Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhật Ký Bí Mật của Tiểu Thư Miranda - Julia Quinn

Tiểu thuyết lãng mạn lịch sử xuất sắc nhất - RITA Awards 2007 Hôm nay mình đã yêu. Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào của một Sắc đẹp Lộng lẫy. Cô bé đã học được cách chấp nhận những kỳ vọng của xã hội đối với mình… cho đến một buổi chiều, khi Nigel Bevelstoke - chàng Tử tước Turner đẹp trai, phong nhã – nghiêm trang hôn tay cô bé và hứa rằng: một ngày kia em sẽ trở thành chính mình, em sẽ thật xinh đẹp và thông minh. Ngày hôm ấy, Miranda đã biết mình sẽ yêu Turner mãi mãi. Mười năm sau, tất cả đều thay đổi, trừ tình yêu của Miranda dành cho Turner. Đi qua một cuộc hôn nhân đau khổ, Turner giờ trở thành một người đàn ông không còn niềm tin, cô độc và cay nghiệt. Còn Miranda, cô vừa tròn hai mươi, xinh đẹp theo cách của riêng mình, ngọt ngào vừa đủ, điềm tĩnh vừa đủ và mạnh mẽ vừa đủ. Đủ để không cho phép tình yêu kéo dài mười năm dành cho Turner một lần nữa trôi qua tầm tay… *** Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không hề bộc lộ dấu hiệu nào hứa hẹn một Sắc Đẹp Lộng Lẫy. Mái tóc nâu thảm hại đồng màu với đôi mắt; đôi chân dài khác thường từ chối bất cứ chuyển động nào có thể coi là duyên dáng dù mơ hồ nhất. Lúc nào mẹ cô bé cũng thấy cô nhảy loi choi khắp nhà. Thật không may cho Miranda, cái xã hội nơi cô bé sinh ra lại rất coi trọng vẻ bề ngoài của nữ giới. Và dù chỉ mới mười tuổi nhưng cô bé đã hiểu rằng về mặt này mình bị coi là thua kém so với hầu hết các bạn nữ khác trong vùng. Trẻ con thường có cách khám phá ra những điều như vậy, thường là từ những đứa trẻ khác. Chẳng hạn như sự cố không mấy vui vẻ xảy ra tại bữa tiệc sinh nhật lần thứ mười một của tiểu thư Olivia và công tử Winston Bevelstoke, cặp sinh đôi của vợ chồng ngài Bá tước xứ Rudland. Nhà Miranda khá gần Haverbreaks, điền sản của tổ tiên dòng họ Rudland gần Ambleside, quận Lake, Cumberland, và cô bé thường học bài cùng Olivia và Winston khi bọn trẻ về đây ở. Chúng trở thành bộ ba không thể tách rời và hiếm khi chơi với những đứa trẻ khác trong vùng, vì hầu hết đều sống cách đó khoảng một giờ đi ngựa. Khoảng chục lần mỗi năm, đặc biệt là những dịp sinh nhật, con cái tất cả các gia đình quý tộc và thượng lưu trong vùng lại tụ họp với nhau. Vì lý do này mà nữ Bá tước Rudland phải thốt ra một tiếng rền rĩ chẳng hề ra dáng quý bà; mười tám thằng nhóc tai quái đang hào hứng tha bùn đất khắp phòng khách nhà bà sau khi bữa tiệc của cặp sinh đôi tổ chức trong khu vườn bị trận mưa phá hỏng. “Má cậu dính bùn kìa, Livvy,” Miranda vừa nói vừa đưa tay lên lau vết bùn. Olivia thở hắt ra vẻ mệt mỏi đầy kịch tính. “Thế thì tốt hơn hết là mình nên vào phòng rửa mặt. Mình không muốn mẹ trông thấy mình thế này. Mẹ ghét bẩn, còn mình thì ghét phải nghe mẹ kêu ca bà ghét bẩn đến thế nào.” “Mình không hiểu bà lấy đâu ra thời gian để phàn nàn về vết bùn nhỏ trên mặt cậu trong khi cả tấm thảm của bà giờ toàn bùn đất thế kia cơ chứ.” Miranda liếc William Evans, thằng bé vừa mới hô “XUNG PHONGGGGGG” rồi phóng người lên trường kỷ. Cô bé phải bặm môi lại để khỏi cười. “Và cả đồ đạc nữa.” “Cũng thế cả thôi, tốt nhất là mình nên làm gì đó.” Nói rồi cô bé lẻn ra khỏi phòng, bỏ lại Miranda ở gần lối ra vào. Miranda quan sát cuộc bạo loạn chừng một vài phút rồi khá bằng lòng chấp nhận cái vị trí người-quan-sát thường lệ của mình, cho tới khi qua khóe mắt, cô bé thấy có ai đó đang đi tới. “Bạn tặng quà sinh nhật gì cho Olivia vậy Miranda?” Miranda quay sang thì thấy Fiona Bennet đang đứng trước mặt mình, xinh xắn trong chiếc váy yếm trắng kèm khăn quàng màu hồng. “Một cuốn sách,” cô bé đáp. “Olivia thích đọc sách. Còn bạn mang gì tới?” Fiona giơ ra một chiếc hộp có họa tiết vui mắt được thắt dây nơ màu bạc. “Một bộ sưu tập các dải ruy băng. Bằng lụa và xa tanh, thậm chí là bằng nhung nữa. Bạn có muốn xem không?” “Ôi, nhưng tớ không muốn làm hỏng lớp giấy gói đâu.” Fiona nhún vai. “Bạn chỉ cần tháo sợi dây buộc cho cẩn thận là được. Tớ vẫn làm thế với quà Giáng sinh mà.” Nói rồi cô bé kéo sợi nơ buộc và nâng cái nắp hộp lên. Miranda nín thở. Ít nhất có tới một tá ruy băng nằm trên lớp lót bằng nhung đen của chiếc hộp, mỗi sợi được thắt nơ bướm cực kỳ trang nhã. “Đẹp quá Fiona. Mình có thể xem một cái không?” Fiona nheo mắt. “Tay tớ không có tẹo bùn nào đâu. Thấy không?” Miranda giơ hai bàn tay lên để cô bạn kiểm tra. “Ừ, được rồi.” Miranda thò tay vào chọn một chiếc ruy băng màu tím. Chất xa tanh trơn mượt khủng khiếp và mềm mại trôi trong bàn tay cô bé. Cô bé đặt cái nơ bướm điệu đà ướm thử lên mái tóc mình. “Bạn nghĩ sao?” Fiona đảo tròn mắt. “Không phải màu tím, Miranda ạ. Ai cũng biết chúng dành cho tóc vàng cơ. Màu này thường bìm trên nền nâu. Bạn hiển nhiên không thể đeo nó rồi.” Miranda đưa trả dải ruy băng cho cô bạn. “Vậy màu nào thì hợp với tóc nâu? Xanh lá à? Mẹ mình có mái tóc màu nâu và mình đã thấy mẹ buộc những dải ruy băng màu xanh lá.” “Xanh lá cây có thể chấp nhận được, tớ nghĩ thế. Nhưng trên mái tóc vàng thì sẽ đẹp hơn. Mọi thứ đều đẹp hơn trên nền tóc vàng.” Miranda cảm thấy một thoáng phẫn nộ dâng lên trong lòng. “Vậy thì tớ không hiểu bạn sẽ làm gì hả, Fiona, bởi vì tóc bạn cũng nâu như tóc tớ mà.” Fiona giật lùi lại, nổi cáu. “Không phải!” “Đúng thế mà!” “Không phải!” Miranda nhoài người tới trước, hai mắt nheo lại vẻ đe dọa. “Bạn nên soi gương khi về nhà, Fiona ạ, bởi vì tóc bạn không phải màu vàng.” Fiona đặt dải ruy băng tím trở lại hộp và sập nắp đánh cạch một cái. “Vậy à, nó đã từng là màu vàng, còn tóc cậu chẳng bao giờ có màu đó cả. Và ngoài ra, tóc tôi có màu nâu nhạt, mà mọi người đều biết là nó đẹp hơn màu nâu sẫm. Sẫm như tóc bạn ấy.” “Tóc nâu sẫm chẳng có gì là sai trái cả!” Miranda đáp trả. Nhưng cô bé cũng biết rằng đa số người Anh đều không đồng tình với ý kiến của mình. “Và,” Fiona đắc thắng bổ sung, “bạn có đôi môi bự như con sên!” Bàn tay Miranda vụt đưa lên che miệng. Cô bé biết mình không đẹp; cô bé biết mình thậm chí còn không được coi là xinh xắn nữa cơ. Nhưng từ trước đến giờ cô bé chưa bao giờ thấy đôi môi của mình có gì không ổn cả. Cô bé ngước nhìn nhỏ bạn đang mỉm cười tự mãn. “Còn bạn thì có tàn nhang!” Cô la lên. Fiona giật lùi lại như vừa bị một cái tát. “Tàn nhang sẽ biến mất dần. Các nốt trên mặt tôi sẽ biến đi hết trước khi tôi bước sang tuổi mười tám. Tối nào mẹ tôi chẳng dặm nước chanh vắt lên.” Cô nàng cười khẩy vẻ khinh miệt. “Nhưng bạn thì vô phương cứu chữa, Miranda ạ. Bạn xấu xí.” “Bạn ấy không xấu!” Cả hai cô bé cùng quay sang nhìn Olivia - vừa mới từ phòng rửa mặt quay trở lại. “Ồ, Olivia,” Fiona nói. “Mình biết bạn kết thân với Miranda bởi vì cô ta sống gần nhà và cùng học bài với bạn, nhưng bạn phải thừa nhận là cô ta không xinh. Mẹ mình nói cô ta sẽ chẳng bao giờ lấy chồng được.” Đôi mắt xanh của Olivia lóe lên ánh nguy hiểm. Cô con gái độc nhất của Bá tước Rudland không bao giờ tha thứ một lỗi lầm nào, và Miranda lại là người bạn thân nhất của cô bé. “Miranda sẽ lấy được người chồng tốt hơn bạn đấy, Fiona Bennet ạ! Ba bạn ấy là một Tòng nam tước trong khi ba bạn chỉ là thường dân.” “Là con gái Tòng nam tước cũng chẳng có gì khác biệt cả trừ phi cô ta có nhan sắc hoặc có tiền,” Fiona ngân nga nhắc lại những lời mà cô bé hiển nhiên đã được nghe lúc ở nhà. “Mà cả hai thứ ấy Miranda đều chẳng có.” “Im đi, bạn là đồ bò già ngu ngốc!” Olivia giậm chân quát. “Đây là tiệc sinh nhật của tôi, nếu bạn không thể cư xử tử tế thì bạn có thể về!” Fiona nuốt giận. Cô bé biết tốt hơn là không nên làm cho Olivia - con gái của những người có đẳng cấp xã hội cao nhất vùng - xa lánh mình. “Mình xin lỗi, Olivia,” cô bé lẩm bẩm nói. “Đừng xin lỗi tôi. Xin lỗi Miranda ấy.” “Tôi xin lỗi, Miranda.” Miranda vẫn im lặng cho tới khi Olivia phải đá cô bé một cái. “Tôi chấp nhận lời xin lỗi của bạn,”miễn cưỡng nói. Fiona gật đầu rồi chạy biến. “Mình không thể tin được cậu lại gọi cậu ta là con bò già ngu ngốc,” Miranda nói. “Bạn cần phải học cách tự bảo vệ mình, Miranda ạ.” “Trước khi cậu tham gia vào, mình vẫn đang tự bảo vệ rất tuyệt đấy chứ, Livvy. Mình chỉ không muốn tự bảo vệ một cách quá ầm ĩ thôi.” Olivia thở dài. “Mẹ bảo mình không có chút xíu khả năng kiềm chế hay lương tri gì cả.” “Đúng là vậy,” Miranda tán thành. “Miranda!” “Đó là sự thật, cậu đúng là như thế mà. Nhưng dù thế nào mình vẫn yêu cậu.” “Mình cũng yêu cậu, Miranda. Và đừng để tâm đến Fiona già ngớ ngẩn. Khi nào lớn cậu có thể cưới Winston và rồi chúng mình sẽ thật sự là chị em.” Miranda liếc ngang qua phòng nhìn Winston vẻ hoài nghi. Cậu đang giật tóc một cô bé con. “Mình không biết nữa,” cô bé e dè nói. “Mình không chắc là mình muốn lấy Winston đâu.” “Vớ vẩn. Như thế thật hoàn hảo. Mà nhìn xem, anh ấy mới làm đổ rượu pân ra váy của Fiona kìa.” Miranda cười toe toét. “Đi với mình nào,” Olivia nói, cầm tay cô bạn. “Mình muốn mở quà. Mình hứa là sẽ reo to nhất khi nhận quà của cậu.” Hai cô bé trở lại phòng khách, rồi Olivia và Winston mở quà. Tạ ơn Chúa (theo ý kiến của Phu nhân Rudland), hoàn tất việc mở quà vào đúng bốn giờ, thời điểm những đứa trẻ phải về nhà. Đứa nào cũng được đích thân phụ huynh đến đón, ai cũng xem chuyện được mời tới nhà Haverbreaks là một niềm vinh dự, và không vị phụ huynh nào lại muốn bỏ lỡ cơ hội làm thân với ông bà Bá tước. Ngoại trừ bố mẹ của Miranda, đúng thế. Đến năm giờ, cô bé vẫn còn ở phòng khách nhà Bevelstoke, cùng Olivia xem xét các chiến lợi phẩm. “Ta không biết có chuyện gì với bố mẹ cháu thế, Miranda,” Phu nhân Rudland nói. “Ôi, cháu biết đấy ạ,” Miranda hào hứng đáp. “Mẹ cháu đã đến Scotland thăm bà ngoại, và cháu dám chắc là ba cháu đã quên béng cháu rồi. Ba cháu vẫn thường thế khi ông mải làm việc với một bản thảo nào đó. Ông dịch từ tiếng Hy Lạp.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland mỉm cười. “Hy Lạp cổ đại.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland thở dài. Đây không phải lần đầu tiên ngài Rupert Cheever quên mất cô con gái của mình. “Chà, phải tìm cách đưa cháu về nhà thôi.” “Con sẽ đi với bạn ấy,” Olivia đề xuất. “Con và Winston cần phải cất đồ chơi mới và viết thiệp cảm ơn. Nếu không làm việc đó tối nay, con sẽ không nhớ được ai đã tặng con thứ gì.” “Nhưng mẹ không thể để một người hầu đưa Miranda về nhà được. Bạn ấy sẽ không có ai để trò chuyện cả.” “Tớ có thể nói chuyện với người hầu mà,” Miranda nói. “Tớ vẫn thường xuyên nói chuyện với bọn họ ở nhà.” “Không phải với người hầu nhà tớ,” Olivia thì thầm. “Bọn họ cứng nhắc và câm như hến, lại còn thường nhìn tớ vẻ không bằng lòng nữa chứ.” “Hầu như lúc nào con cũng đáng bị nhìn với vẻ không hài cả,” Phu nhân Rudland ngắt ngang, âu yếm vỗ đầu cô con gái. “Ta tìm ra giải pháp cho cháu rồi đây, Miranda. Tại sao chúng ta không nhờ Nigel đưa cháu về nhà nhỉ?” “Nigel ư!” Olivia kêu lên. “Miranda, cậu thật là chú vịt may mắn.” Miranda nhướn mày. Cô bé chưa bao giờ gặp anh trai lớn của Olivia. “Được thôi,” cô bé từ tốn nói. “Tớ mừng vì cuối cùng cũng được gặp anh ấy. Cậu vẫn luôn miệng kể về anh ấy mà, phải không Olivia.” Phu nhân Rudland ra lệnh cho một cô hầu gái đi tìm Nigel. “Cháu chưa bao giờ gặp Nigel sao Miranda? Kỳ lạ thật. À, ta cho là vì nó thường chỉ về nhà vào dịp Giáng sinh, mà Giáng sinh thì cháu lại hay đi Scotland. Ta đã phải dọa sẽ từ mặt nó để bắt nó về nhà vào ngày sinh nhật của hai đứa sinh đôi đấy. Nó không dự bữa tiệc vì sợ một trong mấy bà mẹ kia sẽ cố gắng gả một đứa trẻ mười tuổi cho nó.” “Nigel mười chín rồi, anh ấy là một đám rất sáng giá đấy,” Olivia thản nhiên nói. “Anh ấy là một Tử tước. Và cực kỳ đẹp trai. Trông anh ấy giống mình.” “Olivia!” bà Rudland nhắc nhở vẻ không hài lòng. “Thì đúng thế mà mẹ. Nếu là con trai thì con sẽ rất đẹp trai cho xem.” “Là con gái thì cậu cũng xinh xắn thế còn gì, Livvy,” Miranda thành thực nói, nhìn những lọn tóc vàng của cô bạn với vẻ hơi ghen tị. “Cậu cũng vậy. Này, cậu chọn một dải ruy băng của con bò Fiona đi. Dù gì mình cũng không cần toàn bộ chỗ ruy băng này.” Miranda mỉm cười trước lời nói dối của cô bạn. Olivia là người bạn tốt như thế đấy. Cô bé nhìn xuống hộp ruy băng và ngoan cố chọn sợi xa tanh màu tím. “Cảm ơn cậu, Livvy. Thứ Hai mình sẽ buộc nó đến trường.” “Mẹ gọi con ạ?” Nghe giọng nói trầm ấm, Miranda quay mặt về lối cửa ra vào và gần như há hốc vì kinh ngạc. Đang đứng ở đó là một sinh vật lộng lẫy tuyệt vời nhất mà cô bé từng trông thấy. Olivia đã nói rằng Nigel mười chín tuổi, nhưng Miranda ngay lập tức nhận thấy anh đã ra dáng đàn ông lắm rồi. Đôi vai rộng cân đối trông như vẽ, thân hình thanh thoát nhưng rắn chắc. Tóc anh đậm màu hơn tóc Olivia nhưng vẫn có ánh vàng kim, bằng chứng cho thấy anh thường xuyên ở ngoài trời. Nhưng phần đẹp nhất của anh, Miranda lập tức nghĩ ra, chính là đôi mắt. Nó sáng ngời, màu xanh lam rạng rỡ, giống đôi mắt của Olivia. Chúng cũng lấp lánh ánh tinh nghịch, láu lỉnh. Miranda mỉm cười. Mẹ cô bé vẫn thường bảo rằng có thể nhìn vào đôi mắt của một người mà nói về người đó, mà anh trai của Olivia thì có đôi mắt tuyệt đẹp. “Nigel, con hộ tống Miranda về nhà được không?” bà Rudland hỏi. “Ba của cô bé dường như bị cầm chân ở đâu đó mất rồi.” Miranda tự hỏi tại sao Nigel lại nhăn mặt khi nghe mẹ gọi tên mình. “Chắc chắn rồi, thưa mẹ. Olivia, em đã có một bữa tiệc vui vẻ chứ hả?” “Đập phá tanh bành.” “Winston đâu rồi?” Olivia nhún vai. “Anh ấy đi chơi với thanh kiếm Billy Evans tặng rồi.” “Anh hy vọng không phải là đồ thật.” “Chúa phù hộ chúng ta nếu nó là đồ thật,” bà Rudland xen vào. “Được rồi, Miranda, chúng ta sẽ đưa cháu về. Ta tin là áo choàng của cháu đang ở phòng bên.” Bà biến mất qua khung cửa và xuất hiện trở lại vài giây sau với chiếc áo choàng bền chắc màu nâu của Miranda. “Chúng ta lên đường chứ, Miranda?” Sinh vật đến từ thiên đường ấy đưa tay ra cho cô bé. Miranda khoác áo rồi đặt bàn tay mình vào tay anh. Thiên đường! “Mình sẽ gặp cậu vào thứ Hai nhé!” Olivia gọi với theo. “Và đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Cậu ta chỉ là con bò già ngớ ngẩn thôi.” “Olivia!” “Thì đúng thế mà mẹ. Con không muốn bạn ấy quay lại đây nữa.” Miranda mỉm cười khi để anh trai Olivia dẫn xuống tiền sảnh, giọng của Olivia và bà Rudland nhỏ dần, nhỏ dần. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đồng ý đưa em về nhà, Nigel,” cô bé khẽ nói. Anh lại nhăn mặt. “Em... em xin lỗi,” cô bé vội nói. “Đáng lẽ em nên nói ‘thưa ngài’, đúng không? Chỉ tại Olivia và Winston thường nhắc đến anh bằng tên riêng nên em...” Cô bé khổ sở nhìn xuống sàn nhà. Chỉ mới hai phút được đi cạnh anh mà cô bé đã mắc sai lầm ngớ ngẩn rồi. Anh dừng lại và cúi xuống để cô bé có thể nhìn thấy mặt mình. “Đừng lo lắng về cái từ ‘thưa ngài’ ấy, Miranda. Anh sẽ nói cho em một bí mật nhé.” Đôi mắt Miranda tròn xoe, cô bé quên cả thở. “Anh ghét tên thánh của mình.” “Đó không hẳn là một bí mật, Nig... ý em là, thưa ngài, mà mặc kệ anh muốn được gọi là gì cũng được. Cứ khi nào mẹ anh gọi anh bằng cái tên đó là anh lại nhăn mặt.” Nigel mỉm cười với Miranda. Có điều gì đó khiến trái tim anh nhói lên khi Nigel nhìn thấy cô gái bé nhỏ với nét mặt quá ư nghiêm nghị này chơi với đứa em gái ương bướng không thể khuất phục của anh. Cô bé là một sinh vật nhỏ nhắn trong cái vẻ ngoài thật buồn cười, nhưng đôi mắt nâu to tròn rất có hồn của cô lại ánh lên vẻ gì đó khá đáng yêu. “Thế anh được gọi là gì ạ?” Miranda hỏi. Anh mỉm cười với cô bé, không hề kiểu cách. “Turner.”[1] [1] Có nghĩa là Thợ tiện. Mất một lúc anh tưởng cô bé sẽ không nói gì. Miranda chỉ đứng đó, hoàn toàn bất động, chỉ có đôi mắt vẫn long lanh. Và rồi, như thể cuối cùng đã tìm ra kết luận, cô bé nói, “Cái tên hay thật. Hơi kỳ lạ một chút, nhưng em thích.” “Hay hơn Nigel nhiều, em không nghĩ thế à?” Miranda gật đầu. “Anh đã chọn nó à? Em vẫn nghĩ rằng người ta nên tự chọn tên cho mình. Em cũng biết hầu hết người ta sẽ chọn một cái tên nào đó khác với tên mình được đặt.” “Và em sẽ chọn tên gì?” “Em không chắc nữa, nhưng không phải là Miranda. Thứ gì đó mộc mạc hơn, em nghĩ thế. Người ta kỳ vọng một điều gì đó khác khi nghe đến cái tên Miranda và hầu như thường thất vọng khi họ gặp em.” “Vô lý,” Turner mạnh mẽ phản đối. “Em là một Miranda hoàn hảo.” Cô bé cười rạng rỡ. “Cảm ơn anh, Turner. Em có thể gọi anh như thế không?” “Dĩ nhiên rồi. Và anh e là không phải anh chọn cái tên này. Nó chỉ là một tước hiệu lịch thiệp. Tử tước Turner. Từ hồi tới Eton đến giờ anh vẫn dùng cái tên ấy thay cho Nigel.” “Ồ. Nó hợp với anh, em nghĩ thế.” “Cảm ơn em,” anh trang trọng đáp lại, hoàn toàn bị đứa trẻ nghiêm nghị này mê hoặc. “Giờ thì, đưa tay em cho anh lần nữa nào, chúng ta sẽ lên đường.” “Cái gì thế?” “Cái này ạ? Ồ, ruy băng ấy mà. Fiona Bennet tặng khoảng hai chục chiếc cho Olivia, và Olivia nói em có thể giữ mộtchiếc.” Mắt Turner hơi nheo lại rất khẽ khi anh nhớ lại Olivia đã nói gì lúc tạm biệt Miranda. Đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Anh kéo dải ruy băng ra khỏi tay cô bé. “Anh nghĩ chỗ của ruy băng là ở trên mái tóc chứ nhỉ.” “Ờ, nhưng nó không hợp với váy của em,” Miranda yếu ớt phản đối. Lúc này anh đã buộc nó thật chặt lên đỉnh đầu của cô bé rồi. “Nó trông thế nào ạ?” cô bé thì thầm. “Tuyệt vời.” “Thật ạ?” Cô tròn xoe mắt vẻ hoài nghi. “Thật mà. Anh luôn nghĩ rằng ruy băng màu tím trông đặc biệt xinh xắn trên mái tóc nâu.” Miranda thấy mình phải lòng Tuner ngay tức khắc. Cảm xúc quá mãnh liệt đến nỗi cô bé quên cả cảm ơn lời khen của anh. “Chúng ta khởi hành chứ?” anh nói. Cô gật đầu, không tin tưởng chính giọng nói của mình nữa. Họ rời ngôi nhà đến tàu ngựa. “Anh nghĩ chúng mình có thể cưỡi ngựa,” Turner nói. “Một ngày quá đẹp để ngồi trong xe.” Miranda lại gật đầu. Thời tiết ấm áp khác thường đối với tháng Ba. “Em có thể lấy chú ngựa con của Olivia. Anh chắc chắn là con bé không thấy phiền đâu.” “Livvy không có ngựa con,” cuối cùng thì Miranda cũng tìm lại được giọng nói của mình. “Bây giờ cậu ấy có một con ngựa cái hẳn hoi. Em cũng có một con ở nhà. Bọn em không phải là trẻ con.” Turner nén cười. “Ừ, anh có thể thấy là bọn em không còn nhỏ nữa. Anh mới ngớ ngẩn làm sao chứ. Anh chẳng suy nghĩ gì cả.” Vài phút sau, yên ngựa đã thắng xong, và họ bắt đầu chặng đường mười lăm phút đi ngựa đến nhà Cheever. Miranda vẫn im lặng khoảng một phút đầu, quá hạnh phúc đến nỗi không muốn làm hỏng khoảnh khắc này bằng những lời nói. “Ở bữa tiệc em có vui không?” rốt cuộc Turner lên tiếng. “Ồ, vâng. Phần lớn thời gian rất vui ạ.” “Phần lớn thời gian thôi à?” Anh thấy Miranda nhăn mặt. Rõ ràng cô bé không định nói quá nhiều. “À,” cô bé chậm rãi đáp, cắn môi rồi lại nhả ra, “một cô gái đã nói những lời không tốt với em.” “Ồ?” Anh biết tốt hơn là không nên tò mò thái quá. Và quả nhiên anh đã đúng, bởi vì khi Miranda nói chuyện, cô bé gợi anh nhớ đến em gái mình - đang ngước nhìn anh chăm chú với ánh mắt thẳng thắn trong khi từ ngữ thì ào ào mạnh mẽ. “Đó là Fiona Bennet,” cô bé nói với vẻ cực kỳ chán ghét, “Olivia gọi cô ta là con bò già ngu ngốc, và em phải nói là em không thấy hối tiếc khi cậu ấy làm vậy.” Turner vẫn giữ thái độ trang nghiêm thích hợp. “Anh cũng không thấy tiếc vì con bé đã làm vậy, nếu Fiona đã nói những lời tàn nhẫn với em.” “Em biết mình không xinh đẹp,” Miranda bùng nổ. “Nhưng thật là thô lỗ bất lịch sự khi nói vậy, ấy là chưa kể còn ám chỉ thẳng thừng color="black">Turner nhìn Miranda một lúc lâu, không chắc mình phải an ủi cô gái bé nhỏ này như thế nào. Miranda không xinh đẹp, đó là sự thật, và nếu anh cố bảo rằng cô bé xinh xắn thì cô bé sẽ không tin anh. Nhưng cô bé không xấu xí. Chỉ... hơi vụng về. Tuy nhiên anh đã được giải thoát khỏi tình huống khó khăn này, không phải nói bất cứ điều gì nhờ câu bình luận tiếp theo của Miranda. “Đó là vì mái tóc màu nâu này, em nghĩ thế.” Anh nhướn mày. “Nó chẳng đúng mốt gì cả,” Miranda giải thích. “Và cả đôi mắt nâu nữa. Em cũng quá gầy và mặt em quá dài, em quá xanh xao nữa.” “Chà, những cái đó đều đúng cả,” Turner nói. Miranda quay sang đối diện với anh, đôi mắt cô bé mở to, nhòa lệ và gương mặt đượm vẻ buồn rầu. “Hiển nhiên em có mái tóc và đôi mắt màu nâu. Không có gì phải bàn cãi ở điểm đó cả.” Anh nghiêng đầu vờ săm soi nghiên cứu cô bé thật toàn diện. “Em khá gầy, và mặt em đúng là hơi dài một tí. Và em rõ ràng là trông xanh tái.” Môi Miranda run run, và Turner không thể trêu chọc cô bé thêm nữa. “Nhưng mà,” anh mỉm cười, “anh lại thích phụ nữ có tóc và mắt màu nâu hơn.” “Không phải thế!” “Đúng thế đấy. Lúc nào anh cũng thích như vậy. Anh cũng thích họ gầy và xanh xao nữa.” Miranda nhìn anh vẻ hoài nghi. “Thế còn mặt dài thì sao?” “À, anh phải công nhận anh chưa bao giờ nghĩ ngợi nhiều về vấn đề ấy, nhưng anh chắc chắn là không thấy phiền lòng với một khuôn mặt dài.">“Fiona Bennet nói em có đôi môi bự,” cô bé vẫn bướng bỉnh nói. Turner hơi mỉm cười đáp lại. Cô bé thở dài thườn thượt. “Trước đây em thậm chí chưa bao giờ nhận thấy là mình có đôi môi bự.” “Không quá bự đâu.” Cô bé ném cho anh ánh nhìn cảnh giác. “Anh đang nói thế để làm em thấy dễ chịu hơn thôi.” “Quả là anh muốn em cảm thấy khá hơn thật, nhưng đó không phải là do anh nói thế. Và lần tới Fiona Bennet mà nói em có đôi môi bự thì hãy bảo với nó là nó sai rồi. Em có đôi môi đầy đặn.” “Có gì khác nhau đâu?” Cô bé nhìn anh nôn nóng, đôi mắt tối sẫm hết sức nghiêm nghị. Turner hít vào một hơi. “Chà chà,” anh nói tránh. “Môi bự thì không hấp dẫn. Nhưng môi đầy đặn thì có đấy.” “Ồ.” Điều đó có vẻ làm cô bé hài lòng. “Môi Fiona mỏng dính.” “Môi đầy đặn thì tốt hơn nhiều, nhiều so với môi mỏng,” Turner nói dứt khoát. Anh khá thích cô gái bé nhỏ vui nhộn này và muốn cô bé vui hơn. “Tại sao?” Turner thầm cầu xin các vị thần của nghi thức xã giao và tính đúng đắn chừng mực tha lỗi trước khi trả lời: “Đôi môi đầy đặn thì hôn sẽ tuyệt hơn.” “Ồ.” Miranda đỏ mặt, và rồi cô bé mỉm cười. “Hay quá.” Turner cảm thấy hài lòng với bản thân một cách ngớ ngẩn. “Em có biết anh nghĩ gì không, tiểu thư Miranda Cheever? “Dạ?” “Anh nghĩ em chỉ cần trở thành chính mình thôi.”[2] Vừa nói ra điều đó, anh lập tức cảm thấy hối tiếc. Chắc chắn cô bé sẽ hỏi ý anh là gì, và anh chẳng biết phải trả lời cô ra sao nữa. [2] Nguyên văn là “I think you just need to grow into yourself” và Miranda hiểu lầm ý của anh nói cô bé cần phải lớn hơn để cơ thể cân đối với đôi chân quá dài của mình. Nhưng cô bé lớn trước tuổi này chỉ nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ về tuyên bố của anh. “Em mong là anh đúng,” cuối cùng cô nói. “Hãy nhìn chân em mà xem.” Một tiếng ho kín đáo lấp liếm nụ cười nén vội trong họng Turner. “Ý em là gì?” “Thế đấy, chân quá dài. Mẹ em thường nói rằng chân dài đến nách vậy.” “Có vẻ như chân em bắt đầu từ phần hông của em đấy chứ.” Miranda cười rúc rích. “Em đang nói ẩn dụ mà.” Turner nháy mắt. Cô bé mười tuổi này quả là thích lý sự. “Ý em là,” cô tiếp tục, “đôi chân của em có kích thước không cân đối so với phần còn lại của cơ thể. Em nghĩ đó là lý do em không thể học khiêu vũ được. Em cứ giẫm vào ngón chân của Olivia hoài.” “Giẫm lên ngón chân của Olivia?” “Chúng em tập khiêu vũ cùng nhau,” Miranda mau lẹ giải thích. “Em nghĩ nếu các bộ phận trên cơ thể em ăn khớp với đôi chân thì em sẽ không quá lóng ngóng vụng về. Vì vậy em cho là anh đúng đấy. Em đúng là phải lớn hơn để cho vừa với chính mình.”[3] [3] Nguyên văn là “I do have to grow into myself.” “Tuyệt vời,” Turner nói, vui mừng nhận ra chẳng hiểu xoay xở thế nào mà anh đã nói trúng điều cần nói. “À, có vẻ như chúng ta đến nơi rồi.” Miranda ngước nhìn ngôi nhà đá xám xịt của mình. Nó tọa lạc ngay trên một trong những dòng suối ăn thông với các hồ trong vùng, và dòng suối này chảy qua cây cầu nhỏ bằng đá cuội dẫn đến cửa trước của ngôi nhà. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đưa em về, Turner. Em hứa sẽ không bao giờ gọi anh là Nigel.” “Em cũng hứa là sẽ véo Olivia nếu nó gọi anh là Nigel chứ?” Miranda khẽ bật ra tiếng cười khúc khích và bụm tay che miệng. Cô bé gật đầu. Turner xuống ngựa rồi quay sang giúp cô bé xuống. “Em có biết anh nghĩ em nên làm gì không hả Miranda?” anh đột nhiên hỏi. “Gì ạ?” “Anh nghĩ em nên viết nhật ký.” Cô bé chớp mắt ngạc nhiên. “Tại sao? Ai muốn đọc nó chứ?” “Không ai cả. Em giữ riêng nó cho mình thôi. Và có thể một ngày nào đó sau khi em qua đời, con cháu của em sẽ muốn đọc nó để biết được hồi còn trẻ em sống như thế nào.” Cô nghiêng nghiêng đầu. “Ngộ nhỡ em không có con cháu thì sao?” Turner bất giác đưa tay vò tóc cô bé. “Em hỏi nhiều quá đấy, mèo con ạ.” “Nhưng nhỡ em không có con cháu thì sao?” Chúa ơi, cô bé thật cứng đầu. “Có lẽ em sẽ nổi tiếng.” Anh thở dài. “Và bọn trẻ học ở trường sẽ muốn được biết về em.” Miranda ném cho anh ánh mắt hoài nghi. “Ôi, thôi được rồi, em muốn biết tại sao anh thật sự nghĩ em nên viết nhật ký không?” Cô bé gật đầu. “Bởi vì một ngày nào đấy em sẽ lớn lên và trở thành chính mình, em sẽ xinh đẹp và thông minh. Rồi em có thể đọc lại nhật ký và nhận ra những đứa con gái như Fiona Bennet mới ngốc nghếch làm sao. Và em sẽ cười khi nhớ lại rằng mẹ em đã nói chân em dài tới tận nách. Và có thể em sẽ dành cho anh một nụ cười tủm tỉm khi nhớ lại buổi trò chuyện tuyệt vời giữa chúng ta hôm nay.” Miranda ngước nhìn anh, nghĩ rằng anh chắc hẳn phải là một trong những vị thần Hy Lạp mà ba vẫn thường đọc cho mình nghe. “Anh biết em nghĩ gì không?” cô bé thì thầm. “Em nghĩ Olivia rất may mắn vì có anh là anh trai.” “Anh nghĩ nó rất may mắn vì có em là bạn.” Môi Miranda run run. “Em sẽ dành cho anh một nụ cười rạng rỡ, Turner ạ,” cô bé thì thầm. Anh cúi xuống ân cần hôn lên mu bàn tay của cô bé đúng như anh hẳn sẽ làm với một tiểu thư xinh đẹp nhất London. “Hãy chờ xem nhé, mèo con.” Anh mỉm cười và gật đầu chào trước khi lên ngựa, dắt con ngựa cái của Olivia đi đằng sau. Miranda dõi theo cho tới khi anh biến mất ở đường chân trời, rồi cô bé cứ nhìn đăm đăm thế thêm mười phút tuyệt vời nữa. Khuya hôm đó Miranda thơ thẩn đi vào phòng làm việc của ba. Ông đang cắm cúi vào một văn bản, quên bẵng cây nến sáp đang nhỏ giọt trên bàn làm việc. “Ba, đã bao nhiêu lần con phải nhắc ba để ý đến mấy cây nến rồi ạ?” Cô bé thở dài đặt cây nến vào giá cắm. “Gì cơ? Ồ, con yêu.” “Và ba cần nhiều hơn một cây nến. Ở đây tối quá không thể đọc được.” “Thế à? Ba không để ý.” Ông chớp mắt và rồi nheo lại. “Không phải đã quá giờ đi ngủ của con rồi à?” “Vú nói đêm nay con có thể thức thêm ba mươi phút nữa.” “Vú nói vậy à? Ờ ờ, miễn là bà ấy đồng ý.” Ông lại cắm cúi trở lại bản thảo, tỏ ý không muốn nói chuyện nữa. “Ba à.” Ông thở dài. “Gì nữa thế, Miranda?” “Ba có quyển sổ thừa nào không? Giống như những cuốn ba dùng khi đang dịch ấy, nhưng là trước khi ba chép ra bản nháp cuối cùng cơ?” “Chắc là có đấy.” Ông mở ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc ra lục tìm trong đó. “Đây rồi. Nhưng con muốn làm gì với nó thế? Đây là một cuốn sổ rất tốt, con biết đấy, và không rẻ đâu.” “Con sẽ viết nhật ký.” “Bây giờ ư? À, thế thì ba cho là cuốn sổ này xứng đáng đấy.” Ông đưa cuốn sổ cho Miranda. Cô bé cười rạng rỡ trước lời tán dương của ba. “Cảm ơn ba. Con sẽ cho ba biết khi nào hết chỗ viết và cần một cuốn khác.” “Được rồi. Chúc ngủ ngon, con yêu.” Ông quay trở lại với đống giấy tờ của mình. Miranda ôm cuốn sổ vào ngực chạy lên lầu về phòng ngủ. Cô bé lấy ra một lọ mực và cây bút lông rồi mở cuốn sổ ra. Ở trang đầu tiên, cô bé ghi ngày tháng, và rồi, sau một hồi cân nhắc, cô viết một dòng duy nhất. Dường như đó là tất cả những gì cần viết. 2 THÁNG BA 1810 Hôm nay mình đã yêu. Nigel Bevelstoke, vốn được tất cả những kẻ muốn lấy lòng anh biết đến nhiều hơn với cái tên Turner, biết rất nhiều thứ. Anh biết đọc tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Anh biết tán tỉnh phụ nữ bằng tiếng Pháp và tiếng Ý. Anh biết vừa cưỡi ngựa vừa nhắm bắn một mục tiêu di động, và biết chính xác phải uống bao nhiêu ly thì không đánh mất phẩm giá địa vị của mình. Anh biết tung một nắm đấm hoặc một đường gươm với phong thái bậc thầy, và cũng có thể làm cả hai việc đó trong khi vẫn ngâm nga Shakespeare hay Donne đầy duyên dáng. Tóm lại, anh biết mọi thứ mà một quý ông nên biết, và theo những thông tin thu được thì anh xuất sắc trong mọi lĩnh vực. Người ta nhìn ngắm anh. Người ta tôn kính anh. Nhưng không có gì - không một giây nào trong cuộc đời xuất chúng và vinh quang của anh - giúp anh chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với thời khắc này. Và chưa bao giờ anh cảm thấy sức nặng của những ánh mắt soi xét dè chừng nhiều như lúc này, khi anh bước tới trước và ném nắm đất lên quan tài của vợ mình. Tôi rất lấy làm tiếc, người ta cứ nói đi nói lại mãi. Tôi rất lấy làm tiếc. Chúng tôi rất lấy làm tiếc. Và trong lúc đó, Turner không thể ngăn được cái ý nghĩ rằng không biết có phải đang cười anh không, bởi vì tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là... Tôi không thấy tiếc. À, Leticia. Anh cảm ơn cô ta rất nhiều về điều đó. Hãy xem nên bắt đầu từ đâu thì hợp lý? Danh tiếng của anh bị tổn hại, dĩ nhiên rồi. Chỉ quỷ sứ mới biết có bao nhiêu người tường tận rằng anh là kẻ bị cắm sừng. Một lần, hai lần, ba lần,... Thế rồi đến bản tính trong sáng của anh cũng mất. Giờ đây, thật khó lòng hồi tưởng lại, nhưng anh đã từng không hề nghi ngờ bất cứ ai. Anh đã từng tuyệt đối tin vào những gì tốt đẹp nhất của con người - rằng nếu anh đối xử với người khác bằng danh dự và sự kính trọng thì họ sẽ làm như vậy với anh. Và cuối cùng, linh hồn anh cũng mất. Bởi vì trong khi anh bước lùi lại, chắp hai tay cứng nhắc phía sau lắng nghe vị linh mục chuyển thân xác Leticia vào lòng đất, anh không thể trốn chạy cái thực tế là anh đã ao ước điều này xảy ra. Anh muốn thoát khỏi cô ta. Anh đã và sẽ không than khóc cho cô ta. “Thật đáng tiếc,” ai đó phía sau anh thì thào nói. Quai hàm Turner giần giật. Không có gì đáng tiếc ở đây. Nó là một trò hề. Và bây giờ anh sẽ dùng một năm sắp tới để tang cho một người phụ nữ đến với anh mà lại mang thai đứa con của kẻ khác. Cô ta làm anh mê mẩn, bỡn cợt anh cho tới khi anh không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài việc chiếm cho được cô ta. Cô ta nói rằng cô ta yêu anh, và cô ta mỉm cười với vẻ ngây thơ dịu dàng đầy vui sướng khi anh tuyên thệ lòng tận tâm và cam kết bằng cả linh hồn mình. Cô ta đã từng là giấc mơ ngọt ngào của anh. Và rồi cô ta trở thành ác mng của anh. Cô ta mất đứa bé đó, đứa trẻ đã dẫn đến cuộc hôn nhân của họ. Bố nó là một vị Bá tước người Ý nào đó, ít nhất là cô ta nói thế. Gã đã có vợ, hoặc không phù hợp, hoặc có lẽ cả hai. Turner đã sẵn sàng tha thứ cho cô ta, ai cũng phạm sai lầm, và cả anh cũng vậy còn gì, chẳng phải anh muốn dụ dỗ cô ta trước đêm tân hôn đó sao? Nhưng Leticia không muốn tình yêu của gã. Anh không biết cô ta muốn cái quái quỷ gì nữa - quyền lực, có lẽ thế, cơn say thỏa mãn khi hãy còn người đàn ông khác đổ nhào xuống vì bùa mê của cô ta. Turner tự hỏi liệu cô ta có cảm thấy thế khi gã chết không. Hay có lẽ nó chỉ là một sự giải thoát. Tính đến khi Turner và cô ta cưới nhau, cô ta đã mang thai được ba tháng. Cô ta không có nhiều thời gian rảnh. Và giờ thì cô ta đây. Hay đúng hơn là, cô ta kia. Turner không biết chính xác dùng từ nào là thích đáng hơn cả cho cái thân xác không còn sự sống trong lòng đất ấy. Mà từ nào cũng được. Anh chỉ thấy tiếc rằng cô ta sẽ chia sẻ sự vĩnh hằng trong mảnh đất của anh, yên nghỉ giữa những người nhà Bevelstoke mãi mãi. Bia đá của cô ta sẽ mang tên anh, và rồi một trăm năm nữa người nào đó sẽ nhìn vào dòng chữ khắc trên tấm đá granit kia mà nghĩ cô ta chắc hẳn là một phu nhân đáng kính, và tự hỏi bi kịch gì đã khiến cô ta ra đi khi còn quá trẻ như vậy. Turner ngước nhìn vị linh mục. Ông ta trẻ nhất trong các đồng đạo, mới đến giáo xứ, và theo anh biết thì vị linh mục này vẫn còn niềm tin rằng có thể biến thế gian này thành một nơi tốt đẹp hơn. “Tro tàn trở về với tro tàn,” linh mục vừa nói vừa nhìn lên người đàn ông giờ đã trở thành góa vợ. À phải, Turner chua chát nghĩ, đó là mình. “Cát bụi trở về với cát bụi.” Phía sau anh, có ai đó sụt sịt. Và vị linh mục, với đôi mắt xanh sáng ngời ánh lên niềm cảm thông được đặt hoàn toàn không đúng chỗ, tiếp tục nói... “Trong niềm hy vọng chắc chắn và vững vàng vào sự hồi sinh...” Chúa nhân từ. “... tới cuộc sống vĩnh hằng.” Vị linh mục nhìn Turner và thực sự nao núng. Turner thắc mắc không rõ chính xác thì ông ta nhìn thấy gì trên gương mặt anh. Chẳng có gì tốt đẹp, điều đó hẳn quá rõ ràng rồi. Ai nấy đồng thanh “Amen!”, và rồi buổi lễ kết thúc. Mọi người nhìn vị linh mục, rồi nhìn Turner, sau đó lại nhìn vị linh mục siết chặt hai bàn tay của Turner mà nói: “Mọi người sẽ nhớ cô ấy.” “Tôi,” Turner nén lại, “thì không.” Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. Miranda nhìn xuống những dòng cô đã viết. Cô đang ở trang thứ bốn mươi hai của cuốn nhật ký thứ mười ba, nhưng đây là lần đầu tiên - lần đầu tiên kể từ sau cái ngày định mệnh chín năm về trước - cô không biết viết gì cả. Ngay cả trong những tháng ngày xám xịt ảm đạm (mà chúng thường xuyên xuất hiện), cô cũng xoay xở để viết được một đoạn dài. Tháng Năm năm cô mười bốn tuổi... Thức dậy. Mặc quần áo. Ăn sáng: bánh mì nướng, trứng, thịt lợn muối. Đọc Lý trí và Tình cảm; được sáng tác bởi một tiểu thư vô danh. Giấu Lý trí và Tình cảm. Ăn tối: thịt gà, bánh mì, pho mát. Chia động từ tiếng Pháp. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bò bít tết, xúp, bánh pudding. Đọc tiếp Lý trí và Tình cảm, nhận diện về tác giả vẫn chưa biết. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Còn đây là những điều cô ghi vào ngày 12 tháng Mười một cùng năm đó... Thức dậy. Ăn sáng: Trứng, bánh mì nướng, giăm bông. Thực hiện một cuộc biểu dương vĩ đại đọc bi kịch Hy Lạp. Không có kết quả. Dành nhiều thời gian nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ. Ăn trưa: cá, bánh mì, đậu Hà Lan. Chia động từ Latin. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bánh mì nướng, khoai tây, bánh pudding. Mang bi kịch đến bàn (sách, không phải sự kiện). Ba không. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Nhưng bây giờ - khi một sự kiện trọng đại đã thực sự xảy ra (điều chưa bao giờ xảy ra) thì cô lại chẳng có gì để viết ngoại trừ... Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. “Than ôi, Miranda,” cô lầm bầm, nhìn mực khô đi trên đầu cây viết lông, “mày sẽ không nổi danh được với tư cách là một người viết nhật ký đâu.” “Cậu vừa nói g&igrav

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bốn Năm Phấn Hồng - Dịch Phấn Hàn
Bốn năm phấn hồng, mặt trái của một hồi ức đẹp Những nhân cách tha hoá, những tâm hồn mục ruỗng dưới áp lực của hư danh và tiền bạc. “Bốn năm phấn hồng” là những cuộc chiến khắc nghiệt của các nữ sinh chống lại những thử thách của hoàn cảnh: đơn độc, thiếu thốn, bị ức hiếp, bị thôi miên bởi đồng tiền và dục vọng. Càng nếm trải cuộc sống, họ càng chua chát nhận ra tính thị trường hoá của nó… Di Phấn Hàn, Tô Tiêu, La Nghệ Lâm, Trịnh Thuấn Ngôn, Trương Hàm Yên, Trần Thuỷ, Diệp Ly, Lưu Sa Sa, mỗi cô gái một tính cách, một tâm tư, một lối sống, họ là những đại diện của thế hệ sinh viên mới.Khác nhau về quê hương, hoàn cảnh gia đình nhưng họ đã cùng nếm trải những áp lực của cuộc sống xa nhà trong bốn năm kí túc xá. “Bốn năm phấn hồng” là những cuộc chiến khắc nghiệt của các nữ sinh chống lại những thử thách của hoàn cảnh: đơn độc, thiếu thốn, bị ức hiếp, bị thôi miên bởi đồng tiền và dục vọng. Càng nếm trải cuộc sống, họ càng chua chát nhận ra tính thị trường hoá của nó: hàng hoá gia sư, hàng hoá bạn trai, hàng hoá sắc đẹp, hàng hoá tình yêu,…ai trong số các thiếu nữ chưa từng bị lừa trong các cuộc mua bán trá hình này: Trần Thuỷ bị lừa mất sự trong trắng, Lưu Sa Sa sa lầy bán dâm và tự sát, Diệp Ly ăn cắp và bị đuổi học, Tô Tiêu cặp bồ có thai phải đi phá,…. Vấp ngã và đau đớn, và khóc nhưng vẫn phải sống. Bởi cái chết của Lưu Sa Sa lơ lửng trên đầu họ như một lời cảnh cáo cho những kẻ muốn bỏ dở cuộc chơi. Cuốn sách giống như một sự lộn trái đời sống đại học. 439 trang giấy đầy rẫy những toan tính xảo quyệt hay khờ dại. Tô Tiêu hết xoay xở để trở thành tâm điểm thu hút sự tán tỉnh của các chàng trai đến tính toán bồ bịch với đại gia giầu có; La Nghệ Lâm dã tâm như Tư Mã Chiêu, lúc thường thì khinh người, bắt nạt mọi người trong phòng kí túc xá nhưng khi tranh cử lớp trưởng thi xả thân hầu hạ, xu nịnh người khác, sau này lại yêu gã bí thư đoàn trường vừa xấu người xấu tính để dễ thăng tiến chính trị; ngay cả một cô gái không tầm thường như Trịnh Thuấn Ngôn cũng từng đặt điều với người yêu để bôi nhọ Tô Tiêu,….Đồng thời, dường như không ở đâu những thói tật kinh niên của nữ sinh được miêu tả trần trụi và đầy ám ảnh như trong “Bốn năm phấn hồng”: từ thói “buôn dưa”, thói tỵ nạnh đến bệnh hình thức. Sức mạnh sát phạt của miệng lưỡi con gái hiện lên qua cái lưỡi chua ngoa cay nghiệt của La Nghệ Lâm, qua cái lưỡi “nói ngọt lọt đến xương” lẳng lơ của Tô Tiêu đến cái mồm nói như máy khâu của Trần Thuỷ. La Nghệ Lâm từ bêu rếu Diệp Ly chuyện bữa ăn chỉ có củ cái trắng đến tàn tệ chửi mắng cô bạn chuyện vệ sinh hàng ngày, Trần Thuỷ và bạn bè lục trộm tủ quần áo của Tô Tiêu để thẩm định nhãn mác quần áo, Tô Tiêu lẳng lơ buôn điện thoại cả nửa giờ đồng hồ với người yêu bạn cùng phòng. Di Phấn Hàn đã gọi miệng lưỡi con gái là “biển nước bọt”, ngập ngụa những lời bịa đặt nhảm nhí. Độc giả sẽ cảm nhận một cách rõ ràng cái không khí nghẹt thở của môi trường “âm thịnh dương suy”- giống như của nhà giam tội phạm bị tình nghi, bởi mọi hành vi của con người sẽ bị săm soi, mọi sơ hở sẽ được khai thác triệt để để làm phong phú thêm nội dung những bài buôn dưa hùng hồn như những bản cáo trạng. Thông qua những ám ảnh triền miên và khủng khiếp của Di Phấn Hàn, chúng ta rùng mình trước sức băng hoại của cái chất độc ngay trong lòng cuộc sống và trong lòng những người thiếu nữ còn trong trắng như cánh bướm non. Họ không lo sợ thiếu tiền bằng việc bị nhìn như những kẻ không có tiền, họ thà bị kẻ mạnh ức hiếp còn hơn mạo hiểm chống đỡ, nhưng lại sẵn sàng ức hiếp kẻ yếu hơn mình một cách tàn nhẫn, .... Giới trẻ đã sống vô tâm và độc ác như thế. Vụ tự sát kinh hoàng của Lưu Sa Sa, việc Diệp Ly trở thành kẻ ăn cắp không phải do số phận mà là do bị đầu độc đến chết về thể xác và linh hồn. Không phải nữ sinh không cảm thấy sự “vỡ vụn”, “ tàn tạ” của tâm hồn. Di Phấn Hàn, Tô Tiêu, Trần Thuỷ, Diệp Ly, Trịnh Thuấn Ngôn,... đã khóc, đã để tang cho mỗi vết thương không lành đó. Cuốn sách tràn ngập những lời sám hối tuyệt vọng và cay đắng, những sự nức nở của lương tâm:“Chúng tôi đều không phải là người xấu, chúng tôi cũng không có mâu thuẫn gì to tát, chúng tôi không muốn dồn ai đó vào chỗ chết. Nhưng chúng tôi cũng lại là những kẻ ích kỉ và ngu xuẩn. Đó là những mâu thuẫn không thể cứu chữa, không thể điều chỉnh”. Tuy nhiên, thế giới của cuốn sách không chỉ toàn một màu u ám lạnh lẽo. Giống như trong câu chuyện ngụ ngôn mà địa ngục là nơi quỷ sa tăng cất giữ nhứng báu vật của sự sống, cuộc sống đại học càng khan hiếm tình người càng khát khao tình yêu, càng nghèo nàn tiền bạc càng dạt dào mơ ước. Ngay từ đầu cuốn tiểu thuyêt đã quay cuồng trong những cuộc săn đón điện thoại của bạn trai trong phòng kí túc xá. Những hồi chuông diết dóng đó là sự báo trước những cuộc săn lùng tình yêu sẽ nổ ra không ngớt suốt “Bốn năm phấn hồng”. Bạn sẽ tìm thấy trong hàng chục cuộc tinh chớp nhoáng của cô nữ sinh xinh đẹp Tô Tiêu một sự thực lớn hơn sự sa xút về phẩm hạnh, đó là sự đáng thương của nỗi cô đơn tuyệt vọng của con người. Tình yêu với thiếu nữ không chỉ là sự tất yếu của dục vọng mà chính là sự khát khao tìm hồn đồng điệu, tìm sự chở che. Đẹp hơn nữa, cuốn tiểu thuyết viết về tuổi xuân thiếu nữ là độ hoa tình yêu sẽ nở mê đắm. Bởi còn gì mê đắm hơn là khi quyện hoà sự trong trắng và bồng bột, là những con tim lần đầu đập loạn nhịp luôn vội vàng muồn cắn trái tình yêu. Trần Thuỷ say đắm một chàng không quen biết trên mạng, Trịnh Thuấn Ngôn bác học lại yêu khờ dại một tay chơi “Võ lâm truyền kì” đến độ quyên ăn quên ngủ, còn Di Phấn Hàn đã yêu tuyệt vọng một người có vợ,…Đó là những thứ tình yêu dại dột mà khiến người ta mê mẩn vì sự trong trắng tuyệt mỹ của chúng ngay giữa cuộc đời đã bị đồng tiền làm cho nhem nhuốc. “Bốn năm phấn hồng” giống như cuốn nhật kí của một sinh viên đại học. Lối viết dung dị mà tinh tế, sắc sảo mà hài hước của Dịch Phấn Hàn thật dễ đi vào lòng người. Bạn đọc sẽ cảm thấy như đang được nghe lại câu chuyện vê chính cuộc đời mình một cách cực kì hấp dẫn, bất ngờ và thậm chí gây sốc. Dù bạn đã, đang hay chưa từng trải qua cuộc sống đại học như vậy, bạn sẽ không ít lần cảm thấy giật mình về chính mình. Năm 2000, mang theo sự nuối tiếc của kỳ thi đại học, tôi bước vào đại học ở Vũ Hán, một trường đại học trọng điểm. Trong cái thành phố hội tụ rất nhiều trường đại học này, trường của tôi tuy là trường điểm nhưng lại có tiếng tăm chẳng ra sao. Điều này cũng có thể liên quan đến việc trường có quá nhiều nữ sinh. Nơi nào có nhiều con gái, nơi đó có nhiều chuyện thị phi, cho dù họ là những phụ nữ lớn tuổi đã kết hôn hay là những thiếu nữ mới đôi mươi. Bốn năm nay, tôi chưa hề hoà nhập vào cuộc sống ở trường học, chưa hề hoà nhập vào đám nữ sinh trong trường, mặc dù tôi rất gần họ, gần tới mức như không có tí ti khoảng cách nào, gần tới mức mỗi ngày đều cùng ăn, cùng ở, cùng uống, cùng ngủ. Tôi cảm thấy mình giống như một kẻ nhìn bờ đối diện, quan sát cái gọi là cuộc sống sinh viên bình yên đẹp đẽ. Tôi là kẻ ngông cuồng tới mức cảm thấy từ trước tới nay trong trường này, tôi chưa hề có đối thủ. Tôi cho rằng mình luôn đúng, cho đến khi sắp tốt nghiệp mới phát hiện ra rằng mình đã sai. Tôi cho rằng mình là người trong sáng, cho tới khi nhìn lại mới phát hiện ra rằng thời gian bốn năm đã biến tôi thành một người giống như hầu hết những người ở đây, cuối cùng cũng rơi vào vũng bùn nhơ. Tôi cho rằng mình là người thuần khiết, cho tới khi viết ra những dòng này mới biết, mình không khác gì so với những nữ sinh khác, chẳng qua là tự cảm thấy mình tài giỏi hơn một chút. Bốn năm trước, chúng tôi đều từng là gái trinh, hoặc đều thuần khiết thánh thiện như gái trinh, chúng tôi bước vào tháp ngà với tấm thân trong sáng. Chúng tôi là những thiên thần không có đôi cánh. Bốn năm sau, chúng tôi rời nơi này, mang theo một vài thứ, để lại một vài thứ, có được vài thứ, thứ mất đi là nhiều hơn cả. Bốn năm qua đi, nhan sắc tuổi diễm lệ của tuổi xuân cũng đi qua, nhiều lắm cũng chỉ có thể giữ lại được con tim thục nữ. Đây là một cuốn tiểu thuyết về nữ sinh đại học. Nữ sinh viết tiểu thuyết của nữ sinh. Tôi là một nữ sinh thông minh. Tôi tự tin rằng khả năng "nhìn trộm" và khả năng cảm nhận của mình có thể khiến tất cả những nam sinh hay nữ sinh, đàn ông hay phụ nữ có hứng thú với nữ sinh đại học đều cảm thấy hài lòng. Cũng có thể, tôi tự cho rằng mình viết rất thấu đáo, nhưng chẳng qua chỉ là "ếch ngồi đáy giếng" mà thôi. Tất cả các nhân vật chính đều là nữ sinh, tất cả những nhân vật có danh tính đều là nữ sinh. Những câu chuyện giữa nữ sinh với nữ sinh, giữa nữ sinh và đàn ông là những câu chuyện không bao giờ nói hết. *** Dịch Phấn Hàn là tên của một nữ nhà văn trẻ đang nổi trên văn đàn Trung Quốc. Tác phẩm của Dịch Phấn Hàn thường lấy đề tài từ cuộc sống và nhất là từ đời sống tình cảm của những người trẻ trong xã hội hiện đại. Năm 2008, cuốn tiểu thuyết có cái tên khá ấn tượng Cô đơn vào đời của Dịch Phấn Hàn sau khi cuốn hút được bạn đọc Trung Quốc đã được dịch giả Minh Thảo dịch ra tiếng Việt và NXB Văn học ấn hành. *** Sau khi từ toà báo về tôi đã chuyển nhà đến đơn vị thực tập ở Hàn Khẩu. Trong thời gian thực tập của năm thứ tư, tôi và bạn trai bắt đầu sống chung. Đối với tôi việc này còn quan trọng hơn việc thực tập rất nhiều. Nguyên nhân của việc sống chung là đơn vị thực tập của tôi ở Hàn Khẩu mà trường học của tôi lại ở Vũ Xương. Để thuận tiện hơn chúng tôi đã sống chung. Tôi và bạn trai tôi quen nhau thế nào không phải là điều quan trọng. Quan trọng là tôi và anh ấy yêu nhau, và đã về sống với nhau. Không biết sau này tôi có còn yêu anh ấy không nhưng giờ đây tất cả tình yêu của tôi đều dành cho anh ấy, cho cuộc sống chung này, vì thế chúng tôi không phải giấu giếm nhau gì nữa. Lời hứa về "chuyện ấy" là một cam kết rất quan trọng, cách nhìn của tôi từ trước đến giờ vẫn vậy. Trong trường học người ta cho phép được yêu nhau, nhưng sống với nhau thì cấm tuyệt đối. Cho đến tận ngày sống chung, tôi vẫn không ý thức được rõ ràng mình đang làm gì. Anh ấy nói: "Em yêu, chúng ta sống cùng nhau nhé, để mỗi ngày không phải đi đi về về hai lần nữa, mệt lắm". Tôi đồng ý mà gần như không suy nghĩ gì cả. Cách nghĩ của tôi rất đơn giản. Sống với nhau không có nghĩa là buộc phải có chuyện đó. Tôi suy nghĩ ngây thơ như vậy đấy. Điều này cũng đã cho thấy, rõ ràng quan niệm về tình yêu của tôi còn quá non nớt. Tôi khát khao được trở thành người trưởng thành nhưng cũng sợ trách nhiệm mà một người trưởng thành phải gánh vác. Ban đầu chúng tôi tìm được một căn nhà, ở đó phải thuê chung với người khác. Có hai phòng, phòng còn lại cũng là một đôi. Buổi sáng hôm chúng tôi đi xem phòng, ra mở cửa cho chúng tôi là một cô gái vẫn còn mặc nguyên áo ngủ, đầu tóc bù xù. Khi cô ấy đưa tay lên buộc tóc tôi đã kịp nhìn thấy "cỏ" dưới cánh tay cô ấy đen sì như cả tháng nay chưa được dọn dẹp. Còn người bạn trai để nguyên bộ dạng mình trần đi ra. Trong phút chốc, tôi bỗng thấy sợ. Ý thức được rằng cuộc sống chung sẽ xoá bỏ mọi rào cản giữa tôi và người tôi yêu, nếu cuộc sống ấy biến một người con gái thành một bà già lôi thôi, luộm thuộm, ăn mòn tất cả sự kín đáo dịu dàng của người con gái, tôi sẽ tình nguyện sống độc thân. Trong tôi một nỗi sợ hãi chưa bao giờ có về hai từ "sống thử" đã hình thành. Thực ra chẳng qua là chưa hiểu rõ về tình yêu. Thực ra, chẳng qua là đã ước mong quá cao vời về tình yêu và cuộc sống. Nữ sinh. Một nữ sinh còn chưa rời khỏi ghế nhà trường. Một nữ sinh với những khát vọng cao xa về tình yêu, cuộc sống. Sống thử sẽ biến tình yêu thành gần giống với những thói thường ngày, hiện thực đã làm tan vỡ giấc mộng tình yêu chưa kịp dứt. Tôi không thể chấp nhận một ngày nào đó sau khi sống chung, tôi cũng xuất hiện trước mặt người lạ với bộ dạng đầu tóc rối bù, mặt mày nhem nhuốc, vẫn còn mặc nguyên áo ngủ. Tôi cũng không thể chấp nhận một ngày nào đó sống chung tôi mặc áo sát nách, để lộ nguyên vùng "cỏ" dưới cánh tay chưa dọn sạch cho cả thiên hạ nhìn thấy... Trong trường học, có bao nhiêu nữ sinh ôm ấp niềm mong mỏi về một cuộc sống yêu thương tươi đẹp, nên đã lựa chọn sống chung vói người mình yêu, rồi lại từ tổ ấm đã từng chung sống đó ra đi mang theo tình yêu vỡ vụn. Tôi tin rằng những nữ sinh này sẽ thay đổi không chỉ quan niệm về tình yêu, mà cả những điều nhỏ nhặt nhất khi làm con gái. ... Mời các bạn đón đọc Bốn Năm Phấn Hồng của tác giả Dịch Phấn Hàn.
Bí Mật Một Gia Tài - Eugenie Marlitt
E. Marlitt là bút hiệu của Eugenie John (1825 - 1887), một tiểu thuyết gia nổi tiếng người Đức. Eugenie John sinh tại Arnstadt. Cha bà là một hoạ sĩ vẽ chân dung. Sự bảo trợ của bà là công chúa của Schwarzburg Sondershausen, người đã nhận nuôi bà vào năm 1841 và gửi bà đến Vienna để học nhạc trong ba năm nhờ vào giọng nói tốt của bà. Eugenie John trở nên điếc, và trở lại Sondershausen, sống 11 năm tại tòa án với tư cách là thư kí viên. Các đồng nghiệp của bà đã bị hấp dẫn bởi phong viết văn của bà, và khuyến khích Eugenie John sáng tác tiểu thuyết. Vì mục đích này, bà trở lại Arnstadt vào năm 1863, và bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách một nhà văn. • Tác phẩm Die zwölf Apostel (1865): Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Eugenie John, nó xuất hiện ở Leipzig Gartenlaube. Goldelse (1866): Cuốn tiểu thuyết này đánh dấu sự nổi tiếng của Eugenie John, độc giả của nó bị thu hút bởi những miêu tả về hình ảnh và thơ mộng về cuộc đời Đức. Blaubart (1866); Das Geheimnis der alten Mamsell (1868 - Bí Mật Một Gia Tài); Thüringer Erzählungen (1869), Reichsgräfin Gisela (1870); Heideprinzeßchen (1872); Die zweite Frau (1874) *** Sáng hôm ấy, ở khắp các góc phố trong thành phố X. đều dán những tờ quảng cáo đỏ báo tin nhà ảo thuật trứ danh Ooclôpxki đã đến cùng các tiết mục kỳ diệu của anh. Một thiếu phụ đến từng nhà bán vé. Nàng rất đẹp. Bộ tóc vàng hung lộng lẫy, dáng dấp kiều diễm và quý phái, nhưng bộ mặt dịu dàng của nàng xanh, nhợt nhạt như xác chết - người ta thường nói thế và những lúc hiếm hoi nàng ngước cặp lông mi vàng óng lên, đôi mắt xám sẫm chất chứa vẻ êm dịu và gần như thê thảm làm xúc động lòng người. Nàng vào cả nhà ông Hêluy, ngôi nhà sang trọng nhất ở phố chợ. — Thưa bà, - Hăngri, người đầy tớ ở tầng dưới gọi, - vợ người làm ảo thật đến. — Chị ta muốn gì? - một giọng đàn bà nghiêm khắc hỏi. — Chồng chị ấy biểu diễn ngày mai, chị ấy muốn mời bà mua một vé vào xem. — Chúng ta là những tín đồ lương thiện, và cũng không có tiền để tiêu cho những trò hề ấy. Đuổi họ đi, Hăngri. Người đầy tớ đóng cửa phòng lại. Bác gãi tai, nét mặt bối rối, vì người biểu diễn chắc đã nghe thấy hết. Nàng đứng sững sờ trước mặt bác một lúc: mặt nàng thoáng đỏ lên và một tiếng thở dài nặng nề từ trong ngực thốt ra… Ngay lúc ấy, một cánh cửa nhỏ trổ trên cửa lớn hé ra, có tiếng đàn ông khẽ hỏi mua một vé, vé đưa ra, một đồng hai êquy nhẹ đưa vào tay thiếu phụ trước khi nàng kịp ngước mắt lên, cánh cửa nhỏ đã đóng lại. Tấm rèm xanh rủ những nếp mờ che sau cửa kính. Hăngri mở cửa và mỉm cười vui vẻ, người đàn bà đi ra với những bước chân ngập ngừng để tiếp tục con đường chông gai của mình. Hôm sau, phòng khánh tiết ở thị sảnh chật ních người xem. Hăngri lọt vào giữa đám đông, phải chen chúc mới thoát ra được để đến gần chủ. Ông ngồi cạnh một người bạn là bác sĩ Buêơm trên khán đài, giữa những người có địa vị trong tỉnh. Người xem tuôn đến cũng dễ hiểu. Chương trình hứa hẹn những tiết mục tuyệt diệu và tiết mục cuối cùng được viết như sau: “Bà Ooclôpxki sẽ xuất hiện trong vai Vankiri[1]. Sáu người lính sẽ nổ súng vào bà, bằng một nhát kiếm, bà sẽ chém đứt ngang sáu viên đạn đang bay”. Dân chúng ở X. đến đây chủ yếu để nhìn thấy điều phi thường này. Người đàn bà trẻ và đẹp đã làm cho mọi người chú ý, ai nấy muốn thấy nét mặt của nàng sẽ như thế nào khi các nòng súng chĩa vào nàng… Nhà ảo thuật cũng thu hút được sự chú ý của công chúng bằng các trò nhanh tay. Anh là người mà các bà thường gọi là một nhân vật lý thú. Người vừa phải, mềm mại dong dỏng cao, anh có nét mặt đều đặn, tóc đen, hai mắt đầy tình cảm, cử chỉ lịch sự và cách nói tiếng Đức nhấn mạnh giọng càng làm cho anh thêm hấp dẫn. Nhưng mọi giá trị ấy đều bị quên ngay khi sáu người bồng súng do một viên đội chỉ huy bước vào. Cử tọa bỗng náo nhiệt. Có thể nói đây là tiếng ầm ĩ của các ngọn sóng vỗ vào đá. Rồi tiếp đến là sự lặng lẽ đột ngột như lo sợ. Người Ba Lan tiến đến gần một cái bàn và đóng thuốc súng vào vỏ đạn trước mặt công chúng. Anh lấy búa nện lên từng viên đạn, để tiếng động ấy làm cho khán giả đang hồi hộp tin rằng đấy là những viên đạn thật. Rồi anh đưa cho mỗi người lính một viên và bảo họ nạp đạn. Nhà ảo thuật giơ chuông lắc. Một người đàn bà từ sau bức màn rộng bước ra. Nàng thong thả tiến lên dọc theo sân khấu và đến đứng trước mặt những người lính. Sự xuất hiện thật tuyệt diệu! Một chiếc mộc che trên cánh tay trái, tay phải nàng cầm kiếm. Chiếc áo dài trắng rủ thành nhiều nếp rộng xuống tận chân; chung quanh hông buộc các vảy bạc. Và tấm thân tuyệt đẹp được bảo vệ bằng chiếc áo giáp lóng lánh. Nhưng trang phục rực rỡ ấy so làm sao được với ánh vàng lóng lánh của bộ tóc tuôn như sóng từ chiếc mũ sắt xuống tận gần gấu áo dài. Khuôn mặt xanh xao và buồn rầu hướng về phía các họng súng gây chết chóc. Không một sợi lông mi rung động. Không thấy một xao động nào ở bộ áo bồng bềnh, nàng đứng đấy như một pho tượng đá. Tiếng hô cuối cùng vang lên trong gian phòng lặng lẽ, sáu tiếng súng nổ cùng một loạt… thanh kiếm chém vào không khí rít lên, và những nửa viên đạn rụng xuống sàn. ... Mời các bạn đón đọc Bí Mật Một Gia Tài của tác giả Eugenie Marlitt.
Axya
Truyện dài của Turgenev, kể về một mối tình thoảng qua giữa một cô gái Nga mới lớn sôi nổi, chưa biết yêu là gì và một anh chàng Nga tại Đức. Mối tình trong vài ngày kết thúc bằng việc cô gái tỏ tình, chàng trai không chắc chắn nên từ chối, khiến anh em cô gái bỏ đi. Chàng trai hối hận tìm kiếm nhưng không bao giờ gặp lại cô gái. *** Ngày ấy tôi mới hăm nhăm, - ông N.N mở đầu câu chuyện như vậy hẳn các bạn cũng thấy, chuyện xảy ra cách đây đã lâu. Thu xếp xong công việc, tôi bỏ ra nước ngoài ngay, nhưng không phải để “du học” như người ta thường nói thời bấy giờ, mà chỉ vì tôi muốn chu du trong thiên hạ, quan sát thế gian của các thánh thần. Tôi còn trẻ, sức lực dồi dào, và trong lòng lúc nào tôi cũng thấy vui: sản nghiệp còn nguyên vẹn và trong đầu chưa kịp gợn một chút lo âu, tóm lại là tôi đã sống những ngày hoàn toàn tự do thoải mái, muốn làm gì thì làm, những tháng năm xuân sắc nhất của con người. Thuở ấy nào tôi có nghĩ được rằng con người ta đâu có phải là thảo mộc, và tuổi xuân không thể nào cứ xanh tươi mãi. Tuổi thanh xuân cứ tiêu đi những chiếc bánh dát vàng nhưng lại tưởng đó chẳng qua cũng chỉ là thứ bánh ăn thường ngày, đã mấy ai nghĩ được rằng sẽ có lúc một mẩu bánh cũng phải ngửa tay xin. Nhưng thôi lý giải làm gì chuyện ấy. Tôi đi ngao du không hề có chương trình và cũng chẳng nhằm một mục đích gì hết. Thích đâu thì dừng lại đấy để rồi lại bỏ đi ngay, vì tôi luôn luôn cảm thấy một niềm khao khát được thấy những gương mặt mới lạ chính là diện mạo con người. Tôi chỉ lưu tâm quan sát con người, tôi căm ghét những di tích bất hủ đầy vẻ hiếu kỳ, những bộ sưu tập hiếm hoi quý giá, chỉ riêng bộ dạng của người dẫn đường[1] cũng đã gây cho tôi cảm giác buồn bực. Tôi suýt phát điên lên ở “Nhà bảo tàng xanh”[2] tại thành phố Đresđen. Thiên nhiên gây cho tôi những cảm xúc cực kỳ mạnh, nhưng tôi không yêu cái gọi là vẻ đẹp của nó, không yêu những ngọn núi hùng vĩ, những thác ghềnh. Tôi không yêu để nó khỏi ràng buộc, quấy rầy tôi. Thế nhưng con người, những con người sống động: từ lời ăn tiếng nói, dáng điệu cho đến tiếng cười, đó mới chính là cái tôi không thể nào bỏ qua. Ở giữa đám đông bao giờ tôi cũng cảm thấy thanh thản và vô cùng thích thú, tôi vui vẻ đi theo thiên hạ, hò hét theo người ta, nhưng trong lúc đó tôi lại khoái trá đứng xem đám người kia la hét. Tôi rất thích quan sát con người… cũng không phải quan sát mà là nghiên cứu con người với cặp mắt tò mò đầy vẻ háo hức và không biết chán. Nhưng tôi lại nói lạc đề rồi. Như vậy là cách đây hai mươi năm tôi đã sống trong một thị trấn nhỏ ở Đức, thị trấn Z nằm ở tả ngạn sông Ranh. Tôi đã cố náu mình ở một nơi hẻo lánh và hiu quạnh, một quả phụ vừa gieo cho tôi một vết thương lòng, tôi quen biết bà ta ở nhà nghỉ có suối nước khoáng. Đó là một thiếu phụ rất duyên dáng và thông minh, bà ta tỏ ra kiêu sa với tất cả mọi người nhưng với tôi một con người lầm lẫn thì lúc đầu bà ta thậm chí còn khích lệ tôi, nhưng sau đó lại hắt hủi tôi một cách tàn nhẫn, khi đã thí tôi vì một viên trung úy người Baviê. Thực ra vết thương ấy của tôi cũng không lấy gì làm ghê gớm lắm, nhưng tôi thấy cũng nên có một thời náu mình trong cô đơn và buồn rầu - cái mà tuổi trẻ không say mê! - và thế là tôi đã trú ngụ tại thị trấn Z. Tôi thích thị trấn này vì cái địa thế của nó ở chân hai quả đồi cao, vì trong thị trấn có những bức tường cũ nát và nhiều ngọn tháp, có những cây bồ đề cổ thụ, có chiếc cầu dốc bắc qua dòng suối chảy ra sông Ranh, nhưng cái chính là ở đây có thứ rượu vang ngon tuyệt trần. Chiều chiều, khi trời vừa tắt nắng (đó là vào khoảng tháng sáu) những cô gái Đức tóc vàng hoe nom thật xinh xắn đi dạo trên các đường phố nhỏ hẹp, mỗi khi gặp người nước ngoài các cô cất tiếng chào: “Guten Abend?”[3] với cái giọng nghe thật dễ thương, - và cho đến lúc vầng trăng đã ló ra sau những mái nhà nóc nhọn trên những căn nhà kiểu cổ, và những viên đá nhỏ trên mặt đường lát đá đã hiện lên rõ mồn một dưới ánh trăng im lìm, vậy mà một số cô vẫn chưa muốn về. Vào những lúc ấy tôi thích đi lang thang trong thành phố. Từ trên khoảng trời trong, vầng trăng dường như đang chăm chú ngó nhìn xuống thành phố: và hình như phố xá cũng cảm thấy rõ cái nhìn ấy nên đã tỏ ra ân cần và nhũn nhặn tắm mình trong ánh trăng - cái ánh sáng mịn màng tĩnh mịch nhưng đồng thời cũng khơi gợi lên trong lòng người một nỗi xốn xang êm dịu. Con gà trống trên cái tháp chuông cao vút kiểu gô-tích sáng óng ánh trong ánh trăng vàng nhàn nhạt, cả những gợn sóng lăn tăn trên mặt con suối đen bóng cũng lấp lánh trôi đi trong ánh trăng vàng, những ngọn nến nhỏ xíu (người Đức vốn tằn tiện!) sáng lờ mờ với cái vẻ khiêm nhường trong các ô cửa sổ hẹp dưới những mái nhà lợp ngói grifen. Những cây nho mọc sau hàng tường dậu xây bằng đá hộc chìa ra những sợi tay leo cong queo nom thật bí ẩn. Bên cái giếng nước cổ xưa, một vật gì lao đi trong bóng tối qua bãi đất hình tam giác, đột nhiên vang lên một hồi còi uể oải của người gác đêm, con chó hiền lành gầm gừ mấy tiếng nửa vời, và khí trời mát dịu cứ mơn man trên da mát, bồ đề tỏa hương thơm ngào ngạt đến nỗi lồng ngực ta bất giác cứ thở hít mãi mỗi lúc một sâu hơn, và tiếng: “Gretkhen”[4] - nửa như ca thán, nửa như nghi vấn cứ thế buột ra khỏi miệng ta. Thị trấn Z nằm cách sông Ranh hai véctơ. Tôi thường ra ngắm dòng sông hùng vĩ, và ngồi hàng mấy giờ liền trên chiếc ghế đá dưới gốc cây tần bì to lớn đứng trơ trọi trên bờ sông, lòng dạ bồi hồi mơ tưởng tới người quả phụ nham hiểm kia. Dưới tán lá cây tần bì, bức tượng Đức mẹ nhỏ nhắn rầu rĩ nhìn ra với nét mặt nom giống như mặt trẻ con và trái tim đỏ tươi trên lồng ngực bị nhiều nhát gươm đâm thủng. Bờ bên kia là thị trấn L, không to hơn thị trấn tôi đang ở là bao. Một chiều tôi đang ngồi trên chiếc ghế đá yêu thích của tôi và ngắm cảnh: hết nhìn ra lòng sông, lại ngước nhìn lên bầu trời hoặc ngắm những vườn nho. Trước mặt tôi mấy em bé tóc ngắn đang leo trèo trên mạn một con thuyền đã bị kéo lên cạn và nằm phơi cái bụng quét hắc ín lên trời. Những chiếc thuyền nhỏ lững lờ trôi theo những cánh buồm không đầy gió, những làn sóng xanh lướt qua, hơi cồn lên và chạy lao xao bên mạn thuyền. Bỗng nhiên có tiếng nhạc từ xa vọng lại, tôi chăm chú lắng nghe. Bên thành phố L người ta đang chơi một điệu nhạc vanxơ: tiếng côntrơ-baxơ ậm ừ trầm mặc, tiếng viôlông réo rắt mơ hồ, tiếng flutơ nghe lềnh lảng thướt tha. - Người ta làm gì mà cử nhạc thế, hả cụ? - tôi hỏi ông già mặc áo gi-lê nhung, mang tất xanh và đi đôi giày có khóa sắt, lúc ấy vừa mới đến gần chỗ tôi. - Đó là cánh sinh viên từ B về dự hội Commerxơ - ông già thong thả chuyển cái tẩu thuốc từ mép này sang mép kia rồi mới trả lời tôi. “Hay là mình sang ngó thử xem cái hội Commerxơ ấy là cái gì - tôi nhủ thầm, - hơn nữa mình cũng chưa đặt chân lên thị trấn L lần nào”. Tôi tìm người lái đò và sang sông. ... Mời các bạn đón đọc Axya của tác giả Ivan Turgenev.
Viên Ngọc Trai - John Steinbeck
Viên Ngọc Trai, có bản dịch khác với tựa Viên Trân Châu, là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng của John Steinbeck. Vì bài học có giá trị nhân văn của nó, nó đã được dùng để giảng dạy trong trường trung học cơ sở ở một số nơi trong Hoa Kỳ. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, “Viên ngọc trai” cũng đề cập đến hai vấn đề muôn thuở: Thiện và ác – Bóng tối và ánh sáng. Phàm đã mang kiếp con người, có lẽ ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Ranh giới giữa thiện và ác rất mong manh, nó nằm trong bản chất nội tại của con người, lệch 1 chút về phía ánh sáng sẽ là “người”, nghiêng nhiều về phía bóng tối sẽ trở thành “con”. Từ đó, con người nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại theo quan niệm chung của nhân loài. Và hiển nhiên là không có điều gì có thể thay đổi được định luật này cả. “Viên ngọc trai” – một câu chuyện ngụ ngôn đầy ý nghĩa, tuy có phần trừu tượng nhưng John Steinbeck đã xây dựng một tiểu thuyết với kỹ năng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu, không chỉ hoàn thiện về ý nghĩa biểu tượng mà còn sắc bén với những chi tiết rõ nét, như được quay qua một ống kính máy ảnh. Viên Ngọc Trai có một bài học đạo đức cao bao gồm một cuộc sống của một người nông dân bình thường đã có một chút lòng tham đã đem lại điều đau khổ, thậm chí còn nghèo khổ và mất mát nhiều hơn trước khi anh có Viên Ngọc Trai. Cuốn tiểu thuyết đã cho chúng ta cái nhìn qua nhân vật thầy tu, đã tham gia vô sự đàn áp dân chúng. Cuốn truyện con nhắn cho chúng ta về sự ác bức và sự phân biệt chủng tộc qua đời sống của một thường dân. Viên Ngọc Trai, chỉ là một thứ nằm trong lòng bàn tay đã có thể mang tới cái chết và hủy diệt của một gia đình hiền hòa được mọi người yêu mến. Kino chỉ nhìn thấy một tương lai giàu có mà Viên Ngọc Trai sẽ mang lại, tuy nó mang lại sự thịnh vượng có hạn nhưng nhiều người tin rằng nó có năng lực tột cùng. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Trong thị trấn ấy người ta vẫn kể lại câu chuyện về một viên ngọc trai thật quái đản - về xuất sứ như thế nào nó được tìm thấy cũng như lý do tại sao nó lại bị mất đi. Người ta kể về Kino, một người đàn ông sống bằng nghề thuyền chài, cùng với vợ của anh là chị Juanna. Đứa con nhỏ bé của họ là Coyotio. Câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần, cuối cùng đã bén rễ, ăn sâu vào tâm trí của những con người sinh sống nơi đây. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền lại từ ký ức của con người khác, câu chuyện này nhắc đến hai điều: Thiện và Ác. Bóng đêm và ánh sáng. Cái tốt và sự Quỷ quyệt. Phàm đã mang kiếp con người, ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Khó mà có chuyện anh bạn sẽ là người ba phải. Anh bạn nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại. Tất nhiên là không có điều gì thay đổi được định luật này cả. Nếu câu chuyện về viên ngọc trai sắp đuợc kể ra dưới đây, như là một chứng tích hay là một câu truyện ngụ ngôn, hy vọng bạn có thể sẽ sẽ rút ra được cho mình một bài học ý nghĩa riêng biệt. Bạn sẽ thấy mình là một nhân vật của câu chuyện. Tóm lại như thế này, trong một làng chài bình dị ấy, người ta kể rằng... Mời các bạn đón đọc Viên Ngọc Trai của tác giả John Steinbeck.