Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mầm Ác

Mầm ác là một câu chuyện với những dòng diễn biến tâm lý của nhân vật Karen bởi nỗi ám ảnh, tội lỗi cô gây ra, và nỗi lo sợ về tương lai. Những giọt nước mắt rất mặn, chúng đã tưới lớn Mầm ác trong ai? Đón đọc Mầm ác, do Phúc Minh Books liên kết với Nhà xuất bản Văn học ấn hành! *** Mầm Ác là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kể về ba con người với tính cách riêng biệt. Một Karen thông minh và khuôn phép. Một Biba quyến rũ và nổi loạn. Một Rex cam chịu và giàu đức hy sinh. Mùa hè năm ấy, số phận đã đưa ba con người với ba tính cách riêng biệt ấy lại gần nhau... và biến mùa hè đó thành khúc cua định mệnh trong đời mỗi người - khúc cua bất ngờ khiến họ vĩnh viễn không còn cơ hội quay đầu. Khúc cua đẩy Karen khỏi lộ trình tươi sáng của một thiên tài ngôn ngữ. Khúc cua xô Biba khỏi tham vọng hào nhoáng của một đại minh tinh. Khúc cua cắt lìa Rex khỏi giấc mơ sống một đời bình yên dưới mái nhà trong hẻm Queenswood. Và khúc cua, đã làm bừng dậy một Mầm ác. Điều gì đã xảy ra với ba con người ấy? Một sự giải thoát? Một con ác mộng? Hay những bước chân lầm lạc không còn phương hối cải? Và những giọt nước mắt rất mặn, chúng đã tưới lớn Mầm ác trong ai? *** “Anh bước nhẹ nhàng trên tấm rèm nhung màu xanh và vàng đồng mà không gây ra một tiếng động nào, tấm rèm ấy nằm trên nhiều lớp vỏ chăn ga trải ra trên sân thượng, nhưng vẫn có một tiếng va chạm khi gót chân của anh tiếp xúc với hòn đá chặn ở hai đầu của một chiếc mền. Trước đây tôi chưa từng thấy ai đi như vậy, anh cứ đi lên đi xuống quanh một khoảng đất nhỏ, đi qua rồi đi lại, đi tới rồi đi lui. Anh đi như thể trong tâm trí có quá nhiều suy nghĩ và chúng phải chuyển hóa vào các cơ bắp, khiến cho cơ thể di chuyển không mục đích. Có lẽ đó là lý do tại sao trông việc này lại đáng sợ như vậy.” Nỗi lo hay nói chính xác hơn là nỗi ám ảnh luôn khiến cho con người ta rơi vào trạng thái hỗn loạn và hành động kỳ quặc trong vô thức. Nhiều lúc không thể tự kiểm soát bản thân và vì áp lực đã bị dồn nén quá lâu trong một con người sống thầm lặng và “an phận thủ thường” nên mọi chuyện sẽ luôn đi theo chiều hướng cực đoan nhất. Nhân vật Paul trong quyển sách này là một trường hợp tương tự như thế – một mầm ác trỗi dậy như một quy luật tự nhiên về tâm lý của con người. “Mầm ác” chẳng khác gì một bối cảnh mùa hè phóng túng – nơi trỗi dậy của những bí mật tội lỗi và sự hồi hộp luôn kéo dài liên miên bởi biến đổi trong tâm lý đã khiến con người ta trở thành kẻ giết chóc. Cả ba nhân vật chính nhìn thì tưởng họ là những con người lương thiện bình thường nhưng không, ai cũng len lỏi một mầm ác trong tâm hồn. Với Karen – cô là một sinh viên xuất sắc và triển vọng nghề nghiệp rất cao nhưng cuộc đời của cô đã có ngã rẽ khi gặp Biba – một cô gái lòe loẹt và hào nhoáng. Karen đã bị cuốn hút bởi lối sống xa hoa của Biba và đến tham gia cuộc vui tại biệt thự – nơi cô gặp Rex và nảy sinh tình cảm. Họ cuốn vào cuộc đời nhau bởi rượu, tình dục và những đêm hè hoạt náo. Thế nhưng, cuộc đời đâu thể mãi vui và hạnh phúc mãi khi Biba và Rex có những bí mật phức tạp từ gia đình. Ruồng bỏ, tự tử, oán hận và tội lỗi bao trùm cái gia đình ấy và cũng chính nó sẽ bao trùm cả mùa hè vốn dĩ đang rạng ngời của Karen. Dĩ nhiên, biến cố đã xảy ra và cuộc tình của Rex và Karen đã phải chịu xa cách. Thời gian mười năm, Karen đã sinh bé Alice và dĩ nhiên cả Rex và Karen luôn mong muốn có được cuộc sống bình yên sau một khoảng thời gian dài chịu đựng những sóng gió của số phận. Nhưng bất ngờ thay, Karen cũng có những bí mật u tối và chắc chắn sự ám ảnh đó không phải chỉ là một căn bệnh tâm lý mà nó sẽ trở thành một mối nguy đe dọa đến sự an toàn của con và chồng cô. “Mầm ác” đã gây ra được sự thu hút đối với tôi bởi việc di chuyển dòng thời gian giữa mười năm trước và hiện tại rất mượt mà. Mọi tình tiết không hề bị gượng ép và luôn đưa ra được những góc nhìn sâu để tiết lộ sự thật qua từng trang truyện. Kịch tính của tình huống đều được tăng tiến theo mỗi chương cộng thêm với những tình tiết hoàn toàn đảo ngược vấn đề đã khiến cho câu chuyện đặc sắc lạ thường. Vì tội giết người nghe qua thì đơn giản nhưng sự thật đằng sau hành vi tàn ác đó lại khiến chúng ta phải quan tâm nhiều hơn. Những thắc mắc sẽ ẩn hiện và thôi thúc chúng ta đọc đến phần kết cục. Dĩ nhiên, con người không ai hoàn hảo và cũng chẳng có tác giả nào xây dựng một nhân vật hoàn hảo trên mọi phương diện. Thiếu sót của Karen và Rex chính là họ sống trong sợ hãi, họ nhấn chìm cả tuổi trẻ và sự ngây thơ vào những sự tối tăm không cần thiết. Và ở Karen, cô cũng đã quá tham lam với những điều mới mẻ; nếu cô không tò mò với những điều lạ lẫm ở trước mắt thì ngã rẽ của đời cô chắc gì đã xuất hiện?! Biba thì khác biệt một chút, cô ấy hoàn toàn là một kẻ ích kỷ và liều mạng, một kẻ chuyên gia gây ra sự hỗn loạn ở mọi phương diện nhưng lại hiện ra rất chân thật, rất đúng với sự nổi loạn của những người mới lớn. Một điều đáng lưu ý nữa là bầu không khí mà tác giả tạo ra trong truyện thực sự mang lại nhiều ám ảnh, không phải kiểu đáng sợ máu me mà là kiểu tâm trạng mơ hồ và ảm đạm cứ bám víu lấy mọi thứ. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 29-01-2020) Trần Thông *** MỞ ĐẦU Tôi buông chiếc điện thoại để nó tuột khỏi tay. Cơn hoảng loạn đánh gục tôi rồi lại vực tôi dậy. Đầu ngón tay tôi chộn rộn lần mò trên mặt bàn cà phê, quờ quạng tìm chìa khóa xe và điện thoại di động. Tôi cuống cuồng mặc quần áo trong bóng tối, vớ vội lấy áo khoác và đôi bốt da cừu to quá khổ mà tôi vẫn dùng để đi trong nhà. Lúc tới ngưỡng cửa, tôi do dự một giây rồi hối hả quay lại bàn, lục ngăn kéo để tìm hộ chiếu và thẻ tín dụng chỉ dành cho lúc khẩn cấp. Tôi khẽ khàng kéo cánh cửa sau lưng, dù máu đang chạy rần rật trong tai tôi. Tôi chốt hai lần khóa bằng đôi tay run rẩy, nhưng để làm gì? Để ngăn ai đó thoát ra? Để ngăn kẻ nào bước vào? Tôi cũng không biết nữa. Ra đến bên ngoài, tôi nhón chân nhưng vẫn tạo ra tiếng lắc rắc như thể vừa đạp nát một con ốc sên dưới đế giày. Khi tôi giẫm phải một vũng nước ngoài cổng, nước lạnh ngấm qua lớp da lộn mềm mại và liếm vào những ngón chân trần của tôi. Trong khoang xe tối tăm, tôi vặn khóa khởi động, nhăn nhó vì cơn gió buốt giá thổi tới, xua đi làn hơi thở vừa đông thành khói. Đôi tay tôi ướt lạnh. Tôi cố bình tĩnh tìm đôi găng tay len nhét ở túi áo bên trái. Trước khi đeo găng, tôi móc điện thoại ra, mở danh sách cuộc gọi đến. Tôi gọi vào điện thoại trong nhà, chờ nghe tiếng tút tút kết nối tín hiệu nhưng lại vội cúp máy khi điện thoại chưa kịp đổ chuông. Kính chắn gió bị sương giá phủ mờ, còn tôi không dư thời gian để chờ tới lúc hệ thống sưởi làm tan hết hơi nước. Tôi lau ô cửa xe ở ghế khách rồi liếc mắt nhìn cửa sổ phòng ngủ tối đen. Anh có nghe thấy không? Biết đâu ngay lúc này, đèn bật sáng, bóng anh hiện ra bên cửa sổ và anh gọi to tên tôi. Liệu điều đó có ngăn được tôi không? Liệu điều gì có thể? Chiếc xe đỗ ngay phía trước căn nhà. Nếu tôi bật đèn pha lên thì chúng sẽ hắt sáng vào cửa sổ, vì vậy không cần ánh đèn dẫn lối, chỉ dựa vào việc nhìn xuyên qua dấu tay in trên cửa kính, tôi lầm lũi lái xe ra đường. Tới tận khi nghĩ mình đã đi khuất khỏi ngôi nhà, tôi mới mở đèn pha lên. Nơi thôn quê này lạnh băng và ảm đạm. Những hàng rào cây trơ trụi lá khắc họa đường nét kỳ quặc trên con đường trước mặt và vỉa cao bên đoạn đường hẹp đổ xuống những hình bóng tựa như bóng người. Cái chết, mất mát và lầm lỡ vây chặt lấy tôi, các linh hồn vốn giấu mình giờ bùng lên thành ma quỷ. Tôi sợ hãi cả việc liếc ra phía sau. Chúng truy đuổi khiến tôi mất bình tĩnh phóng bạt mạng, thậm chí lao cả lên bờ cỏ lúc rẽ quá nhanh qua khúc cua tầm nhìn hạn chế. Dây an toàn siết chặt vào khoảng giữa ngực tôi khi tôi phanh gấp để tránh đâm phải chiếc xe tải đột ngột xuất hiện trước mắt. Đó là một chiếc xe bẩn thỉu, sơn loang lổ, đồ lề lòng thòng đằng sau và đi chậm như rùa bò, có lẽ tay tài xế hơi quá chén. Tôi chẳng còn cách nào, đành đi chầm chậm theo sau. Tôi dành khoảng thời gian trì hoãn ấy để nghiêm túc suy nghĩ. Nhưng chẳng thể lí trí được trong tình huống thế này. Tôi chỉ mặc đồ ngủ và xỏ đôi giày ẩm lạnh, một mình lái xe trên đường quê giữa đêm tối mịt mùng. Không ai biết tôi đang ở đâu và sao tôi lại ở đó, trên danh sách cuộc gọi ở nhà, tôi cũng tự xóa dấu vết duy nhất mình có thể để lại. Tôi nghĩ tới những người khác, nhưng lần đầu tiên trong đời tôi nhận ra rằng chỉ khi tiếp tục mới có thể mang đến sự an toàn cho chính mình. Liếc nhìn đồng hồ tốc độ, tôi thấy mình đang đi với vận tốc bốn dặm 1* một giờ. Tôi nhấn còi và nháy đèn, nhưng màu xanh lam hắt ra từ buồng lái cho tôi biết tay tài xế đang nghe điện thoại. Tôi mường tượng trong đầu về đoạn đường phía trước. Vì đã đi qua rất nhiều lần nên tôi nắm rõ từng ổ gà, từng khúc lắt léo và từng đoạn mấp mô. Tôi hít sâu một hơi, giật mạnh cần số, lao liều vào điểm tránh mở rộng mà tôi nhớ rằng nó nằm ngay bên phải. Nhưng người lái chiếc xe đen đi từ hướng ngược lại cũng nghĩ giống tôi. Khi chúng tôi vượt qua nhau, tiếng kim loại cọ xát chát chúa vang lên. Tôi tăng tốc. Nếu anh ta muốn làm gì thì cứ việc đuổi theo tôi đi. Gương bên trái xe của tôi bị bung ra khỏi khung, lủng lẳng níu giữ bằng một mẩu dây điện, trông như một phần tay chân dính với thân thể chỉ bằng một mạch máu duy nhất. Gã lái xe kia bị bỏ lại đằng sau, nhấn còi đầy giận dữ, hiệu ứng Doppler 2* khiến chiếc xe quăng lại nửa tiếng còi cụt lủn rồi cứ thế đi tiếp về phía nhà tôi. Vì có một chiếc xe tải chen giữa xe tôi và chiếc xe vừa nãy, mà lúc này tôi cũng chẳng kịp quay lại, nên không biết gã đi một mình hay chở thêm người, là ô tô riêng hay taxi. *1 dặm ~ 1,069 km. *Một hiệu ứng vật lý, được nhà vật lý Christian Andreas Doppler tìm ra. Hiệu ứng Doppler là hiện tượng xảy ra khi nguồn sóng (với tần số ổn định) di chuyển khiến cho tần số sóng phát ra khác với tần số sóng thu được tại điểm quan sát. Tôi lao đi một cách điên rồ. Chỉ có camera tốc độ với dấu hiệu nhận biết quá rõ ràng mới có thể khiến tôi đi chậm lại. Ở vành đai thành phố, bờ cỏ cằn cỗi bên đường thay thế bằng vỉa hè chật hẹp và hàng cây được trồng thẳng hàng, đều tăm tắp, chia cách mấy căn nhà, một quán rượu cùng một cây xăng. Dãy cột đèn dần xuất hiện, những quả cầu theo phong cách Victoria trông như những mặt trăng nhỏ đang xếp hàng, tôi nhận thấy chúng cũng sáng tựa vầng trăng. Cuối cùng, sự việc làm tôi nơm nớp lo sợ suốt một phần ba đời người đang ở đây. Trong xe bỗng trở nên nóng nực. Đôi tay đeo găng của tôi mướt mồ hôi, mắt khô khốc, còn lưỡi thì dính lên vòm miệng. Tôi đã từ bỏ rất nhiều điều và làm vô số việc tồi tệ chỉ bởi tôi phải làm thế vì lợi ích của gia đình mình. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với chúng tôi. Tôi sợ hãi, nhưng lại cảm thấy mình thật mạnh mẽ. Tôi mang sức mạnh của một người phụ nữ có quá nhiều thứ để mất. Mời các bạn đón đọc Mầm Ác của tác giả Erin Kelly & Quang Bích (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kiếm Sống - Maxim Gorky
K iếm sống[1] là phần hai trong tác phẩm bộ ba tự thuật[2] của M. Gorky, miêu tả thời niên thiếu của cậu bé Alyosha Peskov, tức Gorky, từ năm 1878 đến năm 1884. Trong phần đầu, M. Gorky đã kết thúc Thời thơ ấu của mình bằng những dòng chua chát: “Sau khi chôn cất mẹ tôi được vài ngày, ông ngoại bảo tôi: - Này Leksei, mày không phải là cái mề đay, mày không thể lủng lẳng mãi trên cổ tao, mày hãy đi ra đời mà kiếm sống… Và thế là tôi bước vào đời.” Mới mười tuổi đầu, cậu bé mồ côi Alyosha đã bắt đầu ở với người đời, tìm hiểu cuộc sống và đấu tranh để tìm ra lối thoát cho mình. Giai đoạn này đã hình thành mối quan hệ mới của Alyosha với con người và thế giới xung quanh. Bước vào đời để kiếm sống, Alyosha luôn va chạm với sự hèn hạ, tồi tệ của bọn “tiểu thị dân”, những kẻ luôn tự cho mình là “ưu việt nhất thành phố”, họ tưởng rằng họ “biết những phép cư xử đúng đắn nhất và dựa trên những phép tắc mù mờ đối với tôi đó mà kết tội mọi người một cách tàn nhẫn, không thương tiếc”. Những kẻ này thường có thái độ ganh tị, ghen ghét với điều tốt đẹp ở những người mà họ không sao hiểu nổi. Để biện bạch cho cuộc sống nhỏ nhen và nghèo nàn, khiến nó tăng thêm cái vẻ quan trọng bề ngoài, họ, giống như ông lão Kashmirin keo kiệt, hung dữ hay bà già Matryona độc ác, ích kỉ, luôn luôn lôi kéo Chúa vào những việc tẹp nhẹp buồn tẻ của mình, biến Chúa thành một sức mạnh trừng phạt mù quáng để bảo vệ cho tội lỗi và lợi ích cá nhân… Alyosha càng ngày càng thấy rõ mặt trái của cuộc sống, thấy những sự nhục mạ nhân cách, những lao động vô nghĩa, khổ sai. Lúc ấy, theo như lời Gorky kể, cuộc sống của Alyosha như vĩnh viễn bị quy định một cách chặt chẽ trong các hình thức và các mối quan hệ mà Alyosha trông thấy ngày này qua ngày khác, mỗi ngày một buồn tẻ, gay gắt hơn, khiến khó mà nghĩ tới khả năng thay đổi, làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng khi ấy, sách vở – kho tàng tư tưởng sáng tạo của con người – đã tới giúp Alyosha. Những tác phẩm của các nhà văn Nga ưu tú, của các tác giả nước ngoài như Walter Scott, Dickens… đã giúp cậu hiểu được rất nhiều điều mà trước đó cậu vẫn băn khoăn. Sách vở đã giúp Alyosha khắc phục tâm trạng bối rối, mất niềm tin vào con người. Mỗi cuốn sách hay như mở ra trước mắt Alyosha một cánh cửa sổ hướng về thế giới mới mẻ mà cậu bé chưa từng biết, chưa từng thấy. Càng đọc nhiều sách, Alyosha càng thấy gần gũi với thế giới hơn, cuộc sống đối với cậu càng sáng sủa, có ý nghĩa hơn. Sau này, Gorky nhớ lại: “Sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong cuộc sống, nói cho tôi biết rằng con người thật vĩ đại và đẹp đẽ, luôn hướng về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã gây ra nhiều chuyện trên trái đất và vì thế mà họ phải chịu biết bao đau khổ.”[3] Một nhân vật trong Kiếm sống là Jikharev đã nói với Alyosha với vẻ đồng tình: “Cháu không có thái độ dửng dưng mà luôn tập trung vào công việc. Cháu cứ nên như thế mãi, điều đó rất tốt!” Alyosha đã dũng cảm lao vào cuộc sống, dũng cảm “bước vào đời” mặc dù nhiều khi va chạm phải mặt trái xấu xa ghê tởm của nó. Gorky viết: “Trong tôi có hai con người: Một người sau khi đã biết quá nhiều điều ghê tởm và bẩn thỉu, trở nên sợ hãi cuộc sống, nản lòng bởi hiểu quá rõ các chuyện khủng khiếp xảy ra hằng ngày. Người ấy bắt đầu nhìn cuộc sống, nhìn mọi người với thái độ thiếu tin tưởng và hoài nghi, thương hại một cách bất lực cả bản thân và những người xung quanh. Con người ấy mơ ước một cuộc sống cô độc, yên tĩnh, chỉ có sách vở, không dính líu đến ai, mơ về một tu viện, một chòi canh trong rừng, một vọng gác đường sắt, mơ được đến Ba Tư, được đảm nhiệm cương vị một người gác đêm ở ngoại ô thành phố. Càng ít người càng tốt, càng tránh xa con người càng tốt… Còn người kia được nuôi dưỡng bằng ý chí thiêng liêng của các cuốn sách hay và sâu sắc, mỗi khi cảm thấy sức mạnh của những điều khủng khiếp xảy ra hằng ngày kia có thể dễ dàng đè bẹp mình, làm nhơ bẩn trái tim mình, nên cố sức tự vệ, cắn chặt răng, siết chặt nắm đấm, luôn sẵn sàng xông vào bất kì cuộc tranh cãi và trận chiến đấu nào. Con người này giàu tình yêu thương, và giống như những nhân vật dũng cảm trong các cuốn tiểu thuyết Pháp, chỉ cần đến câu thứ ba là đã rút ngay gươm ra khỏi bao và sẵn sàng chiến đấu.” Trên bước đường kiếm sống, Alyosha đã gặp và sống với những người lao động bình thường: thợ mộc, thợ nề, thợ làm tượng thánh, phu khuân vác… và cả các nghệ sĩ, nhà thơ, nhà triết học… Mỗi người đều cần thiết và quan trọng đối với Alyosha, giúp tâm hồn cậu thêm phong phú, khiến cậu trở nên mạnh mẽ, khôn ngoan, có đủ nghị lực đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Trong quá trình tiếp xúc với những người này, tính cách của Alyosha dần dần hình thành. Bác đầu bếp Smouri, một trong những “người thầy” của Alyosha, một người vốn nghiêm nghị và thích cô độc, có tâm hồn hiền hậu và tấm lòng công bằng, cao thượng. Khi Alyosha đọc cho bác nghe chuyện Taras Bulba của Gogol, tới cảnh cái chết của vị thủ lĩnh Cossack thì Smouri, người mà tất cả mọi người trên tàu đều sợ, đã khóc nức nở. Chính nhờ cuộc gặp gỡ với Smouri mà Alyosha bắt đầu say mê đọc sách. Càng tiếp xúc với những người Nga bình thường, càng tìm hiểu họ sâu hơn, Alyosha càng thấy “những người chủ” là tầm thường, tẻ nhạt, thế giới của họ hóa ra không bền vững và chắc chắn như cậu tưởng. Alyosha đã trải qua cả một “trường học đường đời” khi làm việc ở xưởng làm tượng thánh. Những người thợ trong xưởng mà Alyosha tiếp xúc là những người có tinh thần ham hiểu biết, có tâm hồn phong phú và có tài năng. Ở mỗi người, Alyosha đều cảm thấy họ thực sự hiểu biết cuộc sống và nghệ thuật. Những người đó tuy sống tù túng trong xưởng nhưng vẫn đầy lòng cao thượng, sức mạnh và vẻ đẹp. Không phải vô cớ khi kể về Sitanov, Gorky nhắc rằng trong anh hình như có một cái gì giống với “nhà quý tộc Tây Ban Nha”, nhân vật mà Sitanov yêu thích hơn cả. Đặc biệt, Jikharev đã khiến Alyosha rất đỗi ngạc nhiên; đó là một nghệ sĩ nhân dân, một người bị giày vò vì khát vọng hiểu biết và sáng tác tự do. “Chúng ta biết được những gì? Chúng ta sống thật quá tầm thường… Còn đâu là tâm hồn? Tâm hồn ở đâu rồi? Nguyên bản thì có đấy; nhưng trái tim thì không…” Alyosha lo lắng và vui mừng nghe những lời lạ tai ấy của Jikharev. Những người này càng ngày càng nhận thức rõ sự bất công, vô nghĩa của thứ lao động cưỡng bách. Họ bị dồn vào cảnh lao động kiệt sức và đơn điệu, mất hết niềm vui và phúc lợi ở đời. Họ thèm muốn ánh sáng, tri thức, cái đẹp. Những cuốn sách mà Alyosha đọc đã khiến họ say mê, rung động. Khi Alyosha đọc tập thơ Con quỷ của Lermontov, những người này khiến cậu hết sức ngạc nhiên bởi khả năng thụ cảm nghệ thuật rất tinh vi và sâu sắc của họ. Qua những năm sống phiêu bạt ấy, trong Alyosha nảy sinh tình yêu mạnh mẽ với con người, thứ tình yêu mà cậu sẽ mang suốt đời. “Chú được cái tốt là đối với ai chú cũng coi như họ hàng thân thích cả, cái đó rất tốt!” Kapendiukhin đã nói với Alyosha như vậy. Alyosha luôn có mặt trên con đường đi tìm chân lí, mục đích cuộc sống, đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi vẫn giày vò cậu: “Làm thế nào để giúp đỡ mọi người?” Đối với Alyosha, việc tìm hiểu ông lão thợ mộc Osip là một điều “hết sức cần thiết”. Tính tình phức tạp của Osip giúp cho Alyosha hiểu được bản chất mâu thuẫn của nông dân (Về Osip, năm 1897 Gorky đã viết trong truyện ngắn Vanka Mazin và năm 1912 trong truyện ngắn Băng chuyển). Alyosha biết tìm ở mọi người những điều cần thiết với cậu, mặc dù những người ấy khác xa cậu. Trong tâm thức, Alyosha đã phân biệt được ước mơ và thực tế. Giờ đây, cậu không chỉ hướng về sách vở, thơ ca, truyện thần thoại để tìm kiếm sự dũng cảm và chân lí mà biết hướng vào hiện thực: “Điều đó càng khiến tôi ngạc nhiên hơn, tôi cảm thấy rất rõ những mâu thuẫn giữa thực tế và sách vở. Trước mặt tôi là con người sinh động mà trong sách vở không thấy được: bác Smouri, anh thợ đốt lò Yaakov, ông khách lưu lạc Aleksasha Vassiliep, bác Jikharev, chị thợ giặt Natalya…” Hình ảnh của những con người sinh động này chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí cậu bé Alyosha. Chương cuối của Kiếm sống xuất hiện một hình tượng đầy ý nghĩa – cảnh “trái đất nửa thức nửa ngủ”. Alyosha muốn đá tung tất cả trái đất và ngay cả chính mình nữa để cho tất cả mọi vật “xoay như một cơn lốc mừng vui trong điệu múa tưng bừng của những người yêu nhau say đắm, những người yêu cuộc sống này – cuộc sống mở đầu cho một cuộc sống khác tươi đẹp, phấn khởi và ngay thật”… Nhưng trong giai đoạn này, hiểu biết của Alyosha còn hạn chế, cậu chưa trả lời được câu hỏi: Cụ thể phải làm gì để giúp mọi người, phải thực hiện lí tưởng xây dựng một thế giới hợp lí và công bằng như thế nào? Tác phẩm Kiếm sống kết thúc bằng những suy nghĩ già dặn của cậu thiếu niên Alyosha mười sáu tuổi, sau những năm lăn lộn với sóng gió của cuộc đời để kiếm sống. “Tôi nghĩ bụng: ‘Ta phải làm được một việc gì chứ, nếu không thì ta sẽ sống vô ích…’ Vào những ngày thu ảm đạm, khi không những không nhìn thấy, không cảm thấy, mà còn quên mất cả mặt trời, tôi thường bị lạc trong rừng. Tôi đi chệch đường, chẳng tìm được lối hẻm nào; cuối cùng, sau khi sục sạo đến mệt bã người, tôi cắn răng đi xuyên qua rừng rậm, giẫm trên những cành cây mục nát, những mô đất tròng trành của vũng lầy. Cuối cùng, tôi luôn tìm được đường đi. Tôi quyết định cũng sẽ sống một cuộc đời như vậy.” Nhưng mãi đến sau này, phải qua nhiều năm được tôi luyện trong “những trường đại học” thực tế của cuộc đời, chàng thanh niên Alyosha Peskov mới tìm được hướng đi cho mình. Truyện tự thuật không phải là một thể loại mới trong văn học. Trước kia ở Nga, Saltykov Shchedrin, Lev Tolstoy, Aksakov… cũng đã từng viết truyện tự thuật. Gorky phát triển một cách sáng tạo truyền thống ưu tú của quá khứ và nâng cao tính tư tưởng của thể truyện này. Tác phẩm tự thuật của Gorky đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Nó là chiếc chìa khóa giúp ta hiểu thấu nguồn gốc thiên tài của Gorky, nắm chắc mối quan hệ vô cùng sâu sắc giữa Gorky với nhân dân, đất nước và cuộc sống. Con đường Gorky đã trải qua là con đường tiêu biểu của nhiều người Nga mòn mỏi trong cảnh bần cùng hóa bi thảm, trong lao động cực nhọc, sự vươn lên của tuổi trẻ với khát khao sáng tạo thường chịu áp chế, bóp nghẹt, nhưng những người trẻ tuổi vẫn tràn trề lòng tin, vượt mọi trở ngại trên con đường đi tìm lẽ sống. Gorky không coi tiểu sử của Alyosha Peskov là một hiện tượng siêu việt, ông từng tuyên bố: “Lịch sử của Gorky không phải là một trường hợp duy nhất và không phải là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt.”[4] Các nét tính cách nổi bật của Alyosha là: Lòng biết ơn nồng nhiệt với những người có lòng tốt với mình; tình cảm thương yêu những bạn cùng trang lứa đau khổ hơn mình; khát vọng chính nghĩa tới mức say sưa; mối căm thù sâu sắc đối với bọn áp bức tàn bạo; tinh thần bất khuất, khắc phục khó khăn; lòng yêu lao động… Nổi bật nhất là tinh thần hiếu học, chí cầu tiến, óc quan sát tinh vi, thói quen nhìn thẳng vào sự việc để phân biệt rõ ràng cái tốt, cái xấu. Alyosha không sống thụ động, tính cách cậu dần được hình thành vững vàng trong cuộc đấu tranh chống lại nguồn gốc của cái xấu xa trong đời sóng, trong khao khát hướng tới những điều tốt đẹp, công bằng và nhân đạo. Gặp Gorky lần đầu tiên năm 1905, Lenin nói: “Phải học ở Gorky cách nhìn và cách nghe.” Tác phẩm tự thuật của Gorky là một kho vốn sống phong phú, miêu tả lại bước đường gian truân đã dẫn dắt Gorky tới tuổi trưởng thành, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất đã gợi hình, gợi ý, chuẩn bị cho đời sống văn học của Gorky. Tác phẩm không chỉ là tiểu sử riêng của một cá nhân mà còn là bức chân dung của cả một thế hệ, bức họa rộng lớn về phong cảnh, đất nước và xã hội Nga cuối thế kỉ XIX với những nét khắc họa điêu luyện, sâu sắc về cả diện mạo và tâm lí sinh động của con người. Tính điển hình của các hiện tượng được miêu tả trong tác phẩm bộ ba Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi khái quát cao độ, làm rung động và chiếm được cảm tình lớn của độc giả. Nhà văn Alexander Shirvanzade[5] đã nói về tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky như sau: ‘Theo quan điểm của tôi, toàn bộ cuốn sách tượng trưng cho cuộc sống của nhân dân Nga; cuốn sách kể về tâm hồn nặng trĩu không chỉ của dân tộc Nga mà của các dân tộc nói chung. Anh xem, tôi có phải là người Nga đâu, tôi là người Armenia, sinh trưởng và sống khác xa cuộc sống Nga, vậy mà những gì anh miêu tả rất giống cuộc sống của dân tộc tôi. Anh hãy tin rằng nhà văn Pháp, nhà văn Anh, hay nhà văn ở bất kì nước nào, xuất thân từ nhân dân hoặc hiểu biết cuộc sống của dân tộc mình, cũng sẽ nói với anh những điều như vậy.”[6] Nhà cách mạng Đức Rosa Luxemburg[7] trong bài luận văn Tinh thần văn học Nga có bàn tới tác phẩm tự thuật của M. Gorky như sau: “Chú bé kêu gào như một con sói con bị truy bức, nhe nanh vuốt sắc nhọn trước số mệnh. Cái tuổi thơ ấu đầy khốn quẫn, đau khổ, nhục nhã, hoài nghi, lưu lạc, gần gũi với những cặn bã của xã hội ấy bao hàm tất cả những đặc trưng có tính chất điển hình trong cuộc sống của giai cấp vô sản nước Nga đương thời. Phải đọc hồi kí của Gorky mới có thể lường được quá trình phát triển kinh khủng của ông – từ dưới đáy của xã hội vươn đến đỉnh cao của thế giới quan khoa học, của nghệ thuật thiên tài và của sự tu dưỡng văn hóa. Vận mệnh cá nhân của Gorky tượng trưng cho giai cấp vô sản Nga – giai cấp nhìn bề ngoài thì thiếu văn hóa, thô bạo, dưới thời Nga hoàng đã trải qua những thử thách của cuộc đấu tranh tàn khốc và trong một thời gian ngắn ngủi đến kinh người, trong vòng hai mươi năm, trở thành lực lượng tích cực của lịch sử.”[8] Đối với Gorky, cuộc sống và số phận ông cũng là cuộc sống và số phận của nhân dân ông; những điều khủng khiếp xảy ra xung quanh ông có ghê gớm đến thế nào đi chăng nữa cũng không thể làm ông mất lòng tin vào cuộc sống. Ông vẫn nhìn thấy trong cuộc sống những mầm non tốt đẹp của tương lai và vạch ra con đường của quá trình phát triển lịch sử sau này. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa tác phẩm tự thuật của Gorky và các tác phẩm tự thuật cổ điển khác. Trên cơ sở tài liệu tự thuật, Gorky đề ra một trong những vấn đề quan trọng nhất của hiện thực xã hội chủ nghĩa – vấn đề hình thành tính cách con người tiêu biểu cho những mói quan hệ mới – mà sau này nhiều nhà văn khác kế thừa. Có thể nói tác phẩm tự thuật của Gorky là một tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa cổ điển đặc sắc, bởi vì Gorky đã cương quyết vạch trần chủ nghĩa tư bản theo lập trường quan điểm của Đảng, đồng thời cũng khẳng định tương lai vĩ đại của dân tộc Nga. Các nhà nghiên cứu và phê bình văn học nhiều lần nhận định rằng, chỉ xét riêng các chi tiết miêu tả một cách tế nhị, tinh vi tâm hồn, đặc điểm tâm lí, nghệ thuật thể hiện nội tâm, tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky có thể sánh ngang với các tác phẩm ưu tú của nền văn học thế giới. Tuy nhiên, điểm nổi bật trong sáng tác của Gorky là quá trình hình thành tư tưởng cách mạng, quá trình con người nhận thức xã hội. Đó chính là cái sáng tạo mà Gorky đã đóng góp vào truyền thống văn học vẻ vang của quá khứ, và chính điều đó đã xác định giá trị tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky với sự phát triển của nền văn học Xô viết và thế giới. Trần Khuyến Mời các bạn đón đọc Kiếm Sống của tác giả Maxim Gorky.
Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới
Được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1898, “Chiến tranh giữa các thế giới” (tên gốc: “War of the Worlds”) là một lời dự báo u buồn cho tương lai của nhân loại. Chiến tranh giữa các thế giới là một trong những cuốn sách thuộc giai đoạn đầu sự nghiệp của H.G.Wells, minh chứng rõ nhất cho những xu hướng sáng tác ấy. Cuốn sách tường thuật lại sự kiện người sao Hoả đổ bộ lên Trái đất và cuộc xâm lăng kéo dài gần một tháng trời sau đó. Làng mạc bị thiêu rụi, con người bị thảm sát bởi Tia Nhiệt bắn ra từ những con tàu và những cuộn khói độc màu đen kịt, Luân Đôn bị xoá sổ, những người sống sót bỏ chạy trong kinh hoàng… Nhân chứng của tất cả chuỗi sự kiện ấy là một người Trái đất nhỏ bé. Anh ta buộc phải lao vào một cuộc đào thoát điên cuồng, để rồi tự hoài nghi “Có lẽ tương lai nằm trong tay họ, chứ không phải chúng ta”. 117 năm là khoảng thời gian đủ dài để chứng minh tính “vượt thời gian” của Chiến tranh giữa các thế giới. Việc cuốn sách được xuất bản từ thế kỉ 19 không hề ngăn cản việc nó đã dự báo trước, không phải thảm hoạ, mà là góc nhìn của những con người ở thế kỉ này – vốn dĩ sống cách xa nó đến hơn 100 năm có lẻ. Loài người càng tiến thêm được những bước sâu hơn, xa hơn vào vũ trụ thì mối nghi ngờ của họ, dự cảm của họ, thậm chí cả sự tự ti của họ đối với một điều bất trắc vô hình cũng vì thế mà không ngừng tăng lên. Trong cuốn sách của mình, ông mô tả cỗ máy của bọn xâm lăng là những khối máy móc khổng lồ với chùm Tia Nhiệt có khả năng thiêu đốt mọi thứ chỉ bằng một tia sáng. Quân đội đã tiêu diệt được một trong số những cỗ máy ấy, nhưng hoàn toàn nhờ vào may mắn. Những cỗ máy giết người ấy vẫn là kẻ chiến thắng sau cùng trong mỗi trận chiến, và loài người trở thành kẻ trốn chạy trên chính đất đai quê hương mình. Một tấm gương vỡ mãi mãi không thể là một tấm gương lành, giống như hoà bình sau chiến tranh không bao giờ là hoà bình trước cuộc chiến ấy. Trong Chiến tranh giữa các thế giới, người ta vẫn tiếp tục sống, và làm những việc người ta vẫn thường làm, nhưng trong thẳm sâu suy nghĩ, mỗi người trong số họ đều biết rằng họ đã cách xa mãi mãi những tháng ngày yên bình trong quá khứ. Thế giới ấy đã mất đi vĩnh viễn, không thể vãn hồi. Cùng với sự mất mát ấy, con người biết rằng giờ đây họ mãi mãi không còn an toàn, nhỏ bé và dễ bị tấn công giữa vũ trụ bao la này. *** Herbert George Wells (21/09/1866 - 13/08/1946), thường được biết đến với cái tên H. G. Wells, là một nhà văn người Anh nổi tiếng với những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng như Kẻ Vượt Thời Gian, Người Vô Hình, Đảo Bác Sỹ Moreau, Xứ Sở Của Người Mù, Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới, Tiên phong lên mặt trăng.... Ông là một nhà văn của nhiều thể loại truyện, tiểu thuyết, bao gồm cả viễn tưởng, phi viễn tưởng hay các bài bình luận về lịch sử và xã hội. Wells cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội, các tác phẩm của ông sau này thường nặng tính chính trị và giáo điều. Chỉ có những tác phẩm tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của ông là vẫn còn rất được ưu chuộng hiện nay. Wells và Jules Verne thường được coi "cha đẻ của khoa học viễn tưởng". Công việc: Tiểu thuyết gia, Giáo viên, nhà sử học, nhà báo. Wells có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau, trong số đó 5 tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đều là truyện Sci Fi, mỗi cuốn đều tạo ra một dòng văn riêng biệt cho thể loại độc đáo này Wells sống rất đào hoa. Ông trải qua hai đời vợ (1 trong số đó là chị họ mình) và trong quãng đời kết hôn ông vẫn thường xuyên qua lại với nhiều phụ nữ khác. Một số người còn trở thành cảm hứng cho ông viết sách Wells có bút lực hiếm ai bì kịp, bốn năm liền cho xuất bản bốn cuốn bestsellers, và có thể viết 3 cuốn tiểu thuyết hay mỗi năm. Trong một cuốn sách phi hư cấu của mình H. G. Wells dự đoán rất chính xác sự phát triển của các khu thành thị, kinh tế toàn cầu hoá và các cuộc xung đột vũ trang nổ ra trên toàn cầu. Năm 1938, cuốn Chiến tranh giữa các thế giới của H. G. Wells được phát sóng trên radio, gây nổ ra cả một cuộc hoảng loạn vì mọi người tưởng người Sao Hoả đang xâm lăng thật. Lời cuối cùng Wells nói trước khi mất là: "Đi chỗ khác. Ta có sao đâu." Một số tác phẩm của H. G. Wells được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Kẻ Vượt Thời Gian - Herbert George Wells Người Vô Hình - Herbert George Wells Đảo Bác Sỹ Moreau - Herbert George Wells Xứ Sở của Người Mù - Herbert George Wells Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới,  Tiên phong lên mặt trăng .... Mời các bạn đón đọc Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới của tác giả H. G. Wells.
Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ - Higashino Keigo
Tác phẩm kỉ niệm 30 năm cầm bút của Bậc thầy trinh thám số 1 Nhật Bản. Đồng thời được vinh danh trong top 10 sách văn học bán chạy nhất năm 2015 và 2016 theo thống kê từ NIPPAN. Nhà văn Keigo Higashino trở lại với một tác phẩm về tâm lý xã hội và y học đầy trăn trở và suy tư. Vẫn còn đó sự tò mò và hồi hộp nhưng lại thêm vào  những diễn biến tâm lý xã hội sâu sắc về ranh giới giữa sự sống và cái chết. Xoay quanh câu chuyện về một cặp vợ chồng dự định sẽ ly hôn sau khi cô con gái Mizuko vào cấp một.Nhưng tin dữ ập đến, một tai nạn bất ngờ không may ập đến với cô bé ở bể bơi. Nhưng sự thật còn đau đớn hơn gấp bội khi đứa con gái duy nhất của họ đã chết não nhưng trái tim vẫn còn đập bởi một sức mạnh kì lạ. Chính vào giây phút dấu hiệu của sự sống đang lụi tàn dần, cha mẹ cô bé phải tiếp nhận một sự thật tàn khốc: có nên hiến tạng của cô bé hay không? Trái tim cô bé vẫn còn đang đập và những ràng buộc riêng trên mặt luật pháp đã không cho vị bác sĩ nào dám khẳng định cô bé đã tử vong. Họ buộc lựa chọn tiếp tục chăm sóc đứa con gái đã rơi vào trạng thái thực vật hay buông tay, chấp nhận hiến tạng đứa con gái yêu duy nhất? Tất cả tạo nên một chuỗi những âu lo với bố mẹ cô bé :“Vậy kẻ hại chết con gái tôi sẽ là tôi sao? Không chỉ là những trăn trở về mặt pháp luật mà còn nhen nhóm hi vọng mong manh rằng chỉ cần trái tim còn đập thì một ngày kia cô bé sẽ dần lấy lại ý thức?. “Liệu cố gắng níu giữ sự “sự tồn tại” của một người đã chết có ý nghĩa gì? Hay đây chỉ là sự ích kỷ của bản thân họ khi từ chối hiến tạng con gái mình?. Điều này đã khiến người mẹ đã có những ý nghĩ không thấu đáo nhất thời nhưng cuối cùng... Nhà văn Keigo đã khéo léo gợi nhắc một khía cạnh nhức nhối không chỉ tồn tại trong xã hội Nhật Bản mà còn có giá trị hiện thực ở nhiều nơi trên thế giới về vấn đề hiến tạng. Cuốn sách còn giống như một lời gợi nhắc về tình cảm gia đình, về tấm lòng của những người làm cha làm mẹ dành cho những đứa con của mình. Gia đình là nơi không ngừng yêu thương và không bao giờ nói bỏ cuộc. Rõ ràng chỉ có yêu thương mới khiến người ta trăn trở đến thế, muốn cố gắng hết sức để cứu con gái yêu duy nhất. Giống như người cá vậy, cô bé Mizuko có một trái tim thật đẹp, những nhịp đập yếu ớt vẫn muốn gửi gắm đến cha mẹ tình yêu chưa một lần nói ra. Một lần nữa nhà văn Keigo Higashino lại khiến người đọc trăn trở trong từng câu văn, từng hình ảnh, từng cung bậc cảm xúc và để lại trong lòng độc giả câu hỏi day dứt “Nếu bạn ở trong hoàn cảnh ấy, liệu bạn sẽ lựa chọn ra sao?” và có lẽ đáp án lại tùy thuộc vào cách nghĩ của mỗi người. *** Higashino Keigo, sinh năm 1958 tại Osaka, là nhà văn trinh thám hàng đầu hiện nay tại Nhật Bản. Năm 1985, Higashino Keigo giành được giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Giờ tan học. Các năm sau đó, Higashino Keigo liên tục được đề cử vô số giải thưởng văn học lớn. Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan Inói chuyện với tiểu thuyết Bí mật của Naoko, và năm 2006, là giải Naoki lần 134 cho Phía sau nghi can X. Năm 2012 tiểu thuyết Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya giành giải thưởng Chuokoron lần thứ 7. Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya đã bán được hơn một triệu bản ở Nhật, hơn một,sáu triệu bản tại Trung Quốc, được dựng thành kịch hai lần vào năm 2013 và 2016. Một số tác phẩm của Higashino Keigo đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam:  Phía Sau Nghi Can X - Higashino Keigo Bạch Dạ Hành - Higashino Keigo Bí mật của Naoko - Higashino Keigo Thánh Giá Rỗng - Higashino Keigo Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ ... Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ của tác giả Higashino Keigo.
Lớp Học Cuối Cùng - Mitch Albom
Có những khoảnh khắc bất ngờ, những sự việc ngẫu nhiên lại có ảnh hưởng sâu sắc, làm đảo lộn cả nếp sống và thay đổi những sắp đặt của đời người. “Lớp học cuối cùng” ra đời từ cái khoảnh khắc tình cờ ấy, nói cho đúng ra, đó là sự tiếp nối của lớp học đầu tiên thời sinh viên: Gần hai thập kỷ trước, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, Mitch Albom từng là học trò cưng của tiến sĩ xã hội học Morrie Schuwartz, một giáo sư giàu uy tín và kinh nghiệm giảng dạy, một người bạn lớn, nhiệt tình và có sức thu hút đối với sinh viên, được họ trìu mến đặt cho biệt danh “Coach” - Huấn luyện viên. Mối quan hệ thầy trò khắng khít tưởng chừng thâm giao ấy bỗng dưng bị gián đoạn sau lễ tốt nghiệp của Mitch, bởi chàng trai trẻ ấp ủ quá nhiều dự định đã lao ngay vào guồng quay hối hả của xã hội ngõ hầu chạy đua với thời gian trên con đường tự khẳng định mình, và lời hẹn với thầy ngày tốt nghiệp đã nhanh chóng rơi vào lãng quên, như anh tự bạch: “Tôi đã đánh đổi nhiều giấc mơ thời thanh niên để nhận lại hàng đống tiền”! Cho đến cái khoảnh khắc tình cờ nọ... Đó là cái tích tắc nhà báo thời danh Mitch Albom tiện tay bật TV, và tiết mục truyền hình "Câu chuyện hàng đêm” đã khiến anh rúng động toàn thân khi gặp lại người thầy cũ: Chàng “thanh niên râu” linh hoạt và vui nhộn, người tưởng chừng không có tuổi, người từng sáng chói trên sàn nhảy tự do năm xưa với vũ điệu độc đáo của riêng mình, giờ đây đã trở thành một ông lão tàn phế bị cột chặt trên xe lăn với bản án tử hình đã được phán quyết - Căn bệnh nan y ALS, đang phá hủy hệ thần kinh, đẩy ông dần đến cái chết. Trong những ngày tháng cuối cùng trên giường bệnh, thay vì bất lực nhìn tử thần cứ dần dà gậm nhấm từng mẩu thân thể của mình, thầy Morrie đã trăn trở tự vấn: “Ta cứ héo hắt biến mất khỏi thế gian này hay cố gắng biến quãng đời còn lại thành thời gian đẹp nhất của cuộc sống” để rồi đi đến một quyết định quan trọng, rằng “Thầy sẽ biến mình thành quyển sách giáo khoa sống để người khác đọc”, rằng “Thầy muốn bước qua cây cầu cuối cùng nối giữa sự sống và cái chết. Đi qua và thuật lại cho hậu thế”. Và thế là buổi tái ngộ sau nhiều năm xa cách trở thành buổi đầu tiên của khóa học cuối cùng - một thầy một trò - ngay bên giường bệnh. Hầu như toàn bộ những vấn đề có ý nghĩa nhất của cuộc sống đã được đặt ra trong 13 tuần ngắn ngủi ấy: tình yêu, công việc, gia đình, cộng đồng, cái chết... không có giáo trình hay tài liệu tham khảo, chỉ là những lời tâm tình, gợi ý và chiêm nghiệm, là sự chứng kiến của học trò trước cái cách ung dung và dũng cảm đương đầu với bệnh tật của người thầy. Không có kì tốt nghiệp, bởi vì đó là ngày vĩnh biệt người thầy. Nhưng còn lại đây “khóa luận” kết thúc lớp học, đó chính là những trang sách bạn đọc sắp thưởng thức, một công trình được sự gợi ý và bàn bạc của thầy Morrie, một “đề án của chúng ta” - như cách ủy thác của vị giáo sư quá cố. Lẫn trong nỗi tiếc nhớ vô hạn, là niềm tự hào không che giấu của Mitch về người thầy của mình: “Có bao giờ bạn thực sự có một người Thầy? Một người trân trọng bạn như viên ngọc quý chưa được mài giũa, một thứ trang sức mà có thể lấy trí tuệ chà cho sáng bóng lên…” Lớp học cuối cùng của thầy Morrie đã kết thúc bởi đời người không thể vượt qua các hữu hạn, nhưng hình ảnh một Người Thầy với tất cả ý nghĩa cao đẹp của nó cùng những bài học về nhân sinh thì vẫn mãi mãi bất tử. *** Mitch Albom là một nhà báo, giữ mục thể thao cho tờ Detroit Free Press. Liên tiếp mười năm, lúc chỉ vào lứa tuổi trên 30, anh chàng  ký  mục  gia  thể  thao  này,  được  Hội  Ký  Giả  Thể  Thao (Associated Press Sports Editors) vinh danh là người ký muc gia thể Thao hay nhất. Thế rồi một ngày nọ, vì một sự đình công, anh đã tạm ngưng viết mục ký Thể Thao, để hoàn thành quyển sách, sau này là quyển sách bán chạy nhất trong năm 1977 - Quyển sách không liên quan gì tới thể thao. Một quyển sách viết về kinh nghiệm cuộc đời của một giáo sư đại học già đang chết dần mòn vì bệnh Lou Gehrig. Một tối nọ, Mitch Albom đang đổi từ  đài này qua đài khác không mục đích, và anh bỗng chú ý tới chương trình "Nightline" của Ted Koppel. Kìa người ta đang nói về ông Thầy yêu quý của anh! Từ lâu khi ra khỏi đại học, anh không còn liên lạc với ông Thầy Xã Hội Học, mà anh rất thân từ thuở bận quần jeans, áo thun, và đầu óc đầy lý tưởng. Giờ đây Mitch Albom là ký mục gia ăn khách, người ta cần anh viết về các trận banh, bóng rỗ, túc cầu, baseball, quần vợt nóng bỏng. Thêm vào đó anh còn làm cho đài radio, xuất hiện trên đài truyền hình, anh bận rộn với các các buổi phỏng vấn về các tay thể thao gia nổi tiếng đương thời. Anh chạy theo từng mùa của thể thao và quên mất ông Thầy yêu quý đã từng có những buổi nói chuyện đời lý thú với.... Sau buổi truyền hình, Mitch Albom gọi điện thoại hỏi thăm người thầy già, rồi bay về lại thành phố đại học cũ để thăm thầy. Và từ đó mỗi ngày thứ Ba cho đến khi Thầy Morrie Schwartz qua đời, hai thầy trò gặp nhau. Một thầy giảng về cuộc đời, và một trò ghi chép bài học và cảm nghĩ đã thay đổi đời sống của anh. Dù Thầy đang chết dần mòn nhưng thế giới thầy đầy tình yêu và hy vọng. "Tình Yêu là sự hiện diện của ta trên cuộc đời, dù rằng thể xác ta đã ra đi (Love is how you stay alive, even after you are gone).  Mitch Albom đã ghi lại kinh nghiệm của một người đang chết dần mòn, nhưng tư tưởng của ông vẫn còn mãi mãi. Đó là quyển "Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie" (Tuesdays with Morrie) của Mitch Albom. Một số tác phẩm của Mitch Albom được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Năm Người gặp trên thiên đường - Mitch Albom Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie - Mitch Albom Lớp Học Cuối Cùng ... Mời các bạn đón đọc Lớp Học Cuối Cùng của tác giả Mitch Albom.