Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bên Kia Mây Trời Là Nơi Hẹn Ước

Tôi và cậu, đôi bạn thân rất thân, niềm thân ái thắm thiết bền lâu. Hai đứa hiểu nhau mà chẳng cần nói trọn một câu. Có chung nhau những sở thích vô cùng khác lạ. Rồi tình thân tiêu tan sau một ngày mùa hạ, khi cô ấy đến rồi đi không để lại lời nào. Giữa biển người mênh mông, Takuya và Hiroki trở nên gắn kết nhờ có chung những kĩ năng và sở thích khác hẳn cộng đồng. Nghĩ nhiều, làm nhiều, nói ít… Mấy năm thân thiết của hai cậu được ghi dấu bằng những lúc âm thầm đứng cạnh nhau trên sân ga đợi tàu đi học, âm thầm cùng chế tác chiếc máy bay chở ước vọng tương lai, âm thầm sẻ chia những tật xấu phải che mắt người ngoài, âm thầm cảm nhận nét đẹp của một cô gái, và âm thầm cả khi phát hiện ra nhau lại tiếp tục chung sở thích về một người. Người ấy không chỉ gây xáo trộn tâm tư, mà có lẽ còn sẽ gây chia rẽ tình bạn thân thiết của hai cậu… Trên vụn nắng lấp lánh mặt ao xanh, trong tiếng vĩ cầm réo rắt, tơ lòng mong manh của một cô bé và hai cậu bé đã lặng lẽ dệt nên những canh vải vô cùng phức tạp, không thể gỡ ra chỉ bằng cách đơn giản là quyết định ai ở bên ai. *** Trong lịch sử, nước Nhật chưa bao giờ rơi vào cảnh bị chia cắt hai miền. Thế nhưng, với tài năng và trí tưởng tượng phong phú, Kano Arata đã tạo nên một câu chuyện đầy cảm động, chân thực về nỗi đau chia cắt ấy trong 'Bên kia mây trời là nơi hẹn ước'. Một câu chuyện hư cấu đầy chân thật Light novel Bên kia mây trời là nơi hẹn ước lấy bối cảnh Nhật Bản hư cấu, nơi bị chia cắt hai miền Nam – Bắc và phải chịu sự thao túng từ các cường quốc khác. Sự đấu đá giữa Mĩ và Liên Bang, hai thế lực đã chia cắt nước Nhật, trở thành lý do chính để phe Liên Bang (chiếm đóng các đảo phía Bắc) cho phép nhà khoa học Tsukinoe Ekusun xây dựng lên ngọn tháp cao kỳ lạ. Trong bối cảnh loạn lạc vì những phe phái, mâu thuẫn như vậy, bộ ba người bạn trẻ  Hiroki, Sayuri và Takuya xuất hiện mang theo sự trong trẻo, hồn nhiên. Hiroki và Sayuri hạnh ngộ trên chuyến tàu hỏa, họ cùng chia sẻ với Takuya sự thích thú với tòa tháp của Liên Bang. Ba người bạn cùng hẹn rằng sẽ có một ngày nào đấy cùng bay đến ngọn tháp trên chiếc máy bay Velaciela (đôi cánh trắng) mà Takuya và Hiroki chế tạo. Tuy nhiên, lời hứa đó không thể thực hiện vì Sayuri đã mất tích đầy bí ẩn. Âm mưu và tình yêu Ba năm sau đó, Takuya làm việc cho cơ quan Liên Minh Khoa học (Alliance Scientific Facility) do Cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ tài trợ. Nhờ vậy, cậu dần phát hiện ra sự liên quan mật thiết giữa tòa tháp với một chiều không gian song song khác. Cùng lúc đó, Hiroki đến Tokyo để hoàn thành chương trình cấp 3. Dù bị trầm cảm sau vụ mất tích đột ngột của Sayuri, nhưng Hiroki vẫn đủ tỉnh táo để phát hiện ra những manh mối còn sót lại trong lá thư trước lúc biến mất mà Sayuri để lại. Cũng từ đây, những bí mật dần được vén màn với những âm mưu khủng khiếp đến từ cả hai cường quốc. Liệu Hiroki và Takuya có thể tìm được Sayuri?  Bộ ba sẽ làm thế nào để thoát khỏi cuộc chiến tương tàn giữa hai miền đất nước? Ngọn tháp kỳ lạ đóng vai trò gì? Tất cả những thắc mắc của độc giả sẽ đều được tác giả giải đáp khéo léo trong light novel 'Phía bên kia mây trời là nơi hẹn ước' Những lời khen dành cho 'Bên kia mây trời là nơi hẹn ước' Hầu như  những độc giả yêu quý bộ truyện, dù là nguôn tác manga hay anime đều nhận xét rằng họ bị thu hút bởi tính nhân văn của câu chuyện. Hiroki, Takuya và Sayuri là những người trẻ giữa cuộc chiến, song họ không chiến đấu bằng súng đạn mà lựa chọn tình bạn, quyết tâm thực hiện hoài bão làm vũ khí.  Hiroki và Takuya đã có lúc buông lơi cuộc hẹn trên tòa tháp với Sayuri mà từ bỏ việc lắm ráp máy bay, nhưng sau đó cũng chính để cứu Sayuri mà cả hai tiếp tục hoàn thành 'đôi cánh trắng' ấy. Còn Sayuri, cô bé chấp nhận đánh đổi ký ức 3 năm để giúp được quân kháng chiến có cơ hội thống nhất hai miền đất nước... Tất cả những chi tiết ấy đều tô điểm cũng như khẳng định giá trị tuyệt vời của bộ light novel này. Light novel 'Bên kia mây trời là nơi hẹn ước' hiện đã được IPM phát hành tại Việt Nam. *** Phải chăng ta đang nghe hơi thở của bầu trời nơi tháp kia khóc than trôi xa về phương Bắc. Miyazawa Kenji Tôi bất giác ngẩng đầu nhìn trời trong lúc đợi đèn xanh ở ngã tư trước trung tâm thương mại Odakyu HALC. Khoảnh trời hẹp bên trên cổng Tây ga Shinjuku bị vây quanh bốn phía bởi cao ốc, chẳng rực rỡ cho lắm vào sáng sớm, nhưng cũng coi như khá trong xanh giữa đô thị xám xịt, đủ khiến tôi nhận ra hè đang về. Trong hình dung của tôi, hương sắc mùa hè giống như một khối không khí nồng nàn, chầm chậm rơi xuống từ không trung. Tôi nheo mắt, mường tượng về khối hương sắc mùa hè ấy. Vào khoảnh khắc đó, kí ức về mùa hè đặc biệt, mùa hè của mười sáu năm trước, bỗng bồi hồi trào dâng trong lồng ngực. Buồng phổi như thắt lại, đau nghẹn đến mức nước mắt chực rơi. Mất một lúc mới nhận ra đèn tín hiệu đã chuyển sang xanh, tôi vội vàng bước qua đường, theo dòng người hướng về cửa soát vé ở cổng Tây. Nhà ga đang giờ cao điểm. Đám đông trước mặt tôi tạo thành dòng người tấp nập, lần lượt tràn qua cửa soát vé tự động. Tôi ngắm nhìn cảnh tượng đó, lòng chẳng mảy may ngạc nhiên hay xúc động. Chừng này con người cùng sống trong một thành phố, mỗi người lại có cuộc đời riêng. Ngẫm lại mới thấy, chẳng rõ từ lúc nào chuyện này không còn khiến tôi kinh ngạc. Tôi ý thức được gánh nặng trên vai mình. Bước sang tuổi ba mươi mốt, tôi đã thấm thía nỗi mỏi mệt tương xứng với tuổi tác. Không quá to tát, nhưng cũng khó bơ đi mà sống. Tôi bỗng không muốn đến công ty nữa. Tính cách tôi vốn hơi khác thường, đúng hơn là y như trẻ con. Nhưng nghĩ lại, hồi nhỏ tôi từng trốn học bao giờ chưa nhỉ? Hình như là chưa. Tôi ngờ rằng mình đã lớn lên theo cách không trọn vẹn. Bởi người ta khó có thể trưởng thành thực sự nếu chưa làm trẻ con đúng nghĩa khi còn bé. Tôi chẳng biết việc làm người lớn có giá trị đến nhường nào. Có điều, chí ít mối hoài nghi về sự trưởng thành nửa vời của bản thân vẫn luôn canh cánh trong lòng tôi. Tôi điểm lại lịch trình hôm nay. Trước mắt không có cuộc hẹn nào cả. Việc gấp không phải không có, nhưng chắc sẽ xoay xở được thôi. Tôi bỏ cặp đi làm vào tủ gửi đồ của nhà ga, khóa lại. Lấy điện thoại trong túi áo ra, tôi định bụng gọi đến công ty... Tôi chợt đổi ý, tắt nguồn rồi cất điện thoại vào túi áo. Tôi quyết tâm, đã trốn thì trốn cho ra trò đúng kiểu trẻ con. Tôi biết ngay mình muốn đi đâu. Sau khi xuống ga Tokyo qua tuyến Chuo, tôi mua vé tàu tốc hành tuyến shinkansen Tohoku đi Hachinohe cùng vé về Aomori. Bước lên con tàu shinkansen Hayate rời ga lúc 8 giờ 56 phút, tôi nhét mình trong ghế ngồi chật hẹp, mơ màng ngủ gà ngủ gật suốt hành trình gần ba tiếng. Tôi chuyển sang tàu hỏa tốc hành ở Hachinohe, đi tới ga Aomori. Đợi thêm ba mươi phút, tôi lên chuyến tàu hỏa chạy bằng dầu diesel của tuyến Tsugaru. Đây là tuyến tàu chặng ngắn chạy đến tận cùng bán đảo Tsugaru, điểm cực Bắc đảo Honshu. Chuyến tàu vùng quê đầy hoài niệm. Đoàn tàu gồm hai toa. Mỗi ngày vỏn vẹn năm chuyến. Không có gì thay đổi. Toa tàu vắng khách tạo cảm giác bình lặng đến lạ kì. Người dân sống ở Tsugaru chỉ đi lại bằng tuyến đường sắt duy nhất này. Có thể vì vậy mà tôi nhận thấy ở nó sự thân thuộc đặc biệt. Thế nhưng, trong đó có cả cảm giác lạc lõng. Bởi tôi đã trở thành kẻ xa lạ trên mảnh đất này. Tôi không còn thuộc về bầu không khí thân thương ấy nữa. Một cặp đôi cấp hai ngồi ở khoang ghế đằng xa. Cả hai đang vui vẻ trò chuyện. Tôi bồi hồi ngắm cảnh tượng ấy. Hai đứa mặc đồng phục trường cấp hai của tôi. Bộ đồng phục cũng không đổi khác so với trước kia. Tôi nghe thấy nội dung cuộc đối thoại. Toàn chuyện lặt vặt của trẻ con, nhưng trông cả hai rất vui vẻ, không vướng bận gì cả. Tôi cũng có một thời rạng rỡ, vô ưu như thế. Những điều nhỏ nhặt từng là báu vật, đem đến niềm vui khôn tả. Cạnh tôi có một người bạn thân cùng một cô gái xinh đẹp. Ba chúng tôi ngồi trên chuyến tàu này, mong sao cỗ xe lửa vận hành bằng dầu diesel vốn vừa nặng vừa chậm chạy từ từ hơn nữa. Giờ đây tất cả chỉ còn trong kí ức xa vời... Đúng rồi. Tôi đã đi rất xa. Khi ấy, tôi gắng hết sức vùng vẫy, cốt để đi càng xa càng tốt. Cái đích mà tôi của ngày đó cố gắng vươn tới có phải chính là đây? Tôi cũng chẳng biết. Tôi xuống ga Tsugaru-Hamana, trước điểm cuối của tuyến một ga. Tôi vừa đưa mắt nhìn bãi để xe nhỏ dành cho xe đạp, vừa bước về hướng ngược lại với ngôi làng, băng qua gầm cầu cạn của tuyến Tsugaru-Kaikyo mới, tuyến đường sắt xây dở chưa từng được đưa vào sử dụng. Đoạn đường tiếp theo hơi dốc. Chẳng mấy chốc tôi đã tới nhà máy bỏ hoang dựng theo kiểu nhà tiền chế*. Đi tắt qua phần đất của xưởng, tôi khom mình lách sang bên kia hàng rào đã hỏng, chầm chậm leo lên ngọn đồi nhỏ ở phía sau. Mất nửa tiếng đồng hồ vượt qua quãng đường um tùm cây cối, cảnh vật đột ngột hiện ra. Trước mắt tôi là đồng cỏ mênh mông ánh lên màu lục nhạt, trông hệt như trang trại, cỏ non mơn mởn mọc ngút tầm mắt, tỏa hương tươi mát hòa quyện trong gió. Một thế giới xanh dịu, bao la, trải dài vô tận. Tôi chậm rãi bước vào vùng cỏ. Tiếng xào xạc khi đám cỏ lay động khẽ lướt qua tai. Ở khá xa bên tay phải là một nhà ga hoang phế nằm trơ trọi. Ba sân ga bê tông nối với nhau bằng cây cầu gỗ bộ hành nằm trên cao. Vài chỗ trên tường hay sàn cầu đã mục. Nhà ga bị bỏ hoang khi việc xây dựng còn dang dở, vì thế chưa có chuyến tàu nào chạy qua đây. Nó chẳng thể đưa người ta đi đâu, cũng chẳng đón ai ghé đến. Trước kia, nơi này từng chứa đựng toàn bộ cuộc sống của tôi. Tôi ngước nhìn bầu trời rộng lớn đến quá đáng. Những đám mây dày bồng bềnh trôi trên tầng không xanh thẳm. Tôi ngửa mặt, ngước lên nhìn quanh một lượt, bầu trời cũng xoay tròn, sắc xanh như thể dồn hết về chỗ tôi. Giữa khoảng không cao vời vợi, một chiếc máy bay hiện ra. Chiếc máy bay nhỏ màu trắng. Velaciela... Là ảo ảnh do tôi tưởng tượng. Nó không thực sự bay trên trời. Mà chỉ tồn tại trong kí ức cũ kĩ của tôi. Một cỗ máy với hình thù lạ lùng, không được nhắc đến và cũng không thể xuất hiện trong bất kì tập san máy bay nào. Velaciela. Tác phẩm của ba chúng tôi. Chiếc máy bay đẹp đến nao lòng. “Tuyệt quá...” Giọng Sayuri vang lên bên tai. Không, là ảo giác thôi. Cô đã không còn. Chỉ là một mảnh kí ức bị khuấy động và tái hiện nhờ không gian. Vậy mà tôi lại có thể góp nhặt gần như trọn vẹn hình ảnh của cô. Tiếng bước chân cất lên khi cô bé chạy trên cỏ, đuổi kịp tôi từ phía sau, vượt qua tôi rồi quay đầu lại, chiếc váy đồng phục ngắn và mái tóc đen ngang vai đung đưa. “Máy bay!” Sayuri mừng rỡ nói. Cô vẫn mang hình hài nữ sinh cấp hai của mười sáu năm trước. “Sao mình lại xuất hiện trong hình dáng đó? Bạn biết dáng vẻ mình khi trưởng thành hơn cơ mà?” Gió lướt qua da, đem tôi về với thực tại. Chiếc máy bay, bóng hình Sayuri, cả hai vụt tan biến. Tôi thẫn thờ nhìn nơi ảo ảnh Sayuri vừa đứng. Tôi ngẩn người hồi lâu, ngắm màu xanh của đồng cỏ và bầu trời. Cuối dải đất nhô cao như ngọn đồi là mũi đất. Đứng trên đó có thể nhìn thấy biển. Biển màu xanh đen lạnh lẽo. Sâu thẳm và tối tăm, nhưng lại trong suốt đến kì lạ. Đó là màu eo biển Tsugaru vào mùa hè. Xa hơn nữa, bên kia eo biển là đảo Hokkaido xanh xám, nửa như hòa vào màu trời. Tôi bỗng thắc mắc vì sự thiếu vắng một chi tiết đáng lẽ phải có ở đây. Đúng rồi. Ngọn tháp. Ngày trước, mỗi khi đứng ở chỗ này, trông sang đảo Hokkaido bên kia eo biển, tôi đều thấy ngọn tháp trắng lừng lững giữa nền trời đầy mây. Ngọn tháp cao ngất, từ bán đảo Tsugaru vẫn trông thấy được. Đường thẳng màu trắng xinh đẹp như được vẽ lên không trung bằng thước kẻ, có phần giống bản phác thảo thang máy vũ trụ trong tạp chí khoa học dành cho thiếu niên. Kiến trúc khổng lồ đến mức vô thực, chẳng khác nào tới từ nền văn minh thuộc thế giới khác. Nhưng giờ không thấy tháp đâu. Không còn nữa. Tôi đã đánh mất nó. Thảm cỏ xao động trong gió, gợn sóng như mặt nước, mang hơi hướm Sayuri lại bên tôi. “Mình luôn có linh tính sắp đánh mất thứ gì đó. Thế giới đẹp đẽ nhường này, vậy mà...” Phải. Cô từng nói thế, rằng luôn có dự cảm mất mát. Bấy giờ tôi mới học cấp hai, chắc chắn chưa thể hiểu hết, nhưng lời cô vẫn lay động tôi một cách kì lạ. Chuyện xảy ra nhiều năm trước cuộc chiến ấy. Bấy giờ Hokkaido được gọi bằng cái tên Ezo, là mảnh đất bị quốc gia khác xâm lăng, kẻ địch chiếm đóng. Gần ngay trước mắt mà không thể đặt chân đến. Ở một chân trời ngoài tầm với. Là nơi hẹn ước. Đúng vậy. Mùa hè ấy, ba chúng tôi đứng đây ngắm ngọn tháp và cùng lập một lời hứa. Vào một ngày mà hôm nay đã thành dĩ vãng xa xôi, bên kia mây trời từng là nơi hẹn ước với Sayuri. Ngọn tháp mất đi là lỗi của tôi. Sayuri cũng không còn bên tôi nữa. Sayuri... Cô ấy giờ thế nào? Tại sao lúc này tôi không thể ở bên Sayuri? Vừa nghe tiếng cỏ xào xạc, tôi vừa cúi mặt, xòe ngón tay ra đếm. Đếm những thứ đã để mất, đã phá hỏng, đã vứt bỏ suốt mười mấy năm nay. Tính thử mới thấy chẳng có bao nhiêu. Vậy mà sao cảm giác lại nặng nề thế này. Tôi chầm chậm bước tới chỗ đường ray sắt bị bỏ hoang trong tình trạng lắp đặt dở. Trước mắt tôi là nơi hai đường ray giao nhau rồi tách ra. Tôi ngồi xuống thanh ray gỉ sét. Tôi khóc. Có lẽ tôi đã đánh mất toàn những thứ không được phép mất đi. Nhưng chừng nào tôi còn là tôi, cậu ấy còn là cậu ấy, cô ấy còn là cô ấy, đó vẫn là điều bất khả kháng. Con đường của chúng tôi không cho phép chuyển tuyến hay thay đổi điểm đến. Khi bầu trời đã loáng thoáng nhuốm sắc đỏ, tôi vẫn ngồi im như thế. Tôi lắc đầu, xua đi cảm xúc u buồn rồi chậm rãi đứng dậy, khẽ phủi gỉ sét bám trên quần xuống. Đã đến lúc trở về với “hiện tại”. Tôi quay người cất bước, bỏ biển lại sau lưng.   Mời các bạn đón đọc Bên Kia Mây Trời Là Nơi Hẹn Ước của tác giả Kanoh Arata & Shinkai Makoto & HẢI HÀ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Amber: Kiếp Hồng Nhan - Kathleen Winsor
Có thể nói ngay, Forever Amber là một tác phẩm văn học xuất sắc của nữ văn sỹ Kathleen Winsor. Bà đã kể lại một câu chuyện xảy ra vào thế kỷ 17 tại Anh quốc, xoay quanh nhân vật nữ chính là Amber - một cô gái mồ côi - đã dùng nhan sắc và sự quyến rũ của mình để tồn tại trong xã hội đa dạng lúc bấy giờ. Cô sẵn sàng làm người tình hay vợ những kẻ giàu có, nhưng lại không có được người cô yêu. Một điều lạ của cuốn sách, đó là nó vừa được yêu thích, vừa (từng) bị cấm xuất bản ở nhiều nơi (và bị xếp vào hàng… khiêu dâm). Dù vậy, cuốn sách vẫn có sức sống mạnh mẽ và luôn nằm trong danh sách tiểu thuyết hay nhất. Đoạn đời tuổi trẻ của Amber vùi dập trong chuỗi ngày mê muội, trong sự vùng vẫy để đạt điều cô mong ước. Những biến cố lịch sử có thật cũng được thể hiện sinh động dọc theo quãng đời của cô. Vừa dũng cảm lại vừa lẳng lơ, Amber có những lúc “lên voi” trong giới thượng lưu, thậm chí cả triều đình, và có những khi “xuống chó” phải đổi thân xác để có miếng ăn. Một trong những sự kiện khiến cho câu chuyện mang hơi thở thật của bối cảnh là trận dịch hạch kinh hoàng tại London. Qua đó cũng chứng tỏ tình yêu mãnh liệt và sự dũng cảm của Amber. Suốt đoạn đời được mô tả trong tác phẩm, Amber yêu và chỉ yêu Bruce Carlton. Kết thúc câu chuyện, Amber bắt đầu một hành trình vô vọng đến Hoa Kỳ để tiếp tục tìm kiếm Bruce, người đã lập gia đình với một cô gái khác. Hình như bản dịch tôi đọc là từ bản tiếng Pháp, cho nên tác giả đặt tựa là “Ambrơ” (theo Ambre). Sau này tôi có thấy sách được tái bản. Một cuốn sách không thể bỏ qua, tuy nhiên, cùng nguyên nhân với lệnh cấm từng dành cho nó tại nhiều nơi, tôi nghĩ nó chỉ thích hợp với người trên 20 tuổi (hoặc hơn nữa). * *   * Từ một cô gái bị khinh thường nơi miền quê, Amber trở thành một mệnh phụ phu nhân quyền quý. Amber St. Clare sinh ra đã mất mẹ và không bao giờ được biết mặt cha. Từ đó, cô bé lớn lên trong sự ganh ghét, dè bỉu của những người xung quanh, ngoại trừ tình yêu của cô Sarah tốt bụng. Cuộc gặp gỡ với Bruce Carlton năm cô 16 tuổi, khi anh cùng đoàn kỵ sĩ của Nhà vua đi ngang qua làng Marygreen, đã thực sự đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời cô. Cô dành cho anh tất cả tình yêu sâu đậm, cháy bỏng và cuồng nhiệt… Cô theo anh đến Luân Đôn và không ngờ rằng trong suốt 10 năm sau đó cô phải trải qua biết bao biến động của thời cuộc và nhất là những thay đổi ghê gớm của cuộc đời mình. Xã hội dạy cho cô cách thức để vượt qua những hiểm nguy, gian khó, kể cả những ngày tháng kinh hoàng và khủng khiếp nhất. Amber không ngần ngại trước mọi thứ có thể đem lại cho cô tình yêu, tiền tài và danh vọng. Từ một cô gái bị khinh thường nơi miền quê, Amber trở thành một mệnh phụ phu nhân quyền quý, một nữ bá tước… và hơn thế nữa là một quận chúa được nhà vua đặc biệt sủng ái. Cô đã có tất cả những gì cô muốn, ngoại trừ một điều thiêng liêng nhất - đó là tình yêu và một mái ấm gia đình thật sự với người đàn ông mình rất yêu… *** Mùa xuân năm ấy khô ráo và bụi bặm. Trời ít mưa. Tuy nhiên đến tháng Năm, trên các cánh đồng xung quanh Luân Đôn phủ đầy những tấm thảm đỏ chói của cây chĩa ba, hoa mào gà lớn, những đàn ong vo ve, những cánh đồng lúa xanh rì. Ngoài phố lại vang lên tiếng rao: - Trái anh đào chín đỏ đây! Hoa tường vi đây! Ai muốn mua hoa oải hương của tôi nào! Khu Mậu dịch lóng lánh những bộ áo mùa hè, vải ga mỏng, vải có vân sóng, đủ màu sắc: vàng lưu hoàng, mận, Thổ Nhĩ Kỳ, hồng tươi. Thời tiết nắng đẹp, gió mát thổi tới. Trong suốt năm, không có tin tức nào làm người ta sôi sục và tức giận bằng tin đồn là York đã cải hóa sang Công giáo. Không ai có thể chứng minh được việc đó; quận công từ chối không chấp nhận, trừ Charles lẽ ra phải biết rõ thì chỉ nhún vai, từ chối không để liên lụy đến mình. Tất cả những kẻ thù của quận công mưu mô với nhau chặt chẽ hơn; trong lúc đó người ta nhận thấy quận công York và Arlington bỗng trở nên rất thân với nhau. Điều đó càng có ảnh hưởng đến tin đồn một cuộc liên minh Pháp - Anh, vì Arlington đã từ lâu có thiên vị với Hòa Lan, bị nghi ngờ bản thân ông là công giáo, hoặc dù sao thì cũng có cảm tình với công giáo. Những lời đồn đại đó lan truyền nhanh chóng trong thành phố, Charles khó che giấu được nỗi bất bình của mình và có mấy lời nhận xét về sự không kín đáo của dân tộc Anh. Tại sao họ không bằng lòng được cai trị bởi những người làm nghề đó? Mẹ kiếp! Làm vua cũng chẳng hay gì hơn một anh làm bánh hoặc anh thợ lợp nhà. Có lẽ ông học một nghề còn tốt hơn! Không còn nghi ngờ gì nữa; nếu vua không kết hôn một lần nữa, York chỉ cần sống lâu, sẽ nối nghiệp vua Charles. Hoàng hậu đã lại sẩy thai lần thứ tư vào cuối tháng Năm. Một con cáo đói đã liếm mặt trong khi bà đang ngủ, làm bà hoảng sợ và mấy giờ sau bà mất đứa con! Buckingham đã thuê các thầy thuốc khẳng định là hoàng hậu không bao giờ có con được nữa, nhưng Charles không muốn nghe. Vua và hoàng hậu, cả hai đều sầu não, Catherine không còn chút nghi ngờ gì nữa, mình là người bất hạnh nhất trong tất cả các người đàn bà: một hoàng hậu tuyệt sản. Nhưng Charles vẫn tiếp tục cả quyết chống lại mọi góp ý làm Người phải xa vợ. Lòng trung thực hay nỗi thờ ơ, người ta không sao hiểu được! Ở trong triều có nhiều thiếu phụ mà những cuộc tranh luận về một hoàng hậu mới hướng vào đấy, gây ra những mối lo ngại. Dù sao thì Barbara Palmer cũng nghe với một nụ cười thích thú và ranh mãnh. Bởi vì, không còn là nhân tình của vua, vị trí của bà không còn may rủi nữa. Dần dần mối quan hệ của bà với Charles dịu đi. Họ giống như cặp vợ chồng, thờ ơ lẫn nhau, tổ chức một cuộc sống yên lành, không cãi cọ, ghen tuông, không giận hờn, vui sướng. Họ tìm thấy ở những đứa con của họ một lợi ích chung; và bây giờ giữa hai người xuất hiện một thứ tình bạn mà họ không thấy vào thời họ yêu nhau. Bà không còn ghen tuông với các nhân tình của Người, và Người thì vui lòng hả dạ thấy đã thoát được những cơn thay đổi tính nết đột ngột của bà. Charles vui thích đứng xa quan sát tính thất thường và nỗi yếu đuối của Barbara. Amber thấy sốt ruột, cô tống cho Almsbury rất nhiều thư hỏi xem anh có nghe nói gì về Carlton không. Mỗi lần cô đều nhận được trả lời với cùng một ý. Almsbury không còn biết gì hơn, người ta đợi Bruce vào tháng Tám hoặc tháng Chín, làm sao mà có thể cụ thể hơn được với cuộc hành trình trên mặt biển? Amber không sao có thể nghĩ đến việc khác. Lại một lần nữa, nỗi khát vọng cũ đau đớn và say mê lại trào dâng trong lòng cô. Tuy nhiên cô quyết định là lần này phải có thái độ đàng hoàng và đúng nghi thức. Cô sẽ đứng hơi xa để nhường cho chàng đi những bước đầu. Đó là cách tốt nhất để giữ một người đàn ông. Cô tự trách mình: “Ta cứ luôn luôn như là một người hầu hèn mọn của chàng: nhưng lần này sẽ khác hẳn. Dù sao thì bây giờ ta cũng đã là một bà lớn rồi, một bà quận chúa, và chàng mới chỉ là nam tước. Bất kể thế nào, cũng phải để chàng bắt đầu trước!” Cô biết là vợ chàng sẽ đi theo chàng, nhưng cô không lo lắng đến việc ấy. Bởi vì nhất định Bruce Carlton không phải là người đàn ông phô trương một tình yêu thái quá đối với vợ. Điều đó chỉ đúng với bọn trưởng giả vô học thức, còn đối với một người quý phái có kể chi đến vợ mà không dám đi ra ngoài không gươm! Hai vợ chồng Almsbury trở lại Luân Đôn hồi tháng Bảy để thu dọn nhà cửa, thuê một số người hầu mới và chuẩn bị đón những người khách quý đang sốt ruột chờ mong. Almsbury đến thăm Amber, cô quyết định giữ thái độ thản nhiên, nói huyên thuyên về nhiều vấn đề tước vị của cô, tòa nhà lớn cô đang xây, những vị khách cô sẽ mời chủ nhật tới. Almsbury mỉm cười nghe cô nói và gật đầu tán thưởng, không hề đả động đến Bruce. Câu chuyện của Amber chậm dần lại. Cô có vẻ phân vân, rồi cuối cùng biết là anh trêu mình, cô cảm thấy bực, bèn hỏi: - Thế nào, có tin tức gì không? - Tin tức à? Để tôi suy nghĩ đã, con ngựa cái đen của tôi, mà em vẫn cưỡi đấy, mới đẻ một chú ngựa con tuần trước và… - Quỷ nó bắt anh đi! Tại sao anh cứ để em phải chết dần thế này? Hãy nói em nghe, anh biết những gì? Khi nào anh ấy tới? Nàng cũng đi theo chứ? - Tôi không biết gì hơn những điều đã viết cho em, vào khoảng tháng Tám hoặc tháng Chín. Phải, nàng cũng sẽ tới. Tại sao? Em không sợ nàng à? Amber liếc cặp mắt dữ tợn nhìn anh; cô khinh khỉnh nhại lại: - Sợ nàng? Almsbury, anh tò mò thật! Đề nghị anh cho biết vì sao tôi lại sợ nàng? - Cô ngừng lại rồi hùng hổ nói tiếp - Vả lại tôi đã hình dung được rất rõ ả rồi, ả Corinna ấy! - Thật hả? - Almsbury lễ phép nói. ... Mời các bạn đón đọc Amber: Kiếp Hồng Nhan của tác giả Kathleen Winsor.
Thời Bi Tráng - Nguyễn Văn Thịnh
Nửa sau thế kỷ XX là thời kỳ biến động lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Vì độc lập, tự do và thống nhất tổ quốc, người Việt Nam liên tục phải đương đầu với những thế lực bành trướng lớn nhất trong lịch sử loài người. Thành thị là nơi hợp lưu người tứ xứ. Nhưng mỗi nơi hình thành những đặc trưng cư dân khác nhau. Người Hà Nội là đặc trưng của nền văn hóa sông Hồng, tiêu biểu là nền văn hóa Thăng Long. Qua những biến thiên thời cuộc, người Hà Nội trải khắp theo chiều dài đất nước và tỏa đi tứ xứ, tiếp thu nhanh văn minh thời đại. Kết hợp truyền thống văn hóa Đại Việt họ luôn hướng về cội nguồn dân tộc, góp phần xứng đáng vào việc bảo vệ tổ quốc để dân tộc trường tồn. Thời Bi Tráng là tiểu thuyết về thời kỳ lịch sử ấy. Truyện là chuỗi hồi ức sống động mang nét sử thi với nhiều nhân vật vương bóng nhũng con người thật, nổi chìm theo sự đổi thay trong bối cảnh thời gian và không gian đất nước rộng dài. Dưới thể tiểu thuyết chính luận xã hội, những sự kiện và diễn biến thời cuộc được sưu tầm cẩn trọng, phong phú, công phu gần với tiến trình lịch sử. Tác giả sinh ra và lớn lên ở đất Hà Thành và trôi nổi theo dòng thác biến động xã hội lớn lao suốt mấy mươi năm từ Bắc vào Nam, lòng còn mang đậm ký ức tuổi thơ về cố đô Thăng Long. Những kỷ niệm của tuổi ấu thơ ngọt ngào và tuổi thanh xuân buồn vui trong khói lửa chiến tranh cùng cuộc sống xô bồ trong buổi giao thời. Những sự kiện ngày một mờ đi. Những con người ngày càng vắng bóng. Nhưng những dấu tích còn vương lại nơi trang sách, họa là chút gợi nhớ với lớp chứng nhân và gợi cảm với lớp người sau về một quá khứ bi hùng... *** Hà Nội, mùa thu Mậu Tuất 1958. Vào một buổi trưa, cuối đê La Thành đầu ô Đống Mác, trên con đường trải đá xanh lởm chởm, một người tàn tật mặc quân phục, đội chiếc mũ gắn ngôi sao vàng quân hiệu điều khiển chiếc xe lăn quanh quẩn nhiều lần, đưa mắt dò tìm khắp hai dãy phố. Trời bỗng sầm tối lại. Cơn dông ập tới. Con lốc xoáy chạy dọc trên đê cuốn theo khối bụi mịt mù lẫn rác và lá bay lả tả. Những giọt mưa nặng hạt đập lộp bộp rải rác lưa thưa trên những mái nhà, tán lá. Người ta nháo nhác chạy tìm chỗ trú. Anh thương binh dừng xe, cúi gằm xuống, một tay ghì cần lái, một tay giữ chặt mũ cho gió khỏi giật đi. Những hạt mưa mau hơn rải đều lan ra phát lên tiếng rào rào hỗn tạp. Đám mây như con trâu đen trũi ầm ầm chạy qua, đuổi theo sau lại là khoảng trời quang đãng mênh mông rực nắng. Anh thương binh ngẩn ngơ nhìn trước nhìn sau lại thủng thỉnh cho xe đi dò dẫm. Cơn mưa bóng mây ào ào chợt đến, chợt đi. Lại vang lên những tiếng người gọi nhau í ới, những tiếng còi và chuông xe đủ loại pin… pin! kính… coong! ếp ... ếp! và những tiếng thét vội vã cáu kỉnh tục tằn của cuộc sống phố phường thường nhật. Bầu trời lại hiện ra cao ngất ngằn ngặt trong xanh với những áng mây trắng muốt mỏng tang nhởn nhơ đuổi nhau bay về phía chân trời. Anh thương binh dừng xe trước Nhà máy nước, ngại ngùng nhìn con dốc đối diện bên một ngôi nhà tầng cất dở dang nhưng vẫn trưng tấm biển Nhà hộ sinh to tướng. Mấy người đàn ông đứng lơ ngơ quanh đó chạy tới vồn vã hỏi: - Đồng chí bộ đội tìm ai hay muốn vào trong làng? - Vâng! Tôi vào làng trong. Họ xúm nhau lại khiêng cả anh thương binh cùng chiếc xe xuống dốc và ríu rít thân mật hỏi : - Đồng chí bị thương à? - Đồng chí vào nhà ai? Có việc gì không? - Xin cảm ơn các bác! Tôi về nhà tôi. Giọng anh run run và đôi tay anh lập cập điều khiển chiếc xe bon bon như chạy. Con đường làng quen thuộc đây! Những viên gạch dày cộp mòn trũng mấp mô. Dưới gánh nặng của thời gian, rìa đường từng mảng nứt trĩu xuống như muốn rời ra. Con sông Tô Lịch làm ranh giữa làng trong với làng ngoài đôi bờ hẹp lại, nông toèn, đen đặc, tỏa ra một không khí nặng nề. Anh thương binh nhẹ tay đẩy, thủng thẳng nhận ra từng địa danh dấu tích: Đây là hồ Trung! Bên đây là hồ Cổ Ngựa! Mấy đứa trẻ con tò mò nhìn anh xa lạ. Mấy người lớn ngờ ngợ nhưng chiếc xe đã lăn qua khiến họ chưa kịp nhận ra người cũ. Đình làng Hương Thể mình đây! Đình chùa đều bị chiến tranh tàn phá, hơn chục năm rồi vẫn là mái ngói mái tranh tạm bợ trên cốt tường cũ loang lổ gió sương. Cái giếng trước cổng chùa ngày nào nước trong xanh là thế, cả làng ra đây gánh nước về ăn, giờ chỉ còn là cái ao toen hoẻn đặc bèo tổ ong xám ngoét. Cổng đình xưa cao to ngất ngưởng uy nghi giờ là một khoảng trống thông thống với đường làng. Cây đa phủ bóng rợp sân đình, rễ của nó làm bật tung lên những viên gạch lát mòn. Anh dừng xe áp sát vào khúc tường tào xá sứt mẻ rêu phong, hướng ra hồ Đình, ngày xưa có kệ gạch xây rộng lắm. Chiều chiều lớp nhỏ và các anh lớn ra đây vẫy vùng thỏa thích, bây giờ lềnh bềnh những mảng bèo tây. Cái giếng thơi to tướng giữa sân đình đã bị san phẳng đi rồi, mấy đứa trẻ quần nhau một quả bóng bưởi, nhễ nhãi mồ hôi… Anh ngửa mặt nhìn lên tán đa cổ kính già nua, không để ý có người dừng lại dõi nhìn theo. Tiếng ai hỏi làm anh giật mình quay lại: - Ai như là Nghĩa… phải không? Anh bỏ mũ ra. Người ta chạy lại, xúm quanh, nhận ra người làng mình, tíu tít: - Thằng Nghĩa! - Anh Nghĩa! - Cậu Nghĩa! - Cháu nội cụ Hai Mùi! - Con ông Hai Nhàn… Ông ấy chết sớm lắm! - Cháu gọi ông Ba Thanh bằng chú đấy! - Sao đến bây giờ mới về? - Tưởng chết ở mãi đâu rồi chứ! Thấy anh tần ngần, một người giải thích: - Những ngày đầu kháng chiến, lính Pháp nã vãi đạn pháo vào làng, người chết rải rác khắp nơi. Sau nó tràn vào, bắt người sống quăng xác người chết xuống giếng đình nên dân làng phải lấp đi! Nghĩa dần nhận ra từng người nhưng anh không thể trả lời những câu hỏi dồn dập được. Mấy đứa trẻ sấn tới xăm xăm đẩy xe đi: - Chú bộ đội… thương binh về nhà ai? Người ta theo nhau dặn với: - Đất nhà cụ Hai Mùi ở dọc hồ Dài! - Ông Ba Thanh giờ ở… trên phố! - Bà Gái… à bà Bình ấy là cháu nội còn ở đấy! Chiếc xe chạy băng băng dưới sức đẩy của đám trẻ háo hức nhiệt tình và tranh nhau hỏi: - Chú bộ đội bị thương ở đâu thế? - Chú có đánh trận Điện Biên không? - Chú còn đi được nữa không? - Chú không có vợ con à? - Chú Úy hay là Tá? - Là lính… trơn! – Anh trả lời bâng quơ. Một đứa ra vẻ người lớn, giải thích: - Chú giấu sao được bọn cháu. Đi bộ đội lâu thế, bị thương nặng thế, “bốn túi chân trì” lại được cấp xe riêng… bét cũng phải là Đại úy! ... Mời các bạn đón đọc Thời Bi Tráng của tác giả Nguyễn Văn Thịnh.
Đi Tìm Chiếc Bình Graal - Vincent Watelet
Chiếc bình thiêng có tên là Graal trong đó đã chứa những giọt máu quý giá của Đấng Cứu Thế vào ngày Chúa tử nạn trên cây thánh giá để cứu vãn những nỗi khổ của loài người. Một thiên thần đã đọc cho Joséphé viết nên câu chuyện này. Đến lượt tôi, tôi lại kể các bạn nghe để các bạn biết sự thật về những hiệp sĩ và những con người thần thánh qua các cuộc phiêu lưu kỳ lạ đầy nguy hiểm của mình đã làm thế nào để cuối cùng chinh phục được chiếc bình Graal. Vào thời kỳ Chúa tử nạn trên cây thánh giá, ở Jérusalem có một người tốt bụng và chính trực tên là Joséphé d’ Arimathie, ông đã đi theo Chúa trên tất cả các chặng đường đau khổ của Người. Nghe nói chính Joséphé đã hứng những giọt máu chảy ra từ những vết thương của Chúa vào trong chiếc bình Graal, chiếc bình thiêng này được giữ và lưu truyền trong gia đình Joséphé từ đời cha sang đời con trong thời gian rất dài. Rồi một hôm, chiếc bình Graal, sau khi đã chu du qua nhiều đại dương, được mang tới nước Anh do một người cháu họ lâu đời của Joséphé, mà người ta chỉ biết dưới tên gọi "Vua Câu Cá". Vị vua này không trị vì như các vị vua khác trên trái đất mà cho xây tại một nơi bí mật một lâu đài rộng mênh mông xứng đáng lưu giữ chiếc bình thiêng, sau đó giam mình trong lâu đài để cầu nguyện. ít lâu sau một vị vua mới lên ngai vàng vương quốc Anh, tức là vua Arthur. *** Perceval đi ngựa lâu lắm, hy vọng cuối cùng tìm được lâu đài vua Câu Cá. Trên đường, chỗ nào chàng cũng nhìn thấy những dấu hiệu của cái ác cái xấu đang hoành hành trong vương quốc: trang trại bị cháy rụi, nhà tu bị phá phách, đất đai hoang tàn... Lòng chàng đau đớn trước những thảm họa này và càng mong mau chóng đạt tới mục đích của cuộc tìm kiếm. Nhưng mãi vẫn chẳng thấy lâu đài Graal đâu cả... Một hôm, trong khi cứ lang thang như vậy không biết đi đâu thì chàng gặp cô gái trọc đầu, người đã để lại tấm khiên ở lâu đài Camelot mà hiện chàng đang mang, giữa có chữ thập đỏ chót. - Xin chào hiệp sĩ, - cô nói. - Ta chưa bao giờ gặp nhau, ấy thế nhưng tôi xin bảo đảm với chàng rằng số phận chúng ta ràng buộc chặt chẽ với nhau. Không! Xin chàng đừng nói gì hết! -.Cô vội nói khi Perceval định cất lời. - Tôi biết chàng là ai và chàng đang đi tìm cái gì. Vì vậy chàng hãy nghe tôi nói. Một thử thách cuối cùng đang chờ đợi chàng. Chắc chàng đã nghe tên tay hiệp sĩ ác Long và các hiểm họa hắn gây ra quanh lâu đài Camelot. Chàng phải thắng bằng được tên hiệp sĩ Dragon Argent này mà muốn vậy chàng hãy mau chóng trở lại Camelot. - Đã bao lần rồi, kể từ lâu lắm, tôi cứ phải rời xa mục đích đã dắt dẫn cuộc đời tôi! - Per-ceval kêu lên. Chàng bỗng thấy mình vô cùng mệt mỏi. - Chàng hãy tin tôi, con đường chàng tìm phải đi qua những cuộc giao tranh mới tới được, - cô gái trọc đầu nói rồi bỏ đi. - Hỡi chàng hiệp sĩ được chúa Trời ban phúc, ta sẽ gặp nhau sau! Perceval hiểu rằng từ nay đời chàng không còn thuộc về mình nữa, chàng phải nhất nhất tuân theo các hiệu lệnh đưa ra trước mặt mình. Mà cuộc gặp gỡ này là một trong những hiệu lệnh ấy. Chàng bèn theo con đường dẫn về lâu đài Camelot và tới đây sau nhiều ngày đường. Gau-vain và Lancelot, mới trở lại đây từ chưa lâu lắm đón tiếp chàng rất nồng nhiệt và khi nghe chàng bày tỏ động cơ trở lại Camelot họ nhất trí chàng làm như vậy là đúng. - Xin thề với ngôi mộ của Chúa, lưỡi kiếm này sẽ cùng lưỡi kiếm của bạn đâm xuyên thân mình tên hiệp sĩ Dragon Argent! - Lancelot hứa. - Và kiếm của tôi cũng vậy! - Gauvain phụ họa. Những thể hiện của tình bằng hữu ấy làm tâm hồn Perceval mạnh mẽ thêm, chàng quyết định cả ba ngay sáng sớm hôm sau sẽ lên đường đương đầu với tên hiệp sĩ đang phá hoại cả vùng đó. Ngày hôm sau họ tỉnh dậy thì đã thấy tất cả các hiệp sĩ Bàn Tròn tập trung trong sân lâu đài và xin với họ cho đi cùng. Nhưng Perceval từ chối chỉ để Lancelot và Gauvain đi theo mình. Họ phóng ngựa rất lâu, rời khu rừng ra vùng đồng bằng rộng lớn, từ đây ra đến biển không bao xa. Vừa tới gần bờ biển thì một thầy tu mình đầy máu lại gần họ. - Thưa các ngài, xin các ngài hãy chọn con đường khác và đi xa vùng bờ biển này ra! Bởi vì trên hòn đảo trước mặt các ngài kia là lâu đài.của tên hiệp sĩ Dragon Argent, không ai thoát được hắn đâu! Ba hiệp sĩ trấn an thầy tu và hỏi xem có thể kiếm thuyền ở đâu. Thấy ba chàng kiên quyết như thế ông thầy tu đưa họ đến một chỗ có thể xuống thuyền lên đảo. ... Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Chiếc Bình Graal của tác gi Vincent Watelet.
Tôi Là Lưu Nhảy Vọt - Lưu Chấn Vân
“Tôi là Lưu Nhảy Vọt” là cuốn tiểu thuyết hài dí dỏm mang đậm phong cách của nhà văn Trung Quốc - Lưu Chấn Vân. Nội dung xoay quanh câu chuyện mất túi xách của anh đầu bếp Lưu Nhảy Vọt. Trong khi đi tìm, gã lại nhặt được một chiếc túi khác. Bí mật trong chiếc túi này liên quan đến tính mạng của một số nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội. Lưu Nhảy Vọt lập tức trở thành mục tiêu săn tìm của bọn họ. Gã giống như một chú cừu vô tình lạc vào giữa bầy sói. Sự xuất hiện của chú cừu làm thế giới trở nên không kiểm soát nổi... kéo theo bao tình huống nực cười và mở ra muôn mặt đời thường của đủ mọi dạng người trong xã hội, từ chủ thầu xây dựng tới giám đốc công ty có bà vợ hay ghen, cô ca sĩ bày trò chán ăn để tạo scandal, ông Bộ trưởng. Một cuộc kiếm tìm đầy thú vị về chiếc túi xách với số tiền mặt và giấy ghi nợ trị giá hơn 3 vạn tệ của người tình vợ Lưu Nhảy Vọt đền bù cho ông chồng bị cắm sừng… sẽ lôi cuốn độc giả hết từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Tiểu thuyết xuất bản tại Trung Quốc tháng 11 - 2007, bán được 40.000 bản ngay trong 02 tháng đầu phát hành. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyện nhựa cùng tên do nữ đạo diễn Mã Lệ Văn thực hiện, bắt đầu công chiếu tại nước này từ ngày 18.1.2008, với sự tham gia của các ngôi sao: Tần Hải Lộ, Lí Dị Tường, Cao Quần Thư, Trần Đại Minh... Bộ phim nhanh chóng lập kỷ lục về doanh thu với hơn 10 triệu tệ chỉ sau 3 ngày đầu công chiếu. *** Mọi bi kịch đều không có chỗ cho sự lựa chọn. Trong bi luôn có hài. Lưu Chấn Vân. Gã đồng hương với Tưởng Giới Thạch lấy ngón tay cái và ngón giữa chụm vào nhau thành hình chữ O giơ lên, đầu gật gù, miệng nói giọng quan thoại Chiết Giang. Thế thì đúng rồi. Mọi căn nguyên đều từ chuyện sảy thai mà ra, chứ không hề liên quan đến tuổi thơ và người mẹ của Cù Lợi. Điều mà Cù Lợi lo lắng không phải là Nghiêm Khắc, cũng không phải bản thân, cũng chẳng phải cả thế giới, mà là con cái. Kiểm tra quần lót của Nghiêm Khắc vì sợ chồng có con với người đàn bà khác. Rồi lại bắt đầu chiến tranh lạnh. Chỉ vì mỗi chuyện đầu tóc mà cãi nhau loạn lên với các hiệu làm đầu xung quanh, ấy là để xả cơn phiền muộn ra ngoài. Càng ăn càng béo là vì tâm lý đã đập bát thì đập cho tan luôn. Rồi tiến tới, căn nguyên của bệnh cũng chẳng phải ở chuyện con cái nữa, mà là sợ mình không có con, sau này, tài sản sẽ rơi vào tay ai. Nói cách khác, là tiền. Đã tìm ra nguyên nhân, tay bác sĩ cảm thấy nhẹ nhõm, khoan khoái hẳn. Bản thân Cù Lợi, lẽ ra, cũng nên thấy nhẹ nhõm mới phải, nhưng không, cô ta càng trầm cảm, u uất hơn. Bởi cô ta không có cách nào giải quyết căn nguyên này. Vốn không đến mức lo lắng cho thế giới như thế, nhưng giờ đây, Cù Lợi lại càng lo lắng hơn. Vốn dĩ điều làm cô ta lo lắng là cả thế giới, nhưng sau khi nghe lời mách bảo của bác sĩ, dần dần, nỗi lo lắng của Cù Lợi tập trung cả vào một mình Nghiêm Khắc. Hơn lúc nào hết, cô ta để ý đến nhất cử nhất động, mỗi lời nói, việc làm của Nghiêm Khắc ở bên ngoài. Cô ta cũng biết, sự lo lắng và kiểu để ý thái quá như vậy rất dễ phản tác dụng. Cũng có thể, điều mà cô ta cần chính là sự phản tác dụng. Muốn dùng sự phản tác dụng, dùng sự bùng nổ, dùng kết quả tồi tệ nhất, dùng sự giết người, dùng sự máu chảy thành sông để chứng minh cái sai không phải ở mình, đồng thời, đổ hết trách nhiệm cho đối phương và thế giới. Ngày trước, cô ta lo Nghiêm Khắc có người đàn bà nào đó ở bên ngoài. Bây giờ, Nghiêm Khắc chẳng có người đàn bà nào ở bên ngoài cả, điều ấy lại làm cô ta thấy không yên tâm. Có khi, Nghiêm Khắc vụng trộm ở ngoài càng nhiều lại càng tốt. Càng nhiều, càng làm cho mong ước của cô ta sớm thành hiện thực. Chuyến đi Thượng Hải lần này vốn không phải để khám bệnh, mà là một thói quen. Hôm qua, một bạn ruột của Cù Lợi gọi điện thoại mách chuyện báo đăng ảnh Nghiêm Khắc chụp với cô ca sĩ sao. Bạn ruột của Cù Lợi cũng là vợ của một gã nhà giàu, to béo phục phịch. Đương lúc cảm khái, giọng bà bạn có phần hưng phấn. Điều ấy lại giúp Cù Lợi nhận rõ bộ mặt thật của bà bạn ruột. Cũng thuộc dạng người lúc nào cũng mong bạn mình gặp xúi quẩy. Loại tâm lý có vấn đề. Nhưng bà bạn ruột không hề biết rằng, khi biết tin này, Cù Lợi không hề buồn bã, mà trái lại, cũng hưng phấn như bà bạn ruột. Giống như ngựa chiến khi ngửi thấy mùi sa trường và máu, là máu trong huyết quản lập tức sôi sục. Nhưng trong điện thoại, Cù Lợi lại làm ra vẻ khổ tâm, cũng có ý để cho bà bạn mắc lừa. Thực sự, cô ta đã sẵn sàng cho sự kìm nén. Cô ta muốn nuốt trọn quả mật đắng và liều thuốc độc này. Núi lửa tích tụ càng lâu, thì lửa phun ra càng dữ dội. Máy bay chở Cù Lợi đáp xuống sân bay thủ đô Bắc Kinh. Nghiêm Khắc tất tưởi ra đón vợ, trong tay cầm một tờ báo. Cù Lợi biết, Nghiêm Khắc cố làm ra vẻ thật thà để che giấu sự thật, chiếm lấy tiên cơ. Sau khi lên ô-tô, Cù Lợi ngồi ôm con chó cưng, còn Nghiêm Khắc thì giở tờ báo ra, chỉ cho vợ xem bức ảnh, rồi giải thích: - Mình có tin hay không thì tùy. Nhưng lúc ấy tôi đang mua khoai lang, không để ý cô ta là ai. Ý đồ quá lộ liễu của chồng chợt làm Cù Lợi sôi giận. Vốn không muốn mắc bẫy của bà bạn ruột, nhưng giờ đây Cù Lợi lại sập bẫy. Cơn giận đã định kìm nén, bỗng chốc bùng lên. Cù Lợi nói: - Mình việc gì phải căng thẳng thế? Để tôi đến hiện trường hỏi han là ra hai năm rõ mười ngay ấy mà. - Chuyện từ hôm qua, ai người ta nhớ? Cù Lợi mặc kệ, bảo lái xe đi thẳng đến đoạn phố trong ảnh. Nhưng mụ làm như vậy lại vừa vặn mắc lừa Nghiêm Khắc. Nghiêm Khắc không phải muốn che giấu quanh co, mà muốn khuất phục đối phương một cách mềm mỏng. Điều gã ta mong đợi chính là để Cù Lợi đến hiện trường. Trước đây, Cù Lợi từng đến những hiện trường khác, làm gã cứ nơm nớp. Nhưng lần này thì khác. Mọi việc đều đã được cắt đặt kỹ lưỡng. Đến mức, gã lo mình đã mất công đạo diễn một vở kịch như thế. Gã không phải muốn nhân dịp này để phủ định việc mình đã làm, mà là để phủ định cả con người Cù Lợi. Nghiêm Khắc cũng vào vai, làm ra vẻ bất đắc dĩ: - Mình thích thế nào thì tùy. Rồi cùng Cù Lợi đến con phố hôm qua. Lưu Nhảy Vọt vốn rất tự tin, nhưng khi trông thấy Cù Lợi và Nghiêm Khắc xuống xe, vở kịch bắt đầu mở màn, gã bỗng thấy có chút căng thẳng. Dù sao, trước đây, gã cũng chưa từng bao giờ diễn kịch, càng chưa từng diễn cuộc sống. Diễn cuộc sống, té ra, còn khó hơn cả diễn kịch.   Mời các bạn đón đọc Tôi Là Lưu Nhảy Vọt của tác giả Lưu Chấn Vân.