Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ký Sự Phục Dịch Ở An Nam

Vào giữa thế kỷ XVII, sau khi người Mãn Thanh lên nắm quyền ở Trung Quốc, nhiều trung thần của nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh bỏ trốn sang Nhật Bản, Việt Nam cùng các nước Đông Nam Á khác nhằm mưu tìm cơ hội khôi phục nhà Minh. Trong số những Minh thần này, có một trưng sĩ tên là Chu Thuấn Thủy rất đáng được chú ý. I. Đôi nét về thân thế của Chu Thuấn Thủy Chu người Dư Diêu (cùng quê với Vương Dương Minh) tỉnh Chiết Giang, sinh năm 1600, vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Tên thật của Chu là Chi Du, hiệu là Thuấn Thủy, tổ tiên hình như có liên hệ với Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Trong 5 lần đến Đàng Trong, thời gian Chu lưu trú lâu nhất là khoảng 4 năm từ năm 1654 cho đến năm 1658. An Nam cung dịch kỷ sự là “hồi ký” của Chu viết về những sự việc xảy ra vào năm 1657 trong khoảng thời gian hai tháng rưỡi kể từ khi Chu bị quản thúc ở Hội cho đến khi được cho về lại Hội An. Vị “Quốc vương” mà Chu thường nhắc đến trong An Nam cung dịch kỷ sự là chúa Nguyễn, hay nói rõ hơn là chúa Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền), người cai quản Đàng Trong từ năm 1648 đến năm 1687. Về học vấn và tư tưởng, Chu đặc biệt chú trọng lối học thực hành (thực học) theo truyền thống Nho học của miền Giang-Chiết (Giang Tô và Chiết Giang). Chu xem những lối học không mang lại lợi ích cho đời, cho dầu hào nhoáng đến đâu chăng nữa, cũng không khác gì đồ bỏ. Trong bức thư trả lời câu hỏi của Andô Shuyaku về “phương pháp đọc sách và viết văn”, Chu đáp: “Điều đáng quý trong học vấn là thực hành. Nhan Hồi tuy học một biết mười, nhưng điều quan trọng là ông đứng đầu về đức hạnh”. Cái thực học của Chu so với cái học để thi cử rỗng tuếch ở Trung Quốc và Việt Nam lúc bấy giờ thì phải nói là cách xa nhau một trời một vực. 2. Nội dung An Nam cung dịch kỷ sự Chu nhận được hịch chiêu mộ người “biết chữ” của “Quốc vương” và ra trình diện ngày 3 tháng 2 năm 1657, Chu bị tống giam và bị đối đãi như “tù giặc nước ngoài bị bắt sống” (khấu lỗ). Sau đó, khi được dẫn đến nha môn, quan ra lệnh cho Chu làm một bài thơ khẩu hứng rồi viết lên giấy. Chu khăng khăng không chịu làm thơ, dùng bút giải thích là vì “cảnh nước mất nhà tan” và “không cam bím tóc” theo nhà Thanh nên Chu mới trốn sang Nước ta, “ruột gan nóng như lửa đốt, làm thơ sao đặng”. Khi biết Chu là “cống sĩ” (giống như “trưng sĩ”, nhưng trưng sĩ là cách gọi tổng quát), quan có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình. Lúc ở Hội An, Chu thuê nhà chung với ba người Nhật. Chủ nhà là Gombê (Quyền binh vệ), cũng là người Nhật. Sáng sớm trước khi bị dẫn ra Dinh Cát, Chu tắm gội sạch sẽ, rồi căn dặn cặn kẽ người nhà phải làm gì khi trong trường hợp bị giết mà không về lại Hội An. Khi từ Dinh Cát về lại Hội An thì đồ đạc trong phòng Chu bị kẻ trộm vào lấy sạch, không còn gì cả. Trong khi hàng xóm láng giềng ai cũng đinh ninh chủ nhà là thủ phạm, Chu vẫn một mực không chút tỏ ý nghi kỵ Gombê. Sau khi điều tra biết Gombê là người vô tội, lúc bấy giờ hàng xóm mới khen Chu không phải là người tầm thường. Sau đó đến ngày 19 tháng 2, Chu được thư của Chúa mời Chu ra giúp, Nhưng đối với Chu, lúc này thì đã cạn tàu ráo máng nên Chu đã từ chối lời mời của chúa Nguyễn. An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo trên nhiều mặt. Thêm vào đó, Chu đã từng cư ngụ ở đất Thuận-Quảng nhiều lần trong khoảng 12 năm từ năm 1646 cho đến năm 1658. Bởi thế, lối quan sát và nhận định của Chu về tình hình học thuật, xã hội và chính trị của Đàng Trong, cũng như những điều Chu nhận xét về một số nhân vật mà Chu đã từng tiếp xúc trong thời gian bị câu lưu mang nét sống động của một người có óc quan sát chứ không phải là những lời bình phẩm chung chung của một khách bàng quan. Người đọc không nhất thiết sẽ đồng ý với tất cả những nhận xét của Chu. Thậm chí, một vài nhận xét của Chu có thể làm độc giả người Việt không mấy hài lòng. Chu là một nhà trí thức tuy khá am tường về Việt Nam nhưng ưu tiên của Chu là “bài Thanh phục Minh”, khác với hoài bão với những người Việt trên bước đường Nam tiến. Tuy nhiên, ý nghĩa của An Nam cung dịch kỷ sự là tập ký sự này cho ta một bức tranh về tình hình Đàng Trong vào thế kỷ XVII với một số nét chấm phá mới mẻ. Chính vì thế, việc phân tích và đánh giá An Nam cung dịch kỷ sự không phải đơn giản, đòi hỏi người đọc có thái độ muốn bình tâm tìm hiểu một cách khách quan về những nhận xét của Chu trong thời gian bị quản thúc ở Hội An và Thuận Hóa. Ngoài ra, qua tập ký sự của Chu Thuấn Thủy, chúng ta có thể tìm thấy những thông tin bổ ích khác về tình hình Đàng Trong giữa thế kỷ XVII. Chẳng hạn về ngôn ngữ, về cộng đồng người Hoa và người Nhật ở Hội An, tình hình học thuật, thư mục những sách chữ Hán ở Đàng Trong lúc bấy giờ, tình trạng thích bói toán, khuynh hướng chuộng bằng cấp hư danh, đánh giá người theo khả năng làm thơ phú chứ không chú trọng đến thực học. Nhìn trên quan điểm về nghi thức ngoại giao, những khác biệt về nhãn quan và ngộ nhận về lập trường giữa Chu và các quan sai trong phủ chúa Nguyễn là một trường hợp độc đáo cần được nghiên cứu và thảo luận kỹ càng hơn. Về điểm này, trong phần kết luận của bài giới thiệu về Chu Thuấn Thủy khoảng hơn nửa thế kỷ trước, học giả Quán Chi Đào Trinh Nhất đã đưa ra nhận xét chí lý như sau: “[... Người nước ta] tiếc một ông thầy chân nho đến ở nhà mình 12 năm ròng rã, mà nhà nho mình thuở ấy không ai biết lợi dụng khải phát được điều gì, để cho ông thầy đâm chán, đem theo cái đạo học cao xa đi xứ khác mất. Cứ xem bọn nhà nho nước Nhật ở thế kỷ XVII tôn sùng họ Chu rồi sau mới biết Khổng học một cách khác hơn”. Khuynh hướng kỳ thị trong việc sử dụng nhân tài nước ngoài - không những của chúa Nguyễn mà của các triều đại Việt Nam nói chung - đều biểu hiện một thái độ đa nghi co mình lại. Bài học lịch sử này vẫn còn đáng được cho chúng ta ngày nay suy ngẫm. Người dịch đã được xem 3 ấn bản An Nam cung dịch kỷ sự. (1) ấn bản trong Chu Thuấn Thủy toàn tập (tập Thượng) do Chu Khiêm Chi chỉnh lý (Trung Hoa Thư cục, Bắc Kinh, 1981); (2) ấn bản trong Chu Thuấn Thủy toàn tập (quyển 1) do Dương Gia Lạc chủ biên (Thế giới Thư cục, Đài Bắc, 1956); (3) ấn bản do Trần Kinh Hòa hiệu đính và in lại trong bài “Chu Thuấn Thủy ‘An Nam cung dịch kỷ sự’ tiên chú” đăng trong tập san Hương Cảng Trung văn Đại học Trung Quốc Văn hóa Nghiên cứu sở Học báo (1968). An Nam cung dịch kỷ sự khi dịch đã chủ yếu dựa trên ấn bản (1), đồng thời tham khảo các ấn bản (2) và (3). Khoảng hơn 90% những chú thích trong bản dịch quốc ngữ là do sự tra khảo của người dịch. *** Sử liệu Trung Quốc và Nhật Bản cho biết trước khi sang Nhật định cư vào năm 1658, Chu Thuấn Thủy đã nhiều lần theo tàu buôn đến Việt Nam. Trong khoảng thời gian ở nước ta, không những sở học của Chu chẳng có ai nhận chân được giá trị, thậm chí có lúc Chu còn bị quản thúc và suýt mất mạng. Chắc hắn vì thế nên Chu đã từ giã Việt Nam để sang định cư ở Nhật với tư cách là một học giả về Nho học. Trước khi rời Việt Nam, Chu có viết một ký sự về khoảng thời gian bị câu lưu và phục dịch cho phủ chúa Nguyễn ở đất Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam). Tập ký sự này được viết vào năm 1657 và mang tên An Nam cung dịch kỷ sự (Ký sự phục dịch ở An Nam). Sau khi sang Nhật, Chu được nhiều người mến mộ tài năng nên đã có dịp thi thổ sở học của mình và đóng góp lớn vào việc nghiên cứu, phát triển Nho học trong nước Nhật lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, ở Trung Quốc và Nhật Bản, tên tuổi của Chu còn được nhắc nhở đến khá nhiều, trong lúc đó ở Việt Nam không mấy ai biết đến. Trên thực tế, cùng với tập Hải ngoại kỷ sự của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán và cuốn Xứ Đàng Trong năm 1621 của Christoforo Borri, An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo cung cấp cho ta nhiều thông tin bổ ích về tình hình ở đất Thuận Quảng nói riêng cũng như Đàng Trong nói chung vào thế kỷ XVII. dtBOOKS CÔNG TY TNHH SÁCH DÂN TRÍ ĐC: 11C Nguyễn Kiệm, P.3, Q. Gò Vấp, TP. HCM VPGD: 65 Hồ Văn Huê. P. 9, Q. Phú Nhuận, TP. HCM ĐT: (028) 62751674-62784851 Ký sự phục dịch ở An Nam ISBN: 978-604-956-373-7 9786049 563737 8 935207 001449 Giá: 74.000₫ www.dtbooks.com.vn *** Vài nhận xét về An Nam cung dịch kỷ sự An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo trên nhiều mặt. Tác giả Chu Thuấn Thủy là một học giả có tầm cỡ, lại có nhãn quan của một người có chí kinh luân hằng ấp ủ mộng “bài Thanh phục Minh”. Thêm vào đó, Chu đã từng cư ngụ ở đất Thuận - Quảng nhiều lần trong khoảng 12 năm từ năm 1646 cho đến năm 1658. Bởi thế, lối quan sát và nhận định của Chu về tình hình học thuật, xã hội và chính trị của Đàng Trong, cũng như những điều Chu nhận xét về một số nhân vật mà Chu đã từng tiếp xúc trong thời gian bị câu lưu mang nét sống động của một người có óc quan sát chứ không phải là những lời bình phẩm chung chung của một khách bàng quan. Người đọc không nhất thiết sẽ đồng ý với tất cả những nhận xét của Chu. Thậm chí, một vài nhận xét của Chu có thể làm độc giả người Việt không mấy hài lòng. Chu là một nhà trí thức tuy khá am tường về Việt Nam nhưng ưu tiên của Chu là “bài Thanh phục Minh”, khác với hoài bão với những người Việt trên bước đường Nam tiến. Tuy nhiên, ý nghĩa của An Nam cung dịch kỷ sự là tập ký sự này cho ta một bức tranh về tình hình Đàng Trong vào thế kỷ XVII với một số nét chấm phá mới mẻ. Chính vì thế, việc phân tích và đánh giá An Nam cung dịch kỷ sự không phải đơn giản, đòi hỏi người đọc có thái độ muốn bình tâm tìm hiểu một cách khách quan về những nhận xét của Chu trong thời gian bị quản thúc ở Hội An và Thuận Hóa. Với tư cách là “trưng sĩ”, Chu trên thực tế là một trí thức hàng đầu của nhà Minh. Tuy sang Việt Nam lánh nạn, Chu không những là một di thần của nhà Minh mà còn là một trí thức tiêu biểu trong vận động “bài Thanh phục Minh” ở Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản. Theo trật tự Đông Á trước thời cận đại với Trung Quốc là trung tâm, chỉ có người trị vì ở Trung Quốc mới được xưng là “hoàng đế”, còn vua của các nước trên vòng ngoại vi của Trung Quốc như Việt Nam, Triều Tiên chỉ được xưng hay gọi là “vương” (trên nguyên tắc phải được hoàng đế Trung Quốc sắc phong) trong các quan hệ chính thức với Trung Quốc. Chu xem mình nếu đã là “trưng sĩ”, là “tôi” của “hoàng đế” Trung Quốc, thì không thể lạy vua An Nam - một nước mà theo “trật tự thế giới của Trung Quốc” chỉ là một phiên quốc. Chu cho rằng việc bắt Chu lạy là trái với “lễ nghi” trong quan hệ sắc phong và triều cống giữa Trung Quốc với các nước “phên giậu” láng giềng. Trong tập ký sự, Chu nhắc đi nhắc lại chữ “lễ” nhiều lần chính vì Chu muốn nhấn mạnh điểm này. Trong khi đó, các quan sai của phủ chúa Nguyễn khi thấy Chu không chịu lạy vị chúa của mình đã cho rằng Chu đã “cậy thế Trung Quốc là nước lớn” nên không chịu lạy. Ngày trước, khi những sứ thần của Trung Quốc chính thức sang thăm viếng Việt Nam, vì các nghi lễ tiếp đón đã quy định sẵn nên có lẽ không mấy khi xảy ra những trường hợp phức tạp như thế này. Tuy nhiên, khi Chu trình diện với chúa Nguyễn, vấn đề nghi lễ trở nên gay cấn đến cực độ, bởi lẽ trong khi phủ chúa Nguyễn chỉ xem Chu như một người “biết chữ” (thức tự) có thể tuyển mộ để giúp về việc thảo văn thư chữ Hán, Chu lại tự coi mình như là một trí thức đại diện của phong trào phục Minh. Vì đứng trên lập trường đó nên Chu đã xem nhiệm vụ hàng đầu của chúa Nguyễn là phải giúp Chu trong nỗ lực khôi phục nhà Minh, trong khi mối quan tâm trước mắt của chúa Nguyễn - như chúng ta đã biết - là một mặt tiếp tục cuộc tranh hùng dai dẳng với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, một mặt mở mang bờ cõi ở phương Nam. Nhìn trên quan điểm về nghi thức ngoại giao, những khác biệt về nhãn quan và ngộ nhận về lập trường giữa Chu và các quan sai trong phủ chúa Nguyễn là một trường hợp độc đáo cần được nghiên cứu và thảo luận kỹ càng hơn. Có điều khá rõ ràng là khi sang Nhật, không những Chu đã không bị bắt lạy mà còn được trọng vọng, Mitsukuni đã tiếp Chu như một quốc sư. Trong một bức thư gửi về Trung Quốc, Chu đã viết về Mitsukuni như sau: “Ông đầy đức độ và lòng dũng cảm, thông minh, và có văn hóa cao. Ông không ngần ngại theo lời khuyên của kẻ dưới… Giá có một vị chúa như vậy ở Trung Quốc, với sự giúp đỡ của những người có tài năng, ông ta có thể xây dựng một xã hội hòa hợp và thanh bình không mấy khó khăn”[13]. Tìm được đất dụng võ, Chu quyết định ở lại Nhật suốt hơn hai mươi năm cho đến lúc tạ thế để truyền bá Nho học. Về điểm này, trong phần kết luận của bài giới thiệu về Chu Thuấn Thủy khoảng hơn nửa thế kỷ trước, học giả Quán Chi Đào Trinh Nhất đã đưa ra nhận xét chí lý như sau: “[… Người nước ta] tiếc một ông thầy chân nho đến ở nhà mình 12 năm ròng rã, mà nhà nho mình thuở ấy không ai biết lợi dụng khải phát được điều gì, để cho ông thầy đâm chán, đem theo cái đạo học cao xa đi xứ khác mất. Cứ xem bọn nhà nho nước Nhật ở thế kỷ XVII tôn sùng họ Chu rồi sau mới biết Khổng học một cách khác hơn”[14]. Ngoài ra, qua tập ký sự của Chu Thuấn Thủy, chúng ta có thể tìm thấy những thông tin bổ ích khác về tình hình Đàng Trong giữa thế kỷ XVII. Chẳng hạn về ngôn ngữ, Chu cho biết một số cách xưng hô trong phủ Chúa mà từ trước đến nay không thấy ghi lại trong các tư liệu Việt Nam. Dựa theo các chú thích về cả hai mặt nghĩa và âm của tác giả, ta biết chúa Nguyễn tự xưng là tau (tức là tao) khi nói chuyện với quần thần; hoặc giả chữ mi (tức là mày) cũng là cách gọi phổ biến của người trên với người dưới, không những trong dân gian mà cả trong phủ Chúa. Chu còn cho chúng ta thấy đôi nét về cộng đồng người Hoa và người Nhật ở Hội An, tình hình học thuật, thư mục những sách chữ Hán ở Đàng Trong lúc bấy giờ. Tập ký sự của Chu còn đề cập đến tình trạng thích bói toán, khuynh hướng chuộng bằng cấp hư danh, đánh giá người theo khả năng làm thơ phú chứ không chú trọng đến thực học trong phủ Chúa lúc bấy giờ[15]. Điều này khác hẳn thái độ của chúa Sãi khi thu dụng Đào Duy Từ chỉ mới cách đấy có hai đời chúa. Khuynh hướng kỳ thị trong việc sử dụng nhân tài nước ngoài - không những của chúa Nguyễn mà của các triều đại Việt Nam nói chung - đều biểu hiện một thái độ đa nghi co mình lại. Chính vì thiếu ý thức tuyển dụng và nung đúc nhân tài nhằm xây dựng một nền thịnh trị lâu dài cho đất nước, nên một nhân vật có tầm cỡ như Chu Thuấn Thủy vẫn không tìm được đất dụng võ ở Việt Nam, phải đợi cho đến khi họ Chu sang Nhật mới có thể phát huy được sở học và tài năng của mình. Bài học lịch sử này vẫn còn đáng được cho chúng ta ngày nay suy ngẫm. Mời các bạn đón đọc Ký Sự Phục Dịch Ở An Nam của tác giả Chu Thuấn Thủy & Vĩnh Sính (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phải Sống - Van B. Choat
"Phải Sống"_Hành trình từ Chiến tranh đến Tự do của một bé gái mồ côi là một cuốn hồi ký kể về cuộc đời nhiều mất mát, đau thương của tác giả Vân B. Choat nhưng thay vì đầu hàng số phận, cô vẫn luôn nỗ lực để sống và vươn lên hết lần này đến lần khác. Ngôi mộ không phải là mục đích của cuộc đời. “Con sẽ sống bởi vì con là một người con gái và là một người chị, và ngôi mô không phải là mục đích của con.” (tr.221) Đối với một đứa trẻ mồ côi từ khi lên 4 trong chiến tranh, việc có thể sống sót thôi đã là một kỳ tích. Nhưng Vân Bích Choat còn làm được hơn thế nữa khi cô luôn mạnh mẽ, đầy nghị lực để không chỉ sống mà còn sống tử tế và đạt được nhiều thành công. Giờ đây, Vân viết Phải Sống như một lời khích lệ cho những ai đang cảm thấy tồi tệ trước cuộc sống khó khăn. Cuộc đời đã nợ Vân quá nhiều khi an bài cho cô một số phận là sự cộng gộp những bất hạnh của mọi đứa trẻ mồ côi nói chung và của những đứa trẻ mồ côi do chiến tranh nói riêng trên khắp thế giới này.  Những ký ức đầy ám ảnh về chiến tranh, sự đói nghèo, những trận bạo hành, lạm dụng của bác dâu, của dượng; hay trận đụng xe kinh hoàng từng hủy hoại khuôn mặt cô, . . Những “cơn ác mộng”, những Con Quái Vật ấy cứ thi nhau đổ trút xuống đời Vân, không cho cô có ít thời gian “nghỉ giữa hiệp” nào để lấy lại sức, tiếp tục chiến đấu.  Và sự ghẻ lạnh của họ hàng, sự dè bỉu, khinh rẻ của người đời dành cho trẻ mồ côi vẫn luôn song hành cùng Vân kể cả trong những khoảng lặng ngắn ngủi giữa hàng loạt biến cố. Không dừng lại ở đó, số phận lại có ý khác khi để cho một đứa trẻ với “ba ngôi sao chiến trận” xứng đáng được nghỉ ngơi tiếp tục bị dày vò bởi những trận bạo hành, sự day dứt về bà ngoại bị bỏ lại quê nhà kể cả khi Vân đã đặt chân đến Mỹ.  Và thường thì, nếu một người có tuổi thơ bất hạnh, họ sẽ được Trời “đền” lại cho một người chồng tuyệt vời, một gia đình riêng hạnh phúc. Vân cũng có một và chỉ một mối tình khiến cô có thể viết ra hẳn một cuốn tiểu thuyết lãng mạn.  Nhưng không có gì kéo dài mãi mãi, và hạnh phúc có thể biến thành nỗi đau chỉ trong một chớp mắt. Người yêu từ thời Trung học, người chồng tuyệt vời của cô sớm ra đi với căn bệnh nan y, để lại cho cô 2 đứa con trai thơ dại. Dù vậy, chưa bao giờ chúng ta thấy chút suy nghĩ từ bỏ cuộc sống nào ở người phụ nữ kiên cường này. Một mình nuôi dạy 2 con trưởng thành, cố gắng học tập, làm việc và đạt được nhiều thành công. Đó, là lời đáp trả tốt nhất của cô đối với nghịch cảnh đời mình. Không chỉ vậy, ở Vân còn có một điều khiến chúng ta khâm phục đó là cách cô nhìn cuộc đời và hành xử một cách đầy lý trí, tỉnh táo, cứng rắn nhưng không tuyệt tình, sắt đá. Trong vô vàn những tháng năm đau thương đó, Vân vẫn nhặt nhạnh ra được những mẩu kí ức hạnh phúc, yên bình hiếm hoi và lưu giữ trong tim tựa như cách cô cất giữ hình của cha mẹ cho đến tận bây giờ dẫu có những lúc tưởng chừng không biết phải đi đâu về đâu và đến cả tính mạng mình cũng không có gì bảo đảm. Cô vẫn sống, vẫn yêu thương bà ngoại và các anh em, vẫn bảo vệ em gái mình và chống trả lại nghịch cảnh một cách đầy quyết liệt, cứng cỏi.  Còn với những bàn tay từng nắm lấy tay mình, dẫu thỉnh thoảng những bàn tay ấy cũng chẳng dịu dàng gì, cô vẫn luôn biết ơn và đủ bao dung để hiểu cho những nỗi đau, khó khăn đã biến họ thành Quái Vật dù họ không muốn thế. Không hận người, không trách đời, không đổ lỗi cho hoàn cảnh và luôn cố gắng sống tốt với tất cả sự mạnh mẽ, nghị lực, sự lạc quan là những gì chúng ta có thể tìm được trong Phải Sống - Hành trình từ Chiến tranh đến Tự do của một bé gái mồ côi.  Nếu cha mẹ vẫn còn bên chúng ta hay ít nhất là còn có một người để yêu thương, một người thân hay một mái nhà để nương náu thì chúng ta đã quá may mắn và đừng tuyệt vọng, hãy xốc lại tinh thần để đương đầu với mọi khổ đau, khó khăn trong đời. "Phải sống", vì chết chưa bao giờ là mục đích của đời người! Mời các bạn đón đọc Phải Sống của tác giả Van B. Choat.
Ngày Hôm Qua... Đã Từng (My Life)
“Mỗi người trên thế giới này đều có một ai đó lặng lẽ yêu thương ở đâu đó, có lúc ta sẽ nhận ra, đôi lúc lại chẳng hề hay biết người ấy, có bao giờ bạn nhìn lại phía sau, có bao giờ bạn biết rằng ai đó vừa đi ngang qua cuộc đời bạn… như cách mà họ đến.” Đó là điều mà tác giả trẻ Nguyễn Moon luôn tâm niệm. Với Nguyễn Mon, “Ngày hôm qua… đã từng” (My Daisy) là cuốn hồi ký, nhưng có thể với một số bạn đọc, cuốn sách này như là tiểu thuyết với rất nhiều cung bậc cảm xúc của một người trẻ đã từng trải qua. Có nước mắt, có máu, có những hờn ghen, những toan tính và có cả những yêu thương chân thành.  Nếu cuốn một “My Life” là câu chuyện tình đẹp nhưng dang dở của hai người trẻ, để lại trong lòng bạn đọc cảm giác nuối tiếc, day dứt khiến người ta muốn khóc, thì với cuốn thứ hai “My Daisy” lại là một màu trắng trinh nguyên của thứ tình cảm nhẹ nhàng, thầm kín nhưng đẹp đến nao lòng, hay đâu đó là vẻ đep của một chuyện tình đơn phương. Để rồi cuốn ba “My Angel” là một câu chuyện bình dị với muôn vàn câu chuyện trong đời thường.  Với lời kể dung dị, thân thuộc, bộ ba cuốn sách trong “Ngày hôm qua… đã từng” sẽ kể cho bạn về tình yêu thương, cũng như sự bình yên khi vượt qua những giông bão của cuộc đời. Và tình yêu là món quà dành cho những ai dũng cảm sống với nhịp đập trong trái tim mình.  Mời bạn đón đọcNgày Hôm Qua... Đã Từng (My life) của Tác giả: Nguyễn Mon . Review Thụy Oanh: Yêu thương và cùng nhau đi hết quãng đường dài rộng của cuộc đời là hai câu chuyện rất khác nhau. Có những mối tình đẹp vì nó đã trở thành hồi ức. Nếu tuổi trẻ là ánh cầu vồng thì tình yêu là màu đỏ chói chang trong bảy sắc màu rực rỡ ấy. Người chúng ta yêu năm 20 tuổi có thể không cùng ta đi hết cuộc đời, nhưng nếu đã từng thật lòng với nhau thì những yêu thương vẫn sẽ còn ở đó, dù chẳng vẹn nguyên. Tiểu thuyết Ngày hôm qua… đã từng của tác giả Nguyễn Mon giống như một điệu nhạc da diết về những năm tháng thanh xuân. Người ta gặp gỡ nhau, phải lòng nhau và mơ về hạnh phúc ở tương lai. Tình yêu nếu chỉ có hai người thì đơn giản lắm. Thế nhưng, cuộc sống này phức tạp hơn rất nhiều. Bởi thế, tình yêu không còn là chuyện riêng của đôi lứa. Khi con tim loạn nhịp trên mảnh đất Sài Gòn phồn hoa Nhân vật chính của tác phẩm là Mon một chàng trai miền tây lên Sài Gòn học đại học. Anh chàng đã đặt chân đến thành phố này với tất cả sự háo hức của tuổi đôi mươi. Xa nhà, xa vòng tay của mẹ là cơ hội tốt để trưởng thành. Vừa lên thành phố, Mon đã sốt sắng tìm việc làm thêm. Anh chàng may mắn xin được chân chạy bàn ở quán cafe Windown. Nơi đây, chính là điểm bắt đầu cho chuyện tình của Mon và Thy. Thy là một cô gái có vẻ ngoài xinh xắn, pha nét mong manh, dễ khiến những chàng trai rung động và muốn che chở, trong đó có Mon. Nhưng sự thật đôi khi khác rất nhiều với những thứ mà chúng ta mơ mộng. Hóa ra, Thy mới là người che chở và chăm sóc cho Mon. Không may, ở quán cafe Windown xảy ra xô xát, Mon không may bị thương ở tay và chảy rất nhiều máu. Thy không ngần ngại xé ngay chiếc váy cô đang mặc để băng bó cho anh.  Đưa Mon đến bệnh viện, mà lòng Thy nóng như lửa đốt. Cô còn lo lắng hơn cả người bị thương. Suốt thời gian Mon nằm viện, Thy luôn ở bên anh không rời, cô cẩn thận tỉ mỉ chăm sóc cho người mình yêu từng chút một. Hóa ra, cô gái nhỏ dễ thương hơn vẻ ngoài lạnh lùng mà Mon vẫn thường thấy. Tình yêu nảy nở trong lòng họ một cách rất tự nhiên, như mầm cây non được tắm mát bằng cơn mưa rào của Sài Gòn. Họ đã bên nhau cùng cười đùa và tận hưởng những phút giây được gọi là hạnh phúc. Tình yêu ấy, cũng có những giận hờn, hiểu lầm và trách móc. Những thử thách cứ thế đến rồi đi, để người ta biết rằng họ thương ai đó thật lòng! Nhưng tình yêu vốn không phải là câu chuyện của riêng hai người. Nếu được như vậy, thì trên đời này đã không có những kẻ phải dằn vặt, khổ sở vì tình ái. Giữa Thy và Mon có quá nhiều khoảng cách: tiền bạc, địa vị xã hội, gia cảnh, xuất thân…. Giữa những khúc mắc và cách ngăn ấy, Quang xuất hiện. Anh ta trưởng thành và giàu có. Người đàn ông ấy có thể chăm sóc cho Thy tốt hơn Mon rất nhiều. Liệu anh có thể buông tay và cô có thể chấp nhận. Tình yêu đâu phải là thứ chỉ có được và mất, đúng và sai?... Tình yêu cho ta nhiều thứ hơn cảm xúc Dõi theo câu chuyện tình của Mon và Thy trong Ngày hôm qua… đã từng, người đọc, đặc biệt là các bạn trẻ, sẽ nhận ra nhiều điều. Tác phẩm không chỉ là mối tình đầy màu sắc của những năm tháng thanh xuân. Tình yêu dạy cho ta nhiều thứ hơn là chỉ nuông chiều cảm xúc. Và bài học lớn nhất của quãng đời tươi đẹp ấy, có lẽ là sự trưởng thành. Ở bên một người, yêu thương và che chở cho họ đồng nghĩa với việc chúng ta phải mạnh mẽ. Thanh xuân sẽ trọn vẹn hơn nếu chúng ta có ai đó ở bên để cùng chia sẻ những vui buồn. Thế nhưng, những năm tuổi trẻ của Mon, Thy, Hân, Phương, Phong hay Duy không chỉ có tình yêu. Họ còn có ước mơ cùng bao nhiêu hoài bão. Chúng ta không thể chỉ nói suông về tương lai, hãy chuẩn bị kĩ càng cho những ngày tháng sau này. Có như vậy, hạnh phúc mới có thể được bảo vệ. Yêu thôi chưa đủ, trong tình ái luôn cần đôi phần dũng cảm. Bên cạnh những cung bậc cảm xúc đa dạng của tình yêu, Nguyễn Mon còn đem đến cho độc giả một bức tranh sống động về cuộc sống của những bạn trẻ rời quê lên thành phố lập nghiệp. Họ ra đi để trưởng thành và tìm kiếm cho mình những cơ hội mới. Để có được chúng, người ta đã phải đánh đổi cả thanh xuân, máu và nước mắt.
Hồi Tưởng Về Cha Tôi Hồ Học Lãm - Hồ Mộ La
Chí sĩ yêu nước Hồ Học Lãm sinh năm 1884 tại Quỳnh Lưu - Nghệ An. Những năm đầu thế kỷ XX, ông cùng một số người trẻ tuổi sớm đi theo tiếng gọi Đông Du của cụ Phan Bội Châu, xuất dương tìm đường cứu nước. Tuy không phải là một Đảng viên Cộng sản nhưng chí sĩ Hồ Học Lãm đã sống như người Cộng sản chân chính. Suốt đời chiến đấu, dâng hiến tất cả cho lý tưởng cao quý mà mình đã lựa chọn là giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Tuy ra đi khi nghiệp lớn chưa thành nhưng Hồ Học Lãm vẫn mãi là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước mà mỗi thế hệ hôm nay cần soi vào, học tập. “Hồi Tưởng Về Cha Tôi Hồ Học Lãm” là những dòng hồi ức chân thực và xúc động của bà Hồ Mộ La về người cha kính yêu của mình - chí sĩ Hồ Học Lãm. Thông qua những câu chuyện nhỏ, bạn đọc sẽ có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về chí sĩ Hồ Học Lãm. Đồng thời các bạn sẽ biết thêm nhiều thông tin thú vị về những thanh niên Việt Nam yêu nước đã đi theo lời kêu gọi của cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du.  *** Từ nhiều chục năm nay, tôi rất muốn tự tay viết một cái gì đó về cha mình - Chí sĩ Hồ Học Lãm - người đã cùng một số người trẻ tuổi sớm theo tiếng gọi Đông Du của cụ Phan Bội Châu xuất dương tìm đường cứu nước vào những năm đầu thế kỷ XX. Nay đã quá tuổi "cổ lai hy" (tôi sinh năm 1930), với đôi mắt mờ lòa, ước nguyện đó của tôi mới thành hiện thực. Cuốn sách nhỏ này là những hồi tưởng của tôi về người cha kính yêu đã quá cố, những hồi tưởng không hoàn chỉnh và có phần lộn xộn. Ở tuổi ngoài bảy mươi, tôi cố gắng để không giấu diếm những cảm xúc và những suy nghĩ thật của mình. Biết có ai đó chăng thương cảm với kẻ ra đi tìm đường cứu nước những năm đầu thế kỷ XX, thời kỳ Tổ quốc ta lầm than, thời kỳ đế quốc thực dân đang hoành hành trên những miền đất hoang sơ lạc hậu ở Châu Á như Trung Quốc, Việt Nam... Kẻ ra đi, và suốt 37 năm trời ở quê người đất khách, ông sống giữa những người xa lạ "Đồng sàng dị mộng"; chỉ muốn tung hoành mà lực bất tòng tâm. Cuối cùng cha tôi phải nằm bỏ xương quê người, phải ngậm ngùi đau khổ vì mình chưa làm được gì nhiều cho công cuộc cứu nước, cứu nòi và không được gặp lại người mẹ mà ông vô cùng yêu thương và kính trọng - Bà đã là ngọn đuốc soi đường, là tấm gương sáng cho cha tôi noi theo và cố gắng làm những việc có ích cho đời, cho nhân dân và cách mạng hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Cha tôi không phải là đảng viên cộng sản, nhưng ông sống như người cộng sản chân chính theo tiêu chí của chủ nghĩa Mác. Suốt cuộc đời ông đã chiến đấu, dâng hiến tất cả cho lý tưởng cao quý mà ông đã lựa chọn. Tôi rất tự hào và cảm phục cha mình. Những dòng cuối của "Hồi tưởng" này tôi phải viết bằng bút dạ ngòi to với sự trợ giúp của kính phóng đại. Sau gần ba năm, giờ khi đã 80 tuổi mụ tôi mới hoàn thành ý nguyện. Một sự hồi tưởng ít vui sướng, nhiều đau đớn, dường như cả cảm xúc nữa cũng đã quá sức chịu đựng của tôi. Tôi biết ngày tôi ra đi đã rất gần, ngày đó tôi sẽ tìm thấy cha, sẽ gặp chị và mẹ ở thế giới bên kia, thế giới của Tâm linh - Siêu vật chất "... Sắc bất dị không, không bất dị sắc...". Tất cả tôi xin dâng tặng hương hồn cha tôi - Chí sĩ Hồ Học Lãm. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn bè, người thân đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi hoàn thành cuốn hồi tưởng này. Nguyên Tiêu Kỷ Sửu HỒ MỘ LA Mời các bạn đón đọc Hồi Tưởng Về Cha Tôi Hồ Học Lãm của tác giả Hồ Mộ La.
Gió Ơi, Cứ Thổi - Kim Hye Jung
Lấy bối cảnh là một đất nước khác - đất nước Trung Quốc - chứ không phải mảnh đất Hàn Quốc quen thuộc như bao tiểu thuyết đương thời, tác phẩm đã đưa đến cho nền văn học hiện đại Hàn một luồng gió mới thật lạ lẫm và cuốn hút. Tác phẩm viết về chuyến bộ hành của những cô gái đến “con đường tơ lụa” của đất nước Trung Hoa. Đó là Lee Eun Sung - một đứa trẻ ưa bạo lực, thích dùng nắm đấm để giải quyết mọi việc, từ lâu đã trở thành nỗi ám ảnh của bạn bè trong lớp. Là cô bé Bo Ra bị bọn trẻ cô lập, mỗi khi bị ức hiếp, bắt nạt, cô bé lại phải ăn cắp một món đồ nào đó của bọn bạn thì mới cảm thấy lòng nhẹ nhõm. Là Mi Ju, người chị dẫn đầu cho cuộc hành trình mang nét chín chắn vì đã từng trải qua một tuổi trẻ đầy nông nổi, cũng từng in dấu trên con đường đầy gian khổ này. Hai đứa trẻ đó, thay vì phải vào Trung tâm giáo dục trẻ vị thành niên, chúng đã chọn chuyến bộ hành dài dằng dặc trên “con đường tơ lụa” dài những 1200km. Với hình dung ban đầu về một con đường tơ lụa đẹp và mềm mại, một địa danh du lịch đáng để đến một lần trong đời. Cô bé Eun Sung đã bị thất vọng tràn trề bởi đến cả trong mơ cô bé ấy cũng chưa từng nghĩ mình phải cuốc bộ mỗi ngày trên con đường hun hút đầy cát và gió bụi trong thời tiết nóng nực và khô hạn của vùng sa mạc và sự lạ lẫm với những món ăn không hợp khẩu vị. Đã có những lúc nản định bỏ cuộc, đã có những giây phút muốn quay trở lại, thà đối mặt với sự mất tự do, sự giáo dục nghiêm khắc của Trung tâm, nhưng mỗi bước đi lại là một bước trưởng thành, một sự mở mang tầm nhìn về cuộc sống và những suy nghĩ, tình cảm đã thay đổi như một “người lớn” thực thụ. Tác phẩm có sự đan xen, hòa quyện tuyệt vời giữa quá khứ và hiện tại, mạch truyện đi về tự nhiên giữa một bên là ký ức tuổi thơ, một bên là những suy nghĩ và trải nghiệm ở cuộc sống hiện tại. Sau chuyến hành trình đầy gian khổ ấy, cô bé Eun Sung đã thấu hiểu và có ý đón nhận tình cảm của người mẹ mà bấy lâu nay mình từng căm ghét, xa lánh, đã thấy được sai lầm của bản thân khi trước đây luôn dùng cú đấm để giải quyết tất cả mọi việc như một kẻ côn đồ. Còn Bo Ra, một người đã từng trốn chạy, không muốn quay về mảnh đất mà mình bị cô lập ấy cuối cùng cũng đã đi hết cuộc hành trình và trở về. Dõi theo từng bước chân nhân vật, người đọc như thấy được sự nông nổi, bồng bột tuổi trẻ của mình ở trong đó, thấy chuyến đi như một phép nhiệm màu đã làm thay đổi hoàn toàn những suy nghĩ và nhận thức của những đứa trẻ đã từng mắc lỗi. Xét cho cùng, tác phẩm đã xây dựng nên một phương pháp giáo dục trẻ vị thành niên hoàn toàn mới và hiệu quả trong xã hội hiện đại. Với văn phong  nhẹ nhàng, trong sáng và đậm chất tự nhiên của hội thoại đời thường, tác giả Kim Hye Jeong đã khiến cho độc giả tò mò ngay từ phần đầu của câu chuyện. Hơn thế, mỗi bước đi của mạch truyện dường như men theo con đường tơ lụa để đến với từng vùng miền khác nhau, và rồi từng nét  Mời các bạn đón đọc Gió Ơi, Cứ Thổi của tác giả Kim Hye Jung.