Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Viên Nhộng Xanh

Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điệp Viên Ở Washington - Peter Maas
Cuốn sách này kể về toàn bộ những hoạt động của Aldrich Ames kể từ khi bắt đầu quyết định cộng tác với tình báo Liên Xô, năm 1985, cho tới khi bị FBI theo vết và bắt giữ rồi đưa ra tòa án xét xử trong năm 1994. Một điệp vụ điển hình của thời kỳ chiến tranh lạnh. Bắt đầu từ những năm cuối của cuộc chiến tranh lạnh và kéo dài trong cả thời kỳ sau khi chiến tranh lạnh đã kết thúc, điệp vụ chuyển giao những thông tin mật cho phía KGB của Aldrich Ames có một tác động lâu dài đến cộng đồng tình báo Mỹ cả sau khi Aldrich Ames đã bị bắt. Sẽ còn rất lâu nữa, CIA mới có thể đánh giá được những thiệt hại mà cơ quan tình báo sừng sỏ của Mỹ phải chịu trong điệp vụ này. Mà cũng có thể là CIA sẽ chẳng bao giờ có thể lượng định được một cách chính xác những thiệt hại đó. Hoạt động tình báo, phản gián vốn là thế giới của những điều “có thể” và “không thể”! *** Trong những buổi thẩm vấn tiếp theo, khi được hỏi về vấn đề tài chính, Rosario bỗng bất thần nổi đoá. “Sao các ông cứ hỏi tôi mãi về tiền nong thế! Lúc nào các ông cũng chỉ quan tâm đến tiền? Các ông lại còn hỏi khi nào thì tôi biết Rick có nhiều tiền? Vì sao các ông cứ hỏi tôi mãi chuyện ấy? Không phải tôi có vấn đề về tiền nong mà chính lũ người Mỹ các ông mới bị ám ảnh về chuyện đó. Ở Bogotá, chúng tôi không bao giờ hỏi một người xem anh ta kiếm tiền bằng cách nào.” Điệp viên Đanielle Linden, người tham gia hầu hết các cuộc thẩm vấn Rosario, đồng ý rằng nếu ở Bơgotá mà hỏi một người xem anh ta kiếm tiền ở đâu thì có nhiều khả năng người hỏi sẽ bị ăn đạn? Rosario khai vào thời gian họ cưới nhau, Rick đã không nói ngay cho cô ta biết về khoản đầu tư liên quan đến “người bạn Robert ở Chicago”, lý do dẫn đến nguồn tiền ào ạt đổ vào tài khoản của hai người. Rosario nói thời kỳ hai người ở Mexico City, cô ta có cảm tưởng rằng Rick không bao giờ phảl lơ lắng về vấn đề tiền bạc. Sự túng bấn chỉ xuất hiện khi cô ta về sống ở Washington mà nguyên nhân là vì Rick phải chi phí nhiều cho vụ ly dị của mình. Và rồi đến thời kỳ Rick đi công tác ở Roma, khi những tài khoản ở ngân hàng Thuỵ S xuất hiện thì anh bạn “Robert” này mới được viện dẫn ra như là lý do cho những nguồn tiền bất ngờ đó. ... Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Ở Washington của tác giả Peter Maas.
Thiên Thần Bay Qua Mộ Con - Valerie Wilson Wesley
– Phải em không, Tamara? – Giọng người phía đầu dây hỏi tôi. Tôi nhận ra anh ta ngay lập tức, nhưng không trả lời. DeWayne Curtis là người cuối cùng mà tôi muốn nói chuyện vào sáng chủ nhật hôm nay, nhất là khi tôi vẫn chưa ra khỏi giường. – Phải em không? – Anh ta hỏi lần nữa. – Còn ai vào đây nữa? Anh đã chọn số của tôi, đúng không? – Cuối cùng tôi lên tiếng. – Anh phải nói chuyện với em, Tamara. Việc gấp lắm. Anh đang đứng trong ca–bin điện thoại bên dưới đường Parkway. – Cái gì?! – Tôi kinh hãi thét vào ống nghe và nhỏm người ra khỏi gối. Việc DeWayne Curtis vẫn nghiễm nhiên cho rằng tôi luôn phải chạy theo những nhu cầu của anh ta khiến tôi nổi điên. Trước đây 15 năm trời, khi tôi quen và cưới người đàn ông đó, tôi còn trẻ và còn đủ ngu để nhầm lẫn tính tự kỷ cao ngạo của anh ta là bản lĩnh. Giờ thì tôi đã thông minh hơn và đừng hòng. – Anh muốn gì? – Tôi hỏi, không thèm giữ lịch sự. Cậu con trai Jamal của chúng tôi ở trong phòng riêng, chắc vẫn đang ngủ, vậy là tôi không cần phải che giấu tình cảm thực của mình. Tôi có thể nói chuyện với DeWayne theo đúng cái kiểu mà tôi thích. – Anh muốn gì thì nói ra, bằng không để cho tôi được yên. – Suy nghĩ của tôi lúc này rất muốn với tới một điếu thuốc lá nằm trong ngăn kéo bàn trang điểm, nơi ngày trước chúng thường nằm, mặc dù tôi đã cai được cả nửa năm nay. Tất cả chỉ vì DeWayne. – Anh phải nói chuyện với em, – anh ta nhắc lại, lần này khẩn thiết hơn. – Vừa có chuyện xảy ra, anh phải nói chuyện với ai đó. Anh phải lên chỗ em, Tammy. ... Mời các bạn đón đọc Thiên Thần Bay Qua Mộ Con của tác giả Valerie Wilson Wesley.
Hoa Súng Đen - Michel Bussi
Với văn phong nhã nhặn, từ tốn mà lãng mạn đậm chất Pháp, Michel Bussi đã "thôi miên" độc giả bằng những vụ án quanh co, ẩn chứa trong đó là bí mật sẽ được tiết lộ vào phút chót. (Thụy Oanh) “Ba người phụ nữ sống trong một ngôi làng. Người thứ nhất độc ác, người thứ hai dối trá, người thứ ba ích kỷ. Tuy nhiên họ có cùng một điểm chung, một bí mật, đại loại thế: cả ba đều mong ước ra đi… Mười ba ngày trôi qua như một dấu ngoặc đơn trong cuộc đời họ…Mở ngoặc là một vụ giết người, vào ngày đầu tiên, và đóng ngoặc là một vụ giết người khác, vào ngày cuối cùng…” Bạn có mê trường phái Ấn tượng? Bạn có biết danh họa Monet? Bạn có biết một trong những nguồn cảm hứng lớn nhất của ông? Chính là từ khu vườn ao nổi tiếng – những bức tranh hoa súng nổi tiếng của Monet đều được vẽ từ khu vườn này. Và khu vườn với ngôi làng Giverny đã là bối cảnh cho tiểu thuyết trinh thám ly kì của Michel Bussi. Trong mười ba ngày, hàng loạt vụ giết người khuấy động cảnh tĩnh mịch của Giverny. Mọi thứ liên quan tới ba người phụ nữ, cùng những lời đồn thổi về một kiệt tác hội họa bị đánh cắp. Với Hoa súng đen, Michel Bussi càng khẳng định biệt tài dẫn dắt – ông đã hòa quyện thực và ảo một cách điêu luyện, khiến độc giả cuốn đi, mê say tới tận trang cuối. “Một cuốn tiểu thuyết trinh thám tuyệt vời của bậc thầy ấn tượng.” Cảm nhận: "Cuốn sách làm mình phát điên, phát hờn, tại sao lại có thể như thế. Một cái kết không thể khó chịu hơn. Hết một cuộc đời, gần 80 năm sống bên cạnh người mình không yêu, một kẻ tiểu nhân. Tội ác, trừng phạt, ở đâu? Tại sao bà ấy sống được như thế hả trời! Cuốn sách duy nhất mình đánh dấu 1*, không phải vì nó quá tệ mà vì nó quá xuất sắc, xuất sắc đến mức đau tim, logic đến mức không muốn chối cãi, 1* vì không muốn chấp nhận điều đó." - Huongta - Review: "Tiểu thuyết Hoa súng đen sẽ đem độc giả đến ngôi làng Giverny xinh đẹp của vùng Normandie, miền Nam nước Pháp. Đây là nơi danh họa Claude Monet dành rất nhiều tâm huyết để xây dựng khu “Vườn ao” nổi tiếng và cho ra đời hàng loạt kiệt tác vẽ hoa súng. Ở ngôi làng tuyệt diệu và thanh bình này đã xảy ra một vụ án mạng. Dường như cái chết cuả kẻ xấu số có liên quan đến bức tranh “Hoa súng đen” bị đánh cắp cuả Monet. Nạn nhân là Jérôme Morval, một người đàn ông ngoài 40 tuổi: trăng hoa, giàu có, dối trá và lắm mưu mô. Nghề nghiệp chính của hắn là bác sĩ nhãn khoa, không những thế Jérôme còn tham gia mua bán các bức tranh cổ và luôn khao khát có bức vẽ hoa súng của Monet. Một con người như vậy có quá nhiều lý do để bị giết: một vụ án mạng vì tình, vì tiền, hay vì chính bức tranh mà nạn nhân hằng khao khát. Thanh tra Laurenç Sérénac và cộng sự là Sylvio Bénavides lao vào điều tra để tìm nhanh chóng tìm ra hung thủ, từ những manh mối nhỏ nhất tìm thấy ở hiện trường như: tấm thiếp chúc mừng sinh nhật đã ngả màu, vài ba dấu giày để lại trên bùn nhão. Nhưng hành trình tìm ra hung thủ thật không dễ dàng. Tất cả các manh mối đều đi vào ngõ cụt. Những đối tượng tình nghi đều có bằng chứng ngoại phạm. Vào giờ phút quyết định để vạch mặt kẻ thủ ác, thanh tra Sérénac lại vướng vào lưới tình với cô giáo Stéphanie xinh đẹp, người phụ nữ có đôi mắt ánh tím u buồn như những bông hoa súng trong ao của Monet? Liệu tội ác có được đưa ra ánh sáng? Hay tất cả những bí mật sẽ ngủ yên cùng ngôi làng cổ kính. Mấu chốt cho sự thành công của một tiểu thuyết trinh thám nằm ở việc tác giả có biết cách khơi gợi trí tò mò của người đọc và dẫn dụ họ đi tìn hung thủ hay không? Ở Hoa súng đen, Michel Bussi đã làm rất tốt điều này. Mở đầu cuốn tiểu thuyết ông không đi thẳng vào vụ án mạng. Nhà văn Pháp bắt đầu câu chuyện bằng việc giới thiệu về ba người phụ nữ sống ở làng Giverny. ... Hoa súng đen là một tiểu thuyết trinh thám thuộc thể loại tâm lý hình sự. Tác giả đã thành công ở cả hai phương diện khi vừa xây dựng được một vụ án ly kì, vừa miêu tả xuất sắc nội tâm của hệ thống các nhân vật với nhiều sắc thái và biến chuyển khác nhau. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba, tạo không gian đa chiều đa chiều đậm chất điện ảnh cho tiểu thuyết. Không chỉ có vậy, Hoa súng đen còn là một sự kết hợp tuyệt vời giữa hội họa và văn chương. Những bức tranh hoa súng của Monet, khu vườn ao, hay khung cảnh vùng Normandie đã trở thành một phần không thể thiếu của tác phẩm. Lật giở từng trang sách, ngoài câu chuyện về vụ án, độc giả còn được tìm hiểu về cuộc đời của Monet, lịch sử hình thành và phát triển của trường phái Ấn tượng cũng như nền hội họa châu Âu cuối thế kỉ XIX, đầu thế thế kỷ XX. Để khi gấp sách lại, độc giả không chỉ thỏa mãn vì đã tìm ra hung thủ mà còn muốn ngắm nhì những bức tranh vẽ hoa súng của Monet." - Thụy Oanh - "Đây là lần đầu tiên khi đọc một quyển sách mà khiến mình phải hộc tốc lật đi lật lại những trang đầu tiên để xem thử mình vừa đọc những gì, và liệu điều đó có thật không. Mình không tin vào tâm trí của mình nữa, cứ như nó đã bay qua đến tận làng Giverny. Một câu chuyện hoàn hảo! Không thứ gì có thể khiến cho cấu trúc chặt chẽ của câu chuyện này bị phá hỏng, không một sai sót, không một gúc mắc, không cả một kẽ hở. Lúc nhận ra mình đã bị cuốn vào vùng xoáy điên rồ này, mình cứ ngớ ra một lúc, tay run bần bật không thể tin được vào mắt mình (tật xấu khi đọc sách là hay bị kích động thái quá). Ôi, nếu mình bỏ cuộc vì những khúc dạo đầu nhàm chán, thì hẳn mình sẽ không bao giờ hoàn thành nó rồi. Quá tuyệt vời cho một cái kết. Nhưng, quá đau đớn cho một đời người. Mình hiểu cảm giác của ba người phụ nữ ấy, khi ‘sống’ trong cái nơi mà mình coi là cả thế giới quá lâu, ai cũng đều muốn chạy trốn. Sống một cuộc đời bị giam cầm trong cái ao tù, dù cho nó đẹp đến nao lòng, vẫn là bị tước mất tự do. Họ chỉ muốn chạy trốn khỏi số phận, khỏi cái thứ đã giữ chân họ khỏi việc mở rộng tầm mắt ra và nhìn thấy thế giới này. Dù cho chỉ là ảo ảnh, tôi muốn được trốn thoát khỏi nơi này. Nhưng tình yêu, tình yêu đã giữ tôi ở lại. Như trong một bài review trước tôi đã từng nói, hóa ra vì tình yêu người ta có thể làm tất cả những chuyện điên khùng nhất, kinh khủng nhất, rồ dại nhất. Khi đọc đến mẩu chuyện về cô bé Fanette và Albert, tự dưng mình lại nhớ đến một đoạn trong bài Hazard của Richard Marx: We used to walk down by the river She loved to watch the sun go down We used to walk along the river And dream our way out of this town Rồi đến cuối cùng, chẳng ai rời được ngôi làng khốn khổ ấy. Tôi yêu câu chuyện này, yêu cả sự khốn khổ đáng thương mà những nhân vật này phải chịu đựng sau ngần ấy năm, yêu những bức tranh mà tôi phải tra google liên tục để dễ dàng mường tượng ra. Và tất nhiên, yêu luôn dòng sông có làn nước được nhuộm hồng, không phải từ chỗ mà cọ vẽ đang được rửa, mà từ cái thứ rỉ máu đang lềnh bềnh trôi trên sông. 'Màu phai thật tinh tế…' Ít ra đến phút cuối, vẫn còn chút gì đó gọi là có hậu… - Tran Nguyen Phương Uyên - Mời các bạn đón đọc Hoa Súng Đen - Michel Bussi.
Âm Thanh Của Im Lặng - Minh Nhật
Chúng ta vẫn sợ những cái lặng thinh, sợ bóng đêm và sợ cả cô độc. Nhưng đáng sợ hơn là những rền rĩ của lặng thinh, những nhập nhòe của sáng tối và những người xuất hiện như gió và biến mất như cát bụi… Đáng sợ và ám ảnh! Âm thanh của im lặng là một cuốn tiểu thuyết bám riết lấy những nỗi sợ hãi ấy, để hằn lên những câu hỏi, dồn dập những mật mã, càng mở ra càng bung bật bí mật khủng khiếp. “Cô lướt qua đời anh như cơn bão, xáo trộn tất cả những tẻ nhạt hàng ngày rồi… biến mất không lý do, không một lời giải thích. Ngỡ rằng mối tình ấy sẽ cứ thế lãng quên, ngờ đâu một ngày những bí mật kinh hoàng được tiết lộ, những mối quan hệ chằng chịt bất thường, những cái chết bất ngờ không báo trước... Những dấu hỏi không lời giải đáp ngày một nhiều hơn.  Bóng dáng cô vẫn cứ tồn tại mơ hồ mà rõ rệt trong từng cái chết đầy uẩn khúc. Và anh bước vào hành trình đi tìm cô gái kì lạ của cuộc đời mình, lật dần, lật dần nhũng mảnh ghép cuộc đời cô. Chẳng có điều gì trên đời là ngẫu nhiên, một thế lực nào đó, một ai đó... Ma hay người? Thực hay hư? Vô tình hay hữu ý?  Mỗi bước lật quá khứ là lao đầu thêm vào tăm tối, tuyệt vọng, mất mát. Mỗi bước lật là một cái chết, một cái chết bất ngờ, lửng lơ và đáng sợ. Kinh hoàng, gay cấn và cuồng loạn.  Lớp lang, khúc mắc nhưng cực kì thông minh. Âm thanh của im lặng - một cuốn tiểu thuyết trinh thám kì lạ chắc chắn đáng để bạn đọc, nghiền ngẫm và say đắm.” Âm thanh của im lặng – cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh dị đầu tiên của cây bút tài năng Minh Nhật *** Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của tiểu thuyết này, tôi không hề định trước rồi nó sẽ trở thành một cuốn sách như các bạn đang cầm trên tay. Tôi chỉ viết, vì cảm thấy đã đến lúc nên làm thứ gì đó khác với những dòng cuối cùng của cuốn sách. Âm thanh của im lặng được bắt đầu thai nghén trong một căn phòng kín mà tôi đã tự nhốt mình suốt nửa năm - hoàn toàn không có liên lạc với thế giới bên ngoài - và kết thúc vào mùa đông lạnh lịch sử của Hà Nội khi ngoài trời chỉ còn 5 độ. Tôi biết nhiều người sẽ đặt câu hỏi về cuốn sách này, thể loại cũng như chủ đề của nó. Tôi sẽ để các bạn tự khám phá. Tôi tin rằng mình đã hoàn toàn hài lòng với bản thân khi viế xong Âm thanh của im lặng, và tôi hy vọng những độc giả của tôi cũng sẽ cảm thấy điều đó khi gập lại trang cuối cùng của cuốn sách. Tôi không có kỳ vọng cuốn sách sẽ thành công về mặt thương mại, bởi một cuốn trinh thám tình cảm không phải thứ mà số đông tìm kiếm, nhưng tôi biết mình muốn gì khi đặt bút viết nó, và với chỉ riêng điều đó, cuốn sách đã trở thành một thành công với cá nhân tôi và những độc giả vẫn luôn yêu quý tôi trong những tác phẩm trước đây. Tôi muốn dành lời cảm ơn gia đình tôi - vì đã luôn ở cạnh tôi, tin tưởng và hỗ trợ cho tôi trên con đường mình đã chọn. Cảm ơn Keng - không chỉ vì cô là quả lý của thương hiệu Skybooks, mà còn vì cô là người luôn đặt niềm tin vào tôi, là người đồng hành cùng tôi trong suốt quãng thời gian thú vị mà cũng đầy khó khăn để cho ra đời cuốn sách, chấp nhận được sự quái gở và khó chiều của tôi trong cả công việc cũng như cuộc sống. Cảm ơn Dương Rei - người đầu tiên đọc bản thảo của cuốn sách này, người đã cho tôi nhiều ý kiến thú vị trong việc chỉnh sửa bản thảo. Cảm ơn Ngân Hoàng - soulmate của tôi và cũng là người luôn khiến tôi quay trở lại bàn làm việc và kiên trì hoàn thành cuốn sách. Dù chưa bao giờ ở cạnh nhau thực sự, cô là nguồn cảm hứng khiến những dòng cuối cùng của cuốn sách này được viết nên. ... Mời các bạn đón đọc Âm Thanh Của Im Lặng của tác giả Minh Nhật.