Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Viên Nhộng Xanh

Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Đàn Ông Đến Từ Bắc Kinh - Henning Mankell
Tôi, Birgitta Roslin, xin thề danh dự sẽ làm tất cả bằng tâm hồn và lương tâm để xét xử công bằng dựa trên luật pháp và hiến pháp Thụy Điển với kẻ giàu cũng như người nghèo; không bao giờ làm sai hoặc lách luật vì lợi ích của gia đình tôi, của gia đình chồng tôi hoặc bạn bè tôi, vì ghen tuông, ác ý hay sợ hãi, để đổi lấy tiền hoa hồng, quà cáp hay vì bất cứ lý do nào khác; xin thề xét xử công tâm tất cả những ai cần bị xét xử; nghiêm túc giữ bí mật nghị án, trước cũng như sau khi kết án. Tôi sẽ tuân thủ lời thề này tuyệt đối như một thẩm phán trung thực và có phẩm cách. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ, Chương 4, đoạn 11. Lời tuyên thệ của thẩm phán. *** Thụy Điển, một ngày mùa đông lạnh lẽo năm 2006, mười chín người bị sát hại dã man tại một ngôi làng hẻo lánh ở miền Bắc, đa số nạn nhân đều là người già. Dấu vết duy nhất còn lại trên hiện trường là một dải lụa đỏ. Trung Quốc, năm 1863, ba anh em Sáng khởi hành cuộc hành trình dài tới miền đất hứa. Nhưng chờ đợi họ phía trước lại là kiếp sống con vật ở nước Mỹ xa xôi, sống không bằng chết. Một sợi dây mỏng manh, thoắt ẩn thoắt hiện liên kết hai câu chuyện. Một hung thủ tưởng như rõ mặt nhưng bị những lý tưởng, những vấn đề của xã hội Trung Quốc hiện đại che lấp. Nữ thẩm phán Birgitta Roslin không theo đuổi một cuộc điều tra gấp gáp, nghẹt thở mà trải dài từ quá khứ với những lắt léo của lòng người. Được mệnh danh là ông hoàng trinh thám Thụy Điển, Henning Mankell quả là biết cách khiến độc giả phải trăn trở! *** Đây là một cuốn tiểu thuyết: những gì tôi viết ra đều dựa vào thực tế, nhưng không phải tất cả mọi chi tiết đều là sự tái hiện chân thực các sự kiện có thật. Tôi cho rằng ngôi làng Hesjövallen hoàn toàn không tồn tại, tôi hy vọng là mình đã xem rất kỹ bản đồ. Nhưng vào thời điểm cuốn tiểu thuyết này được viết, tổng thống Zimbabwe đúng là có tên Robert Mugabe. Nói cách khác, tôi đã viết ra những điều lẽ ra có thể đã xảy ra chứ không phải những điều đã thực sự xảy ra. Đó là nền tảng của sự hư cấu. Ngay cả trong một cuốn tiểu thuyết, các tình tiết cũng nên mang dấu thực tế. Dù đó chỉ là những cánh chim trên bầu trời Bắc Kinh, hay việc liệu một thẩm phán có thể được Bộ Tư pháp cấp cho một chiếc sofa để trong phòng làm việc của mình hay không. Rất nhiều người đã giúp đỡ tôi trong khi tôi viết cuốn tiểu thuyết này. Đương nhiên trước hết là Robert Johnsson, người đã kiên trì thu thập, tìm kiếm thông tin. Và còn nhiều người khác, nếu viết hết ra sẽ là một danh sách rất dài. Đặc biệt là những người ở châu Phi mà tôi đã có dịp trao đổi với họ. Cho phép tôi không nêu tên mà chỉ xin được nói lời cảm ơn đến tất cả những người đã giúp đỡ tôi. Tuy vậy trách nhiệm đối với câu chuyện này thuộc về cá nhân tôi. Maputo, tháng Giêng 2008 Henning Mankell Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Đến Từ Bắc Kinh của tác giả Henning Mankell.
Vòng Tròn Ma Thuật - N. Mơrgiêannu
Vòng Tròn Ma Thuật này của tác giả là người Rumani, N. Mơrgiêannu. Vòng Tròn Ma Thuật là thể loại truyện điều tra hình sự được thẩm mỹ hoá, lời văn ví von tao nhã, ngay cả cái chết cũng được nhìn nhận ở một góc độ thẩm mỹ độc đáo Cuộc khám nghiệm tử thi vừa được tiến hành xong. Thân thể nạn nhân để trần được đặt trên nền đá hoa, nó toả một màu trắng toát dưới ánh đèn nêông. Tôi đứng trong căn phòng lạnh ngắt đó khoảng hai ba phút, cái căn phòng có không gian bốn chiều mà trong đó chiều thứ tư là chiều của cõi chết... Đột nhiên tôi có cảm giác như mình đang đứng trong một căn nhà kính ươm cây, bên ngoài là đêm tối và bão tuyết, còn trước mặt tôi là một nhành hoa loa kèn với những cánh hoa trắng ngần đang rụt rè hé nở...Có thể nói Vòng Tròn Ma Thuật có những giá trị nghệ thuật độc đáo bởi những hình tượng nghệ thuật tinh tế, phương pháp phân tích tâm lý sâu sắc, và khả năng tái hiện lịch sử một cách hiện thực.  Vòng Tròn Ma Thuật có thể thoả mãn thị hiếu của những độc giả văn học bởi giá trị thẩm mỹ không thể phủ nhận được của nó. *** Có hai vụ án mạng mà kẻ tình nghi ở cách xa hiện trường cả trăm cây số (có chứng cứ ngoại phạm). Thật ra họ tổ chức giết chéo. Người A giết kẻ thù của người B và ngược lại người B giết kẻ thù của người A. Giữa người A và kẻ thù của người B không quen biết, không có động cơ giết người và ngược lại cũng vậy. Nên việc điều tra gặp nhiều khó khăn. Mời các bạn đón đọc Vòng Tròn Ma Thuật của tác giả N. Mơrgiêannu.
Đêm Vô Tận - Agatha Christie
Anh chàng Michael Rogers của tầng lớp lao động kể về chuyện mình gặp và cưới Ellie, một nữ thừa kế giàu sụ đến từ Mỹ. Khi họ định cư trong ngôi nhà ước mơ ở đồng quê, rõ ràng không phải là ai cũng vui. Một truyện có vẻ rất không giống Christie, vụ trả thù tàn nhẫn này dần lên đến đỉnh điểm khủng khiếp khi án mạng có đến 5 người. Mỗi đêm và mỗi ngày Lại có người sinh ra để chịu Khổ đau Mỗi ngày và mỗi đêm Có người sinh ra để hưởng Lạc thú Có người sinh ra để hưởng Lạc thú Có người sinh ra để chịu đêm dài vô tận. -William Blake- *** Đất Digan là một điểm trên cao tuyệt đẹp có tầm nhìn trông ra biển – và nó khuấy động trong lòng Michael Rogers trò chơi tưởng tượng kiểu trẻ con. Ở đó, dưới bóng cây linh sam, anh lên kế hoạch xây một ngôi nhà, tìm một cô gái và sống hạnh phúc mãi về sau. Nhưng, lúc anh rời làng, một cái bóng đe dọa treo lơ lửng trên vùng đất này. Vì đây là nơi tai nạn thường xảy ra. Đáng lẽ Michael nên lưu ý đến những lời cảnh báo của dân địa phương: ‘Không có may mắn cho những ai dính líu tới Đất Digan đâu.’ Michael Rogers là người sắp sửa biết được câu ngạn ngữ ‘Khi tôi kết thúc cũng là lúc tôi bắt đầu’ thực sự nghĩa là gì. Tác phẩm Đêm vô tận (Endless Night) của Agatha Christie được xuất bản lần đầu năm 1957. Không như nhiều cuốn tiểu thuyết khác thường mất ba đến bốn tháng mới viết xong, Agatha Christie hoàn tất Đêm vô tận trong sáu tuần. Mười lăm năm sau ấn bản năm 1972, Agatha Christie miêu tả Đêm vô tận là ‘là tác phẩm bà yêu thích lúc này’ khi trả lời dịch giả chuyển ngữ tốp 10 tiểu thuyết của Christie sang tiếng Nhật.  Câu chuyện được kể theo lời nhân vật Michael Rogers, chàng trai độ tuổi 20. Mặc dù khi viết Đêm vô tận, Agatha Christie ở vào độ tuổi 70, nhưng bà nói trong một phỏng vấn rằng nhập vai Michael, người kể chuyện tuổi 20, “không khó. Suy cho cùng, ta nghe những người như anh chàng này nói năng suốt ấy mà.” Tựa cuốn tiểu thuyết này lấy từ bài thơ của William Blake, Auguries of Innocence (tạm dịch: Những dấu hiệu của sự vô tội).  Đêm vô tận đã được chuyển thể  thành phim năm 1972, với Hayley Mills và Britt Ekland đóng chính. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Đêm Vô Tận của tác giả Agatha Christie.
Thạch Hầu
Một con thuyền chở những người vượt biên tiến vào hải phận nước Mỹ. Một cuộc truy quét của cơ quan hành pháp Hoa Kỳ khiến đám buôn người trở nên manh động. Quỷ - tên “xà thủ” khét tiếng tàn bạo quyết định ra tay với đám “khách hàng” của mình. Nhiều người đã chết…Nhiều người tiếp tục bị săn đuổi qua những phố Tàu ở New York. Nơi nào Quỷ đi qua, nơi đó sẽ đổ máu. Thời gian càng trôi đi, mạng sống của những nạn nhân đang bị săn đuổi càng bị đe dọa. Những nỗ lực dành sự sống của “nhân chứng” trên con tàu vượt biên càng vô vọng. Lincoln Rhymes và đồng đội của mình sẽ phải làm gì để chống lại Quỷ, kẻ thù giảo hoạt và tàn nhẫn đến từ phương Đông, kẻ có khả năng biến hóa, trà trộn và thao túng người khác? Jeffery Deaver đã đưa kiến thức về văn hóa, truyền thống dân gian và lịch sử Trung quốc vào cuốn tiểu thuyết Thạch Hầu, đồng thời sử dụng bị kịch về nạn buôn lậu người và nhập cư bất hợp pháp đang nổi cộm. Một cốt truyện xuất sắc với nhiều cú ngoặt hơn bạn tưởng. *** Review Thạch Hầu - Jeffery Deaver người review Minh Sơn #Review_sách (Có spoil nhẹ) #Thạch_hầu #Jeffery_Deaver Con thuyền Fuzhou Dragon của thuyền trưởng Sâm chở đầy những người vượt biên trái phép “jujia” – “lợn con” từ Trung Quốc tiến vào hải phận nước Mỹ. Quỷ - tên “xà thủ” khét tiếng về độ tàn bạo, giảo hoạt đã ra tay với toàn bộ người trên tàu. Nhiều người đã chết, những người còn lại sống sau vụ đắm tàu tiếp tục bị săn đuổi trên những con phố của người Tàu ở New York. Thời gian càng trôi qua, mạng sống của những người bị truy đuổi càng bị đe doạ, những nỗ lực để giành lại sự sống của các nhân chứng trên con tàu càng bị đe doạ. Lincoln (Loaban), Sachs (Hongse) và đồng đội của mình đã phải trải qua những nguy hiểm nào và họ phải làm gì để có thể bảo vệ những nhân chứng cuối cùng trên con tàu Dragon – gia đình họ Vũ cũng như gia đình họ Trương? Liệu cuối cùng thì nhân thân của Quỷ liệu có bị lộ? Tại sao Quỷ lại làm như vậy? Và cuối cùng thì Quỷ sẽ chịu kết cục thế nào? Truyện đem đến cho mình thêm nhiều kiến thức về tín ngưỡng của Trung Quốc, từ đạo Khổng Tử, Lão Tử,… cách bày trí phong thuỷ đến những kiến thức, cách gọi tên kiểu Trung Quốc giúp mình thấy được lượng kiến thức khổng lồ của tác giả Jeffery Deaver không chỉ là kiến thức phương Tây mà giờ có cả phương Đông. Cá nhân mình đánh giá cao quyển này về việc tác giả đã miêu tả sâu về các hành động của nhân vật, sự khó khăn khi bắt Quỷ. Mặc dù lượng twist rất ít nhưng cũng đủ khiến bạn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Một điểm hấp dẫn nữa đó là càng về sau, tiết tấu truyện ngày càng nhanh, các bước ngoặt của vụ án đến từ những chi tiết rất bé. 560 trang cho một quyển truyện có vẻ là khá dày với khổ to nhưng không làm mất đi sự hấp dẫn từ những tình tiết truyện. Lối hành văn cũng hấp dẫn bằng những diễn biến xảy ra liên tục đẩy cuộc đối đầu giữa Lincoln với Quỷ ngày càng gay cấn. Cá nhân mình ấn tượng nhất là nhân vật Sonny Lý – cảnh sát chìm bên Trung Quốc đóng vai trò khá quan trọng trong việc tìm ra được Quỷ. Bằng những suy luận đậm chất Trung Quốc, cách nói năng, sự thông minh trong phương án điều tra. Sonny Lý cũng đem đến cho chúng ta nhiều sự bất ngờ - điển hình nhất là sự hiểu biết về vị thần của Trung Quốc (Quan Đế - vị thần chiến tranh được cúng bằng rượu Trúc Diệp Thanh). Mặc dù được 2/3 quyển thì cảnh sát Vũ đã dẹo.:)) Điểm trừ duy nhất của truyện đó là còn kha khá những lỗi lặp hay thiếu kí tự trong một chữ do biên tập viên và dịch giả thành ra nhiều khi đọc bạn sẽ phải đoán xem nó có nghĩa gì. Nếu so sánh quyển này với Kẻ tầm xương hay Vũ điệu của thần chết thì không hay bằng, nhưng đối với các quyển còn lại cùng series về Lincoln Rhyme thì cũng ngang nhau, thậm chí hay hơn một số quyển như Trăng lạnh hay Cái ghế trống. Spoil nào: hình tượng thạch hầu là con khỉ Tôn Ngộ Không được khắc trên đá cẩm thạch – biểu tượng may mắn của dân tộc Trung Hoa. Và nhờ vào miếng đá đó mà Quỷ đã bị bắt. Điểm: 7,5/10 (0,5 điểm cho tác giả vì mình là fan của Deaver) *** “Thạch Hầu” bắt đầu bởi hình ảnh một con tàu mang tên Fuzhou Dragon chở người nhập cư bất hợp pháp băng qua đại dương rộng lớn. Những con người ấy bỏ lại phía sau bao cái cay đắng của quá khứ để hướng đến một tương lai tươi sáng hơn như họ vẫn hằng mơ ước, đặt chân đến xứ sở tươi đẹp mà họ vẫn hằng mơ tưởng. Nhưng không như bao câu chuyện êm đẹp khác, số phận lúc này lại thích trêu đùa con người, thích đặt con người vào những khoảnh khắc tăm tối, vào những con đường chết chóc. Chuyến đi không suôn sẻ, vì… Trên con tàu ấy, ác quỷ hiện diện. Qủy – tên xà thủ, như cái tên của hắn, tàn ác, và hiểm độc, sẵn sàng ra tay giết hại đồng loại. Hắn khinh bỉ những con người trốn chạy kia, phỉ nhổ họ, và đương nhiên là sẵn sàng giết bất cứ ai gây phiền nhiễu cho hắn. Chuyến tàu ấy đã bị Lincoln Rhyme – nhà phân tích tội phạm đoán được “đường đi nước bước”, con tàu bị truy đuổi, giăng bẫy, chờ khoảnh khắc bị tóm gọn. Và rồi, trò chơi truy đuổi bắt đầu… Phía trước là những người nhập cư còn sống sót, chạm chân được đến nước Mỹ, tưởng sắp đạt được giấc mơ nhưng thực tại tàn nhẫn chỉ là nỗi nơm nớp lo sợ móng vuốt của Qủy, sợ bàn tay tội lỗi của hắn sẽ tóm được mình, gia đình mình, những người thương yêu. Ở giữa là Qủy- tên xà thủ. Mục tiêu, trò chơi của hắn hiên tại là truy bắt, giết tất cả những người nhập cư còn lại, những người có thể gây tổn hại đến hắn,… Bên cạnh hắn có biết bao tên đồng bọn, và cả những thế lực sẵn sàng giúp hắn, đứng về bóng tối- nơi cái ác hiện diện. Phía sau là Lincoln Rhyme, Sachs, và những người trợ thủ đắc lực. Quyết tâm của họ là bắt được tên tội phạm khát máu, cứu những con người vô tội nằm trong tầm ngắm của tên Qủy, ngăn chặn những vụ việc buôn người tiếp theo có thể xảy ra, và bắt hắn trả một cái giá đắt cho những việc mà bản thân đã làm. Tác phẩm là sự kết hợp giữa hai nền văn hóa khác nhau, nhưng lại hòa hợp, cân bằng với nhau tạo thành một câu chuyện hoàn hảo. Nhiều phong tục, tôn giáo (Đạo Phật, Đạo Lão,…) tín ngưỡng ( thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị thần bảo hộ,…) của người Trung Hoa được nhắc đến. Vấn đề chính trị cũng được đề cập khá nhiều, đôi lúc khá mập mờ, nhưng nếu tinh ý thì chắc chắn bạn sẽ đoán ra được. Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật và miêu tả tâm lý chi tiết, khiến độc giả đôi khi như hòa mình vào trang sách, đồng cảm với suy nghĩ, như sống cùng với những nhân vật mà ông tạo ra. Đặc biệt nhất vẫn là cái cách tác giả đặt nhân vật của mình vào những tình huống hiểm nghèo để lộ rõ được những tài năng, nhân cách của nhân vật ấy. Bên cạnh đó, cách ông phân tích nội tâm, con người họ là một điểm rất đang được chú ý, cho ta thấy được khả năng xây dựng cốt truyện, nhân vật tài tình của tác giả. Khép tác phẩm lại là một cảm giác thỏa mãn vì mọi khúc mắc đều được tác giả giải thích cặn kẽ, không để sơ sót một chi tiết kì lạ nào. *** “Thạch Hầu” (The Stone Monkey) là tác phẩm gần đây nhất tôi đọc của JD, sau “Hang Dã Thú” đã đọc khoảng 1 năm về trước. Nói chung, đây là một tác phẩm đứng hàng giữa trong các tác phẩm của JD, khá ổn, nhưng chỉ ổn thôi. Fuzhou Dragon, con tàu được tên xà thủ khét tiếng biệt danh Quỷ thuê để chở những người nhập cư trái phép lênh đênh hàng tuần để đến đất nước xinh đẹp, Mĩ. Những người trên còn tàu ấy bỏ hàng chục ngàn dollar, bỏ cả quê hương cố quốc, gia đình nội tộc, chấp nhận đủ loại rủi ro từ việc bị bắt, bị trục xuất về nước, thậm chí là bị tên xà thủ mà họ trả tiền đánh đập, làm nhục, cưỡng hiếp thậm chí là giết hại chỉ với một hi vọng mỏng manh là tìm kiếm được những cơ hội sống tốt hơn cho mình và gia đình, ít nhất là sáng sủa hơn với cuộc đời lay lắt khổ sợ của họ ở cố hương Trung Quốc. Nhưng hàng tuần giời lênh đênh trên biển chịu đủ nỗi cay đắng cực nhục của họ tan tành vào giây phút tàu Fuzhou Dragon chạm mặt tàu Tuần Tra Duyên Hải, tên xà thủ nhẫn tâm Quỷ quyết định chơi trò cá chết lưới rách, hắn cho nổ hết chỗ C4 ở đuôi tàu, bản thân hắn một mình bỏ chạy nhờ bé cứu sinh. Tàu chìm, đa số những người nhập cư bất hợp pháp đều chết đuối, một số ít sống sót lại phải vật lộn để trốn thoát khỏi sự truy lùng của khẩu Model 51 mà Quỷ luôn mang bên mình trên mặt nước và xuyên suốt các phố Tàu nơi đất Mĩ. Như đã nói, “Thạch Hầu” không phải là một cuốn xuống tay của JD. Bằng chứng là ông đã tạo được một cốt truyện thu hút, tác giả cũng thể hiện được vốn kiến thức sâu rộng của mình trong việc miêu tả các chi tiết về đức tin gia đình, tín ngưỡng và phong tục của người Trung Quốc. Câu chuyện hiện lên với những tình tiết được cụ thể và xử lí một cách gọn gàng không dây dưa lằng nhằng, không quá hack não mà cũng chẳng quá tẻ nhạt, đủ để cho người đọc kiên nhẫn đọc xong cuốn sách khổ quyển vở dày một đốt ngón tay mà không cảm thấy đâu dầu hay bị choáng váng vì những chi tiết dồn dập, dày đặc. Tuy nhiên, cuốn sách lại quá dày với những người thiếu kiên nhẫn, thích kích thích bởi những phút giây bắn giết máu me ghê rợn hơn là những cuộc rượt đuổi giằng co lê thê như phim gangsto Mĩ :v Với tôi, lí do duy nhất để tôi đọc hết từ đầu đến cuối chắc chắn là anh chàng Sonny Lí, một anh chàng cảnh sát người Trung Quốc liều mạng, thích chơi cuộc chơi theo cách của riêng mình, khá là thú vị. Một điểm khiến tôi không đánh giá cao “Thạch Hầu”, ừm, có lẽ là do câu chuyện dài, nhịp truyện lại chậm, và JD hầu như không áp dụng nhiều twist xoắn não, hình như cả câu chuyện chỉ có một cái twist và nếu như bạn là người thích đoán, thích xâu chuỗi những thứ nhỏ nhặt thì cái twist đó sẽ không làm bạn bất ngờ, bạn sẽ như tôi, chuyển từ đoán twist sang kiểm chứng xem suy đoán của mình có đúng không. Một tác phẩm có tên gốc “The Stone Monkey”, dịch ra là “Thạch Hầu”, nhưng cả nhân vật đi xuyên suốt câu chuyện lại không phải Mỹ Hầu Vương? Vậy rốt cuộc cái tên đầy dụng ý này có tác dụng gì? Nó có vai trò gì trong một câu chuyện dài, một quyển sách dày như thế? Điểm: 5.5/10 (+0.5 vì anh Sonny Lí cute :v), dễ đọc, dễ đoán twist, không bị xoắn não hay đau đầu :v Nguyễn Thu Huyền Mời bạn đón đọc Thạch Hầu của tác giả Jeffery Deaver & Orkid (dịch).