Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Betty Đen

Với những người Mỹ da đen, thời điểm lúc này là trông chờ một tín hiệu lạc quan. Thế nhưng chàng cựu thám tử Easy Rawlins lại nhìn thấy hiện tại đen tối, tương lai mù mịt. Bình thường gã phải ném quăng trả lại hai tờ trăm đô la vô mặt tên cớm nhếch nhác này, hắn là một tên cớm da trắng đang cần gã truy tìm tung tích nàng Betty đen kiều diễm nước da ngăm đen, quyến rũ như một phụ nữ đa tình mơ ước được giàu sang và chiếm đoạt bọn đàn ông. Nàng giã từ khu phố Fifth Ward ở Huston để đến đô thị sang trọng của giới thượng lưu ở Beverly Hills. Còn nhiều bí ẩn Easy chưa nghe kể, thế mà gã không thể từ bỏ ý định gặp lại nàng Betty cho dù phải liều mạng. *** Bộ sách về Easy Rawlins gồm có:  Con Quỷ Áo Xanh Bướm Trắng Nàng Betty Đen ... *** Walter Mosley là nhà văn Mỹ da đen, tác giả nhiều tập truyện trinh thám huyền ảo. Ông là một tác giả được tổng thống Bill Clinton ưa chuộng nhất với lối viết trang nhã, lôi cuốn người đọc. Nhân vật chính trong những tập truyện trinh thám của ông là nhà thám tử Easy Rawlins. Ông đã từng được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn trinh thám Mỹ, thành viên Ban giám khảo giải sách hàng năm, sáng lập viên Hội sách Trung tâm văn bút Mỹ. Hiện ông là nhà văn trinh thám hàng đầu ở Mỹ, tác phẩm của ông được báo New York Times xếp hạng bestseller. Liền sau đó các tác phẩm nổi tiếng ra đời: Cái chết đỏ; Nàng Betty đen; Bướm trắng; Thủ lĩnh Jones v.v... *** Bọn chúng đang đứng chờ dưới ánh đèn vàng trong ngõ hẻm phía sau quán rượu John. Gã Bruno Ingram, biệt danh Bàn Tay Lớn, thân hình vạm vỡ đang đứng im với vẻ mặt vênh váo. Gã mặc bộ đồ vét may bằng hàng mohair, phía trong không có áo sơ mi, đầu để trần. Tay đứng gần bên dáng người nhỏ con, trông bộ đồ bó sát người sáng như bạc, tôi đoán loại hàng nhập của Ý. Tôi đứng núp sau lối của ra vào lắng nghe bọn chúng trao đổi một lúc. “…Dodge thua cuộc” - Mouse - tên nhỏ con vừa nói. Trông hắn có vẻ hài lòng. - Cậu còn nợ mình hai lăm cent. “Đến đây, Sooky” - một giọng nói vô hình vẳng lên từ giữa đường phố. Giọng nói một chàng thanh niên. “Đâu có, Alfred” - một giọng nói của phụ nữ trả lời nghe rõ từng tiếng. Nhưng đoạn sau, tôi không nghe được nàng nói gì. Gã Bruno đổi giọng: - “Cút đi ngay, đồ âm binh”. Tôi quay lại, một cảm giác sợ hãi trỗi dậy trong người - Mẹ kiếp! Mi bú con… đen thui của tao đây nè. Tôi muốn la lên một tiếng, nhưng cổ họng như nghẹn lại. Mouse xô đẩy Bruno, hắn chỉ muốn giữ một khoảng cách vừa đủ để rút khẩu súng ngắn nòng 41 ra. Bruno nhếch mép cười chợt vẻ mặt gã biến sắc như đứa trẻ lên tám có tội. Phát súng vừa vang lên gã đã lùi lại phía sau cả thước, hai bàn tay chìa ra phía trước y như gã mộng du trong truyện tranh. Người gã muốn ngã nhào xuống đất, khẩu súng trên tay Mouse, tiếp tục nhả đạn đẩy lùi Bruno dạt về phía cửa sau nhà hàng. Chợt nghe một tiếng thét vang lên, tôi bước đi loạng choạng giật lùi về phía cửa ra vào. *** Tôi giật mình choàng dậy giữa đêm khuya. Tôi ngỡ ngàng không rõ mình đang ở đâu. Tôi đang nằm trên tấm nệm thật êm, giương tay tìm chiếc đồng hồ nhưng bàn để đầu giường đâu mất. Tôi té ngã từ trên chiếc ghế ở bên ngoài bãi cỏ xuống thềm nhà. Rồi tôi nhớ lại không khí bên trong nhà nóng nực. Bọn trẻ Jesus và Feather phải cho chạy chiếc quạt gió từ ngoài cửa sổ thổi vào buồng ngủ của Jesus. Tôi hay thức giấc lúc hai giờ sáng, và lúc nào người tôi cũng ướt nhem mồ hôi. Tôi ngồi ngay dậy cố xua đi cơn ác mộng. Chuyện đó đã qua năm năm, cứ mỗi tháng tôi nằm mơ thấy cái chết của Bruno một lần, nhưng dạo sau này lại thường hơn. Tôi không thể quên được hình ảnh thằng bạn thân nhất, không thể quên được giây phút khi súng dồn Bruno vào chân tường. Tôi muốn nghĩ đến những chuyện tốt đẹp hơn. Đó là hình ảnh ngài Tổng thống người Ai- len, chuyện ngài Mục sư Martin Luther King, tình hình thế giới đang đổi thay và chuyện một anh chàng da đen sống ở đất Mỹ được công nhận là một người công dân chân chính trải qua mấy trăm năm nay. Trong cái thế giới đó, đang rung chuyển mỗi ngày vì các vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất và chiến tranh chực chờ bùng nổ. Tôi đi ra phố, chợt thấy thằng bạn cũ Martin Smith nằm chết phơi thấy trên đường. Hắn là đứa học trò được thầy giáo quan tâm nhất. Tôi định đến thăm hắn từ lâu nhưng không hiểu vì sao tôi cứ tránh mãi. Tôi đang đứng giữa trời. Gió tháng chín càng thổi gắt. Gió mỗi lúc một nóng bức như đang thiêu đốt tâm hồn tôi. Tôi tưởng chừng như nghẹt thở hơn nhưng chẳng ai ngó ngàng tới - tất cả đều bỏ mặc tôi với cái xác chết vô tội kia nằm ngoài đường phố tối om. Nhìn về phía trên kia đường, vệt nắng sớm mai trải dài lấp lánh trên nóc, dãy nhà. Thật là một ngày tươi đẹp lại đến, nhưng không phải ai cũng được diễm phúc đón nhận. Gã Bruno đã yên phần dưới nấm mồ năm năm rồi, còn Mouse thì đang rên siết trong nhà tù ở Chino vì can tội ngộ sát. Tôi cũng là một tù nhân đây. Tù nhân của tội lỗi, tù nhân của vô thức. “Có phải ông Rawlins?” - giọng nói lạ vừa cất lên. Tôi lại giương tay tìm khẩu súng ngắn để trên bàn tại đầu giường. Nhìn lại tôi không còn ở trong phòng ngủ. Tôi đang trần truồng, không có chăn đắp, nằm một mình trong bóng đêm ngoài trời. Tay tôi nắm lấy cái gạt tàn bằng đất sét Jesus nắn nót làm ra trong những ngày đi trại hè. “Ai vậy kìa?” - tôi cố giữ vẻ bình thản. Tôi nhìn rõ bóng hình in trên tấm màn cửa là một gã đàn ông. Tôi giật lấy tấm drap dưới sàn quấn vào thắt lưng mình. “Saul Lynx đây! Thưa ông Rawlins” - Tôi biết hắn là một tên da trắng. - “Ông có thể nói chuyện một chút được chứ?”. “Hở? Sao?” - Tay tôi nắm chặt cái gạt tàn đất sét đến nỗi bể vụn nghe răng rắc. “Tôi biết giờ này còn sớm” - tên da trắng vừa nói “Nhưng tôi cần phải gặp ông. Tối qua mới biết được tên ông. Tôi đứng chờ bên ngoài lần theo địa chỉ từng nhà, lúc tìm ra được thì ông đã lên giường ngủ. Ông biết đó, cho đến bây giờ tôi mới nói cho ông nghe được”. “Vậy sao ông không cút đi sáng mai trở lại đây có được không?”. Tôi dồn tất cả sức mạnh vào cánh tay để ném cái gạt tàn qua tới chỗ màn cửa. Nếu thò tay đẩy then cửa thì chỉ có nước chết. Gã không tỏ vẻ giận dữ, gã lại nói “Tôi đến đây giới thiệu cho ông một chỗ làm. Nội bữa nay - sáng hôm nay. Ông có thể mở đèn cho sáng sủa được chứ?”. Tôi không muốn ai nhìn thấy mình đang trần truồng. Tôi rất dị ứng nếu có ai nhìn thấy được da thịt tôi. Tôi muốn nằm im một chỗ trong bóng tối tôi chợt hiểu ra tôi không thể im lặng một khi có ai đó đã biết mình đang ở đâu. Tôi quân tấm drap quanh người như chiếc áo choàng dân châu Phi rồi bước tới sau cánh cửa và bật đèn. Tôi nhìn thấy Lynx đứng núp dưới ánh đèn mờ nhạt phía ngoài tấm màn che. “Cho phép tôi vô nhà được chứ?” - Gã vừa cất tiếng. “Ông vô đây”. - Tôi gắt giọng Người gã nhỏ thó mặc bộ đồ vét màu nâu nhạt, thắt cà vạt nâu để hờ. Chiếc mũi to nổi bật trên khuôn mặt xấu xí, nhô lên một đống. Hắn đội mũ màu nâu, mặc bên trong chiếc áo sơ mi trắng tiệp với nước da nhợt nhạt. Đôi mắt hắn xanh sáng rỡ. Thấy tôi, Saul Lynx cười gật đầu, tôi không thèm bắt tay hắn. “Ông không cần phải bắt tay”. - Gã đứng nhìn theo chiếc gạt tàn. - “Tôi không ngạc nhiên khi ông ngủ ngoài trời. Hồi còn nhỏ, những ngày hè nóng bức tôi ngủ ngoài cầu thang thoát hiểm thích hơn là ở trong nhà”. “Ông cần việc gì đây?”. - Tôi gắt giọng vì tôi không còn kiên nhẫn để nói chuyện vớ vẫn. “Như tôi đã nói” - gã nhắc lại, giọng lạnh tanh. “Tôi đến đây giới thiệu ông một việc làm. Tôi có một thân chủ đang cần gấp người đi tìm một phụ nữ mất tích”. Ngoài đường phố Genesee, trời đã sáng tỏ. Tôi nhìn thấy rõ bóng cây minh quyết bên kia đường và bãi cỏ cắt xén gọn của nhà hàng xóm. “Ta ngồi xuống nói chuyện được không?” - Saul Lynx gợi ý với tôi. “Có việc gì quan trọng, ông nói cho hết rồi ra về. Tôi có con nhỏ nên không thích người lạ vào nhà như thế này”. Nhìn Saul Lynx cười tôi ngỡ đâu hắn là nhân viên mai táng thành tâm cười tiễn đưa người chết. “Ông có nghe nói tên một người phụ nữ là Elizabeth Eady bao giờ chưa?” - gã hỏi. Nghe qua, tôi chợt nhớ lại từ cõi vô thức. Nó trùng hợp với thời điểm tháng Chín mùa ẩm thấp cùng với những giấc mơ hàng đêm. “Bà sống ở L.A. hai mươi lăm năm nay, quê quán thì ở Houston”, gã kể lại. - “Hình như là hàng xóm với ông. Tôi còn giữ một tấm ảnh đây”. - Gã chìa ra một tấm ảnh cũ mèm. Tấm ảnh sẫm màu nâu nhạt thay vì ảnh đen trắng. Ảnh chụp theo kiểu lấy liền. Người phụ nữ trẻ đứng trước thềm cửa ngôi nhà nhỏ hẹp. Nàng cười đứng tựa lưng một bên cửa có vẻ ngượng nghịu. Thân hình nàng cao ráo, nước da ngăm ngăm, cho dù có tô một lớp phấn hồng cũng không che được màu da sạm của nàng Betty. Môi miệng nàng hé mở như muốn trêu ghẹo anh chàng phó nhòm. Black Betty không phải là mẫu người phụ nữ đảm đang, mà là mẫu người thích chơi bạo. Nhiều tay đã gục ngã dưới chân nàng. Nếu ai có một người bạn theo tán tỉnh nàng Betty thì hãy khóc giùm cho hắn, bởi nếu không chết thì cũng bị thương. Nàng có ma lực dìm đắm đàn ông và nàng không che giấu cái ma lực đó. Nếu gặp một tay chơi mời nàng đi ăn uống, nàng ít khi từ chối. Bất kỳ ngày nào, thứ Hai, Ba, Tư, Năm - chơi suốt đêm. Betty không thích ngồi lì một chỗ, nếu qua ngày thứ Sáu túi tiền hắn rỗng tuếch - y như rằng Betty bỏ đi ngay. Từ trước đến giờ ít có tay chơi người da màu nào dám bao nàng ăn chơi xả láng. Tại nhà nàng ong bướm dập dìu hàng đêm. Nàng có thể làm tình với bọn da đen một tuần ba đêm là chuyện thường. Tôi đã từng nhìn thấy nàng lê bước chệnh choạng trên hè phố lát gỗ ở khu Houston Fifth Ward. Thuở đó tôi là một thằng nhóc mười hai tuổi ăn mặc lôi thôi, còn nàng đã là một phụ nữ chững chạc. Nàng mặc áo viền đăng ten màu đen, mang găng tay áo choàng lông thú. Đứng gần bên nàng, ngửi thấy mùi hương thơm nồng nàn tôi quên mất mình là ai. Hôm đó tôi đang đứng bên ngoài quán bar Corcheran ở phố Blanford Street. Lúc đó tôi cảm thấy thật khó chịu, lỗ mũi nóng ran. “Mày nhìn gì đó, nhóc kia?” - nàng quay hỏi tôi. “Nhìn bà đó”. “Mày thích nhìn cái gì?” Tôi phải lấy giọng mới nói ra được “Ờ… ờ… phải. Có lẽ bà đẹp nhất trên đời này”. “Có lẽ?”. Tôi chới với. Đáng lý tôi phải khen nàng là người đẹp nhất trần gian. Chỉ có nàng đẹp nhất thôi. Tôi đã bỏ lỡ dịp may được nói chuyện với nàng một lần nữa. “Lại đây, cưng” - người tình nàng vừa cất tiếng. Thay vì nghe theo, nàng bước lại hôn tôi - quanh môi. Nàng thè lưỡi ra khi tôi chưa kịp há miệng. Nàng buông ra lùi lại, tôi té nhào xuống đất. Bọn chúng đứng cười nhìn theo tôi, chỉ riêng Betty không thèm cười. Nàng đắm đuối vì đã áp đảo được tôi. Có một lúc nào đó tôi sẽ té nhào vì nàng một phen nữa, hoặc có khi lọt ra ngoài cửa sổ vì được nàng hôn. “Ông biết nàng chứ, ông Rawlins” - Saul Lynx hỏi. Tôi đang ngắm bức ảnh thì Dawn vừa tới. Tôi nhìn thấy chiếc xe chạy ngang qua bỏ báo ngoài sân và nhà bên cạnh. Vừa lúc đó một người đàn bà da trắng nhanh chân bước ra nhặt tờ báo. Đó là bà Horn, bà thường mất ngủ nên tính hay bồn chồn nôn nóng. Có lẽ bà ngồi chờ xe đưa báo chạy ngang qua từ nãy giờ. “Tôi không nhớ ra nàng”, - tôi đáp. “Được rồi…” - Gã nói giọng dề dà như thể không tin. - “Thôi được, chẳng sao cả. Ông chỉ cần tìm quanh trong khu phố người da màu thôi. Chúng tôi chỉ cần có vậy”. “Chúng tôi là ai vậy?” “Ông chỉ cần biết tôi là đủ rồi”. “Nàng làm nghề gì?” “Chả có nghề gì cả. Theo tôi biết, nàng giúp việc cho một bà suốt thời gian còn ở đây. Nhưng rồi câu chuyện bắt đầu từ đấy. Nàng Eady xin nghỉ việc, nay người chủ cũ gọi về lại”. - Saul Lynx nhếch mép cười đưa tay sờ mũi theo thói quen. - “Nàng không để lại địa chỉ liên lạc và trong danh bạ điện thoại không có tên Elizabeth Eady”. “Nàng làm việc cho ai?” “Tôi không cho phép tự nói ra được”. “Ơ… ơ… Ông tính trả công tìm được nàng là bao nhiêu?” “Hai trăm đô la đưa trước, tìm được nàng lãnh thêm hai trăm nữa”. Gã chỉ tay về phía tôi “Ông phải tiến hành ngay”. Theo tôi biết, người phụ nữ đứng ra trả tiền đang nôn nóng tìm cho được nàng Eady”. “Lấy gì làm bằng chứng ông biết rõ chuyện đó?” “Đấy, ông thấy chưa”, gã nói như muốn được thông cảm. “Tôi chưa hề gặp bà ấy. Bà ấy không quan hệ với các nhà thám tử. Luật sư riêng của bà ấy đứng ra nhờ tôi”. - Nói xong gã rút ra một xấp bạc đưa qua tôi. Tay tôi đang giữ cái gạt tàn còn tay kia cầm tấm ảnh. “Hai trăm đô la ứng trước”, gã vừa nói. Số tiền lớn hơn cả tài khoản tôi gửi trong băng. Đã có lúc tôi mừng vì có được thu nhập từ việc cho thuê một căn hộ chung cư. Năm 1948 nhờ món tiền trời cho, tôi tậu được cơ ngơi. Nhưng do lao vào mua bán nhà đất nên bị phá sản. Tôi cho thuê căn nhà đang ở. Mỗi tuần lễ ăn uống kham khổ thắt lưng buộc bụng cũng vừa đủ sống. Tôi buông cái gạt tàn xuống đỡ lấy xấp tiền. Tôi sờ thấy hơi ẩm vì gã vừa rút trong túi quần ra. “Tôi sẽ lo cho”, - tôi nói cho có. - “Tôi phải đi gặp ông luật sư đó trước rồi sẽ báo cho ông hay sau. Tên ông ta là gì nhỉ?”. “Chờ khi nào ông làm được việc rồi mới nói chuyện đó sau. Tôi sẽ cho ông ta hay là ông cần gặp có chút việc”. - Gã chẳng cần quan tâm đến ý kiến tôi vừa nêu, gã nói tiếp - “Nếu luật sư đồng ý gặp thì liên lạc với ông bằng cách nào?”. Tôi đọc số máy điện thoại gã nghe xong gật đầu. “Làm sao ông tìm ra tôi, ông Lynx. Địa chỉ tôi không nằm trong sổ danh bạ?” “Tên tuổi ông ai mà không biết, thưa ông Rawlins”. Gã móc ở túi sau chiếc ví cũ mèm ra. Gã lôi ra một tấm danh thiếp nhăn nheo cáu bẩn. Chỉ nhìn thấy số điện thoại, địa chỉ bờ biển ở Venise in nét chữ đen lấm tấm dấu mốc meo. Còn tên tuổi không thấy đâu. “Tên chỉ có vậy L- Y- N- X”, gã nói. “Khi nào tìm được cho tôi hay. Càng sớm càng tốt”. “Ông sẽ nghĩ sao nếu tôi không nhận số tiền này? Và vì vậy nên ông còn nợ tôi một việc”. Saul Lynx nhìn thẳng vào mắt tôi, nụ cười điềm nhiên trên gương mặt gã vụt biến. - “Biết đâu tôi nghĩ sai, nhưng tôi dám cuộc ông là mẫu người nói là làm. Dù sao còn có thêm hai trăm đô la nữa kia mà”. “Thế được rồi, nhưng làm sao ông dám tin tôi có thể tìm ra được một người phụ nữ lẫn trong số hai triệu rưỡi người kia? Ông nên cho tôi biết đôi diều về đối tượng đang tìm kiếm chứ”. - Tuy nói vậy nhưng tôi đã biết mọi ngõ ngách tìm ra nàng Betty, tôi chỉ muốn dò la gã da trắng này đã biết được những gì. Gã biết ý tôi định nói gì. Nụ cười thoáng hiện trên gương mặt gã. Chợt gã lắc đầu. “Tiếc là, ông Rawlins, tôi chỉ biết nàng có bạn bè trong xóm dân Negro. Biết đâu có người sẽ nhận ra nàng qua tấm ảnh ông đưa ra”. Tôi định trả tiền lại, chợt tôi nghĩ biết đâu gã sẽ đoán được ý đồ rằng tôi cũng đang khao khát nhìn lại nàng Betty, khi đã là một chàng trai chững chạc. “Tôi sẽ nói chuyện đó sau” - tôi đáp. Lynx đưa tay sờ trán giả vờ thân mật đáp chào. “Nhờ đấy”, gã nói. - “Tôi mong được tin sớm”. Gã nhếch mép cười rồi bước ra. Tôi dưng nhìn theo cho đến lúc gã ngồi vào trong chiếc xe ô tô nhỏ xíu sơn màu nâu. Gã vừa phóng xe đi, bà Horn bước ra - mặt mũi có vẻ bàng hoàng. Lúc nhìn thấy tôi quàng tấm drap quanh mình đứng ngoài trời vẻ mặt bà chợt biến sắc. Tôi không biết bà nghĩ gì trong đầu. Tôi cười gọi với theo, bà không nghe vội vã chạy vào nhà. Tôi cúi xuống nhặt từ báo lên liếc qua mấy hàng tin trên đầu. Nước Nga vừa cho nổ vụ thứ hạt nhân lần thứ ba trong một tháng. Mời các bạn đón đọc Nàng Betty Đen của tác giả Walter Mosley.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Buổi Tiệc Trà Kì Bí
Đầu năm mới, Kyoto khoác lên mình dáng vẻ vô cùng nhộn nhịp. Cô bé Mashiro Aoi đang làm thêm ở cửa hàng đồ cổ “Kura” trong khu phố Teramachi Sanjo cùng cháu trai ông chủ là Yagashira Kiyotaka được mời tới tham dự buổi “tiệc đọc sách” của tác giả thể loại văn học kì bí nổi tiếng, Aigasa Kurisu. Sự kiện ấy được tổ chức tại Sơn trang Yoshida vào buổi tối ngày Valentine. Trong buổi “tiệc đọc sách”, biên tập viên phụ trách và bạn bè thân thiết của Kurisu cũng được mời đến. Tại đó, em gái Kurisu đã yêu cầu Kiyotaka tìm ra thủ phạm định giết chị gái mình ba tháng trước… Đây là tập bốn của loạt tiểu thuyết kì bí thành công vang dội! * Holmes ở Kyoto là bộ tiểu thuyết kì bí nhẹ nhàng cực kì nổi tiếng, không chỉ tạo cơ hội cho độc giả làm quen với những nét đẹp văn hoá của mảnh đất Kyoto mà còn giới thiệu về muôn vàn món cổ vật nổi tiếng ở khắp nơi trên thế giới. Và rồi, mỗi món cổ vật đều cất giữ câu chuyện của riêng mình. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** Một nhành dương liễu được tô điểm bằng những chiếc bánh mochi hồng và trắng. Mỗi khi năm mới đến, người ta sẽ lại bắt gặp món đồ trang trí dễ thương này. Nếu tôi không nhầm thì mochibana-shidare[1] là tên gọi của nó. Đồ trang trí trong dịp Tết có rất nhiều loại, nhưng tôi thích nhất là mochibana-shidare. Tôi, Mashiro Aoi, đang ngồi trên một chuyến xe buýt chật ních người. Vừa lắc lư theo chiếc xe, tôi vừa nhìn ra ngoài cửa sổ và nhoẻn miệng cười. Mùng ba tháng Giêng. Cả Kyoto đang tràn ngập niềm vui đón năm mới. Khắp nơi được trang hoàng lộng lẫy với shime-kazari[2], nebiki-matsu[3], mochibana-shidare, và những chiếc quạt giấy mạ vàng. Già trẻ gái trai trong trang phục truyền thống đi lại trên đường đông như mắc cửi. Ngỡ là toàn bộ thành phố đang trong mùa lễ hội rộn ràng. Tôi dám chắc những người đang đi lại trên phố này đa phần là khách du lịch. Có lẽ họ đến từ các tỉnh thành khác, muốn được tận hưởng dịp Tết ở một nơi “đậm chất Nhật Bản” như Kyoto, nên mới tới đây thăm thú đền chùa và xin lộc đầu năm. Và biết đâu, người ngoài trông thấy tôi lúc này cũng sẽ tưởng tôi là khách du lịch. Nhìn bộ dạng của bản thân hiện tại, tôi bẽn lẽn thu mình. Chiếc xe vừa dừng lại trước toà thị chính, tôi đã hấp tập nhảy xuống. Từ đường Oike, tôi đi xuyên qua biển người để tìm đến phố mua sắm Teramachi, Khu phố thương mại lợp mái vòm hôm nay còn náo nhiệt hơn thường ngày. Phần lớn những cửa hàng được xây kề nhau trong khu phố đã bắt đầu mở cửa từ mùng hai; chỗ thì chuẩn bị sẵn túi may mắn[4] chỗ lại phát rượu khai vị đầu năm[5]. Tất cả đều chìm trong bầu không khí hân hoan vui vẻ. Phố mua sắm Teramachi lúc này tấp nập ngang ngửa dịp cuối năm, nhưng cảm giác bề bộn, hối hả khi ấy đã không còn. Dù tính ra cũng mới có vài ngày kể từ khi năm cũ khép lại. Tới tận ngày ba mươi mốt tháng Mười Hai, tôi vẫn còn làm thêm ở đây. Vậy mà kì lạ thay, chỉ cần “sang năm mới” là tôi đã có cảm tưởng như lâu lắm mới được đặt chân đến nơi này. Nhịp bước nhún nhảy của tôi liệu có phải do tâm trạng phấn chấn trong không khí Tết? Cuối cùng thì ngày làm việc đầu tiên trong năm cũng đã đến. Phải, tiệm đồ cổ “Kura” nơi tôi làm thêm sẽ chính thức hoạt động trở lại vào hôm nay, mùng ba tháng Một. Ông chủ tiệm là ông Yagashira Seiji đã đề xuất rằng, “Vào ngày làm việc đầu tiên, tất cả đều phải có mặt nghen,” cho nên kể cả đứa làm thêm như tôi cũng được gọi đến. Ngoài việc trong cửa hàng ra, tôi tự thấy mình chẳng giúp được gì nhiều. Ấy vậy mà ông chủ vẫn mời tôi đến dự buổi gặp mặt đầu năm, khiến tôi vô cùng hạnh phúc. Cảm giác như mọi người đã thật sự công nhận tôi là một phần của tiệm “Kura”. Tôi tự nhủ mình phải vững vàng lên, mắt nhìn thẳng về phía trước và bước đi mạnh mẽ. Chẳng mấy chốc, tấm biển của cửa hàng đồ cổ “Kura” đã hiện ra trong tầm mắt. Bề ngoài của nó vẫn như mọi khi, giống một quán cà phê hơn là tiệm đồ cổ. Tiệm “Kura” hôm nay cũng đã chuyển sang “chế độ mừng năm mới”, với mặt tiền được trang hoàng bởi kadomatsu[6], shime-kazari, và cả mochibana-shidare. “Cháu chào mọi người ạ.” Khi tôi đẩy cửa bước vào, tiếng chuông cửa quen thuộc lại reo lên leng keng. “Ồ, Aoi đó hả?” Người vừa cất giọng sang sảng và ngoảnh lại nhìn tôi là ông chủ cửa hàng này, ông Yagashira Seiji, năm nay bảy mươi bảy tuổi. Ông là một người chuyên giám định đồ cổ nổi tiếng mang danh hiệu “Chuyên gia giám định cấp quốc gia” được đông đảo cư dân ở vùng Kansai này biết đến. Thường ngày, ông chủ hay ăn vận theo phong cách kinagashi phóng khoáng, nhưng hôm nay đã đổi sang lễ phục đầy đủ quần hakama[7] và áo khoác haori[8] cho đúng tinh thần lễ tết, cảm giác trịnh trọng và uy nghiêm hơn bội phần. Đứng cạnh ông chủ là con trai ông, bác quản lí Takeshi. Gọi là quản lí nhưng nghề nghiệp chính của bác ấy là nhà văn, chuyên sáng tác tiểu thuyết lịch sử với bối cảnh thời phong kiến. Bác gắn liền với hình ảnh vừa trông cửa hàng vừa cặm cụi cày bản thảo ở “Kura”. Hôm nay bác mặc một bộ kimono màu chàm. Đứng bên còn lại của ông chủ là một chàng thanh niên cao ráo với gương mặt khôi ngô đang nhoẻn miệng cười dịu dàng. Đó là cháu nội kiêm đệ tử của ông, anh Kiyotaka, hay còn gọi là anh Holmes, một sinh viên cao học đang làm giám định viên tập sự. Anh là người có đầu óc nhạy bén, được đặt biệt danh là Holmes nhờ vào khả năng quan sát và mắt thẩm định tinh tường hiếm thấy, cùng cái họ “Yagashira”. Anh Holmes lúc này cũng đang khoác trên mình một bộ kimono giống ông chủ và bác quản lí, nhưng màu mực tàu. Ở phía sau lưng họ có một người phụ nữ xinh đẹp. Cô là Takiyama Yoshie, đang điều hành một công ty chuyên tư vấn tổ chức những sự kiện liên quan đến mĩ thuật, đồng thời cũng là bạn gái của ông chủ. Cô có ngoại hình hết sức trẻ trung, tưởng như mới ngoài ba mươi, nhưng thực ra là một mĩ nhân đứng tuổi đã ngoại tứ tuần. Bộ hōmongi[9] xanh lục sáng như màu cỏ non hôm nay hoà hợp với cô một cách hoàn hảo. Đúng vậy, hôm nay, ngày làm việc đầu tiên của năm đã được quy ước là ngày “mặc kimono đi làm” nên tất cả chúng tôi đều diện trang phục truyền thống. “Chúc mừng năm mới Aoi nhé.” Được mọi người đồng thanh gửi lời chúc, tôi rụt rè cúi đầu. “Ch-Chúc mừng năm mới cả nhà mình ạ. Dù đã biết hôm nay sẽ như thế, nhưng nhìn mọi người đồng loạt mặc kimono thế này vẫn làm cháu hơi choáng ngợp.” “Tết là mặc kimono”, rất đúng kiểu của “Kura”. “Vậy nhưng, ở đây chỉ có một mình anh là mặc kiểu kinagashi thôi này.” Kinagashi là cách mặc trang phục truyền thống giản lược, không cần áo khoác haori hay quần hakama mà chỉ có kimonothắt obi. “Em thấy anh mặc đẹp lắm ạ.” Tôi có cảm giác là kiểu mặc kinagashi thanh thoát, không cầu kì sẽ hợp với anh Holmes hơn lễ phục cứng nhắc với đầy đủ haori và hakama. Mái tóc đen nhánh kết hợp với bộ kimonomàu mực tàu làm nổi bật lên làn da trắng trẻo của anh ấy, trông thật là quyến rũ. “Cảm ơn Aoi. Bộ komon ấy cũng rất hợp với em,” anh Holmes mỉm cười đáp. “Công nhận, cháu đáng yêu lắm.” “Phải đấy, trông rất xinh.” Cô Yoshie và bác quản lí cũng chêm vào. “... Ch-Cháu cảm ơn ạ,” tôi xấu hổ lí nhí. Đúng vậy, hôm nay tôi cũng mặc kimono. Gọi vậy thôi chứ nó không phải furisode mà là komon, loại kimono với hoa văn nhỏ phủ khắp thân áo. Những đoá hoa phớt hồng rải rác trên nền vải màu kem. Obi cũng có màu hồng nhạt tương tự, mặt trước trông như một bông hoa to sắp nở, tổng thể nhìn chung là hết sức dễ thương. Tôi ưng bộ kimono này vì nó trông không đến nỗi quá thường, nhưng vẫn nhẹ nhàng đủ để có thể thoải mái ra phố dạo chơi. “Bộ komon này có phải em mua ở ‘Kobo-san’ hồi trước không?” Anh Holmes hỏi, vẻ như muốn xác nhận lại. Tôi ngẩng lên nhìn anh và gật đầu đáp, “Vâng.” “Kobo-san” là tên thường gọi của hội chợ được tổ chức tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt hằng tháng. Nó giống như một buổi chợ trời lớn song song với lễ hội. Vào ngày này, người ta sẽ mở sạp hàng kinh doanh đủ thứ trong khuôn viên chùa To-ji, từ quầy ăn uống, trò chơi, đồ cổ cho đến tạp hoá, quần áo cũ, kimono, thực phẩm. Trước đây, tôi đã có lần cùng anh Holmes đến đó, quy mô còn lớn hơn cả chợ hàng thủ công ở Hyakumanben Chion-ji. Nhân tiện thì ở Kyoto có ba hội chợ lớn được mở hằng tháng: chợ hàng thủ công tại chùa Hyakumanben Chion-ji vào ngày mười lăm, chợ Kobo-san tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt, còn ngày hai mươi lăm là chợ Tenjin-san ở đền Kitano Tenmangu. Tôi tìm thấy bộ kimono này vào dịp cuối năm, trong lần đầu tiên đến chợ Kobo-san cùng cô bạn Miyashita Kaori. Khi cầm bộ kimono nằm trong xe chở hàng lên, Kaori đã bảo tôi rằng, “Chỗ này toàn món hời đó nha.” Nhà Kaori là một cửa hàng trang phục truyền thống danh tiếng với lịch sử lâu đời. Nghe được nhận xét của cậu ấy nên tôi cũng có thể yên tâm mua món hàng này. Kimono thường gắn liền với hình ảnh của một loại trang phục đắt đỏ, không dễ gì mua được, nhưng những bộ được bày bán ở hội chợ lại rẻ hơn tôi nghĩ, chỉ với khoản lương làm thêm của tôi cũng dư sức trả rồi. Nghĩ lại thì trước khi chuyển đến sống ở Kyoto, việc bỏ tiền túi ra mua một bộ kimono với tôi là chuyện không tưởng. Thực ra obi là đồ có sẵn ở nhà, còn cách mặc thì tôi phải nhờ bà giúp. Tôi chạm tay vào obi, trong lòng mong mỏi một ngày nào đó mình có thể tự mặc kimono. “Mọi người tập hợp đồng đủ rồi, giờ ta cụng ly khích lệ tinh thần làm việc đầu năm nhé.” “Của Aoi là amazake[10] nhỉ.” Anh Holmes rót sake và amazake vào chén, sau đó đưa rượu cho từng người theo thứ tự tuổi từ thấp đến cao, bắt đầu từ tôi, cô Yoshie, quản lí, và cuối cùng là ông chủ kèm câu: “Mời ông ạ.” Chẳng biết có phải do trang phục truyền thống hay không, mà mỗi động tác của anh Holmes đều quyến rũ hơn bình thường, khiến tôi không tài nào nhìn thẳng được. “E-Em cảm ơn ạ,” tôi nhận lấy chén rượu và e lệ cụp mắt xuống. Đúng lúc mọi người đang chuẩn bị nâng ly, tiếng chuông leng keng vang lên ngoài cửa, và anh Akihito hớt hải xông vào, “Xin lỗi cả nhà, cháu đến muộn! Năm mới vui vẻ ạ!” Anh ấy cũng đóng bộ chỉnh tề với hakama và haori có màu xanh chủ đạo. Mái tóc sáng màu nhìn qua tưởng chừng không ăn nhập với phục trang, thế mà lại hoà hợp đến bất ngờ. Hiện nay, anh Akihito đang được công chúng khen ngợi là một “diễn viên điển trai”. Chắc nhờ thường xuyên mặc trang phục truyền thống trên chương trình giới thiệu Kyoto “Tiết trời Cố đô” nên anh ấy đã quen với kimono rồi. “‘Xin lỗi cả nhà’ gì chứ, có ai mời anh đâu nhỉ?” “Bậy nào.” Bị anh Holmes ném cho một cái nhìn lạnh tanh, anh Akihito lắc đầu nguầy nguậy. “Hôm mở tiệc giao thừa, ông chủ đã dặn tôi rằng: ‘Mồng ba tiệm bắt đầu mở cửa trở lại, cậu hổng mắc việc gì thì nhớ ghé qua nghen. Có cậu Akihito tới bao giờ cũng vui.’ Tôi được ông chủ chiếu cố bấy lâu nay, nghe thế sao có thể không đến được.” Anh Akihito vừa cười vừa tét một phát vào cánh tay anh Holmes. Đối nghịch lại, anh Holmes xoa xoa chỗ tay bị tét với ánh mắt lạnh lùng. Hai con người này mới đầu năm đã thế, chẳng thay đổi gì. “Vậy là cậu Akihito cũng tới rồi.” Ông chủ đích thân rót sake vào chén và trao cho anh Akihito. Anh Akihito nhận lấy với vẻ trân trọng. “Nào, Takeshi, Kiyotaka, Yoshie, bé Aoi, cậu Akihito. Năm nay vẫn lại tiếp tục chiếu cố nhau nghen” Ông chủ cao giọng hô: “Cụng ly!”, chúng tôi cũng đồng loạt nâng chén và nói: “Cụng ly!” rồi uống một hơi cạn chén. Có lẽ do tôi đã thấm mệt vì không quen mặc kimono, lại phải đi từ nhà đến tận đây, nên ngụm amazake thanh mát ấy cảm giác ngon vô cùng. “Ơ, Aoi cũng uống sake à?” “Dạ không, mình em uống amazake ạ.” “À ừ, em vẫn còn vị thành niên nhỉ. Lớp Mười Một đúng không?” “Vâng, em sẽ lên lớp Mười Hai vào mùa xuân ạ.” “Phải rồi Aoi, nói đến mùa xuân thì xuân năm nay đứa con trai đang đi du học của cô sẽ về nước đấy. Mong cháu giúp đỡ thằng bé nhé,” cô Yoshie chêm vào một câu như thể vừa sực nhớ ra. Tôi bị bất ngờ, nhưng vẫn gật đầu đáp: “V-Vâng ạ.” Nhắc mới nhớ, Cô Yoshie có một đứa con trai. Nếu tôi không nhầm thì cậu ấy đang học lớp Mười, nghĩa là nhỏ hơn tới một tuổi. Con của cô Yoshie thì hẳn phải đẹp trai lắm. Trong lúc mọi người đang sôi nổi trò chuyện, ông chủ nhìn đồng hồ rồi chậm rãi đứng dậy. “Thôi, bọn ta đi trước nghen.” “Vậy bố cũng...” “Khoan.” Thấy ông chủ và quản lí lại chuẩn bị đi đâu đó, anh Holmes vội lên tiếng. “Ông và bố có thể nán lại một chút rồi mới đi có được không ạ? Hôm nay dù sao cũng là ngày mở hàng, con muốn dẫn Aoi đến thăm Yata Jizo-son.” Nghe anh Holmes nói, tôi nghiêng đầu thắc mắc: “Yata Jizo-son ấy ạ?” “Là ngôi chùa Địa Tạng ở ngay gần đây. Ngày làm việc đầu tiên nên anh nghĩ cũng nên đến chào hỏi chút.” “À, chỗ bên cạnh đồn cảnh sát phải không ạ?” Tôi vỗ hai tay vào nhau. Hôm nào đi làm tôi cũng trông thấy nơi đó, nhưng không mấy để tâm nên đến tên cũng chẳng biết. Tôi tự dưng thấy có lỗi vì sự thiếu lễ độ của mình. “Cũng được, mà đi lẹ lẹ nha. Ta hổng có đợi được lâu đâu,” ông chủ ngúng nguẩy quay đi. “Nói gì thì đây vẫn là cửa hàng của ông đấy ạ. Ông định trốn việc đi chơi mà sao còn giở giọng hách dịch với con cháu thế?” “Ta còn nhiệm vụ đi chúc Tết rất quan trọng đó. Đã thế thì bây làm thay ta đi nhá?”   Mời các bạn mượn đọc sách Buổi Tiệc Trà Kì Bí của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).
Tâm Tư Lẩn Khuất Cõi Trần Ai
Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại tiệm “Kura” và được Kiyotaka chỉ dạy về mĩ thuật cổ. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** Ở khu vực lân cận Teramachi Sanjo thuộc Kyoto, có đến mấy con phố mua sắm giăng mắc với nhau theo một bố cục tương đối là phức tạp. Những mái vòm nối liền nhau rất dễ khiến người ta nhầm tưởng rằng tất cả đều thuộc cùng một khu mua sắm, nhưng thực chất mỗi con đường lại là một phố mua sắm khác nhau. Từ đường Oike rẽ vào đường Teramachi là “phố mua sắm của Hiệp hội Cửa hàng chuyên doanh Teramachi”, đi thêm chút nữa sẽ giao với “dãy cửa hàng danh tiếng Sanjo”. “Phố mua sắm Teramachi Kyogoku” và “phố mua sắm Shinkyogoku” chạy song song với nhau, nhìn đằng trước sẽ thấy được “chợ Nishiki”, nơi nổi danh toàn quốc là “nhà bếp của đất kinh kì”. Chỉ nghe tả thế này thôi thì đúng là hơi bị rối rắm, có vẻ đến dân Kyoto cũng nhiều người ú ớ, nên khách du lịch không nắm được âu cũng là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, người đi mua sắm có khi cũng chẳng cần để ý nhiều đến vậy. Từ đường Oike vào “phố mua sắm Hiệp hội Cửa hàng chuyên doanh Teramachi”, người ta có thể ngoặt sang “dãy cửa hàng danh tiếng Sanjo”, và cũng có thể cứ thế đủng đỉnh đi dọc “phố mua sắm Teramachi Kyogoku” hay “phố mua sắm Shinkyogoku” rồi lang thang thăm thú “chợ Nishiki”. Thậm chí ta còn có thể bước qua một loạt những cửa hàng nối liền nhau, rồi bắt gặp một ngôi đền, ngôi chùa nhỏ xinh nào đó. Tiệm đồ cổ “Kura” nằm lặng lẽ giữa khu phố mua sắm với kết cấu y hệt mê cung như vậy. Cửa hàng tuyệt nhiên chẳng mang diện mạo cố tình gây ấn tượng, nên người đi đường nhiều lúc sẽ chỉ lướt qua, nhưng một khi đã để mắt tới nó, người ta sẽ nhận ra rằng nơi đây toát lên một sức hấp dẫn lạ kì. Trong cửa hàng có đèn chùm, bộ sô pha cổ, bên vách tường cạnh quầy thu ngân là giá sách và tủ đựng đồ kiểu Nhật làm bằng gỗ sồi đánh véc ni. Một nơi dung hoà phong cách Nhật Bản với phương Tây, khiến ta liên tưởng đến các quán cà phê mang xu hướng Modern Retro[1] đậm nét. Kim giây của chiếc đồng hồ tủ đứng cỡ lớn đang miệt mài di chuyển phát ra những âm thanh tích tắc. Âm sắc nhạc jazzdu dương như hoà nhịp với tiếng kim đồng hồ. Đủ loại đồ cổ và đồ tạp hoá được xếp thành hàng trên giá. Vẫn như mọi khi, thời gian cứ như đã ngừng trôi trong cửa hàng này. Tôi, Mashiro Aoi, nhân viên đang làm thêm trong tiệm, vừa phủi bụi cho các món hàng như thường lệ, vừa đưa mắt liếc về phía quầy thu ngân. Ở đó, một chàng thanh niên với khuôn mặt tuấn tú đang cầm một bức tranh cuộn trong tay và cười tủm tỉm. Tên anh là Yagashira Kiyotaka. Anh ấy là sinh viên cao học, nhờ khả năng quan sát và mắt giám định phi phàm hiếm thấy, lại thêm cái họ “Yagashira” nên anh có biệt danh là “Holmes”. Ngoài ra, anh còn là cháu nội kiêm đệ tử của ông chủ cửa hàng này là ông Yagashira Seiji, người được biết đến với tư cách Chuyên gia giám định cấp Quốc gia. Anh là một thanh niên điển trai với vóc người mảnh khảnh, tóc mái hơi dài, làn da trắng trẻo và sống mũi thẳng tắp. Hoàn toàn tương ứng với ngoại hình ấy, anh cũng là một người lịch thiệp, dịu dàng, nho nhã và có phong thái ứng xử hết sức ôn hoà. Nhưng mặt khác, anh còn là một kẻ tương đối kì quặc, thi thoảng lại tỏ ra nham hiểm, thậm chí có cả cái tính cứng đầu, hiếu thắng, hơn hết là lòng dạ nhiều khi hơi hơi đen tối. Lúc đầu tôi cũng hay bị anh làm cho lúng túng, thế mà chúng tôi đã cùng nhau trải qua khoảng thời gian tới tám tháng rồi. Chắc rằng tôi đã quen hơn nhiều, nên giờ không còn cảm thấy ngạc nhiên trước những nét kì quặc và tính cách hai mặt của anh ấy nữa. “... Bức tranh cuộn treo tường mà bác Ueda mang đến thế nào rồi ạ?” Tôi bước đến và thò mặt lại gần quầy thu ngân. Cuộn tranh anh Holmes hiện đang cầm trên tay là đồ tôi giữ giùm bác Ueda, một khách quen nhẵn mặt của tiệm, trong lúc anh ấy không có mặt ở cửa hàng. “Aoi thấy sao?” Anh Holmes hơi nghiêng nửa thân trên để tôi thấy được cuộn tranh. Một bức tranh được gọi là “mĩ nhân hoạ”, hay nói cách khác... “... Là ukiyo-e[2] anh nhỉ?” “Ừ, đúng rồi.” Bức ukiyo-e ấy vẽ một người phụ nữ hơi cúi đầu, tay cầm tẩu thuốc. Gương mặt mang nét u sầu ấy vô cùng xinh đẹp, nhưng tôi chẳng cảm nhận được sức ép khiến mình phải nín thở chút nào. Nếu được hỏi về tính thật giả của bức tranh này thì tôi có cảm giác đây không phải đồ thật. Có điều, ukiyo-e vốn là “tranh in khắc”, vậy nên... Đối với tranh in thạch bản của nước ngoài, tranh thật được gọi là “thạch bản gốc”, chủ yếu chỉ những tác phẩm do chính tác giả in, hoặc được chế tác tại công xưởng dưới sự giám sát của tác giả. Trước đây, anh Holmes đã dạy tôi điều đó. Vậy thì có phải ukiyo-e cũng giống thế không? “... Tranh khắc ukiyo-e thật với giả khác nhau ra sao ạ? Có phân biệt dựa vào việc ‘tác giả có chính tay in tranh hay không’ giống tranh in thạch bản không anh?” Khi tôi nói ra nguyên văn nghi vấn vừa hiện lên trong đầu, anh Holmes bèn gật gù. “Phải rồi. Ukiyo-e gồm hai loại chính, ‘tranh vẽ cọ’ do hoạ sĩ vẽ nên và ‘tranh in khắc’ được in từ mộc bản. Nhắc ukiyo-echủ yếu là ám chỉ tranh mộc bản của vế sau, còn tranh vẽ cọ là thứ có một không hai đến từ hoạ sư, cho nên vô cùng giá trị. Hiểu một cách nôm na thì tranh mộc bản phải trải qua những công đoạn như: hoạ sĩ vẽ bản thảo gốc, sau đó giao cho thợ khắc, cuối cùng là đến thợ in thực hiện việc in ra, vậy nên mới tồn tại những bức tranh mộc bản được in cùng thời điểm.” “Thế nghĩa là hoạ sĩ không tự tay khắc mộc bản anh nhỉ?” “Đúng vậy, mỗi công đoạn đều do nghệ nhân với chuyên môn riêng thực hiện.”   Mời các bạn mượn đọc sách Tâm Tư Lẩn Khuất Cõi Trần Ai của tác giả Mai Mochizuki & Ninh Nhân Văn (dịch).
Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả
Tại tiệm đồ cổ “Kura” toạ lạc giữa khu phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto, có một “chàng trai cố đô” kì lạ với mắt thẩm định và quan sát hết sức tinh tường, đến mức được người ta tặng cho biệt danh “Holmes.” “Không phải đâu Aoi. Mọi người chỉ gọi anh bằng cái tên Holmes vì họ của anh là Yagashira thôi.” Phải. Hán tự gồm chữ Gia và chữ Đầu, nên đọc thành Homes. “.. Ủa, giờ này mà anh vẫn còn đính chính chuyện đấy à?” Đây là ghi chép về những vụ án li kì mà anh Holmes, tên thật là Yagashira Kiyotaka, và tôi, một nữ sinh trung học phổ thông tên là Mashiro Aoi, đã gặp phải tại thành phố Kyoto. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** hi cái nóng ngột ngạt của Kyoto đã dịu đi một chút cũng là lúc kì nghỉ hè kết thúc và một học kì mới lại bắt đầu. Thế nhưng, đám học sinh thì vẫn chưa thoát ra khỏi tâm lí muốn xả hơi. Chúng tôi còn là học sinh lớp Mười Một, sang năm sẽ phải thi đại học rồi, chắc thế nên nhiều người có tâm lí tranh thủ năm nay chơi cho xả láng, vì vậy mà bộ dạng cháy nắng của đám bạn cùng lớp cứ liên tục hiện lên trước mắt tôi. Đến giờ nghỉ trưa, bầu không khí trong lớp càng trở nên uể oải. “Hảảả, vậy là Aoi đã chấm dứt hẳn với bạn trai cũ rùi hở?” Người vừa la lên với vẻ kinh ngạc là Miyashita Kaori, từ lớp bên cạnh sang chơi. Cậu ấy chơi thân với tôi sau “vụ lá thư đe doạ gửi đến Saiodai” và là người duy nhất trong số bạn bè ở trường này biết về anh Holmes cùng quá khứ của tôi. Tiện nói luôn, giờ tôi với cậu ấy đã chuyển sang gọi thẳng tên nhau. Chúng tôi hiện đang ngồi bên ô cửa sổ thoáng gió và cập nhật cho nhau tình hình gần đây sau một thời gian dài không gặp. “... Ừ, mặc dù dây dưa cũng hơi lâu.” Sau khi kể lại cho Kaori chuyện xảy ra vào đêm Yoiyoiyama đợt lễ hội Gion, tôi cụp mắt xuống. ... Chuyện xảy ra vào mùa hè năm ngoái. Vì hoàn cảnh gia đình mà tôi phải chuyển từ Saitama đến Kyoto sinh sống. Ở Saitama, tôi có một cậu bạn trai, là người tôi đã hẹn hò từ hồi cấp hai. Như một lẽ đương nhiên, chúng tôi phải yêu xa trong vài tháng. Không lâu sau đó, cậu ấy cuối cùng cũng nói lời chia tay. Ban đầu tôi đã chấp nhận rằng xa mặt cách lòng là chuyện không thể nào tránh khỏi. Nhưng lí do chia tay thật sự lại là vì cậu ấy đã bắt đầu hẹn hò với bạn thân của tôi... Biết được sự thật ấy, tôi vô cùng choáng váng. Tôi muốn lập tức quay về Saitama để xác minh mọi chuyện, vì thế mà định bán đi mấy bức tranh cuộn treo tường của người ông đã khuất làm chi phí đi đường. Thế là vào một ngày tháng Ba, khi tiết trời vẫn còn se lạnh, tôi đã ghé vào tiệm đồ cổ “Kura” trong khu phố mua sắm Teramachi Sanjo. Tại đó, tôi đã gặp gỡ một chàng thanh niên kì lạ mang tên Yagashira Kiyotaka với biệt danh là “Holmes”. “Aoi, nếu được, em có muốn làm việc ở đây không? Thay vì lén lút bán bảo vật của gia đình đi để lấy tiền, em nghĩ thế nào về việc lao động chân chính nhằm kiếm phí tàu xe?” Bằng khả năng quan sát tinh tường đến đáng sợ, anh Holmes đã đoán ra mọi ý định của tôi và mời tôi đến làm thêm ở tiệm đồ cổ nhà mình. Sau một thời gian tiếp xúc với chàng trai kì lạ ấy cùng những tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, vết thương trong lòng tôi dần được chữa lành. Cả cậu bạn trai cũ lẫn cô bạn thân kia đều đã là chuyện quá khứ. Khi ấy, tôi đã định từ bỏ việc quay trở lại Saitama. Vào đêm Yoiyoiyama của lễ hội Gion... Tôi đã phải đối mặt với bạn thân và bạn trai cũ khi họ tới đây từ Saitama theo chương trình dã ngoại của trường. Đương nhiên là không hề có cách giải quyết dễ dàng cho mọi chuyện. Bạn bè trong nhóm ai cũng về phe bạn thân và bạn trai cũ của tôi, trong khi tôi một mình vật lộn với nỗi nhục nhã và đau đớn như đang ngồi trên bàn chông vậy. Người đã đến giải cứu tôi khi ấy cũng chính là anh Holmes. Anh ấy đã kéo mạnh tay tôi, dắt tôi khỏi nơi đó... khiến tôi có cảm giác như mình thật sự được cứu rỗi. “Khóc cho hết đi nha, Aoi đã gắng lắm rùi mờ.” Bàn tay to lớn nhẹ nhàng vỗ lưng tôi. Mỗi lần hồi tưởng lại cảnh mình khóc trong vòng tay anh Holmes, dưới ánh sáng của những chiếc đèn lồng... tôi lại thấy nóng râm ran trong lồng ngực. “Nè, vậy là bồ mê người ta rồi hén?” Kaori đột nhiên nhòm vào mặt tôi, khiến tim tôi nảy thót lên một cái. “H-Hả?” “Ảnh đã cứu bồ khỏi một bàn thua trông thấy còn chi? Lại điển trai như vậy, có cảm thấy ngây ngất vì ảnh cũng hổng kì đâu à. Chị hai nhà tui cũng hâm mộ anh Holmes lắm á.” “C-Còn Kaori thì sao?” Tôi ngần ngừ hỏi. Kaori liền nhăn nhó ra mặt, rồi lắc đầu. “Tui chịu chết. Ấn tượng rằng ảnh đáng sợ và khó lường trong tui quá mạnh. Chị hai suốt ngày mơ mộng kêu ảnh đẹp trai. Chứ tui thì thực lòng ớn cái kiểu nhìn thấu mọi chuyện của ảnh lắm.” Cũng phải, trong vụ Saiodai, những việc Kaori làm đều bị anh Holmes phát hiện ra, cảm thấy sợ có lẽ cũng chẳng có gì vô lí. “Thế Aoi thấy sao?” “N-Nói thật là cũng hơi xao động... Có điều, tớ đã trải qua một thời gian dài đau khổ vì bạn trai cũ, nên giờ cũng không hiểu rõ lắm về cảm xúc của mình.” “Cũng phải. Cơ mà cả mùa hè bồ ở cạnh anh Holmes thì phải rút ngắn được thêm khoảng cách chứ?” “Không, anh Holmes theo ông chủ ra nước ngoài suốt kì nghỉ hè, còn tớ thì chỉ trông cửa hàng thôi.” “Ông chủ là ông Yagashira Seiji ấy hả?” Ông nội của anh Holmes, chuyên gia giám định cấp quốc gia Yagashira Seiji có vẻ được khá nhiều người trong thành phố này biết đến. “Ừ, nghe nói ông chủ nhận rất nhiều công việc ở nước ngoài, hình như đợt nghỉ hè nào cũng dẫn anh Holmes đi đây đi đó.” “Ờ, phải rồi, anh Holmes là người kế nghiệp ông ấy mà ha” Kaori gật gù. Cụm từ “kế nghiệp” quả nhiên không lệch đi đâu được. Là người có tầm ảnh hưởng quốc tế trong giới giám định mĩ thuật hiện nay, có vẻ ông chủ đang cố gắng hết sức để đứa cháu kế nghiệp mình là anh Holmes được thật nhiều người trong ngành biết đến. Theo lời anh Holmes thì đó không phải chuyện mới bắt đầu gần đây, mà từ xưa, hễ được nghỉ dài là anh ấy lại bị ông lôi đi nước ngoài, không có thời gian học hành gì cả. Nhắc mới nhớ, hồi mới gặp anh ấy cũng kể mình “toàn đi chơi với ông nội nên không vào được hệ đại học của Đại học Kyoto”, hoá ra là ám chỉ chuyện này. “Nên là trong thời gian nghỉ hè, tớ đã cùng quản lí trong tiệm Kura.” “Chẹp, mùa hè của bồ coi bộ hổng có chút hơi thở lãng mạn nào sất. Ngồi coi tiệm với bác quản lí thì nhạt nhẽo thí mô à.” “Tớ thấy trong tiệm cùng bác quản lí cũng thoải mái lắm.” Quản lí tuy ít nói nhưng rất tốt bụng, tôi rất thích khoảng thời gian được ở cùng bác ấy. “Vậy là một mình bác quản lí phải trong cả cửa tiệm lẫn nhà riêng, coi bộ cũng cực ha... Nhắc mới nhớ, hổng biết cái anh Holmes đó sống trong căn nhà như thế nào ta?” Tôi chỉ biết chớp mắt trước câu hỏi từ trên trời rơi xuống của Kaori. “Nhà á?” “Ảnh dầu sao cũng là người trong giới mĩ nghệ cổ, nên tui có cảm giác ảnh sẽ sống trong một căn nhà kiểu Nhật có kiến trúc xưa cũ hay đại loại thế?” “Ừ, hợp lí. Anh ấy lại còn đặc sệt chất trai Kyoto, dễ là sống trong nhà kiểu Nhật[6] truyền thống lắm.” Tôi gật đầu tán thành. Kaori bỗng nhíu mày nhìn tôi với vẻ khó hiểu. “Trai Kyoto là sao? Phải là ‘nam nhân Kyoto’ chứ?” Cậu ấy đặt câu hỏi giống hệt anh Holmes. Dân Kyoto xem ra hơi bị nhạy cảm khi người khác tuỳ tiện cải biên những từ ngữ có từ xưa của họ. “Ừ, tớ biết, cơ mà tớ thấy ‘trai Kyoto’ dùng để diễn tả anh Holmes hợp hơn là ‘nam nhân Kyoto’ ấy. Cảm giác nhẹ nhàng hơn nam nhân Kyoto một chút, kiểu thế.” “... Ờ, nghe bồ biểu tui mới thấy đúng là có thể cảm nhận được sắc thái đó thiệt.” Cậu ấy gật gù, có vẻ đã thông. Xem ra người Kyoto vẫn sẽ chấp nhận sự cải biên miễn là họ hiểu được nó. “Mà vậy nghĩa là bồ hổng biết nhà anh Holmes ở đâu hử?” Kaori khơi lại chủ đề, khiến tôi sực tỉnh và ngẩng mặt lên. “Ừ. Tớ chưa từng đến hay trông thấy nhà anh ấy.” Chỉ là, tôi đã từng nghe qua “tình trạng nơi ở” của gia đình Yagashira. Nhà ông chủ ở gần chùa Ginkaku-ji, quản lí sống trong một khu chung cư ở Yasaka, còn anh Holmes vừa đi lại giữa hai căn nhà ấy vừa coi sóc chúng. Đối với anh Holmes, trạng thái đó giống như anh có hai căn nhà vậy. “Vậy sao? Ra là cả nhà họ hổng có sống chung.” Sau khi nghe tôi kể về tình trạng nơi ở của gia đình Yagashira, Kaori ồ lên, hai tay khoanh trước ngực với vẻ hứng thú. “Mà sắp tới tớ được mời đến nhà ông chủ đấy.” “Thích vậy. Về nhớ tả lại cho tui nghe xem nhà cửa thế nào nha.” Nhưng khi nghe tôi nói tiếp rằng, “Hôm ấy tớ muốn Kaori đi cùng tớ nữa cậu ấy bật ra một tiếng “Hả?” lạc điệu, rồi lắc đầu nguây nguậy như muốn cự tuyệt bằng toàn bộ cơ thể. “Tui á? Tại sao? Chịu thui, tui hổng muốn đụng mặt anh Holmes đâu.” “Ơ, tại sao?” “Cảm giác làm gì cũng sẽ bị ảnh bắt bài, sợ lắm.” Kaori phản đối với vẻ mặt hết sức nghiêm túc, khiến tôi bất giác phì cười. “Có thể anh ấy sẽ bắt bài được cậu thật, nhưng không sao đâu.” “Rõ ràng là sẽ bị bắt bài mờ, hãi chết đi được. Mà sao Aoi vẫn tỉnh queo vậy? Bị ảnh đi guốc trong bụng mà hổng thấy ớn sao?” “T-Tớ à? Ban đầu có hơi rợn gáy thật, nhưng dạo này cũng quen quen rồi. Có thể nói rằng nhanh hiểu ý nhau hơn kể ra cũng là chuyện tốt?” “Nhanh hiểu ý nhau là do bồ quen quá thành chai rùi đó. Mà sao tự dưng lại rủ tui?” Kaori thấy thắc mắc cũng dễ hiểu thôi. “Chuyện là... ngày hôm qua...” Khi tôi bắt đầu chậm rãi kể, Kaori nuốt nước bọt lắng nghe. Mời các bạn mượn đọc sách Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).
Holmes ở Kyoto
Nằm lẻ loi tại một góc phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto là cửa hàng đồ cổ “Kura”. Từ một sự việc tình cờ, nữ sinh cấp ba Mashiro Aoi đã quen biết cháu trai chủ cửa hàng ấy, tên là Yagashira Kiyotaka, rồi sau đó, cô bé bắt đầu làm thêm tại đây. Kiyotaka là một người ăn nói dịu dàng, cư xử hoà nhã, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Anh được gọi là “Holmes của phố Teramachi”. Aoi cùng Kiyotaka nhận được rất nhiều yêu cầu liên quan tới các món cổ vật mà khách hàng mang tới... Một tác phẩm kì bí nhẹ nhàng rất xuất sắc lấy bối cảnh cố đô Kyoto! *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** HOLMES VÀ THIỀN SƯ BẠCH ẨN “Quý khách có món đồ cổ nào đang ngủ quên trong nhà không? Cửa hàng chúng tôi nhận giám định và thu mua đồ cổ!” Khi đi bộ dọc con phố mua sắm mái vòm[1] đông đúc náo nhiệt ở Teramachi Sanjo thuộc Kyoto, ta sẽ thấy một tiệm đồ cổ nhỏ nằm giữa những cửa hàng kề nhau san sát. Trên biển hiệu, chỉ có một chữ Hán “Kura”[2]. Đây có vẻ là tên cửa hàng. (Nếu nói đến tiệm đồ cổ, trong đầu mình sẽ hiện lên các cái tên như, “Phòng triển lãm OO”, hay “Antique[3] OO”, hoặc cái tên nào đó có gắn chữ “Đường”[4], thế nhưng ở đây lại có mỗi một chữ “Kura”, đơn giản quá nhỉ...) Đó là ấn tượng đầu tiên của tôi với cửa hàng này Không khí cửa hàng giống như một quán cà phê retro[5]hơn là một tiệm đổ cổ. Cửa hàng được bài trí kết hợp phong cách Nhật Bản và phương Tây, làm người ta liên tưởng tới thời kì Minh Trị - Đại Chính[6]. Sát lối vào là một góc uống trà, còn phía bên trong thì bày sản phẩm. Tôi thấy bóng dáng một người phụ nữ đứng tuổi với một người đàn ông đang uống cà phê và chuyện trò vui vẻ. Thật sự là nếu không nhìn biển hiệu, có khi tôi sẽ nghĩ đây là một quán cà phê. Trong khi tôi đang đứng trước cửa hàng và lấm lét ngó vào trong, tôi nhận ra mấy người đi ngang qua cứ thi thoảng lại lén liếc nhìn tôi một cái. “...” Tôi luống cuống chỉnh lại tư thế, mặt làm ra vẻ chẳng biết gì. Chắc người ta sẽ thấy lạ lắm khi bắt gặp một nữ sinh cấp ba lảng vảng trước cửa hàng đổ cổ. “Cô bé kia muốn vào cửa hàng mà không vào được nhỉ?” Có thể họ sẽ nghĩ về tôi theo kiểu ấy cũng nên. Nếu người ta nghĩ như thế thì... vâng, chuẩn rồi. Đúng, tôi là một cô nữ sinh cấp ba chán đời, dù muốn vào hàng đồ cổ này nhưng không thể, thế nên đang lảng vảng ở bên ngoài. Cũng bởi, nếu đây là một tiệm tạp hoá mang phong cách Bắc Âu cởi mở, hay một cửa hàng đồ cổ nhẹ đô hơn thì đã chẳng nói làm gì. Nhưng không khí cửa tiệm này lại đậm chất “cửa hàng mĩ nghệ cổ”, nên tôi không thể thoải mái bước vào. “Nhận giám định và thu mua đồ cổ.” Kể từ khi tình cờ nhìn thấy dòng chữ đó, tôi đã để ý đến cửa hàng này. Bao nhiêu lần tôi đã bụng bảo dạ rằng, “Vào thôi, vào thôi,” nhưng kết quả là tôi vẫn cứ lướt qua. “Kyoto”. Không phải quá lời khi nói đây là địa điểm tham quan số một Nhật Bản. Trong vòng một năm, rất nhiều khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới đã ghé thăm nơi đây. Thế nhưng, đối với một học sinh cấp ba sống tại mảnh đất này mà nói, đây không ngờ lại là một “thành phố không có chỗ để vui chơi”. Đền chùa miếu mạo thì tuyệt vời và cũng xoa dịu lòng người đấy, nhưng không phải nơi cho bạn bè tụ tập chơi đùa. Chỗ để giải trí loanh quanh chỉ có tới quán karaoke hoặc trung tâm thương mại lớn, tạt vào rạp chiếu phim ở Sanjo rồi đi dạo lòng vòng ở khu mua sắm mái vòm mà thôi. Nhân tiện, tôi thấy con chim linh vật tên “Sanjoto~ri”, biểu tượng của khu phố mua sắm Sanjo, đáng yêu hết biết. Tôi thích nó ghê. A, ở lối vào cửa hàng này cũng dán poster “Sanjoto~ri” nữa. Quả nhiên là đáng yêu thật, nhìn mà dịu cả lòng. Mà thôi, tạm thời không nói đến chuyện đó. Vì lí do kể trên, hễ tới chơi ở phố mua sắm Sanjo, tôi lại liếc nhìn cửa hàng “Kura”, nhưng lần nào cũng chỉ lướt ngang qua nó. Đến nước này rồi, tôi không thể cứ lảng vảng bên ngoài mãi được. Tôi nắm chặt quai chiếc túi giấy trong tay. (Được rồi, vào thôi!) Ngay giây phút tôi vừa hạ quyết tâm, một người đàn ông trung niên mặc com lê từ sau lưng vượt qua tôi êm ru rồi mở cửa đánh xạch một cái. “Chào cả nhà, Holmes có đây hôn?” Ông vừa nói vậy vừa bước vào cửa tiệm. (Holmes?) Dù cảm thấy khá là kì quặc, tôi vẫn bước vào cửa hàng, như thể bị lôi kéo bởi người đàn ông nọ. Vừa mới vào bên trong, tôi trông thấy ngay một bộ sô pha cổ làm người ta liên tưởng tới phòng tiếp khách của những tòa kiến trúc phương Tây cổ kính. Một phụ nữ đứng tuổi đang vui vẻ nâng tách cà phê lên miệng. Chiếc đèn chùm nhỏ treo trên trần nhà không cao lắm. Một cái đồng hồ tủ đứng rất to dựng sát tường. Rất nhiều những món đồ cổ và vật dụng đủ loại được bày trên giá nằm sâu bên trong cửa hàng. Nhìn từ cửa ra vào thì cửa hàng trông cũng nhỏ, nhưng bên trong có vẻ khá sâu. Mời các bạn mượn đọc sách Holmes ở Kyoto của tác giả Mai Mochizuki & Thu Thủy, Nhân Văn (dịch).