Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Hủi

Không có căn bệnh nào đáng sợ của nhân loại xuất hiện trong câu chuyện, cũng không có người nào mắc phải căn bệnh đó, Con Hủi là cái tên mà trong giới quý tộc gọi nàng, người con gái xinh đẹp, trong trắng như đóa huệ mang tên Stefcia. Nàng có một chuyện tình thơ mộng, đắm say, trong sáng và vô cùng mãnh liệt nhưng lại bi thương đế nao lòng. Bởi người nàng yêu không ai khác chính là đại công tử của dòng họ quyền quý nhất cả nước – Waldemar Michorowski. Họ chống lại những ràng buộc của đẳng cấp quý tộc để đến được với nhau và bảo vệ hạnh phúc đã lựa chọn. Nhưng liệu họ có vượt qua những ra cản khó khăn và hà khắc của giới quý tộc? *** Helena Mniszek tên thật là Ravich Rađô Miska thuộc dòng họ Mniszek Tơkhugiơnhixki, sinh năm 1878 tại điền trang Kurơtrưxe tỉnh Vôlưnhe. Năm 1899 bà lấy ông V. Khugiưnxki, chuyển đến sống ở Platerôvô (Litva), được bốn năm thì chồng qua đời. Năm 1910 bà tái giá, lấy ông A. Rađômiski, theo chồng về điền trang Rôgale, sau đó chuyển đến trang Kukharư ở tỉnh Puôxk (Ba Lan). Năm 1931, bà lại góa chồng, ở với gia đình tại đó. Mùa thu năm 1939, đại chiến thứ hai bùng nổ, bà bị quân Đức đuổi khỏi nhà, phải chuyển đến Xabnhi cùng Pôđlasie rồi mất tại đó năm 1943. Trong 20 năm hoạt động văn học (1909 - 1930) bà để lại nhiều tác phẩm, đáng kể nhất là các tiểu thuyết: Con Hủi (1909), Đại Công tử Mikhôrôvxki (1910), Những ngù lông xào xạc (1911), Cậu chủ (1912), Các quận công của rừng (1912), Gahenna (1914), Những kẻ thờ phụng quỷ sa tăng (1918), Ẩn sĩ ( 1919), Chàng Vecte (1921), Quyển của người (1922), Nhân sự (1922), Hoàng hậu Giezlla (1925), Ông bà chủ (1927), Từ mảnh đất của nước mắt và máu (1927), Hoa Mộc Lan (1928), Những người hậu chiến (1929), Nam châm của những con tim (1930)... và một số tập truyện ngắn khác nữa. Bà còn nhiệt tình tham gia nhiều hoạt động xã hội. Con Hủi là tác phẩm tiêu biểu và nổi tiếng nhất cùa H. Mniszek. *** Review by Âu Dung Hoa:   Nắng chiều vụt tắt, ngày dài cứ thế trôi đi. Tôi ngẩng đầu nhìn phố phường qua làn kính mờ, trong tay là tách trà còn nghi ngút khói. Vị trà khi đắng khi ngọt, đến cuối cùng chỉ vương lại chút dư âm trên đầu lưỡi, luyến tiếc rồi dần tan biến như chưa từng xuất hiện. Bất giác, trong không gian có chút đìu hiu ấy, tôi nhớ lại một cuốn sách mình đã đọc trước đó không lâu. Một chuyện tình buồn... Câu chuyện của chàng Đại công tử Waldemar Michorowski và nàng Xtefchia Rudecka – người con gái không cùng giai cấp. … Nàng Xtefchia là một cô gái xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ ở Vương Quốc. Sau khi tình đầu tan vỡ, quá thất vọng và đau đớn Xtefchia đã quyết định từ biệt cha mẹ đến làm gia sư cho Lucia Elzanowska, em họ của Đại công tước quyền quý nhất nước lúc bấy giờ - Waldemar Michorowski. Trải qua nhiều lần gặp gỡ, vượt qua những hiểu lầm ban đầu, tình cảm của Xtefchia dành cho Waldemar cũng dần thay đổi. Thế nhưng, trước một người “quá tầm với của nàng”, Xtefchia lo sợ ánh mắt của giới quý tộc, nàng đành chôn sâu tình cảm của mình và dùng một trái tim đau đớn để yêu Waldemar. “Xtefchia đã biến thành pho tượng chờ đợi như thế… Nàng đứng nơi đây bởi linh cảm rằng chàng sắp về, và nàng cứ đứng mãi kiên tâm chờ đợi… Hôm nay chàng sẽ tới đây!” Những tưởng tình yêu này chỉ xuất phát từ một phía nhưng đến khi Waldemar đột ngột bày tỏ tình yêu của chàng với Xtefchia, nàng hoảng hốt trốn chạy khỏi vòng tay chàng. Trong một lần về thăm gia đình, nàng được mẹ trao cho một quyển nhật ký của người bà quá cố. Thì ra năm xưa, bà ngoại của nàng và ông nội của Waldemar cũng từng trải qua một tình yêu sâu sắc nhưng đến cuối cùng vẫn không thể chiến thắng được những định kiến giai cấp của xã hội và phải chia tay. Sự thật kia khiến nàng kinh hoàng. Quá khứ lặp lại. Sự giễu cợt kinh khủng của số phận! Tình yêu này không thể che dấu - Xtefchia đã quyết định phải rời đi. “Nhất định ta phải cắt đứt, nhất định ta sẽ chấm dứt, dù tim ta có vỡ tung thành trăm mảnh cũng cam.” … Waldemar Michorowski – Chàng Đại công tử quý tộc giàu có, học thức cao luôn là một “mối” đáng giá với bất cứ cô gái nào gia huy có 5 gậy. So với những người quý tộc truyền thống, tư tưởng của chàng mới mẻ hơn, khách quan hơn và bước ra khỏi những xiềng xích vô hình của định kiến xã hội. Trước khi gặp gỡ Xtefchia, trong quan hệ với phụ nữ chàng vẫn tránh né mọi bổn phận ràng buộc. Thế nhưng từ khi Xtefchia xuất hiện, với học thức uyên thâm cùng phẩm hạnh cao quý như một đóa hoa, nàng đã từng bước cướp đi ánh nhìn và trái tim của Waldemar. Đã có lúc, chàng căm thù Xtefchia, nàng khiến chàng nổi điên vì “chàng không nhận ra bản thân mình nữa.”. Chàng nghiêm túc mổ xẻ lòng mình và đi đến kết luận - Xtefchia là người đã gây cho chàng những tình cảm khác, chàng yêu nàng bằng tình yêu thật sự và hết sức mạnh mẽ. Khác với Xtefchia, khi phát hiện tình yêu của mình dành cho nàng, Waldemar đã kiên quyết buộc nàng thừa nhận tình cảm của bản thân, dùng lý lẽ để bảo vệ tình yêu của họ trước những công kích từ những người thuộc “giới” của chàng với lời thề son sắt. - “Nàng phải là của ta, dù có phải làm đổ sập thế gian đi nữa!” - “Anh sẽ gạt phăng tất cả những gì cản đường chúng mình, anh sẽ đạp đỏ hết thảy mọi chướng ngại. Anh nhất định phải có em!” - “Chẳng lẽ tiểu thư nghĩ rằng tôi cho phép tiểu thư ra đi hay sao?” - “Tiểu thư chỉ có thể rời khỏi nơi đây với tư cách… vợ chưa cưới của tôi mà thôi.” - “Xtefchia Hoặc là em sẽ trở về làm vợ ta… hoặc ta sẽ chết.” Bằng tình yêu và sự kiên quyết của mình, Waldemar đã thực hiện đúng những gì chàng hứa. Bên cạnh chàng, sẽ không có thứ gì đe dọa được Xtefchia nữa. Nàng sẽ là Đại công nương xinh đẹp được mọi người tôn kính. Vốn tưởng rằng, tình cảm chân thành của Waldemar và Xtefchia đã giành chiến thắng nhưng đến cuối cùng Xtefchia đã gục ngã trước ngón đòn đê hèn của giới quý tộc danh giá. Trước đám cưới một ngày, trong bộ áo cưới xinh đẹp, Xtefchia yên ngủ giấc ngàn thu. Nàng ra đi đem theo ánh sáng của Waldemar. Trên ngọn đồi nghĩa địa rợp bóng thùy dương, Waldemar áp chặt mình vào miếng pha lê gắn ảnh nàng, trò chuyện với nàng, trách nàng đã vội đi xa. Chàng ghì chặt nàng vào tim, kéo níu nàng từ dưới những lớp hoa tươi thắm. Chàng muốn xuyên thủng cái đập chắn chia cắt chàng với nàng. Cả cuộc đời chàng như đã theo nàng nằm yên dưới lớp hoa này… … Lần đầu tiên đọc “Con hủi”, tôi thật sự bị những câu văn giàu chất thơ của tác phẩm này lay động và cuốn theo câu chuyện của họ lúc nào không hay. Những mẩu đối thoại ngắn giữa các nhân vật cũng khiến người đọc choáng ngợp và thăng trầm theo cung bậc cảm xúc của chính những nhân vật trong truyện. Mối tình của Waldemar – Xtefchia được ví như một “Romeo và Juliette” thứ hai trên văn đàn văn học thế giới. Thế nhưng, tôi lại thấy câu chuyện của họ có phần bi thảm hơn, họ chiến đấu với cả một giai cấp và nhận được kết quả là âm dương cách biệt. Rồi đến một lúc nào đó, có lẽ Waldemar sẽ vẫn tìm được đường đi cho mình, chàng sẽ gặp lại vị hôn thê Xtefchia ở một nơi khác. Chỉ mong khi ấy, cả hai người sẽ không phải trong tầng lớp hay giai cấp kia nữa, sẽ được sống với tình yêu say đắm của mình. Có thể nói, "Con hủi" là bộ tiểu thuyết phương Tây để lại trong tôi nhiều ấn tượng nhất, để khi nhớ lại, chút dư âm như hương thơm của một ly trà chiều vẫn vấn vương trong tâm trí. Nếu các bạn yêu thích văn học phương Tây, muốn tìm những bộ truyện giàu tính nhân văn, hãy thêm "Con hủi" và list truyện của mình nhé! *** Review Hằng Nga: Đây là cuốn tiểu thuyết tình yêu phương Tây đầu tiên mình đọc. Lần đầu cầm cuốn sách là vào năm lớp 8, do đi mượn nên mới đọc được một nửa đã phải trả. Sau này lúc nên cấp ba tìm mua mãi. Và cái gì đầu tiên cũng đẹp nên đến giờ đây vẫn là một trong những cuốn sách mình trân trọng nhất. Một câu chuyện tình yêu rất đẹp được ngta ví như một "Romeo và Juliet mới". Cái này mình không chắc lắm vì mình thấy hai khía cạnh mà câu chuyện khai thác có chút khác nhau. Xtefchia và Valdermar, hai con người xuất thân từ những tầng lớp khác biệt nhưng họ đã gặp và yêu nhau. Ban đầu giữa họ là rất nhiều những hiểu nhầm, mỗi khi gặp nhau không phải chàng trêu chọc nàng thì là nàng khinh thường chàng. Khá là đáng yêu. Về sau, khi hai người gỡ bỏ những định kiến và hiểu về đối phương thì họ đã bị nhau thu hút, đã fall in love lúc nào không biết. Nàng xuất thân từ một gia đình trung lưu nhưng được giáo dục vô cùng tốt. Nàng xinh đẹp, dịu dàng, lịch sự và hiểu biết. Sống giữa giới quý tộc Ba Lan vàng thau lẫn lộn, đầy những con người trưởng giả, nàng tỏa sáng đẹp đẽ, cao quý và thu hút ánh nhìn của chàng đại công tử Valderma Valderma, chàng là thừa kế của một đại gia tộc cao quý nhất Ba Lan, nhưng khác với những người họ hàng hay những người cùng giới, chàng không để ý quá nhiều đến những khác biệt về giai cấp và tầng lớp. Chàng trân trọng giá trị đến từ bên trong mỗi con người. Chàng bảo vệ Xtefchia trước tên người yêu cũ sở khanh. Chàng trân trọng nàng, yêu sự hiểu biết và tâm hồn cao quý của nàng. Valderma, chàng dũng cảm và chủ động với tình cảm và cuộc đời của chính mình, chàng vượt lên mọi rào cản về giai cấp, về định kiến xã hội để hỏi cưới Xtefchia. Chàng bảo vệ nàng trước cả giai cấp của chàng. Hạnh phúc tưởng chừng đã nằm trong tay hai người nhưng cuối cùng Xtefchia đã ra đi để mình Valderma ngồi lại trong căn phòng chống ngắm nhìn hình ảnh nàng, cô độc. Chuyện tình của họ thật đẹp. Có một điều mình thực sự rất thích ở câu chuyện này đó là hình ảnh những tòa lâu đài phương Tây cổ kính, rực rỡ và uy nghiêm. Từ hồi lớp tám mình đã bị ấn tượng, điều mình nhớ nhất trong chuyện chắc là mấy tòa lâu đài với khu rừng nơi Xtefchia hái nấm mất. Cái kết chuyện hơi buồn và u ám, nhưng không quá ấn tượng và ám ảnh. Cảm thấy cái chết của Xtefchia hơi gượng ép. Còn tổng thể đây là một câu chuyện ổn. *** Review Hana Hanhhan: Con Hủi là một tuyệt phẩm của văn sĩ Ba Lan Helena Mniszek. Dịch giả Nguyễn Hữu Dũng đánh giá cuốn sách là một "thiên Romeo và Juliet mới". Theo tôi, Con Hủi hoàn toàn xứng với những ca ngợi ấy. Mặc dù tựa sách mang tên một loại bệnh nhưng cả tác phẩm không ai mang bệnh này, có chăng chỉ có những kẻ hẹp hòi dùng định kiến của mình nhìn người mà họ coi là không xứng đáng như một "con hủi" một thứ bệnh dịch đáng ghê tởm. Xtefchia Rudexka là một "con hủi" đúng nghĩa trong mắt giới quý tộc Ba Lan. Cô xinh đẹp gia giáo, thông minh hiền hòa nhưng cô mang tội nặng nhất là thứ tội vì không được sinh ra trong một gia đình quyền quý. Cha cô ông Rudexka và bà Rudexka mẹ cô chỉ là những quý tộc nhỏ của Ba Lan, họ sở hữu một điền trang bé đến mức đám thượng lưu chỉ liếc qua đã cười khinh miệt. Xtefchia là một thiếu nữ đáng mến. Cô sinh ra và sống đúng với địa vị của mình, chưa từng có mơ ước cao sang gì. Nhưng tình yêu định mệnh với đại công tử Waldema Michorowski lại đưa cô lên bục của kẻ có tội, tội nghiệt vì đã với quá tầm tay mình. Walderma là điểm đẹp nhất của câu chuyện này dù nó được viết bởi một nữ sĩ và trung tâm câu chuyện cũng về một cô gái đáng thương. Nhưng Walderma bằng những phẩm giá cao quý và sự kiên định trong tình yêu lại khiến tôi có ấn tượng sâu đậm nhất. Chàng đẹp đẽ tài hoa. Chàng ngông nghênh cao quý. Chàng tự do tự tại. Chàng là tất cả những gì đẹp nhất ở một người đàn ông đáng kính mà tôi có thể tưởng tượng ra. Mỗi khi chàng dịu dàng gọi Xtefchia thân yêu bằng những tiếng "em yêu quý của anh" "em vàng ngọc của anh" rồi "em duy nhất của anh" trái tim tôi như cũng muốn tan chảy ra thành nước. Sống với một người như thế, được yêu bởi một người như thế thử hỏi còn gì hạnh phúc hơn? Thế nhưng tình yêu không chỉ là chuyện của hai người mà còn là mối bận tâm của dòng tộc, thậm chí của toàn bộ giới quý tộc Ba Lan. Định kiến giai cấp truyền từ đời này sang đời khác không cho phép đại công tử Walderma cao quý, người của gia tộc từng có nhiều vị nắm các chức sắc quan trọng được yêu một cô Xtefchia nhỏ bé vô danh, một cô thôn nữ tầm thường. Hệt như khi xưa thứ giai cấp ác nghiệt ấy đã dùng lý do đó để chia lìa ông của Walderma và bà của Xtefchia. Tôi nhớ mãi giây phút Walderma cất tiếng đòi quyền lợi cho tình yêu của mình rằng "ngoài tên họ, vọng tộc, gia huy và toàn bộ cái khung trang trọng này, cháu còn có trái tim và tâm hồn, những thứ mang ít nhiều khát vọng cá nhân chứ không phải khát vọng của gia tộc. Nó khao khát đôi điều gì đó, chỉ để cho riêng mình mà thôi. Không bao giờ cháu muốn hy sinh những tình cảm của mình để giữ lấy cái khung. Chỉ người phụ nữ cháu yêu thương mới có thể trở thành vợ cháu." Và chàng đã làm đúng như điều chàng nói. Không ai có thể ngăn được chàng cưới Xtefchia về làm vợ. Chàng yêu mãnh liệt như lửa, chàng dùng chính ngọn lửa ấy thiêu trụi mọi khó khăn luôn muốn trói buộc chàng. Thế nhưng Xtefchia của chàng rốt cuộc cũng chỉ là một cô gái yếu đuối bình thường. Ngay trước ngày cưới cô gục ngã chỉ vì những thêu dệt đê tiện của bọn quý tộc giấu mặt vẫn muốn chia rẽ mối duyên giữa cô và đại công tử Walderma. Cô tin vào chúng. Cô bị chúng ám ảnh. Cô được yêu nhưng cô không dám yêu. Trong khi vị hôn phu của cô làm tất cả để hai người được ở bên nhau thì cô khuất phục, chấp nhận lui bước trước khó khăn và để lại phía sau lưng một đám cưới mãi mãi không thể tiến hành. Xtefchia là một cô gái đáng thương nhưng tôi dẫu có thế nào cũng không thể tha thứ cho cô vì đã bỏ cuộc hèn nhát như thế. Bởi tôi đã hân hoan bao nhiêu cho đám cưới của cô. Bởi tôi đã vui mừng bao nhiêu khi biết cô và Walderma sẽ có được hạnh phúc trọn đời. Đại công tử Walderma chắc chắn còn hân hoan hơn tôi gấp ngàn lần. Vì chàng yêu cô, yêu "em duy nhất" của chàng xiết bao. Vậy mà dũng khí để đấu tranh cô cũng không có. Cô được giải thoát khỏi mọi áp lực trần gian, để lại đại công tử Walderma - người yêu cô và cô cũng yêu nhất mực sống trọn đời với nỗi tiếc nuối vì đã không bảo vệ được người mình yêu thương nhất. Những tháng ngày về sau của chàng có lẽ chỉ còn sự im lặng câm đặc, bởi hạnh phúc cuối cùng đã chết theo Xtefchia bé nhỏ mất rồi. Mời các bạn đón đọc Con Hủi của tác giả Helena Mniszek.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Me Tư Hồng - Nguyễn Ngọc Tiến
Hơn trăm năm rồi, người ta vẫn muốn đặt câu hỏi: Cô Tư Hồng là người có công hay có tội? Dựa trên các trang tư liệu, giai thoại dân gian về cuộc đời của người đàn bà có tính cách mạnh mẽ, quyết liệt nhưng cũng nữ tính, báo chí trước đây đã khai thác các khía cạnh khác nhau với những góc nhìn khác nhau, đôi khi đối nghịch. Cô Tư Hồng là người nổi danh khắp Bắc Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX vì trúng thầu phá tường thành Hà Nội năm 1894 – một sự kiện đụng chạm đến di sản “cung điện nghìn năm” của nhiều triều đại lẫn tổn thương tinh thần sĩ phu Bắc Hà trong hoàn cảnh thuộc địa. Nhưng đời cô Tư Hồng còn nhiều câu chuyện đình đám khác: mở công ty buôn bán đầu tiên của người Việt, làm từ thiện, lấy chồng Tàu, chồng Tây. Xinh đẹp, khêu gợi, thông minh đến độ tinh quái và làm đàn ông say mê, cuộc đời cô Tư Hồng vẫn còn đầy bí ẩn như một huyền thoại đất Hà thành. 120 năm sau, hiện ở Hà Nội vẫn tồn tại những công trình liên quan đến cô Tư Hồng quanh hồ Hoàn Kiếm hay khu phố Tây, chẳng hạn như hai chiếc ghế đá đầu tiên nơi công cộng của Hà thành ở 16 Lê Thái Tổ ngày nay hay khu nhà ở phố Quán Sứ, trường Việt Đức… Tiểu thuyết Me Tư Hồng của Nguyễn Ngọc Tiến dựa theo cuộc đời của cô Tư Hồng, có sự hư cấu mang “hình dáng tiểu thuyết chân dung”. Tuy nhiên cùng với nhân vật cô Tư Hồng, rất nhiều nhân vật khác trong tiểu thuyết là những người có thật. Bên cạnh đó hoàn cảnh lịch sử trong tiểu thuyết, địa danh, thời gian xảy ra sự kiện… cũng đã được ghi trong chính sử và dã sử, vì vậy có thể gọi Me Tư Hồng là tiểu thuyết tư liệu. Đây là một cố gắng nhìn lại con người và xã hội cách chúng ta đã hơn một thế kỷ. Qua tiểu thuyết Me Tư Hồng, người đọc nhận diện được một xã hội Việt Nam vào thời điểm đã suy vong các giá trị cũ, và cả nỗi bi kịch của con người trong sự va chạm giữa đạo đức truyền thống và văn minh vật chất tân thời, một bi kịch vẫn đậm tính thời sự. *** Sân ga Hàng Cỏ đông đúc. Khách xuống chuyến sớm đứng ngáp vặt chờ người thân đến đón. Khách lần đầu ra Hà Nội lơ ngơ chưa biết về đâu. Đám xe kéo xúm lại mời chào. Đầu phố Gambetta, một gánh xẩm chào đón họ bằng tiếng nhị eo éo và lời hát vui tai. Cái lạnh làm người khỏe phải xuýt xoa mà ông lão vẫn hát. Bắc Kỳ vui nhất Hà thành Phố phường sầm uất văn minh rợp trời Thanh tao, thanh lịch đủ mùi Cao lâu rạp hát vui chơi đủ đầy Đâu đâu khắp hết đông tây Thăng Long thắng địa xưa nay tiếng đồn Cũ thời băm sáu phố phường Ngày nay mở rộng đến hàng vài trăm... Gió thổi ào ào kèm theo vài hạt mưa. Mọi người vội chạy vào nấp dưới mái hiên, chỉ còn trơ hai người. Lan như kẻ mất hồn, mặc cho gió thổi tung cái khăn lụa đỏ, cô đứng im như không có mưa. Laglan quay mặt về phía tòa nhà, điếu thuốc lá trên môi cháy đỏ. Tòa xử đã cho hai người ly hôn và hôm nay Laglan đi tàu xuống Hải Phòng về Pháp. Tối qua, Laglan khóc lóc trên giấy nói xin Lan bỏ qua mọi chuyện. Rằng ông không biết sẽ thế nào nếu sống thiếu cô nhưng Lan cương quyết không chịu. Cô chỉ đồng ý sẽ ra ga tiễn ông. Có lẽ chẳng gì nặng nề hơn chia ly, bao điều cần nói, cần thanh minh, giải thích hay xin lỗi đã nói rồi, chia ly là bậc cuối cùng trong nấc thang tình cảm. Laglan quay lại nhìn Lan rồi rút túi đưa cho cô mảnh giấy. - Đây là bức thư Hồng gửi cho tôi lúc hai ta cưới nhau chưa lâu. Lan đã đọc thư này. Sao từ ngày đó ông ta không bao giờ nhắc đến, hôm nay đưa lại chắc có ý “tôi yêu cô, thế mà cô lại bỏ tôi”. Lan lắc đầu: - Ông ta gửi anh thì nó là của anh. Laglan thả xuống sân ga. Tiếng loa thông báo mời khách lên tàu đã giải thoát cho cả hai. Móc lá thư trong túi, giọng Laglan trầm trầm. ... Mời các bạn đón đọc Me Tư Hồng của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến.
Giờ Thứ 25 - Constantin Virgil Gheorghiu
Đối với Xã hội kỹ thuật hóa, đây là một mặt thật của Kiếp người, sống trong thời buổi giá trị con người bị tiết giảm xuống con số không: nhân vị, cá nhân, tình cảm hầu như không còn nữa. Máy móc. Tất cả đều sử dụng theo máy móc, đều hành động một cách máy móc, nên con người cũng bỏ lần nhân cách để theo kịp đà tiến hóa kỹ thuật rồi trở thành nô lệ cho kỹ thuật và lôi cuốn đồng loại mình vào trận cuồng phong, vào vực thẳm. Có còn chăng chút hy vọng lập lại xã hội loài người, như lời mục sư Koruga, trong truyện: “Sau rốt, Chúa lại đến phải xót thương con người, - như Chúa đã từng thương hại nhiều lần. Và, giống chiếc thuyền của ông Noé trên lượn sóng trận đại hồng thủy, vài người thật là người, còn giữ được chân tính, sẽ nổi trôi trên trận vận xoáy nhiễu loạn của đại nạn tai ương tập thể này. Và chính nhờ mấy người ấy mà loài người sẽ được bảo tồn cứu vãn, như đã trải qua bao lần trong lịch sử”. Lời dịch giả Thi sĩ kiêm văn sĩ Constantin Virgil Gheorghiu sanh ngày 15-9-1916 tại Razboeni-Neamtz xứ Roumanie, con của một vị linh mục ở Moldavie. Học triết lý và thần học tại Đại học đường Bucarest và Heidelberg (Đức). Ông sáng tác nhiều quyển sách mà thi phẩm Calligraphie sue la neige được giải thưởng Hoàng gia về thi ca (Prix Royal de Poésie) năm 1940, ở Roumanie. Ông cưới vợ là nữ sĩ, năm ngày trước trận Thế chiến thứ Hai. Với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, thi sĩ công phẫn và xúc động khi bọn thân phát-xít ám sát Thủ tướng dân chủ Armand Calinesco, nên viết quyển thi binh vực tự do, chống phát-xít, lấy tên là Armand Calinesco (1939). Hậu quả của thi phẩm này là ông suýt bị bọn “cơ quan sắt” thủ tiêu. Và cũng với lòng công phẫn mà ông viết quyển “Bờ sông Dniestr bừng lửa”, xuất bản ở Bucarest, chống bọn chống phát-xít đã tàn sát một phần ba dân số miền Bessarabie, quê hương ông. Tác phẩm này về sau, đã làm dư luận Pháp chống lại ông. Nhưng theo ông, “đứng trước những tàn phá giết chóc dã man, bất cứ từ đâu đến, thi sĩ không thể không công phẫn”. Năm 1943, hai vợ chồng phụ trách về liên lạc văn hóa tại Bộ Ngoại giao Roumanie ở Zaghreb. Được một năm, nước Roumanie theo phe Nga. Quân Đức bắt vợ chồng ông giam trong một trại giam các nhà ngoại giao tại Đức. Kế Đức quốc xã thua, vợ chồng ông bị quân Mỹ giam mỗi người một nơi, mãi hai năm sau (1947), mới được thả ra và gặp nhau ở Heidelberg (Đức). Trong thời gian bị giam cầm, ông viết quyển “Giờ thứ hai mươi lăm”. Nhằm lúc đồng mark mất giá, không thể sống ở Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp, đem quyển này dịch ra Pháp văn và cho xuất bản ở Paris (1949). Đây là một trong những tác phẩm bi đát nhứt của thời đại. Gabriel Marcel, trong bài tựa, đã viết: “Tôi tưởng không còn tìm ra một tác phẩm nào ý nghĩa hơn, phác họa rõ ràng hơn tình trạng hãi hùng mà nhân loại đang bị chìm đắm”. Tác giả quyển sách bán chạy nhất, - bán 600.000 quyển trong vài tuần lễ, riêng tại Pháp đến 300.000 quyển, - lại bị dư luận Pháp chống đối (1950), khi biết ông là tác giả quyển Bờ sông Dniestr bừng lửa, nghĩa là ông binh vực phát-xít. Trong một bài tự thuật, Virgil viết: “... Dấu ô nhục chống phát-xít đốt cháy da thịt ta ở Bucarest, và dấu ô nhục phát-xít bị đóng ở Paris chỉ là duyên cớ giản dị để quần chúng bóp chết ta... Phải chăng người ta chỉ được lên án những sự độc ác dã man của một bên... Không, nhà thơ ấy chỉ lấy vĩnh cửu làm khuôn vàng thước ngọc...” Thi sĩ đã đi tu. Lễ thăng thiên, ngày 23-5-1963, ông được Đức giám mục từ Nữu Ước đến làm lễ thụ phong linh mục giáo hội Chính Thống tại nhà thờ Lỗ-ma-ni ở Ba Lê. Ông qua đời ngày 22-6-1992 tại Ba Lê. *** Bà West, tôi muốn nói chuyện riêng với bà! Eleonora để tập hồ sơ trên bàn, ngó Trung úy Lewis. Ông đang ngồi tại bàn giấy, chân tréo, ưỡn ngực dựa lưng ghế và hút thuốc. Trung úy Lewis là trưởng phòng Phòng tuyển mộ ngoại kiều đến tình nguyện xin vô quân đội Mỹ. Eleonora là nhân viên và thông dịch viên tại Phòng này. Nàng làm việc từ sáu tháng nay, dưới quyền Trung úy Lewis. Nora ngó đôi vớ cuốn kèn quanh ống quyển Trung úy, rồi nghĩ thầm: “Tại sao hắn không mang dây kẹp vớ? Và tại sao hắn ngồi ghế như ngồi ngựa vậy? Giống như bọn thủy thủ ở bến tàu! Vậy mà hắn cũng là con nhà có giáo dục, cũng xuất thân trường đại học. Dầu hắn có tự do quá mức đi nữa, hắn cũng không được phép ở trong phòng văn, đưa cặp giò trước mặt một người đàn bà như thế này!” Nàng thấy như bị tát tai mỗi khi Trung úy Lewis bắt tay nàng mà miệng còn ngậm điếu thuốc, hoặc mỗi lần quăng một hồ sơ trên bàn cho nàng, như ném miếng xương cho chó. Trung úy Lewis không ngờ Nora đã nghĩ gì đến mình, trái lại, còn tưởng nàng phục mình lắm. Nhưng đôi mắt nhìn của ông vẫn còn ngượng nghịu. Nora đáp: - Tôi xin nghe ông. - Bà West có bằng lòng ưng làm vợ tôi không? Trung úy ngồi bật ngửa, xích đòng đưa chiếc ghế, chiếc ghế chỉ còn đứng có hai chân. Nora trả lời: - Tôi không ưng làm vợ ông! - Vậy bà có những dự tính nào khác sao? - Không có! Nhưng câu trả lời của tôi là: không bằng lòng. Nora giở tập hồ sơ ra, song không làm việc được. Mắt ngó giấy tờ mà trí ở đâu đâu. Nàng ở tù hai năm trong trại giam, rồi đương nhiên được thả ra, cũng vô căn cứ, như lúc bị bắt. ... Mời các bạn đón đọc Giờ Thứ 25 của tác giả Constantin Virgil Gheorghiu.
Đường Về Trùng Khánh - Han Suyin
Đường về Trùng Khánh (1973)—Destination Tchounking (1953) Tác giả Han Suyin aka Hàn Tú Anh Dịch giả Trùng Dương & Hồ Hải Nhà xuất bản Tổ Hợp Gió 1973 LỜI NGƯỜI DỊCH Qua Đường Về Trùng Khánh, người đọc có thể nhận ra những nhân vật điển hình — những diễn viên kỳ cựu — của bất cứ vở kịch chiến tranh nào xẩy ra từ trước tới nay trong lịch sử nhân loại : đó là đám nông dân cổ cày vai bừa sẽ chết, trong khi đám con cháu các gia đình khá giả lười biếng ăn chơi hay học hành tại các trường đại học và sửa soạn vào các nghề tài chánh, y khoa, hay luật sư và dĩ nhiên, cũng có những ngoại lệ và tuy thế cũng không phải là ít và thực đáng cảm động: “ Tôi không thể nào ngồi yên được nữa, tôi phải tham dự vào cuộc chiến, tôi phải tham dự vào cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Hoa. Tôi phải về nước. Dù không làm được gì quan trọng tôi cũng phải về, tôi cần hiện diện để chia sẻ những khổ cực và gian nguy. Tôi là người Trung Hoa mà.” Đó là câu nói của nhân vật chính của tác giả, Hàn-tú-Anh, người nữ văn sĩ mang hai giòng máu Trung Hoa—Bĩ. *** Tựa Của Tác Giả Người ta đã yêu cầu tôi viết bài tựa cho cuốn Destination Tchoungking đã được xuất bản lần đầu tiên tại Anh vào năm 1942. Bằng cả tâm hồn và thể xác, tôi đã sống lùi lại mười một năm về trước, hồi còn trẻ, tại Trùng Khánh, ngập mình trong binh lửa, và thấy lại trọn vẹn cảnh tượng lúc bấy giờ: những chữ ở đây đều có một nghĩa tuyệt đối; những mục tiêu tự nó tồn tại, chính đáng và đáng kính; đạo đức và niềm tin đã chống cự lại nạn đói kém, nỗi đau khổ và sự buồn nản. Chúng tôi đã tin tưởng rằng sẽ tồn tại để cất lên tiếng cười, để tận dụng cuộc sống, mặc trạng huống hiện hữu, mặc những điệp khúc vô tận của những trận mưa bom mỗi ngày khô ráo mỗi tái diễn. Rồi thì cuối cùng mọi sự đều đã được giải quyết ổn thỏa. Tôi không có một mảy may ý định viết văn. Hồi đó tôi tập sự nghề cô đỡ tại một bảo sinh viện nhỏ dưới quyền điều khiển của Marian Manly, một nhà nữ truyền giáo Hoa Kỳ, ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Pao, chồng tôi, đóng tại Tây Bắc, và trong thời gian chàng vắng nhà, tôi ở lại nhà thương với Marian. Cha mẹ của Marian đã từng là những nhà truyền giáo tại Trung Hoa. Chị nàng cũng thế. Chính nàng ta, một y sĩ kiêm truyền giáo, đã trải qua phần lớn đời nàng tại Trung Hoa. Nàng đã vẻ kiểu và xây lấy ngôi bảo sinh viện này, và tại đây, nàng huấn luyện các cô đỡ Trung Hoa cho đến khi những người này tốt nghiệp, gửi họ về các vùng quê, hay đưa đến những đô thị bị cô lập để làm cái việc cần thiết nhất tại Trung Hoa là giúp các sản phụ sinh nở dễ dàng và hợp vệ sinh. Một đêm nọ, tôi ngồi với nàng trong phòng nàng, trước ngọn lửa được đốt bằng củi để sưởi ấm, và chúng tôi đã thảo luận về những cuốn sách đã đọc. Nàng nói với tôi là đã nhiều lần nàng hy vọng sẽ viết một cuốn sách về tất cả những kinh nghiệm đã trải qua ở Trung Hoa trong tình thương và thông cảm. Nàng đã viết nhiều truyện ngắn và thơ nhưng chưa có được cuốn sách nào cả. Tôi đưa cho nàng xem những ghi chú và những đoạn văn mà tôi thường viết khi nhàn rỗi, cho những bạn bè ở Anh quốc muốn biết những gì đang xảy ra tại Trung Hoa. Nàng xem xong, bảo tôi: "Đây là những chất liệu quý giá có thể dùng để cấu tạo nên một cuốn truyện. Tại sao chị không viết nó thành cuốn sách nhỉ? Điều đó làm tôi run sợ. Anh văn của tôi, học từ hồi mười tuổi tại Bắc Kinh, và về sau này có được dồi dào thêm là nhờ đọc chứ chẳng phải nhờ thực tập, chắc đâu đủ để cho phép tôi viết thành một cuốn sách! Nhưng nhờ sự khích lệ nóng bỏng của Marian, tôi đã bắt tay vào việc hình thành cuốn Destination Tchoungking. Cuốn sách này đã được viết bằng những tờ rời, từng đoạn một, đôi khi vào buổi tối, dưới ánh đèn dầu trong những cái còn lại của một căn phòng sau trận oanh tạc vừa qua; đôi khi vào buổi trưa, trở về nhà sau một cuộc đỡ đẻ kéo dài từ sáng tới tối; hoặc vào khoảng giữa công việc bếp núc nhà cửa và việc quan sát những dấu vết địch quân trên trời. Tôi đã từng đem theo bản thảo Destination Tchoungking vào hầm trú ẩn trong quả đồi gần nhà, nhét giữa cái nồi thổi cơm và con gái tôi. Trong phần lớn thời gian viết cuốn sách này, Marian và tôi ở xa nhau. Tôi ở với Pao ở Trùng Khánh hoặc theo chàng xê dịch trong vùng Trung Hoa tự do. Nàng vẫn không rời bệnh viện của nàng ở Thành Đô. Tuy thế, sự hợp tác giữa chúng tôi vẫn không bị đứt khoảng, và điều này nói ra không khỏi tầm thường nhưng tôi vẫn cảm thấy phải nói, là nếu không nhờ có Marian sửa chữa, phê bình cùng tu bổ cho từng chương một, chắc chắn cuốn sách này đã không có dịp ra đời. Ngay khi vừa hoàn tất một chương, tôi gửi bằng máy bay tới Marian liền. Bản thảo bay tới bay lui giữa tác giả và đồng tác giả(co-auteur) trên vòm trời Trùng Khánh, được đánh máy trên những tờ giấy thực mỏng với tất cả thận trọng và rõ ràng để có thể nhét vào phong thơ của bưu điện hàng không. Rồi, một ngày đẹp trời nọ, nhà xuất bản nhận lời in. Tuy nhiên, vào thời đó, chưa thể tiết lộ tên tác giả được vì một lý do kỳ khôi. Hồi đó, nhờ chồng tôi nên tôi tạm thời trở thành một nhân viên ngoại giao của xứ tôi. Các bà trong ngoại giao đoàn không được phép viết văn. Nơi chúng tôi sống, người ta coi viết văn như một nghề ít phụ nữ tính và độc hại, y như nghề kịch sĩ vậy. Ngay cả cuốn tự truyện đầy sinh động và duyên dáng, Huilan Koo, của bà Wellington Koo, phu nhân của ông đại sứ Trung Hoa tại Hoa Thịnh Đốn, đã đột nhiên bị cấm lưu hành một cách bất công. Cuốn sách của tôi không bị số phận đó, nhưng trong nhiều năm, tôi khá thấu đáo về vấn đề này. Đó là câu chuyện đằng sau cuốn Destination Tchoungking của tôi. Ngoài bài mở đầu này ra, kỳ dư tôi không hề sửa đổi chi tiết nào trong cuốn sách khả dĩ khác với lần xuất bản đầu tiên, trừ vài lỗi chính tả và văn phạm. HÀN TÚ ANH Tháng 2, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Về Trùng Khánh của tác giả Han Suyin.
Đôi Mắt Người Xưa - Ngọc Linh
Ngọc Linh (1935 - 2002), xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, Cà Mau. Ông từng làm thư ký tòa soạn tuần báo Nhân loại, báo Lẽ sống, mở Nhà xuất bản Phù Sa, là ký giả kịch trường và điện ảnh, thành viên hội đồng tuyển chọn tuyển chọn giải Thanh Tâm trước 1975 (sau này ông là người sáng lập và tổ chức giải thưởng Trần Hữu Trang). Ông có hơn 70 tiểu thuyết đề cao lòng yêu nước và đạo đức gia đình. Nhiều tiểu thuyết nổi tiếng được chuyển thể thành kịch bản phim, cải lương, kịch nói. Sau giải phóng, ông được phân công chỉ đạo nghệ thuật nhiều đoàn kịch nói, cải lương, là Phó Tổng biên tập tuần báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh và làm cố vấn cho tờ báo đến ngày mất. *** Trân ngừng xe cách tiệm Ngọc Thanh của Diệp Thúy chừng hơn trăm thước, rồi bảo Ngọc Dung: - Đó... Em thấy chưa? Tiệm sách kia là của bác mua cho con vũ nữ đó. Ngọc Dung đọc hiệu tiệm rồi nhìn vào trong, thấy thấp thoáng nhiều người. Nàng bảo Trân: - Em sẽ đến đó, xem có ba em không? Và xem cô ta ra làm sao? Nàng nói xong, mở cửa xe bước ngay xuống đất. Trân lúng túng chưa biết tính sao? Hắn không ngờ Ngọc Dung hành động liền như vậy. Lúc nãy, hắn đang ở trên phòng buyn đinh Rose thì Ngọc Dung đến bảo hắn đưa nàng đến chỗ nhà bác sĩ Vũ mua cho Diệp Thúy. Trân tưởng đâu Dung chỉ muốn thấy tận mắt cái nhà sách của Thúy thôi, ai ngờ bây giờ nàng lại muốn giáp mặt Vũ và Thúy. Gặp như vậy thì khó quá! Chính hắn cũng không muốn giáp mặt Thúy trong trường hợp nầy. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Mắt Người Xưa của tác giả Ngọc Linh.