Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Mật Của Nước (Masaru Emoto)

GIỚI THIỆU

Khởi nguồn từ bộ sưu tập các bức ảnh chụp tinh thể nước của tôi trong Thông điệp của nước (Messages from water [Mizu kara no dengen] - Vibration Kyoikusha, 1999), tôi đã dần nhận ra rằng những cuốn sách về nước này có một sức mạnh kỳ lạ và phi thường. Tự chúng đã có khả năng bay cao và vươn xa khỏi những biên giới quen thuộc của tôi tới những vùng đất xa xôi, nơi chúng có ảnh hưởng vô cùng to lớn. Chúng buộc mọi người phải nhìn mọi vật theo một cách khác và tôi thường được mời tới nói chuyện với những người đã từng được cuốn sách lay động.

Đôi khi tôi cảm thấy như mình đang được linh hồn của nước dẫn dắt. Tôi cảm thấy như mình có thể thấy và thậm chí nói chuyện được với linh hồn đó, linh hồn mà tôi được chiêm ngưỡng dưới dạng những hạt sáng long lanh trong không khí. Những hạt nhỏ này tụ lại với nhau để hình thành nên mây, rồi tan biến cũng nhanh chóng như thế, tất cả đều khiến tôi cảm thấy thật thư giãn.

Mặc dù giờ đây tôi cảm thấy như mình được linh hồn của nước dẫn dắt, lần tiếp xúc đầu tiên của tôi với nước lại chẳng dễ chịu chút nào. Ở thành phố Yokohama, Nhật Bản - nơi tôi lớn lên, gia đình tôi sống trên một bình nguyên gần biển. Nơi đó chỉ cách mép nước một đoạn đi bộ ngắn xuống một con dốc. Khi thủy triều rút, bờ biển nông phơi mình đến hàng dặm, để lại một bãi săn tuyệt vời đủ các loại trai sò. Nhưng khi thủy triều lên cao, cảnh tượng lại hoàn toàn khác.

Chắc có lẽ tôi được tầm sáu hay bảy tuổi gì đó khi một ngày nọ, biển cả nuốt chửng tôi. Hôm đó, tôi đi bơi cùng cậu bạn hàng xóm hơn tôi hai tuổi. Tìm mua: Bí Mật Của Nước TiKi Lazada Shopee

Chúng tôi đã ra xa hơn mức an toàn, rồi đột nhiên tôi bắt đầu trồi lên ngụp xuống, khao khát có không khí để hít thở. Đó là lần đầu tiên tôi trải qua một chuyện như thế. Tôi chỉ cách bờ có 10 mét, nhưng chân tôi không chạm tới đáy. Tôi hoảng sợ và bắt đầu vẫy tay, đạp chân. Nhưng càng hoảng loạn, tôi càng chìm và chẳng mấy chốc tôi bắt đầu uống nước. Tôi nghĩ có lẽ đoạn kết của cuộc đời mình sắp tới rồi, nhưng một con thuyền nhỏ tới và kéo tôi khỏi mặt nước.

Khi tôi về tới nhà và kể với mẹ chuyện xảy ra, bà cho tôi một lời khuyên dựa trên khả năng bơi và sự am hiểu của bà về nước. “Chỉ cần thả lỏng cơ thể là con sẽ có thể nổi,” bà nói. Bà bảo rằng nếu tôi để nước nâng tôi lên thay vì cố gắng chống lại nó, nó sẽ nhấc tôi lên và mang tôi đi.

Tôi luôn mang bên mình những lời nói này suốt nhiều năm tháng.

Từ lúc đó, tôi luôn cố gắng buông mình theo dòng nước trong khi nhẹ nhàng di chuyển theo hướng mà tôi muốn cuộc đời dẫn tôi đi.

Giờ đây, bất cứ khi nào tôi đi bơi ở biển hay trong bể bơi, tôi thích nằm ngửa và để vòng tay của nước bế ẵm mình. Và hơn bất cứ lúc nào khác, đó chính là những khoảnh khắc tôi cảm nhận rõ rệt nhất sự hiện diện linh hồn của nước dưới dạng các hạt li ti lấp lánh.

Tôi thấy khá tự tin khi nói rằng lý do mà tôi có ý tưởng làm đóng băng nước và chụp lại những bức ảnh tinh thể là do tôi mong muốn được trôi theo dòng chảy của cuộc đời. Linh hồn của nước đã cứu rỗi tôi, hướng dẫn tôi sống cuộc đời mà tôi đang sống. Linh hồn đó đã dẫn dắt và chỉ dẫn cho tôi qua bao năm tháng, dạy cho tôi nhiều điều cần biết, đỉnh cao là sự ra đời của cuốn Thông điệp của nước (The hidden meassages in water).

Không lâu sau khi cuốn sách được xuất bản, bạn đọc bắt đầu gửi thư cảm ơn cho tôi. Những ngôn từ đẹp đẽ của họ đã giúp tạo ra một dòng chảy tuyệt vời để tôi buông mình theo. Hầu hết các bức thư đều thể hiện sự đề cao và cả sự kinh ngạc khi được nhìn thấy chân lý của tự nhiên hiển hiện qua các tinh thể nước.

Một người phụ nữ đã viết: “Trong tất cả những cuốn sách tôi từng đọc trong đời mình, đây là cuốn tuyệt vời nhất. Cám ơn ông rất nhiều vì cuốn sách này. Tôi sẽ trân trọng nó trong suốt phần đời còn lại của mình.”

Một bức thư khác thì viết: “Thấy sự thật được hé lộ một cách trực quan như vậy thật đáng ngạc nhiên, sửng sốt và đầy thuyết phục.

Cuốn sách này khiến tôi nhận ra rằng những ảnh hưởng do các bài giảng, lời cầu nguyện và tôn giáo cổ xưa không chỉ là những điều mê tín và ngẫu nhiên mà là kết quả dựa trên sự thật về vũ trụ.”

Và một lá thư khác: “Người cha 76 tuổi nói với tôi ‘Trong tất cả những cuốn sách mà mọi người giới thiệu cho cha, đây là cuốn duy nhất cha thấy mừng vì đã đọc.’ Cám ơn ông vì cuốn sách đã thay đổi cách nhìn nhận cuộc sống của tôi.”

Thực ra, nếu chúng ta chiết suất năng lượng từ tất cả những lời nhắn nhủ này và tạo thành một tinh thể, tôi chắc chắn là nó sẽ rất đẹp.

Đây là công trình về các tinh thể nước. Tôi phát hiện ra rằng những người bị vẻ đẹp của những tinh thể này cuốn hút sẽ trở nên gắn kết và rồi cộng hưởng với nhau. Giống như khi một chiếc lá rơi xuống mặt nước, một làn sóng lặng lẽ và êm ái nhưng chắc chắn sẽ lan ra như kết quả của việc cuộc đời bí ẩn của nước đang được tiết lộ cho toàn nhân loại.

Trên khắp thế giới, phản ứng của tất cả mọi người đều giống nhau. Tôi đã gặp gỡ nhiều người đến từ Đức, Thụy Sĩ, Áo, Hà Lan, Anh, Pháp, Ý, Mỹ, Canada, Costa Rica, Uruguay, Ecuador, Brazil, Úc, Hàn Quốc, Philippines và Đài Loan - những nơi tôi tới giảng bài.

Tháng Sáu năm 2002, tôi được Giáo hội chính thống Hy Lạp mời tới dự một chuyến hội thảo du hành xa hoa trên biển Adriatic (1) cùng với những lãnh đạo tâm linh và các nhà khoa học trên khắp thế giới. Các buổi hội thảo chuyên đề được tổ chức ở Hy Lạp, Albani, Montenegro, Slovenia, Croatia, Ý và những bến đỗ khác. Với tên gọi Hội thảo chuyên đề quốc tế về Tôn giáo, Khoa học và Môi trường, đây là lần thứ tư sự kiện được tổ chức. Tôi đã được mời trước ba tháng bởi một trong những nhà tổ chức hội nghị, một phụ nữ Hy Lạp - người đã được con gái cho xem bộ sưu tập những bức ảnh tinh thể. Cảm xúc của mỗi người khi nhìn thấy các bức ảnh tinh thể chạm tới phần sâu thẳm của từng cá nhân và tạo nên một dòng kinh ngạc chảy từ người này qua người khác để rồi giờ đây trở thành một dòng sông tuôn trào.

Còn một cách khác để thể hiện phản ứng với những cuốn sách về các tinh thể nước. Giống như thể các tinh thể nước đã mang lại nguồn dinh dưỡng cho những tâm hồn khô cạn của những người phải sống trong điều kiện khắc nghiệt của xã hội hiện đại. Chúng đã bổ sung thêm vào sự rạng ngời của cuộc sống cho mỗi cá nhân và cả xã hội. Hơn tất thảy, những tấm ảnh đã thành công trong việc khởi đầu một phong trào rộng lớn đang diễn ra giữa con người trên khắp thế giới.

Hoạt động sống là hoạt động trôi chảy. Nếu một con đập được xây dựng trên một dòng sông để chặn dòng chảy của nó lại, con sông sẽ chết. Cũng giống như vậy, nếu sự lưu thông của máu bị ngăn lại ở đâu đó trong cơ thể chúng ta, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ chấm dứt sự sống của mình.

Điều tương tự cũng đúng cho các thành phố và các quốc gia. Gần đây, tôi đã may mắn có được cơ hội thuyết giảng cho đông đảo khán giả ở Berlin. Bạn biết đấy, Berlin là thành phố từng bị chia cắt bởi một bức tường. Tôi nói với khán giả của mình rằng cũng giống như nước luôn luôn nên được tự do chảy, một thành phố hay một quốc gia chẳng có lý gì để bị chia cắt cả. Sự phân tách Berlin vào năm 1961 đã kéo theo biết bao điều khổ sở, gia đình ly tán và cả những ước mơ cũng bị gián đoạn.

Rồi, 28 năm sau, bức tường bị phá sập và cũng giống như nước luôn tự do tuôn chảy, hàng triệu người bắt đầu đến và đi theo ý chí tự do của riêng họ. Con người đã mô phỏng lại dòng chảy của nước - một quy luật của tự nhiên. Và lý do là phần lớn con người là nước.

Khoảng 70% cơ thể chúng ta là nước. Điều này cũng đúng cho những cá thể trưởng thành của phần lớn các giống loài và đó là lý do vì sao con người không nên bị chia cắt bởi những chiến lược và ý thức hệ chính trị. Cũng giống hệt như nước, con người lúc nào cũng cần được tự do tuôn chảy.

Khi kết thúc bài nói chuyện của mình, tôi nhận thấy rằng sự thay đổi đã bao trùm lên cả hội trường. Như thể có một cảm xúc đã lan ra toàn thể chúng tôi. Cả một làn sóng người đứng dậy và bắt đầu vỗ tay.

Thông điệp của tôi đã chạm tới tâm hồn họ và kết quả là một làn sóng cảm xúc tỏa ra cả hội trường, tạo nên một làn sóng sẽ mãi lớn lên và lan rộng tới những người khác nữa.

Khát vọng hòa bình và những lời nguyện cầu cho tình yêu không thể bị giam hãm trong những ranh giới. Khác biệt về màu da hay ngôn ngữ đều có thể dễ dàng vượt qua khi những trái tim hòa điệu với nhau, tạo nên một làn sóng tuôn chảy.

Một cuộc phiêu lưu nhỏ bắt đầu với một tinh thể nước li ti đã lan tới mọi người trên khắp thế giới, tạo nên một phong trào ngày càng lớn mạnh. Những tinh thể nước đã hòa quyện với điều gì đó tinh khiết và thiêng liêng sâu thẳm bên trong tâm hồn của những người đã xem các bức ảnh. Những trái tim đã rộng mở và tình yêu, lòng biết ơn cùng một hy vọng về hòa bình đã trào dâng, mở ra con đường cho một cuộc phiêu lưu mới.

Qua cuốn sách này và qua những tấm ảnh tinh thể, tôi hy vọng sẽ truyền tải được sức mạnh của lời cầu nguyện.

Khi nước được tiếp xúc với một số cách biểu hiện nhất định - “Bạn thật dễ thương,” “Bạn thật xinh đẹp,” “Tình yêu và lòng biết ơn” - một tinh thể tuyệt đẹp sẽ hình thành khi nước được đóng băng.

Điều này thực sự có ý nghĩa gì với chúng ta? Những ý nghĩ trong trái tim chúng ta có tác động tới tất cả sự sống và trong quá trình hình thành thế giới ngày mai của chúng ta.

Tâm hồn con người có một sức mạnh phi thường. Chúng ta thường nghe nói rằng hành động là kết quả cho những suy nghĩ của chúng ta và nguyên tắc đó được minh chứng rõ nét qua cách nước hình thành các tinh thể theo những ảnh hưởng mà nó vừa được tiếp xúc.

Nhưng khả năng ảnh hưởng lên hành động bằng suy nghĩ là con dao hai lưỡi. Nếu con người khao khát được thấy sự hủy diệt của thế giới, vậy thì đó là điều sẽ xảy đến.

Có rất nhiều điều đã xảy ra trong thế giới này kể từ khi con người bắt đầu biết tới các tinh thể nước. Những tòa nhà khổng lồ - biểu tượng của văn minh và thịnh vượng - đã sụp đổ ngay trước mắt chúng ta. Những cuộc chiến tranh mới đã nổ ra. Chúng ta đã thấy nỗi buồn sinh ra sự giận dữ và giận dữ lại tạo ra nhiều nỗi buồn hơn, tạo thành một vòng tròn bao trọn lấy thế giới xung quanh chúng ta. Có người khóc, có người cúi đầu tuyệt vọng và có người ngẩng lên cầu nguyện. Chúng ta phải dùng chính sức mạnh bên trong mình để giữ những suy nghĩ của chúng ta tập trung vào những điều tốt đẹp xung quanh thay vì vào những thế lực mang tính hủy diệt.

Chúng ta đang ở vào một thời điểm trong lịch sử nhân loại mà hơn bao giờ hết, chúng ta cần khám phá lại một vài chân lý quan trọng mà bằng cách nào đó ta đã quên. Thực tế, đây có thể là cơ hội cuối cùng của chúng ta. Và đây là bài học mà tôi cảm thấy rằng các tinh thể nước đang cố truyền đạt lại cho chúng ta.

Nghiên cứu về các tinh thể của tôi bắt đầu với khát vọng muốn được bước dù chỉ một bước thật nhỏ bé để thấu hiểu về vũ trụ, nhưng giờ đây điều đó đã dẫn tới cuộc cách mạng của một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn đối với tôi.

Tôi đã được thấy ảnh hưởng của những nụ cười rạng ngời của mọi người trên khắp thế giới và những cách thể hiện cảm xúc khác lên quá trình hình thành những tinh thể xinh đẹp. Nhưng có thể bạn sẽ hỏi, liệu hòa bình thế giới có thể đến từ những tinh thể nước giản dị không? Mong muốn của tôi là được bước bước đầu tiên về hướng đó, rồi một bước nữa và một bước nữa, cứ thế, cứ thế về phía kết cục đó.

Khi tôi tiếp tục cuộc trò chuyện của mình với nước, các tinh thể tiếp tục dạy tôi rất nhiều bài học: tầm quan trọng của việc sống hài hòa với giai điệu của cuộc sống và dòng chảy của tự nhiên, để lại một địa cầu xinh đẹp cho các thế hệ tương lai; tình yêu và lời cầu nguyện.

Tất cả những thông điệp này đều được nhắc đến trong cuốn sách này.

Tôi sẽ chẳng thể hạnh phúc hơn nếu biết rằng cuốn sách sẽ tạo ra một tác động tích cực đến tất cả những người cầm nó trên tay.

Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn của mình tới Nhà xuất bản Beyond Words Publishing vì đã xuất bản cuốn Thông điệp của nước (The hidden messages in water) và Sức mạnh thực sự của nước (True power of water), cùng tất cả những người đã giúp đỡ tôi theo rất nhiều cách khác nhau cả những nhân viên của tôi ở IHM - những người đã phải chịu đựng rất nhiều giờ trong phòng làm lạnh để chụp hình các tinh thể.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bí Mật Của Nước PDF của tác giả Masaru Emoto nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Thiền Và Giải Thoát (Tinh Vân)
LỜI CỦA NHÀ XUẤT BẢN ∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞ Nói đến thiền là nói đến sự giác ngộ giải thoát. Thiền là tiếng Phạn nói đủ là Thiền na, Trung Hoa dịch là tư duy, Tham thiền, Thiền định, thoạt tiên cũng để chỉ một thao tác dễ thấy của các Thiền sư khi tu tập với nghĩa đơn giản là ngồi tĩnh tâm. Nếu vậy, ngồi tĩnh tâm dễ bị nhầm lẫn vì đạo sĩ yoga hay các đạo sĩ tu hành của nhiều tôn giáo cũng ngồi tĩnh tâm. Khác nhau ở chỗ là các môn đồ của các tôn giáo ngồi tĩnh tâm để hướng tới một đấng siêu nhiên, còn các Thiền sư tĩnh tâm để gạt bỏ tạp niệm, rũ sạch tham sân si an nhiên tự tại vượt ngoài tam giới, thoát khỏi sinh lão bệnh tử trong kiếp luân hồi. Chỉ khi Đạo Phật phát triển thì Thiền (Phật giáo) mới được hiểu với nghĩa sâu rộng như hiện nay và hành thiền không chỉ là ngồi một chỗ mà có thể hành Thiền mọi lúc mọi nơi.. Thiền và giải thoát là cuốn sách giải đáp Thiền của Phật giáo là gì, ý nghĩa của hành Thiền và làm sao để hành Thiền, một cách căn bản và phổ cập, nhưng việc cốt lõi của Thiền là sáu căn không vướng sáu trần. Tìm mua: Thiền Và Giải Thoát TiKi Lazada Shopee Hiểu được và làm được thì đạt tới giác ngộ, còn hiểu được và làm được một phần thôi cũng đã lợi lạc nhiều rồi vì ta đang sống trong một cuộc sống thị trường sôi động, phải vật lộn vì cuộc mưu sinh... Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI Lời đầu sách ∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞ Xã hội ngày càng phát triển, con người phải vật lộn với cuộc sống, với rất nhiều thứ lo toan bề bộn. Nhu cầu vật chất sống càng cao, tinh thần càng mệt mỏi nhưng không vì thế mà con người chịu buông bỏ, ngược lại còn muốn được nhiều hơn thế nữa, đến phút cuối của cuộc đời lẽ ra phải hỏi mình sẽ về đâu? Nhưng họ đều không nghĩ vậy, một hơi thở sau cùng họ lại nghĩ rằng làm sao giữ được của cải mà mình đã tạo ra. Cả một đời lao nhọc, không kể những lúc phải tranh giành, chiếm đoạt để rồi ra đi với hai bàn tay trắng, mang theo bên mình là nghiệp báo khổ đau. Đó bởi do lòng tham của con người là quá lớn, một chiếc túi không đáy chứa đầy tiền tài, danh vọng v.v... Đức Phật đã từng dạy hàng đệ tử của Ngài phải biết “Thiểu dục tri túc”. Vì sao Phật dạy như vậy? Chúng ta là những người học và hành trì theo Phật nhưng chúng ta có thật sự biết mình đã “Thiểu dục tri túc” hay chưa? Con người luôn chạy theo danh vọng, khi được một lại muốn được mười và hơn thế nữa. Nhưng việc lớn của đời người là gì? Phải giải quyết ra sao? Mạng sống của con người là bao lâu? Một hơi thở đi ra không vào thì mình sẽ về đâu? Điều này thiết nghĩ chỉ có các vị Thiện hữu tri thức mới nhận ra điều cốt yếu này, và cũng chỉ có quý Ngài mới thực sống được với thể tánh thanh tịnh đó. Còn chúng ta cũng man máng với nào là đời người sinh tử là việc lớn, nào là mạng sống của con người chỉ trong một hơi thở nhưng đó chỉ là câu trả lời dựa trên sách vở, chứ chưa thực nhận ra điều cốt lõi này, bởi nếu đã trực nhận ra thì có một con đường ai cũng phải đi qua, sao bây giờ hành trang còn chưa chuẩn bị? Cho nên ngài Vân Môn có nói: Ở trong hiện tượng siêng bày thân, Chỉ người tự nhận mới là gần. Năm xưa lầm nhắm trên đường kiếm, Nay mới nhìn ra lò lửa băng. Chúng ta có duyên lành được học giáo pháp của Phật, được Thầy Tổ chỉ dạy tận tình, được gần các bậc Thiện hữu tri thức để học hỏi. Vậy, chúng ta cùng nhau cố gắng hoàn thành sở nguyện của mình. Một lần nữa, con xin mượn lời của Hòa thượng Ân sư thượng Nhật hạ Quang đã nhắc nhở cho hành Tăng Ni Phật tử chúng con: “Hãy cố gắng lên, hãy tinh tấn lên, kẻo không còn kịp nữa”. Cho nên quyển sách “THIỀN VÀ GIẢI THOÁT” ra mắt cho những vị độc giả hữu duyên, nhín chút thời gian để mắt xem qua là những lời vàng thước ngọc, và ứng dụng trong cuộc sống đời thường hết khổ an vui. Quyển sách này chúng tôi soạn dịch của các tác giả Pháp sư Huệ Minh và ngài Thánh Nhất cùng Hòa thượng Tinh Vân là những vị cao tăng thạc đức. Với chút tấm lòng của dịch giả muốn góp thêm ngôi nhà Phật học nên không ngại tài sức mọn dịch ra tác phẩm này. Nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả chúng sinh đều trọn thành Phật đạo. Trong quá trình dịch thuật không tránh khỏi những điều sơ sót, kính mong các vị cao minh chỉ điểm và bổ khuyết để dịch phẩm được hoàn chỉnh hơn trong lần tái bản sau. Thiền viện Thường Chiếu Kính ghi Thích Đạt Ma Thuận HùngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thiền Và Giải Thoát PDF của tác giả Tinh Vân nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay (Bùi Văn Chấn)
CÁI NÔI CỦA ĐẠO HỒI: BÁN ĐẢO Ả RẬP TRONG THẾ KỶ 6 VÀ 7. Vị giáo chủ sáng lập đạo Hồi là Muhammad, sinh năm 570 tại thành phố Mecca, thủ đô của xứ Saudi Arabia ngày nay. Sau 23 năm viết sách Thánh Kinh Koran và thuyết giảng về đạo Islam, ông qua đời tại thành phố Medina, cách Mecca khoảng 40 miles về phía Bắc, hưởng thọ 62 tuổi. Cuộc đời của Muhammad đã bắt đầu từ 30 năm cuối thế kỷ 6 và bắt cầu 32 năm sau qua thế kỷ 7. Tất cả những gì ảnh hưởng đến cuộc đời của Muhammad đều in dấu ấn trong thế giới đạo Hồi ngày nay. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử của xã hội Ả Rập trong cả hai thế kỷ 6 và 7. Khác với Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái là một tập truyện, Kinh Thánh Koran gần như một cuốn nhật ký. Đọc Kinh Koran, người ta sẽ thấy rất nhiều nét đặc thù của đời sống du mục Ả Rập, các sinh hoạt thương mại của dân Mecca, các phong tục tập quán và tín ngưỡng cổ truyền của người Ả Rập, các cuộc chiến tranh của đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine, đế quốc Hỏa Giáo Ba Tư v.v… Tìm mua: Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay TiKi Lazada Shopee Tất cả đều được Muhammad phản ảnh trong kinh Koran. Do đó, khi đọc kinh Koran, chúng ta rất dễ dàng kiểm chứng các sự kiện bằng cách đối chiếu với lịch sử. Ngược lại, sự nghiên cứu lịch sử về bối cảnh bán đảo Ả Rập trong thế kỷ 6 và 7 sẽ giúp chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về Muhammad cũng như về đạo Islam. 1. Về địa dư: Bán đảo Ả Rập là một hình chữ nhật chiều dài 1200 miles, rộng 900 miles. Diện tích trên một triệu dặm vuông, lớn bằng 1/3 Hoa Kỳ hoặc bằng 8 lần diện tích Việt Nam. Sở dĩ vùng này được gọi là bán đảo vì nó được bao bọc ba phía bởi biển hoặc đại dương: Đông giáp Vịnh Ba Tư, Nam giáp Ấn Độ Dương và phía Tây giáp Hồng Hải (Biển Đỏ). Phía Bắc của bán đảo này là vùng sa mạc hoang vu chạy dài tới biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi nó là sa mạc Syro-Arabia vì nó ở giữa hai nước Ả Rập và Syria. Đi băng qua sa mạc này bằng đường bộ là một điều nguy hiểm nếu không dự trữ đủ nước uống. Khách lữ hành phải đi những quãng đường rất xa mới gặp được một ốc đảo (oasis). Các ốc đảo trong sa mạc được tạo thành do những hồ nước ngầm ở dưới mặt đất (underground pools). Khí hậu sa mạc rất khô, thường chỉ có mưa vào mùa xuân. Vùng có mưa nhiều nhất là miền cực nam bán đảo Ả Rập, tức nước Yemen ngày nay. 2. Dân cư: Bán đảo Ả Rập ngày nay được chia thành nhiều quốc gia: Nước lớn nhất là Saudi Arabia 757 ngàn dặm vuông, 23 triệu dân. Yemen 203 ngàn dặm vuông, 10 triệu dân. Oman 2.5 triệu dân, Cộng Hòa Ả Rập Emirates 2.3 triệu dân và Quatar 1 triệu dân. Đa số dân Ả Rập là con cháu xa xưa của giống người ở Địa Trung Hải và miền núi Alpes ở Âu Châu. Về phương diện chủng tộc, người Ả Rập được xếp vào chủng tộc da trắng (Whites) như người Âu. Hầu hết người Ả Rập thời xưa sinh sống bằng nghề du mục. Do đó, chính họ đã tự đặt tên cho chủng tộc của mình là Arab có nghĩa là du mục (Arab means Nomad). Người Ả Rập và Do Thái thù ghét nhau là do sự kỳ thị tôn giáo, sự thật Ả Rập và Do Thái đều cùng một chủng tộc. Theo Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái thì sau cơn đại hồng thủy, cả nhân loại chết hết, chỉ còn lại một gia đình của ông Noah sống sót mà thôi. Con trai lớn của ông Noah là Shem trở thành tổ tiên của các giống dân Do Thái và Ả Rập. Do đó, phát sinh danh từ “Semites” để gọi chung Do Thái và Ả Rập. Semites có nghĩa là “con cháu của Shem” (Semites: Descendants of Shem). Mới đây, một số nhà khoa học về nhân chủng đã làm một cuộc thử nghiệm DNA trên nhiều người Do Thái và nhiều người Ả Rập tại Iraq, Arabia, Yemen và Syria. Họ công bố kết quả thử nghiệm đã xác nhận người Do Thái và các giống dân Ả Rập đều cùng chung một mẫu DNA, tức cùng chung một nguồn gốc tổ tiên. Chẳng những vậy, họ đều có chung một nguồn gốc văn hóa từ Babylon. Ngôn ngữ cổ của Babylon là Sumerian, ngôn ngữ cổ Do Thái là Hebrew và ngôn ngữ Arabic đều có nhiều nét tương đồng. Ngôn ngữ của Muhammad và của Kinh Koran là ngôn ngữ Ả Rập (Arabic) hiện là ngôn ngữ chính của 250 triệu người thuộc nhiều quốc gia ở Trung Đông. 3. Chính Trị và Tôn Giáo: Trong thế kỷ 6 và nửa đầu thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông bị chia thành hai miền đặt dưới sự khống chế của hai đế quốc: Đế quốc Ba Tư làm chủ miền đông gồm có Iran, Iraq, Syria và Arabia. Trong thời gian này, đế quốc Ba Tư chọn Hỏa Giáo (Zoroastrianism) làm quốc giáo và chọn Ctesiphon làm thủ đô. Đế quốc Byzantine làm chủ miền tây gồm có Hy Lạp, Do Thái, Palestine, Ai Cập và vùng Địa Trung Hải. Đế quốc Byzantine chọn Ki Tô Giáo làm quốc giáo và chọn Constantinople (nay là Istambul) làm thủ đô. Hai đế quốc Ba Tư và Byzantine đánh nhau liên miên từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 7, ròng rã 500 năm. Từ đầu thế kỷ 4, đế quốc Byzantine đổi tên Ki Tô Giáo thành “Công Giáo”, tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là tôn giáo hoàn vũ (Universal Religion). Rất nhiều người Ả Rập trong vùng kiểm soát của đế quốc Byzantine theo đạo Công Giáo. Tất cả những người này thuộc quyền cai quản của Giáo Hội Syria (Syriac Church). Đến giữa thế kỷ 6, đế quốc Công Giáo Byzantine chinh phục được vua xứ Abyssinia (tức là Ethiopia ngày nay) theo đạo và cho nhiều đoàn truyền giáo xâm nhập Yemen ở cực nam bán đảo Ả Rập. Đế quốc Ba Tư thấy rõ âm mưu của Byzantine nên tìm cách nâng đỡ mọi người Do Thái và những người Ả Rập theo đạo Do Thái nắm chính quyền tại bán đảo Ả Rập. Năm 510 (tức 60 năm trước khi Muhammad sinh ra) với sự yểm trợ của đế quốc Ba Tư, một người Ả Rập theo đạo Do Thái là Yusuf Asai đã thống lãnh các bộ lạc Ả Rập và lên ngôi vua cai trị toàn bán đảo Ả Rập. Đến năm 525, đế quốc Byzantine yểm trợ cho vua Công Giáo xứ Abyssinia đem quân xâm chiếm bán đảo Ả Rập. Vua Yusuf Asai chống cự không nổi phải bỏ chạy, cuối cùng nhà vua nhảy xuống biển tự tử. Từ đó, bán đảo Ả Rập thành thuộc địa của Abyssinia và Ki Tô Giáo thành quốc giáo tại xứ này. Năm 570, người Ả Rập cầu cứu hoàng đế Ba Tư đem quân đánh đuổi quân Ki Tô Giáo Abyssinia. Đế quốc Ba Tư chiến thắng và biến bán đảo Ả Rập thành một tỉnh của đế quốc. Cũng từ đó, Hỏa Giáo của Ba Tư được truyền bá rộng rãi trong dân chúng Ả Rập. 4. Phong Tục Tập Quán: Dù sống cuộc đời du mục ở sa mạc hay chuyên nghề thương mại sinh sống tại thành thị, mọi người Ả Rập đều thích tự xưng là “những người con của sa mạc” (sons of desert). Từ nhiều ngàn năm qua cho đến nay, người Ả Rập vẫn luôn luôn gắn bó với những con lạc đà. Chúng là những cỗ xe lý tưởng đưa họ qua sa mạc và đồng thời cũng là nguồn cung cấp sữa và thịt. Người Ả Rập ít trồng trọt nên họ thường bị thiếu ngũ cốc và bị suy dinh dưỡng. Cuộc sống sa mạc đã tạo ra hoàn cảnh khiến cho các bộ lạc du mục phải luôn luôn gây chiến với nhau để tranh chiếm các giếng nước hiếm hoi hoặc tranh chiếm các thảo nguyên để thả nuôi gia súc. Qua nhiều thế kỷ, cuộc sống du mục đã hình thành nơi các sắc dân Ả Rập những phong tục tập quán đặc biệt: a. Tục trả thù: Để có thể sống còn trong những điều kiện khắt nghiệt của sa mạc, mọi người Ả Rập phải tụ họp lại thành từng nhóm (groups) gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống. Nhiều nhóm liên kết với nhau thành đoàn (clans) hoặc lớn hơn nữa thành bộ lạc (tribes). Mọi cá nhân đều phải gắn bó với quyền lợi chung của bộ lạc. Người Ả Rập gọi tinh thần gắn bó ấy là “muruwah” bao hàm rất nhiều ý nghĩa: phải can đảm trong chiến đấu, phải kiên nhẫn chịu đựng mọi sự đau khổ khi bộ lạc gặp khó khăn, phải cương quyết bảo vệ mọi kẻ yếu trong bộ lạc và phải quyết tâm trả thù những kẻ đã dám xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của bộ lạc. Các tù trưởng có trách nhiệm bảo vệ mọi thành viên trong bộ lạc của mình. Nếu không trừng phạt những kẻ đã xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của thành viên trong bộ lạc mình thì tù trưởng đó sẽ không còn được tín nhiệm nữa. Vì tính liên đới trách nhiệm trong bộ lạc nên trong nhiều trường hợp một người trong bộ lạc này bị giết thì một người trong bộ lạc thù địch phải bị giết để đền mạng. Luật sa mạc là nợ máu phải trả bằng máu. Bán đảo Ả Rập là một sân khấu vĩ đại của những chu kỳ bạo động không bao giờ dứt. Trong những thời kỳ đói kém hay hạn hán, các bộ lạc gặp khó khăn thường chọn một trong những bộ lạc thù địch để tấn công nhằm cướp gia súc, thực phẩm và hàng hóa cần thiết để sống còn. Các đàn ông của bộ lạc địch đều bị giết. Các đàn bà trẻ đẹp bị bắt đưa về làm vợ bé hay đầy tớ. Số còn lại bị đưa đi bán ở chợ nô lệ. Những người Ả Rập du mục không hề coi những vụ cướp của giết người như vậy là điều tội lỗi. Họ quan niệm đó chỉ là những việc làm tự nhiên để trừng phạt kẻ thù một cách hợp lý mà thôi. b. Tục giết các bé gái sơ sinh (Female Infanticide) Luật sa mạc cũng tàn nhẫn như luật rừng: Chỉ có kẻ mạnh sống sót, mọi kẻ yếu phải bị loại trừ! Việc giết các bé gái sơ sinh là một phương cách điều chỉnh dân số của các bộ lạc du mục. Lý do là một khi bộ lạc có quá nhiều con gái và quá ít con trai thì bộ lạc bị lâm vào tình trạng suy yếu. Chỉ có đàn ông con trai mới có thể đáp ứng nhu cầu sống còn của bộ lạc, đó là nhu cầu chiến đấu và nhu cầu lao động sản xuất. Phụ nữ bị coi rẻ nên xã hội du mục không dành cho họ một quyền lợi luật định nào (no legal right). Họ bị coi như một thứ tài sản, hay nói đúng hơn là một động sản (movabal property). Những gia đình nào đã sinh một vài đứa con gái rồi thì những bé gái sinh sau thường bị giết chết không thương tiếc. c. Tục cắt da qui đầu và cắt âm vật Theo tương truyền thì Abraham là người đầu tiên tự cắt da qui đầu của mình và cắt da qui đầu các con trai của ông để tỏ lòng tuân phục Thiên Chúa. Do đó, tục lệ cắt da qui đầu trở thành nghi lễ bắt buộc đối với mọi người theo đạo Do Thái. Tục lệ này thường được gọi là Phép Cắt Bì (Cirumcision). Trước khi có đạo Hồi, đa số người Ả Rập thường tự xưng là tín đồ đạo Abraham, tức Đạo Do Thái Nguyên Thủy. Họ thường cắt da qui đầu cho các bé trai giống như người Do Thái. Ngoài ra, người Ả Rập có tục lệ cắt bỏ một phần hoặc tất cả âm vật, còn được gọi là mồng đóc (Clitoris) của các bé gái từ 4 đến 8 tuổi. Đây là một tục lệ chung của người Ả Rập, không phân biệt tôn giáo. Hiện nay, nhiều người Ả Rập ở Ai Cập, Yemen, Sudan theo Ki Tô Giáo vẫn giữ tục lệ này. Họ tin rằng việc cắt clitoris tuy có gây đau đớn nhưng tránh cho phụ nữ những đòi hỏi sinh lý và giúp họ dễ trở nên thanh sạch cao đẹp hơn. d. Tục chứng minh trinh tiết cô dâu Một tục lệ của người Ả rập gây căng thẳng tinh thần cho các cô gái đến tuổi lấy chồng, đó là tục lệ chứng minh trinh tiết cô dâu (Proof of the bride’s Virginity). Sau đám cưới, mọi người trong gia đình cô dâu và những người khách tham dự tụ họp bên ngoài phòng ngủ cô dâu chú rễ. Sau khi động phòng, chú rễ bước ra khỏi phòng ngủ báo cáo kết quả cho mọi người biết. Nếu chú rễ tuyên bố cô dâu đã mất trinh trước đám cưới thì đây là một điều nhục nhã cho gia đình nhà gái và cuộc hôn nhân có thể bị hủy bỏ! e. Tục giết gái chửa hoang Các cô gái Ả Rập không chồng mà chửa bị coi là đã phạm trọng tội đối với danh dự của gia đình. Các cô gái này thường bị cha hoặc anh em ruột giết chết để bảo vệ danh dự gia đình. Vì thế, người Ả Rập gọi tục lệ này là “Giết người vì danh dự” (Honor Killing). Các cô gái chửa hoang thường khó có thể thoát chết vì dù có chạy đến cầu cứu các cơ quan luật pháp cũng không được bảo vệ. Các thủ phạm giết người trong trường hợp này được xã hội coi là hành động chính đáng và nếu có bị tù thì cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn có tính cách tượng trưng mà thôi. Tất cả các tục lệ kể trên hiện vẫn còn tồn tại trong các xứ Ả Rập Hồi Giáo. Tuy nhiên, những tục lệ đó không xuất phát từ đạo Hồi vì trong kinh Koran cũng như những văn bản luật pháp của đạo Hồi đều không có điều khoản nào qui định về các tục lệ đó. Ngày nay, nhiều nước Hồi Giáo đã ban hành các biện pháp hủy bỏ hoặc hạn chế các tục lệ xét ra có hại và lỗi thời.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay PDF của tác giả Bùi Văn Chấn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Thất Giác Chi (Satta Bojjhanga)
Lời Mở Đầu Kinh điển Phật Giáo, gồm ba tạng, luôn luôn nhắc đến những yếu tố của sự giác ngộ mà Ðức Thế Tôn đã nhiều lần giảng giải, trong nhiều trường hợp khác nhà Trong bộ Tăng Nhứt A-Hàm (Samyutta Nikaya, Maha Vagga) có một phần đề tựa là Bojjhanga Samyutta ghi lại những bài thuyết giảng của Ðức Phật về những Giác Chi (Bojjhanga). Phần này có ba bài Kinh mà từ thời Ðức Phật người Phật tử thường được tụng như một loại kinh để bảo vệ (paritta hay pirit) chống lại sự đau khổ, bịnh hoạn, hay một bất hạnh nào của đời sống. Danh từ Bojjhanga bao gồm hai phần: bodhi và anga. Bodhi bao hàm ý chứng ngộ, hay nói một cách chính xác, là sự hiểu biết sâu sắc liên quan đến sự chứng ngộ Tứ Diệu Ðế, bốn Chơn Lý Cao Quý, tức là Chơn Lý Cao Quý về sự khổ, Chơn Lý Cao Quý về nguồn gốc của sự khổ, Chơn Lý Cao Quý về sự chấm dứt khổ, và Chơn Lý Cao Quý về con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ. Anga có nghĩa là yếu tố, hay tay chơn (chi). Do đó, Bodhi + anga (bojjhanga) là những yếu tố của sự giác ngộ, hay những yếu tố của tuệ minh sát, hay của trí tuệ. Danh từ nầy thường được dịch là Thất Giác Chi. Tìm mua: Thất Giác Chi TiKi Lazada Shopee "Bojjhanga! Bojjhanga! Bạch hóa Ðức Thế Tôn, xin Ngài từ bi chỉ dạy, lời dạy nầy có thể được áp dụng đến mức nàỏ" Một thầy tỳ-khưu bạch hỏi Ðức Phật như vậỵ "Bhodaya samvattantiti kho bhikkhu tasma bhojjhanga ti vuccanti". "Nó dẫn đến giác ngộ, nầy tỳ-khưu, vì lẽ ấy nó được gọi như thế". Ðó là lời giải đáp vắn tắt của Ðức Bổn Sư ( trong Samyutta Nikaya). Ở một đoạn khác Ðức Phật dạy: "Nầy chư Tỳ-khưu, cùng trong một cái nhà nóc nhọn, tất cả những cây kèo đều đâm vào góc nhọn, đều nghiêng về góc nhọn, đều châu đầu vào góc nhọn, và trong tất cả sườn nhà, cái góc nhọn được xem là điểm chánh. Cùng thế ấy, nầy chư Tỳ-khưu, thầy tỳ-khưu trau dồi và chuyên cần phát triển bảy yếu tố của trí tuệ cũng thiên về Niết-Bàn, nghiêng về Niết-Bàn, hướng về Niết-Bàn như vậy". Bảy yếu tố ấy là: 1. Niệm (Sati) 2. Trạch Pháp (Dhammavicaya) 3. Tấn (Viriya) 4. Hỉ (Piti) 5. An (Passadhi) 6. Ðịnh (Samadhi) 7. Xả (Upekkha) Ở đây xin ghi lại một trong những bài Kinh về Thất Giác Chi (Bojjhanga). Bài nầy bắt đầu như sau: "...Ta có nghe như vầy: Một thủa nọ, Ðức Thế Tôn ngự trong thành Vương Xá (Rajagaha), tại Trúc Lâm (Veluvanna), chỗ nuôi sóc. Lúc ấy Ðức Ðại Maha Kassapa lâm bịnh, Ngài lâm trọng bịnh. Vào lúc hoàng hôn Ðức Phật rời khỏi trạng thái vắng lặng của Ngài, đến thăm Ðại Ðức Maha Kassapa (Ma-ha Ca-diếp), ngồi lại, và ngõ những lời trí tuệ sau đây: "Nầy Kassapa, hôm nay con đau thế nào? Con có nghe đau đớn quá lắm hay không? Con chịu nổi không? Sự đau đớn có thuyên giảm không, hay vẫn đang tăng thêm? Có dấu hiệu nào cho thấy bớt không, hay vẫn thêm? -- Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, con rất đau đớn. Con không thể nào chịu nổi. Thật là đau đớn vô cùng. Không có dấu hiệu nào thuyên giảm mà càng lúc càng đau thêm. -- Nầy Kassapa, bảy yếu tố của sự giác ngộ ấy mà Như Lai đã giảng giải tường tận, Như Lai đã trau dồi và phát triển đầy đủ, và khi đã được trau dồi và phát triển đầy đủ, bảy giác chi này đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. Bảy yếu tố ấy là gì? 1. Niệm. Nầy Kassapa, pháp nầy Như Lai đã giảng giải tận tường, đã trau dồi và đã phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ, tâm niệm đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. 2. Trạch Pháp... 3. Tinh Tấn... 4. Hỉ... 5. An... 6. Ðịnh... 7. Xả. Nầy Kassapa, pháp nầy Như Lai đã giảng giải tận tường, đã trau dồi và đã phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ, tâm niệm đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. Bảy giác chi nầy, quả thật vậy, nầy Kassapa, Như Lai đã giảng giải tận tường. Như Lai đã trau dồi và phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ thất giác chi nầy đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. -- Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, quả thật vậy, bảy yếu tố ấy là Thất Giác Chi! Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, quả thật vậy, đó là Bảy Yếu Tố Giác Ngộ!" Ðó là những lời của Ðức Phật và tiếp theo là lời của Ðại Ðức Maha Kassapa đón mừng tiếp nhận những lời vàng ngọc của Ðức Thế Tôn. Liền sau đó Ðại Ðức Maha Kassapa hết bịnh. Lúc bấy giờ bịnh tình của Ðại Ðức Maha Kassapa liền tan biến". (Samyutta Nikaya V, trang 79) Bài Maha Cunda Bojjhanga Sutta, một trong ba bài kinh đã được nhắc đến ở phần trên, ghi rằng một lần nọ chính Ðức Phật lâm bịnh và Ðại Ðức Maha Cunda đọc Kinh Bojjhanga, Thất Giác Chi. Sau đó bịnh tình của Ðức Phật liền tan biến. (Samyutta Nikaya V, trang 81). Tâm của con người ảnh hưởng đến thân một cách rất sâu xa và vô cùng kỳ diệu. Nếu ta để tâm buông lung tác hành và duyên theo những tư tưởng ô nhiễm và tồi tệ tâm có thể gây nên tai hại không thể lường được, đến mức độ có thể giết chết một chúng sanh. Tuy nhiên, tâm cũng có thể chữa khỏi một chứng bịnh của thể xác. Nếu ta gom tâm mạnh mẽ vào những tư tưởng chơn chánh, với sự hiểu biết chơn chánh, thì thành quả mà tâm có thể đạt đến thật vô cùng rộng lớn và sâu xa "Tâm không những gây bịnh mà còn có thể chữa bịnh, một bịnh nhơn lạc quan có nhiều hy vọng được chữa trị dễ dàng hơn người luôn luôn lo âu và sầu muộn. Trong những trường hợp đã được ghi nhận, có nơi cho thấy đức tin cũng chữa được hầu như tức khắc những chứng bịnh thuộc cơ hữu" (Aldous Huxley - Ends and Means - London 1946. Trang 259). Giáo Pháp của Ðức Phật - gọi là Phật Pháp - là những lời dạy sáng suốt, đầy trí tuệ. Những ai có nguyện vọng thành đạt sự giác ngộ, trước tiên nên hiểu rõ ràng những trở ngại đang chặn ngang con đường đưa đến giác ngộ. Theo sự hiểu biết chơn chánh của Ðức Phật, đời sống là khổ. Và sự khổ nầy nương tựa trên vô minh (avijja). Vô minh là thọ cảm những gì không đang được thọ cảm, tức là điều bất thiện. Lại nữa, Vô Minh là không nhận thức được bản chất cấu hợp của năm uẩn, là không nhận thức được những căn và những trần (giác quan và đối tượng của giác quan) và bản chất thật sự của chúng, là không nhận thức được tánh cách rỗng không và tương đối của tứ đại (đất, nước, lửa, gió), không nhận thức được bản chất trọng yếu của những khả năng kiểm soát giác quan (ngũ căn), không thể nhận thức tánh cách thực tiễn, không thể sai lầm, của Tứ Diệu Ðế. Và năm pháp triền cái, tức năm chướng ngại tinh thần, là chất dinh dưỡng cho (hay làm duyên tạo nên) cái vô minh ấy. Năm pháp được gọi là triền cái, hay chướng ngại, vì nó hoàn toàn đóng lại, cắt lìa, và chặn ngang. Năm pháp nầy gây trở ngại cho sự hiểu biết con đường giải thoát ra khỏi đau khổ. Ðó là tham dục (kamacchanda), oán ghét (vyapada), dã dượi hôn trầm (thinamiđha), phóng dật lo âu (uddhacca kukkucca), và hoài nghi (vicikicca). Cái gì nuôi dưỡng năm triền cái nầy? Thân bất thiện nghiệp, khẩu bất thiện nghiệp, và ý bất thiện nghiệp (tini duccaritani) nuôi dưỡng năm pháp nầỵ Còn ba bất thiện nghiệp nầy lại được nuôi dưỡng bằng giác quan không thu thúc (indriya asamvaro). Không thu thúc và sân thâm nhập vào sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Không thu thúc lục căn vì thiếu giác tỉnh, không niệm, không hay biết đầy đủ (asati asampajjanna). Theo đoạn kinh đề cập đến vấn đề dinh dưỡng; để đối tượng bị lôi cuốn đi mất, để sự hiểu biết về ba đặc tính của kiếp sinh tồn (vô thường, khổ, vô ngã) thoát ra khỏi tâm, lãng quên thực chất của sự vật, là lý do làm cho ta không thu thúc lục căn. Chính trong những lúc không nhận thức bản chất vô thường, khổ, vô ngã của sự vật ta tự buông lơi cho bao nhiêu loại tự do thân, khẩu mặc tình tạo bất thiện nghiệp và để cho trí tưởng tượng mặc tình trôi chảy theo dòng tư tưởng bất thiện. Thiếu hay biết đầy đủ là: 1. Thiếu sự hay biết đầy đủ về mục tiêu (sattha sampajjanna); 2. thiếu sự hay biết về tánh cách thích nghi (sappaya sampajjann); 3. thiếu sự hay biết về phương sách (gocara sampajjanna); 4. thiếu sự hay biết về tánh cách sáng suốt, không si mê (asammoha sampajjanna). Khi ta làm việc gì mà không có mục tiêu chánh đáng, khi ta nhìn sự vật và có hành động không giúp tăng trưởng điều thiện, khi ta làm điều gì không thuận lợi cho sự cải thiện, khi ta quên Giáo Pháp (Dhamma) tức là quên phương sách chơn chánh mà ta đang cố gắng thành đạt, khi ta bám víu vào những vật một cách si mê, mà ta lầm tưởng là đáng được ưa thích, đẹp đẽ, trường tồn, hữu ngã, khi ta làm như vậy là ta nuôi dưỡng sự không thu thúc lục căn. Nằm bên dưới lớp thiếu tâm niệm và thiếu sự hiểu biết đầy đủ, có sự suy tư không chơn chánh (ayoniso manasikara, chăm chú không chánh đáng). Kinh điển ghi rằng suy tư không chơn chánh là tư tưởng sai lầm, đi ra ngoài con đường chơn chánh, có nghĩ là xem cái vô thường là thường còn, cái khổ là vui thích, vô ngã là linh hồn trường cửu, thiện xem là bất thiện, cái xấu, trái lại, thấy là tốt. Cuộc lặn hụp kéo dài mãi mãi trong vòng luân hồi bắt nguồn từ suy tư không chơn chánh. Suy tư không chơn chánh càng gia tăng, lớp si mê càng gia tăng, và càng bám chặt hơn vào kiếp sinh tồn. Vô minh đã hiện hữu, toàn khối đau khổ do đó cũng phát sanh. Vậy, người suy tư nông cạn cũng tựa hồ như chiếc thuyền trôi giạt theo chiều gió, như đàn cừu bị cuốn trong giòng nước lũ, như bò mang ách, mãi mãi xuôi ngược trong vòng luân hồi. Kinh sách cũng dạy rằng một niềm tin không trọn vẹn (assaddhiyam) nơi Phật, Pháp, Tăng là điều kiện phát triển suy tư không chơn chánh. Và không có niềm tin trọn vẹn vì không nghe Chơn Lý, Giáo Pháp (Dhamma). Cuối cùng không được nghe Chơn Lý vì không đến gần bậc thiện trí, không kết hợp với người tốt (asappurisa samsevo). Rốt cùng, sự thiếu bạn lành (kalyana mittata) là lý do căn bản sanh ra những tệ hại trên thế gian. Và ngược lại, nền tảng và chất dinh dưỡng của điều tốt là tình bằng hữu trong sạch, kết bạn với người lành, người cho ta thức ăn làm bằng chất liệu của Giáo Pháp cao thượng, những gì tạo cho ta niềm tin nơi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Khi ta có niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo ta sẽ có suy tư sâu xa và chơn chánh, có tâm niệm và sự hay biết đầy đủ, có thu thúc lục căn, có thân, khẩu, ý thiện nghiệp, có tứ niệm xứ, có bảy yếu tố của sự giác ngộ và có trí tuệ đưa đến giải thoát, tuần tự điều nầy kế tiếp điều kia.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thất Giác Chi PDF của tác giả Satta Bojjhanga nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Thần Thánh Trung Hoa (Khuyết Danh)
Mục lục Bảo Sanh Đại Đế Cửu Thiên Huyền Nữ Đình Phước Táo Quân Huyền Thiên Thượng Đế Tìm mua: Thần Thánh Trung Hoa TiKi Lazada Shopee Nam Cực Tiên Ông Ngọc Hoàng Đại Đế Nguyên Thủy Thiên Tôn Nữ Oa Nương Nương Quan Thánh Đế Quân Tài Thần Tam Quan Đại Đế Tây Vương Mẫu Thái Thượng Lão Quân Thái Tuế Thành Hoàng Thập Điện Diêm La Vương Thiên Hậu Nương Nương Thổ Địa Nghi Thức Khai Kinh Tụng Kinh Minh Thánh Văn Xương Đế Quân THẦN THÁNH TRUNG HOA Bảo Sanh Đại Đế BẢO SANH ĐẠI ĐẾ Bảo Sanh Đại Đế còn gọi là “Ngô Chân Nhân”, “Ngô Chân Quân”, “Đại Đạo Công”, “Ân Chủ Công”, “Chân Nhân Tiên Sư”, “Hoa Kiều Công”, “Anh Huệ Hầu Ngô Công Chân Tiên” …Việc xưng hô tuy không đồng nhất, là do nhiều đời vua chúa phong tặng tôn hiệu khác nhau, vì tất cả đều thờ phụng Ngài là thần tiên. Bảo Sanh Đại Đế, họ Ngô, tên Bản, tự Hoa Cơ, hiệu Vân Đông. Ngài sinh ra vào năm thứ tư Thái Bình Hưng Quốc triều nhà Tống, tại làng Bạch Tiêu, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến. *Ngài là hậu duệ của Thái Bá Hoàng Đế triều nhà Châu, đóng đô ở Kim Lăng, huyện NGÔ, nên lấy theo đó làm họ. Truyền được 31 đời đến thời Chiến Quốc thì nước chư hầu Ngô bị diệt vong, hoàng tộc hoặc chết hoặc bị phân ly tứ tán khắp nơi. Trong đó có một chi chạy đến ở tại huyện Lâm Chương, đạo Hà Bắc, tỉnh Hà Nam. Dòng họ nầy nhiều đời ăn chay niệm Phật, làm phước bố thí cho bá tánh. Được chín đời, có người tên Ngô Thông, cưới vợ là Huỳnh Thị, nhân chạy giặc đến làng Bạch Tiêu, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến thì định cư ở đó. Đây chính là thân phụ của Đại Đế vậy. Vì thế, sau nầy lấy nơi sanh trưởng của Đại Đế là làng Bạch Tiêu làm quê quán. *Như đã nói trên, tổ tiên nhiều đời của Đại Đế đã từng tu nhân tích đức, bố thí cứu giúp bá tánh vô số. Riêng Ngài Ngô Thông, sau nầy được truy phong là “Hiệp Thành Nguyên Quân”, cũng là người hiền lành, cần kiệm làm ăn, vui vẻ siêng năng hành thiện cứu đời nhiều năm, tên tuổi và công đức của Ngài vang danh hắp chốn. Còn mấu thân Huỳnh Thị, truyền thuyết là “Ngọc Hoa Đại Tiên” đầu thai giáng thế, tính tình hiền hậu hòa nhã, trinh thục, đã có nhiều công quả ở kiếp trước, đời nầy lại chăm lo tích đức càng nhiều hơn. Một đêm nọ, bà đang say giấc nồng, nằm mộng thấy sao Tử Vi đầu thai vào mình, tỉnh giấc thì biết là có mang. Đến năm thứ tư Thái Bình Hưng Quốc nhằm năm Kỷ Mão, bà Huỳnh thị chuyển dạ đau lưng đang nằm nghỉ, hỏang hốt nhìn thấy nào là Thái Bạch Kim Tinh, Nam Lăng Sứ Giả, Bắc Đẩu Tinh Quân… hộ tống một vị Tiên Đồng, đến phòng của bà nói:“Đây là sao Tử Vi ở thượng giới mà trước đây đã giáng thế đầu thai vào bà đó”. Hôm ấy là giờ Thìn ngày rằm tháng ba âm lịch, chính là ngày mà đức Ngô Bản giáng sanh. Lúc bấy giờ, mùi hương lạ bay thơm khắp nhà, háo quang tỏa rực, lại thấy Tiên Ngũ Lão và Tam Thai Khôi Tinh hiện thân bái hạ. Bên ngoài, trên trời có hoa năm sắc rơi xuống vô số phủ che hết căn nhà. Dân chúng ai ai cũng cho là điềm kỳ lạ, có thoại khí lành tốt chắc chắn không phải việc bình thường. *Ngô Bản từ nhỏ đã tỏ ra thông minh mẫn tuệ, biểu hiện tính cách có tâm đạo là không chịu ăn thịt. cá. Rồi khi lớn lên, không chịu cưới vợ, luôn tỏ ra phẩm hạnh khác với người đời. Đến tuổi trưởng thành, Ngài đã thông suốt các sách, xem qua liền nhớ. Ngài đọc hàng ngàn quyển sách đủ loại, kể cả Địa Lý, Lễ Nhạc và Hành Chính. Nhưng chú ý nhất là sách vở về Y thuật của Huỳnh Đế và các y gia khác. Ngài ra sức nghiên cứu và đã đính chính nhiều chỗ sai sót của các sách y học đời trước. Về phương diện bào chế thuốc, Ngài đã ra công chế tạo được nhiều dược phẩm kỳ diệu, có giá trị chữa bệnh rất hiệu quả.Ngô Bản thường bày tỏ ý chí của Ngài là “cứu thế giúp người”.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Khuyết Danh":Thần Thánh Trung HoaNói Nhiều Không Bằng Nói ĐúngBao Thanh Thiên - Thất Hiệp Ngũ NghĩaBuổi Tàn ThuCác Sự Tích Của Người Nhật BảnGiáo Trình C++Hôn Nhân Không Lựa ChọnHuyền Thoại Mạn Đà LaNguyễn Du (1766-1820)Sự Tích Cây Huyết Dụ TrướcSự Tích Con Sư TửSự Tích Phật A Di Đà Và Bảy Vị Bồ TátSự Tích Phật A-Di-Đà Bảy Vị Bồ TátThánh Tông Di ThảoTiết Đinh San Chinh TâyTrạng QuỳnhTruyện Kể Danh Nhân Lịch Sử Trung QuốcVạn Huê Lầu Diễn NghĩaYên-Tử Cư-Sĩ -Trần Đại-SỹĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thần Thánh Trung Hoa PDF của tác giả Khuyết Danh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.