Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC - NGUYỄN DỮ

Truyền kỳ mạn lục (chữ Hán: 傳奇漫錄, nghĩa là Sao chép tản mạn những truyện lạ), là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dư (thường được gọi là Nguyễn Dữ), sống vào khoảng thế kỷ 16 tại Việt Nam. Đây là tác phẩm được Hà Thiện Hán viết lời tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm (thầy dạy tác giả) phủ chính, Nguyễn Thế Nghi, dịch ra chữ Nôm, và đã được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?), đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút".

Ngay từ khi tác phẩm mới hoàn thành đã được đón nhận. Về sau, nhiều học giả tên tuổi như: Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Trần Ích Nguyên (Đài Loan)... đều có ghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá tác phẩm này.

Ngay từ khi tác phẩm mới hoàn thành đã được đón nhận. Về sau, nhiều học giả tên tuổi như: Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Trần Ích Nguyên (Đài Loan)... đều có ghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá tác phẩm này.

Nhiều bản dịch ra chữ quốc ngữ, trong đó bản dịch của Trúc Khê năm 1943 được coi như đặc sắc nhất.

Nhiều bản dịch ra chữ quốc ngữ, trong đó bản dịch của Trúc Khê năm 1943 được coi như đặc sắc nhất.

Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, thì Nguyễn Dữ viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ông ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh.

Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, thì Nguyễn Dữ viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ông ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh.

Trong Từ điển Văn học (bộ mới), nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cho biết trong thế kỷ 16, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ trước; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực... Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước... Cho nên Nguyễn Dư đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ 16...

Trong Từ điển Văn học (bộ mới), nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cho biết trong thế kỷ 16, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ trước; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực... Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước... Cho nên Nguyễn Dư đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ 16...

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

LỊCH AN NAM (1890) THÔNG DỤNG TRONG 6 TỈNH NAM KỲ
Kim lớn đồng hồ Tây đi giáp một vòng, kim nhỏ đi giáp một khoản, thì là một giờ Tây. Như cả kim lớn, kim nhỏ chỉ số 12, nghĩa là giờ thứ 12, thì là nhằm giữa giờ tý, giờ ngọ An-Nam, hay là tý trung, ngọ trung. Kim lớn từ số 12 cứ việc đi một vòng cho giáp lại số 12. Kim nhỏ đi lần một khoản cho tới số 1, nghĩa là giờ thứ nhứt tây, thì là đầu giờ sửu, hay là giờ mùi An-Nam. Kim lớn bắt đầu từ số 12 đi một vòng khác cũng giáp số 12, kim nhỏ đi tới một bậc cho tới số 2, nghĩa là giờ thứ 2 tây, thì nằm giữa giờ sửu, giờ mùi. Cứ việc tính làm vậy cho đến khi kim nhỏ chỉ số 11, kim lớn giáp 12, thì là đầu giờ tí, giờ ngọ, vân vân...
PHONG TỤC MIỀN NAM QUA MẤY VẦN CA DAO
Đất đai miền Nam phong thạnh, khí hậu ôn hòa, nếu không có chiến tranh thì dân Nam sống dễ dàng thong thả, không mấy khi khổ sở vì địa ách thiên tai; trên rẫy, khoai, bắp, đậu đủ ăn; dưới ruộng, dồi dào bông lúa; sông rạch, đầm ngòi, tôm cá chẳng thiếu chi. Vì vậy, ca dao miền Nam không nhắc nhở nhiều tới sự cần cù khó nhọc  chỉ năm ba câu khuyến khích sự gắng công. Phong tục miền Nam qua mấy vần ca dao rất giàu tình cảm  được thể hiện qua ca dao tả cảnh, tu thân, tình gia tộc, phong tục thôn quê, ngoài xã hội, những câu hát vặt…   Đất đai miền Nam phong thạnh, khí hậu ôn hòa, nếu không có chiến tranh thì dân Nam sống dễ dàng thong thả, không mấy khi khổ sở vì địa ách thiên tai; trên rẫy, khoai, bắp, đậu đủ ăn; dưới ruộng, dồi dào bông lúa; sông rạch, đầm ngòi, tôm cá chẳng thiếu chi. Vì vậy, ca dao miền Nam không nhắc nhở nhiều tới sự cần cù khó nhọc  chỉ năm ba câu khuyến khích sự gắng công.Phong tục miền Nam qua mấy vần ca dao rất giàu tình cảm  được thể hiện qua ca dao tả cảnh, tu thân, tình gia tộc, phong tục thôn quê, ngoài xã hội, những câu hát vặt…  
THUYẾT MẠC - AN NAM TIỂU THUYẾT (1925) - ĐINH GIA THUYẾT
Năm 1925, nhà in Mạc Đình Tứ cho xuất bản Thuyết Mạc của Thi Nham Đinh Gia Thuyết. Thuyết Mạc đã nói rõ về cội nguồn của dòng họ Mạc ở Việt Nam cũng như thể hiện quan điểm cách nhìn nhận đánh giá nhà Mạc tương đối khách quan của tác giả, tuy có một số điểm chưa chính xác về thế thứ của các vua Mạc. Năm 1925, nhà in Mạc Đình Tứ cho xuất bản Thuyết Mạc của Thi Nham Đinh Gia Thuyết. Thuyết Mạc đã nói rõ về cội nguồn của dòng họ Mạc ở Việt Nam cũng như thể hiện quan điểm cách nhìn nhận đánh giá nhà Mạc tương đối khách quan của tác giả, tuy có một số điểm chưa chính xác về thế thứ của các vua Mạc.
TRUYỆN TÍCH VIỆT NAM - LÊ HƯƠNG
Trước đây rất lâu và hiện thời đã có nhiều người sưu tầm hoặc viết lại truyện cổ Việt Nam đăng báo và in thành sách. Lẽ cổ nhiên có nhiều người biết nhiều chuyện đến thuộc lòng. Trước đây rất lâu và hiện thời đã có nhiều người sưu tầm hoặc viết lại truyện cổ Việt Nam đăng báo và in thành sách. Lẽ cổ nhiên có nhiều người biết nhiều chuyện đến thuộc lòng.Soạn quyển nầy, chúng tôi đề tựa là Truyện Tích Việt Nam vì xét rằng thành phần không phải hoàn toàn là truyện cổ đã xuất hiện không biết từ bao giờ cũng như không biết ở nơi nào. Soạn quyển nầy, chúng tôi đề tựa là Truyện Tích Việt Nam vì xét rằng thành phần không phải hoàn toàn là truyện cổ đã xuất hiện không biết từ bao giờ cũng như không biết ở nơi nào.