn chương, mà ráo riết nhất là tiểu thuyết, chỉ chăm bẵm vào việc mô tả, đào bới các khía cạnh của kiếp người. Vâng, cái kiếp người với tất cả những thăng trầm, biến cải, ái, ố, hỉ, nộ... chính là cốt liệu làm nên tác phẩm; chính là chất men gây hứng khởi (và cả buồn, vui, bi phẫn cùng hi vọng...) cho văn sĩ; chính là chỗ quy chiếu để ta xem nhà văn nhìn đời, nhìn người, nhìn thế sự xoay vần ra sao, yêu cái gì, ghét cái gì, muốn cái gì phải chết, phải bị diệt vọng, cái gì phải còn lại, phải phát triển và đơm hoa kết trái... Tóm lại, dù “tiểu thuyết là cỗ máy tri giác thực tại” (theo định nghĩa của nhà văn Pháp Lu-i A-ra-gông), hay là “tấm gương đặt trên một cỗ xe, kéo lê trên đường cái, phản chiếu mọi sinh hoạt của đời sống” (theo cách nghĩ của Phốc-nơ, tiểu thuyết gia Hoa Kỳ)..., hay tiểu thuyết là gì gì đi nữa, “kiếp người” vẫn cứ là lý do đầu tiên và mục đích cuối cùng, khiến các nhà văn cầm bút, canh cánh bên lòng trước những cảnh ngộ éo le, bi thiết, niềm vui sống, tình yêu, lòng căm hận, bài ca bất tận của lao động sáng tạo, tinh thần hướng thiện, lòng sùng bái Mẹ Thiên Nhiên và cuộc vật lộn mưu sinh, những xô xát, tranh chấp giữa tốt-xấu, hay-dở, đúng-sai..., hăm hở tạo dựng lại một “thế giới ảo” mang dấu ấn cá nhân của nhà văn, trên trang giấy, từ những mảnh vụn tưởng chừng rời rạc, ngẫu nhiên của hiện thực. Cái thế giới ảo ấy vừa bắt rễ, nảy mầm từ mảnh đất đời sống, vừa vươn cành lá xum xuê đón nhận ánh sáng mặt trời, tổng hợp nên chất “diệp lục tố” - cái chất huyền diệu biến “sự bịa đặt” (hư cấu) thành tác phẩm văn chương, “thật” hơn cả cái “thật” xuất phát điểm của nó... Trong cuốn sách của mình, Thu Trang quả là đã bắt ta theo dõi một “kiếp” lênh đênh trong tiểu thuyết thật hơn “kiếp lênh đênh” mà ta từng thấy trong đời. Mà lại lênh đênh trong trận cuồng phong những năm nửa sau thế kỷ 20 trên đất Nam Việt Nam. Liên, nhân vật chính, người đàn bà trong trại giam, sống lại trong hồi tưởng quá vãng, với bao ngậm ngùi, tủi hổ, trách móc và cũng không ít những lời biện hộ trắng trợn, đổ vấy cho “hoàn cảnh”... Ta hiểu, lắng nghe mà vẫn có thể cảm thông, thương xót và hy vọng một cái kết khả dĩ hơn, sẽ đến với con người có cái “kiếp lênh đênh” ấy. Mọi chuyện bắt đầu từ chuyến tàu thuỷ chạy ven biển, chở những người miền Bắc di cư vào Nam, sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954... Trong đó có gia đình của cô bé Liên. Rồi bố chết, mẹ đi bước nữa, gặp phải ông bố dượng chẳng ra gì, cô bé từ tổ ấm bước vào một cô nhi viện Công giáo và từ đó, bước thẳng vào giang hồ. Những gì xảy ra như một hậu quả lô-gich, Liên trở thành vũ nữ trong vũ trường, thành một thứ “gái bao” cho những ông Tây, ông Mẽo và khách làng chơi. Cứ thế trượt mãi xuống dưới đáy xã hội. Sau 1975, Liên cố gượng lại nhưng “hoàn cảnh xô đẩy” và cuối cùng, “nàng kiều nữ - sản phẩm kiêm nạn nhân của chủ nghĩa thực dân kiểu mới” tạm dừng chân trong một trại giam, trò chuyện, thổ lộ với tác giả về “cái kiếp lênh đênh” của mình... Giọng văn (qua lối tự thuật của nhân vật chính) giản dị, chân thật, gợi cảm u sầu, tiết tấu nhanh và ít khi bận tâm chẻ sợi tóc làm tư (gần gũi với lối ta thường bắt gặp ở một số cây bút di cư sau 1954). Nhưng có điều đáng ái ngại: chính trên những lối đi quen thuộc, nhà văn rất dễ gặp nhiều mạo hiểm khi độc giả dường như đã đoán biết trước những gì mà các nhân vật chính sẽ phải nếm trải và nhận lãnh... Nhưng Thu Trang đã không bắt đồng nghiệp và độc giả của mình phải thót tim lâu. Chị đã vượt qua những mạo hiểm trên một cách bản lĩnh mà vẫn hồn nhiên, tươi tắn chứ không đến nỗi phải gồng mình... Phường Quan Hoa - Cầu Giấy Một đêm chủ nhật N.K.P. Mời các bạn đón đọc Một Kiếp Lênh Đênh của tác giả Thu Trang.
Mộng Phù Du
Tác giả 'Rừng son' Candace Bushnell tái ngộ độc giả VN với 'Mộng phù du', câu chuyện về sức mạnh của nhan sắc và ý chí của người phụ nữ hiện đại. Tác phẩm nằm trong loạt sách của Chibooks ra mắt nhân Lễ tình yêu. Với “Mộng phù du”, Bushnell nêu cao tuyên ngôn: Chiến thắng dành cho những phụ nữ làm chủ đời mình; mặc dù vậy, mọi nấc thang danh vọng đều có giá của nó.Janey Wilcox - cô người mẫu đồ lót nổi tiếng của Victoria’s Secret, nỗ lực leo lên những nấc thang danh vọng trong xã hội New York bằng mọi giá. Quá trình đi tới đỉnh vinh quang đầy thử thách và đau đớn khi Janey bị lộ tẩy quá khứ rắc rối cùng vô số quan hệ tình ái không minh bạch. Mối quan hệ bạn bè với Mimi Kilroy - một nhân vật có vị trí hàng đầu trong xã hội New York, ông chồng tốt Selden Rose - người đứng đầu kênh truyền hình cáp Movie Time, người tình Comstock Dibble - giám đốc hãng Parador Pictures… đều chỉ là những bước đệm tạm thời cho Janey tiến lên phía trước. Thế nhưng, thành công của bất cứ ai sống trong thế giới hào nhoàng của Janey cũng đều là “một thành công kiểu Hollywood - bất ngờ, kỳ diệu, và choáng ngợp - được tạo ra để cuối cùng hủy hoại linh hồn của người nhận nó”. Qua cuốn sách, tác giả gửi thông điệp đến những con người đang sống trong “giấc mộng phù du”: “Trong tương lai, sẽ còn rất nhiều những giây phút thất vọng, khi khám phá ra mình bị bội phản, khi nhận ra rằng mới hôm nay mình thật “hot”, hôm sau mình đã đóng băng, và không ai nhận điện thoại của mình nữa…”. *** Review Mê Đọc Truyện Tình: Lâu rồi tớ mới đọc được một cuốn sách hay như này. Hành văn và cốt truyện đều hay song dịch thuật hơi kém một chút. Có thể do bản này người dịch còn chưa chuyên. Chắc chắn tớ sẽ mua bản gốc đọc Sách viết về một cô người mẫu .Cô tên Janey Wilcox. Phải bò từng bước trên nấc thang danh vọng . Thuở đầu, cô phải làm gái cho một ông trùm buôn vũ khí giàu nứt đố đổ vách. Mối tình với anh lái tàu đã kết thúc cuộc sống nhung lụa ấy. Cô trở về, bắt đầu làm người mẫu. Thời gian đầu rất khó khăn, đôi khi phải vay tiền các tình nhân. Trong lúc ấy, cô nhận được thư mời làm việc của Victoria’s Secret. Cuộc đời sang trang mới. Nổi tiếng, giàu có,... như cô hằng mong. Cô lấy chồng, ly dị và bắt đầu làm phim. Bản thân tớ thấy rất thích cô Janey Wilcox này. Một cô gái mạnh mẽ, khôn ngoan. Vẫn rất tình cảm và yêu cái đẹp. Thực ra con người cô không xấu, cô xấu là do cô buộc phải thế. để sống sót, để cho những người kia thấy cô không dễ dàng bị quật ngã, Phụ nữ thời nay nên như vậy. Không quá ủy mị, không quá khôn ngoan.  Sách lột tả bộ mặt thật sự của Hollywood Hoa Lệ. Đừng tưởng làm minh tinh là sướng, là giàu. Để có được điều đó, người ta phải đánh đổi quá nhiều thứ, đôi khi là chính bản thân mình.  Hành văn khá ổn, cốt truyện hấp dẫn, thực tế và lời văn giản dị khiến nó trở thành cuốn sách viết cho tuổi mới lớn rất hay.   *** Đó là đầu hè năm 2000, và ở thành phố New York, nơi những con phố lấp lánh bụi vàng lọt xuống từ những vụ mua bán hàng tỉ đô trong nền kinh tế đang hưng thịnh, vẫn là chuyện làm ăn kinh doanh như mọi khi. Thế giới yên bình bước sang một kỷ nguyên mới, tổng thống một lần nữa tránh được việc bị buộc tội, và hiện tượng Y2K đã xì đi như một chai champagne Pháp cổ. Thành phố ngời lên với tất cả vẻ huy hoàng vừa rực rỡ, vừa thông tục, vừa nhẫn tâm của nó. Và vào đúng thời điểm đó, cả thành phố đang xôn xao về Peter Cannon, một luật sư trong ngành giải trí đã quịt tới ba mươi lăm triệu đô la của vài khách hàng ngôi sao. Những tháng năm kế sau đó, sẽ còn có nhiều vụ scandal hơn, hàng tỉ đôla bị mất, và những vụ lừa đảo dân chúng Mỹ. Nhưng vào lúc này, “vụ Peter Cannon” đã liên đới tới đủ những cái tên mặt dạn mày dày mà ít nhất tạm thời làm thỏa mãn đám dân New York đói khát chuyên ngồi lê đôi mách. Một trong những nạn nhân là nhạc sĩ rock ba mươi mốt tuổi tên là Digger. Digger là một trong những người thành công với cái tên chỉ có một từ, như rất nhiều nghệ sĩ vĩ đại, có khởi đầu khiêm tốn kết hợp với vẻ ngoài hơi quái đản. Anh là dân ở Des Moines, bang Iowa, có mái tóc vàng bẩn thỉu và làn da trắng nhờ đến đáng sợ mà ta có thể nhìn thấy cả mạch máu xanh bên dưới, và thường đội mũ phớt mềm, đặc trưng riêng của anh. Vào một chiều thứ Sáu kỳ nghỉ Ngày Liệt sĩ, anh ngồi lặng im bên bể bơi trong căn nhà thuê mùa hè với giá 100.000 đô tại Sagaponack ở Hamptons, hút thuốc không đầu lọc và nhìn vợ mình, Patty, đang giận dữ nói chuyện trên điện thoại. Digger dụi điếu thuốc vào chậu hoa cúc (trong chậu đã có một đống nhỏ đầu lọc thuốc mà người làm vườn sau đó sẽ dọn đi), và ngả người ra chiếc ghế dài bằng gỗ tếch. Hôm đó trời khá đẹp và anh thực sự không hiểu cái vụ lùm xùm về Peter Cannon này là sao. Là loại người coi mục đích đời mình đứng cao hơn công cuộc săn đuổi tiền bạc bẩn thỉu, Digger không thể hiểu nổi giá trị đồng tiền. Quản lý của anh ước tính anh mất phải đến một triệu đô. Nhưng với Digger, một triệu đô là khái niệm trừu tượng không rõ ràng chỉ có thể hiểu được bằng những thuật ngữ âm nhạc. Anh hiểu rằng mình có thể kiếm lại được một triệu đô đó bằng cách viết một bài hát hit, nhưng vào cái buổi chiều dễ chịu hôm đó, chìm trong sự xa hoa biếng nhác của một ngày ở Hamptons, dường như chỉ mỗi mình anh là có thái độ thờ ơ lãnh đạm như thế. Patty, cô vợ yêu quý của anh, đang hoang mang lo lắng, và nửa tiếng vừa qua đã nói toàn chuyện ngớ ngẩn trên điện thoại với chị gái cô, Janey Wilcox, một người mẫu nổi tiếng của Victoria’s Secret. Khi anh nhìn qua bể bơi tới nhà chòi nơi Patty ngồi cúi xuống cái điện thoại, ngắm nhìn thân hình hơi đẫy đà của vợ trong bộ áo tắm một mảnh màu trắng, thì cô ngước lên. Hai mắt họ gặp nhau và cùng hiểu một điều. Patty đứng dậy và bắt đầu bước về phía anh, và như mọi khi, anh ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thuần Mỹ giản dị của vợ mình: tóc vàng ánh đỏ dài đến ngang lưng, cái mũi hếch xinh xinh với những nốt tàn nhang, và đôi mắt xanh tròn. Janey, chị gái cô, được mọi người coi là “người đẹp hoàn hảo”, nhưng Digger chưa bao giờ thấy như vậy. Mặc dù Janey và Patty đều có cái mũi hếch giống nhau, mặt Janey có gì đó vừa xảo quyệt vừa hoang dại không làm anh thấy cuốn hút. Và hơn nữa, anh coi Janey, với những giá trị khỉ gió về địa vị và tiền bạc, thái độ kiêu căng và xấc xược, và ám ảnh về chính bản thân, đơn giản chỉ là một ả khốn mắc bệnh ái kỷ. Mời các bạn đón đọc Mộng Phù Du của tác giả Candace Bushnell.
Khúc Bi Tráng Cuối Cùng
Khúc Bi Tráng Cuối Cùng là một cuốn tiểu thuyết viết về chiến dịch Tây Nguyên tháng 3 năm 1975, một sự kiện có tính bước ngoạt cho sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân đội nhân dân Việt Nam. Xuyên suốt câu chuyện là số phận và cuộc đối đầu giữa hai người từng là bạn. Giờ đây, họ cùng mang trên mình sắc áo của người lính nhưng lại chiến đấu ở hai đầu chiến tuyêtns đối nghịch nhau. Tái hiện thời khác cuộc chiến tranh diễn ra khốc liệt nhưng giọng văn vẫn cứ bình thản...nghẹt thở. Những hồi ức và thực tại được đan xen làm cho câu chuyện được gợi mở dần dần và tứ đó những mối quan hệ bạn bè, cha - con, nam - nữ đã tự bộ lộ nhiều điều nhân văn ý nghĩa. Có lẽ chính điều này đã làm cho người đọc bị lôi cuốn và ấn tượng mạnh mẽ hơn. Khúc bi tráng cuối cùng đậm chất lính nhưng không hào sảng, ngợi mà đặt cạnh niềm vui ngày chiến thắng là những đau thương mất mát đề người đọc chúng ta thấy được một góc cạnh chân thực của chiến tranh. Và chính vì có cái nhìn toàn diện và chân thực đến vậy cho nên tác phẩm của Chu Kai bao giờ cũng để lại nỗi ám ảnh day dứt trong từng câu chữ. *** Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Cũng mùa này, xuôi về phương nam chừng hai ngàn cây số đất trời lại oi nồng quá thể! Sài Gòn. Mấy tuần nay không hiểu sao cái thành phố vốn đã ngột ngạt như cái nồi hơi này lại càng trở nên nóng bức bởi những tin tức chính thức và cả không chính thức từ đâu đó dội về bởi một điều gì đó như sắp có giông có bão, sắp có sự đánh lớn của hai bên, rất lớn, lớn nhất từ trước đến nay. Rồi bởi cả những sắc lính đủ loại võ phục đen đỏ trắng vàng chẳng rõ từ đâu trảy về đen kín, những đoàn xe quân sự hùng hổ với súng ống hườm hườm phóng qua phóng lại, làm cuốn bụi ban ngày, làm rách nát bóng đêm rồi tất tưởi cắn đuôi nhau lao về các vùng chiến thuật. Ngay cả tiếng rao mằn thắn bán rong của ông già người ba Tàu vốn đã trở thành quen thuộc dưới đường kia mà sao đêm nay cũng bỗng trở nên day dứt, buồn buồn như thể có điều gì bất ổn mơ hồ ở đâu đây sắp xảy ra. Giữa cảnh sắc ấy, vẻ u trầm, tĩnh mịch của một ngôi nhà được kiến trúc khá đẹp nằm sâu trong một ngõ nhỏ nhưng lại nằm khá sát dòng sông Sài Gòn với vòm hoa giấy hai màu đỏ trắng phủ kín mái cổng đã nổi lên như một nét lạ, độc đáo. Càng lạ và độc đáo hơn khi lấp ló trong màu hoa tươi rói đó là tấm bảng đồng với bốn chữ khắc sâu hiện lên vừa kiêu hãnh vừa duyên dáng khiến không ít ai qua lại không ngước mắt lên nhìn để rồi đành đánh rơi một chút bâng quơ trên miệng cười: “ Biệt thự Huyền Trang”. Ngôi biệt thự lúc này vắng tanh. Vắng đến nỗi nó dường như tách hẳn ra khỏi cái khung cảnh của một thành phố ăn chơi và có nhịp sống cuồng nộ vào loại bậc nhất Đông nam á này. Ngoài sân sỏi chỉ có một chú chó không biết giống gì mà to cao, kềnh càng qúa cỡ đang ngồi thè lưỡi ghầm ghừ vào hư vô. Trên gác, trong một căn phòng nhỏ được trang trí thanh nhã, bất cứ vật dụng gì cũng chứa chất cái hương vị đàn bà thoang thoảng, một thiếu phụ trên bốn mươi tuổi, đẹp sang trọng và uẩn buồn đang ngồi thầm lặng thả cái nhìn xa vắng qua khung cửa sổ ra khoảnh vườn xum xuê cây lá. Giữa lúc đó ở dưới đường, một chiếc Zeep lặng lẽ bon đến với tốc độ vừa phải rồi dừng nhẹ trước cổng. Một viên sĩ quan bước xuống, ráng chiều soi tỏ đôi quân hàm đại tá ba bông mai vàng gắn ngay ngắn trên ve áo. Đó là một người đàn ông trung niên, bộ võ phục không làm mất đi được vẻ nho nhã, trí thức, và bằng vào thái độ tự nhiên khi mở cánh cổng, khoan thai đi qua sân, gật đầu chào thân mật một ông già vận đồ bà ba nâu đang cầm cây kéo tỉa lá từ mảnh vườn sau đi ra, âu yếm vuốt ve chú chó đang mừng rỡ ngoáy tít đuôi, anh có vẻ là người thân thiết trong gia đình. Thiếu phụ nhìn xuống, mắt chợt ấm sáng. Đại tá theo cầu thang gỗ đi lên, đến trước thiếu phụ, anh khẽ nghiêng người, mỉm cười bỏ mũ, dáng khiêm nhường, kiểu cách của một sĩ quan cổ điển: - Tôi có việc phải ra Trung, tiện ghé thăm chị. ... Mời các bạn đón đọc Khúc Bi Tráng Cuối Cùng của tác giả Chu Lai.
Hãy Đi Đặt Người Canh Gác
Xuất bản sau "Giết con chim nhại" nhiều năm nhưng thực chất "Hãy đi đặt người canh gác" mới là tác phẩm đầu tay của Harper Lee. Tháng 2/2015, Haper Lee chia sẻ với độc giả: “Vào giữa thập kỷ 1950, tôi hoàn thành một cuốn tiểu thuyết có tên Hãy đi đặt người canh gác. Trong đó xuất hiện nhân vật vẫn được biết đến dưới tên Scout, nay đã là một phụ nữ trưởng thành, và tôi nghĩ đó cũng là một sản phẩm khá tử tế. Biên tập viên của tôi thích thú với những đoạn hồi tưởng về thời ấu thơ của Scout, đã thuyết phục tôi viết một cuốn tiểu thuyết từ điểm nhìn của Scout hồi nhỏ. Tôi mới là một nhà văn tập sự, nên đã làm theo lời chỉ bảo. Tôi không hề biết cuốn sách ấy vẫn còn đến nay, và vừa ngạc nhiên vừa vui sướng khi bạn thân, luật sư của tôi là Tonja Carter phát hiện ra nó. Sau nhiều đắn đo suy nghĩ tôi đã đưa vài người tin cậy xem cuốn sách, và rất vui lòng được biết họ coi cuốn sách này đủ tư cách xuất bản. Tôi vừa hân hạnh, vừa kinh ngạc rằng cuốn sách này sắp được xuất bản sau bấy nhiêu năm." Với những nhân vật và bối cảnh quen thuộc, Hãy đi đặt người canh gác được kể từ góc nhìn của Jean Louise đã trưởng thành. Bên cạnh những bài học về thấu cảm và khoan dung như trong Giết con chim nhại, cuốn sách còn là hành trình phân định trắng – đen, tìm đường đi giữa những đúng sai trong một xã hội của những giá trị đối đầu.   Jean Louise Finch, một cô gái 26 tuổi sinh sống và làm việc tại New York, về thăm nhà tại Maycomb, một thị trấn nhỏ miền Nam nước Mỹ. Chờ đợi cô ở nhà là những người thân thuộc: Atticus, người bố luật sư đã về già hiện đang mắc bệnh, bác gái Alexandra với những quan điểm cổ hủ về đạo đức, và Henry Clinton, phụ tá cho Atticus, cũng là người bạn ấu thơ và người theo đuổi cô bấy lâu nay. Nhưng điều cô không ngờ đến là mâu thuẫn của thập kỷ ấy – phong trào đòi quyền công dân, bình đẳng cho người da đen – đã ngóc đầu dậy trong chính gia đình mình và khiến những người thân chợt trở nên xa lạ. Khi những tấm gương anh hùng thơ ấu của cô vai kề vai với những kẻ thù ghét “mọi đen”, cổ xúy phân biệt chủng tộc, Jean Louise sẽ phải nghĩ và làm gì? Hoàn thiện bản thảo vào năm 1957, cuốn sách là sự phản ứng trực diện trước những sự kiện đã gây sóng gió trong xã hội Mỹ thời bấy giờ: phán quyết của Tòa án tối cao Mỹ trong vụ Oliver Brown cùng các phụ huynh kiện Hội đồng giáo dục của thành phố Topeka, Kansas, kết luận luật các bang cho phép phân cách màu da ở các trường công là vi hiến (17/5/1954). Phán quyết này được coi là một bước ngoặt trong phong trào đấu tranh của người da đen, nhưng trái lại, khiến một bộ phận lớn người da trắng, đặc biệt là ở các bang cực Nam, phản ứng mãnh liệt. Sự ra đời các Hội đồng Công dân bảo vệ “quyền của người da trắng”, mà mô hình đầu tiên thành lập vào 11/7/1954, là một nội dung quan trọng trong tác phẩm đã khắc họa rất xác thực tư tưởng và ngôn ngữ kỳ thị người da màu. Hãy đi đặt người canh gác là bản thảo tiểu thuyết đầu tay mà Harper Lee gửi đi các nhà xuất bản vào năm 1957. Biên tập viên Tay Hohoff ở J. B. Lippincott & Co. đã nhìn thấy tiềm năng của bản thảo, nhất là trong một đoạn hồi ức thơ ấu của Jean Louise, và đã làm việc sát sao với Harper Lee để phát triển đoạn hồi ức này thành hẳn một câu chuyện mới. Sau ba năm, cuốn sách mới với cái tên Giết con chim nhại được xuất bản (1960) và nhanh chóng thành công vang dội, trở thành tác phẩm kinh điển của văn học Mỹ hiện đại, nhưng tiểu thuyết ban đầu bị coi là đã mất. Khi bản thảo của bà được tìm lại vào năm 2014, thông tin ấy đã gây xôn xao làng xuất bản thế giới. Phát hành ngày 14/7/2015, Hãy đi đặt người canh gác đã đứng đầu các bảng xếp hạng sách bán chạy suốt 3 tháng trước đó. Trong vòng một tuần, sách bán được 1,1 triệu bản ở Mỹ và Canada (cả sách in, sách điện tử và sách tiếng). Hình tượng mới về Atticus và Jean Louise cùng tranh cãi xung quanh việc phát hiện bản thảo tiểu thuyết đã làm dấy lên những bàn luận sôi nổi về sự chủ động của tác giả, về quá trình biên tập, và về cách hiểu nhân vật cũng như các tình tiết trong cuốn sách.   Trong Hãy đi đặt người canh gác, bạn đọc vẫn dễ dàng nhận thấy văn phong sắc sảo và sự đôn hậu đặc thù của Harper Lee. Lối kể chuyện hấp dẫn cùng tài nắm bắt đặc trưng của nhân vật hay cảnh vật chỉ qua một vài chi tiết chọn lọc của bà cũng được phát huy trong cuốn sách này. Tuy nhiên, ở Giết con chim nhại, người đọc được tiếp nhận một bài học đạo đức tương đối thuần khiết và trực tiếp. Còn trong Hãy đi đặt người canh gác, tác giả đã chuyển sang cuộc hành trình tìm kiếm bản thân của Jean Louise đang trưởng thành, khi trí óc phê phán của cô không chỉ nhằm vào xã hội mà vào cả bản thân mình, trên đường đi tìm một “người canh gác” cho bản thân. Trên tất thảy, cuốn tiểu thuyết mới là một cơ hội tuyệt vời cho người đọc làm quen và đánh giá lại Harper Lee, vượt ra ngoài hình dung về một “nhà văn viết cho thiếu nhi” tài năng như chúng ta từng được biết. *** “Một tác phẩm mới, một khoái cảm cho người đọc, một cuộc thiên khải, một sự kiện văn học thực sự” • THE GUARDIAN “Tiểu thuyết thứ hai của Harper Lee còn rọi sáng những vấn đề của thế giới chúng ta hơn nhiều cuốn trước.” • TIME “Như Faulkner thường nói, những câu chuyện hay duy nhất là những câu chuyện kể về trái tim con người mâu thuẫn với chính nó. Và đấy chính là lời miêu tả đích đáng cho Hãy đi đặt người canh gác.” • DAILY BEAST “Một trong những điểm chính mà mọi nhà phê bình đều đồng thuận, đó là cả người viết và người đọc đều có rất nhiều điều để học từ cuốn sách này.” • YULTURE *** Hiếm có tác giả nào như Harper Lee sống kín đáo và gần suốt cuộc đời chỉ xuất bản duy nhất một tác phẩm, nhưng đã đứng vào hàng tác phẩm được yêu mến nhất. Với Giết Con Chim Nhại, Harper Lee không chỉ có được giải Pulitzer và Huy chương tự do mà còn danh tiếng và lòng ngưỡng mộ của bạn đọc toàn cầu. Năm 2015, người đọc vui mừng được biết tới sự tồn tại của bản thảo Hãy Đi Đặt Người Canh Gác, tiền thân của Giết Con Chim Nhại. Đây không chỉ là dịp cho chúng ta lần nữa thưởng thức văn phong sắc sảo ý nhị đặc trưng và mãnh lực đạo đức của bà, mà còn là cơ hội hiếm có để hiểu về sự hình thành tác phẩm và công việc nhà văn. “Nước mỹ những năm 1950, làn sóng đòi quyền bình đẳng cho người da đen đang dâng trào cả nước. Trong vài tiểu bang miền Nam, người da trắng tập hợp để bảo vệ cái mà họ coi là bản sắc bị tước đoạt của mình… Trở về thăm nhà như lệ thường, Jean Louise Finch không ngờ mình sắp bước chân vào giữa cuộc chiến tư tưởng của thập kỷ. Cô sẽ ngỡ ngàng thấy người cha Atticus, vị anh hùng vì lẽ công bình của cô thuở bé, dường như đã đổi màu niềm tin; người thân, bạn bè lâu năm bỗng dưng trở nên xa lạ; thị trấn Maycomb quê hương và chính cô không còn nhận ra nhau. Công lý ở đâu, đúng sai là gì? Khi thành trì lương tâm tuổi thơ cô đã vụn vỡ từng viên đá một, Jean Louise bắt đầu đi tìm một sự thật của riêng mình.” Câu chuyện cổ tích trong Giết Con Chim Nhại đã nhuốm một màu sắc khác khi nhân vật đột ngột thức tỉnh trong “thế giới nơi ta là người lớn.” Trưởng thành hơn, day dứt hơn, tuy vẫn với chất uy mua[1] hồn hậu ấy, Hãy Đi Đặt Người Canh Gác càng thêm sắc bén với những người đọc thế kỷ 21, khi đang khẩn thiết đặt ra hơn bao giờ hết câu hỏi về khác biệt và khoan dung giữa người với người. Nhã Nam Mời các bạn đón đọc Hãy Đi Đặt Người Canh Gác của tác giả Harper Lee.