Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bóng Hình Của Gió

Tên eBook: Bóng hình của gió (full prc, pdf, epub)  Tác giả: Carlos Ruiz Zafón Thể loại:  Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học Tây Ban Nha Công ty phát hành: Nhã Nam  Nhà xuất bản: NXB Văn Học  Ngày xuất bản: 05/2014  Kích thước: 15 x 24 cm    Giá bìa: 118000 VNĐ   Hình thức: Bìa mềm  Chủ dự án: Phi Phi Yên Vũ  Chụp pic: Thiên Thiên  Type: Sư Tử, Aoi ChanChan, Quỳnh Như Nguyễn, Mai Ice, Yen Phan, Bon Bon, Kim Trâm Đặng  Beta: Gomu Gomu  Tạo prc: Annabelle Tran  Nguồn: Hội chăm chỉ làm eBook free  Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Tác giả Carlos Ruiz Zafón (sinh ngày 25/09/1964) Là một trong những nhà văn Tây Ban Nha thành công nhất hiện nay. Ông là tác giả nhiều tiểu thuyết viết cho lứa tuổi thiếu niên như El principe de la niebla (The Prince of Mist, 1993), El palacio de la medianoche (1994), Las luces de septiembre (1995) và Marina (1999). Năm 2001, ông cho in Bóng hình của gió (La sombra del viento) về sau bán được hàng triệu bản trên thế giới, được giới phê bình khen ngợi và giành được nhiều giải thưởng quốc tế. Sau đó, năm 2008, ông cho ra đời El juego del angel (Trò chơi của thiên thần), và El prisionero del cielo (Tù nhân của trời, 2011), hai cuốn trong một bộ tứ khởi đầu bằng Bóng hình của gió. Sách của Zafón đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng trên thế giới. “Một trong những cuốn tiểu thuyết hiếm hoi kết hợp cốt truyện đặc sắc với văn chương kỹ tuyệt... chỉ cần người này bảo người kia thôi cũng đã thành sách bán chạy.” -Sunday Times- “Zafón đưa vào câu chuyện một liều lượng tình yêu thật lớn, rồi thì đủ ma thuật, đủ giết người và đủ điên loạn để khiến ngay cả người đọc miễn cưỡng nhất cũng bị hút vào không dứt ra được. Hay đến kinh người.” -Elle- “Bóng hình của gió là một tiểu thuyết đầy những huy hoàng lừa mị và những cửa bẫy kêu ken két, một tiểu thuyết mà ngay cả các tuyến truyện phụ cũng có tuyến truyện phụ riêng... một tiểu thuyết hay vô cùng.” -Stephen King- ***   Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, nơi chốn mang cái tên kỳ dị này ẩn chứa những gì? Sau khi Daniel Sempre, mười tuổi, mang ra khỏi đó một cuốn sách do cậu tự chọn với sự cho phép của cha, gần như ngay sau đó cậu bị một kẻ lạ gớm ghiết đáng sợ có khuôn mặt hoàn toàn biến dạng theo sát gót. Hắn muốn gì? Cuốn sách kia, Bóng hình của gió mà cậu giữ trong tay, nó hay tác giả của nó mang những bí mật u tối nào khiến cho dường như nhiều phận người bị liên lụy với nó đến vậy? Trong cơn xoáy lốc chầm chậm nhưng chết chóc tỏa ra từ Bóng hình của gió và những bí ẩn đằng sau nó, Daniel phải chiến đấu ra sao để bảo vệ người mình yêu cũng như những người khác ban đầu xa lạ song cũng dần dần trở nên thân thiết với cậu?   ~*~   Một câu chuyện thật đẹp nơi mà tình yêu, hận thù, tình bạn, ý thức nghĩa vụ... đều tuyệt đỉnh. Và bàng bạc khắp là thành phố Barcelona, thủ phú xứ Catalan nước Tây Ban Nha, kỳ vĩ, diễm lệ, bí ẩn, một trong những nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết. *** Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên   -o0o-   TÔI VẪN CÒN NHỚ CÁI NGÀY CHA DẪN TÔI tới Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên lần đầu tiên. Đó là vào đầu hè năm 1945, chúng tôi rảo bước qua những con phố của một Barcelona bị giam hãm dưới những khoảng trời xám tro khi bình minh trút xuống Đại lộ Rambla de Santa Mónica một dòng sáng cuồn cuộn sắc đồng đỏ.   “Daniel, con không kể với bất kỳ ai những gì sắp thấy ngày hôm nay,” cha tôi cảnh cáo. “Kể cả cậu bạn Tomás của con. Không một ai hết.”   “Kể cả mẹ ư?”   Cha tôi thở dài, lẩn vào sau nụ cười buồn cứ đằng đẵng bám theo ông suốt đời như một cái bóng.   “Đương nhiên là với mẹ thì được,” ông trả lời, lòng nặng trĩu. “Chúng ta không giữ bí mật gì với mẹ cả. Con có thể kể cho mẹ mọi chuyện.”   Không lâu sau cuộc nội chiến, một đợt dịch tả bùng phát đã đem mẹ tôi đi mất. Chúng tôi an táng bà trên đồi Montjuïc vào ngày sinh nhật lần thứ tư của tôi. Điều duy nhất tôi nhớ được là hôm ấy trời mưa cả ngày lẫn đêm, và khi tôi hỏi cha liệu phải chăng Thượng đế cũng đang khóc thương, ông đã không thể cất tiếng trả lời. Sáu năm sau đó sự vắng bóng của mẹ vận còn đọng lại trong bầu không khí bao trùm quanh cha con tôi, một sự câm lặng đến chói tai mà tôi mãi không học được cách khắc chế bằng lời nói. Hai cha con tôi sống trong một căn hộ tầm tầm trên khu phố Santa Ana, cách quảng trường nhà thờ một quãng ngắn. Căn hộ của chúng tôi nằm ngay trên tiệm sách, một cửa tiệm tạp nham nhưng đầy sức quyến rũ, nơi đặc biệt chỉ chuyên mua sách hiếm và sách cũ – một di sản ông tôi để lại, mà cha hy vọng một ngày kia tôi sẽ kế thừa. Lớn lên giữa bao cuốn sách, tôi kết thân với những người người bạn vô hình trong các trang giấy dường như đúc từ bụi mà thành và mùi của họ đến tận bây giờ hai tay tôi vẫn còn mang đậm. Lúc còn nhỏ tôi học được cách chìm vào giấc ngủ giữa khi đang nói chuyện với mẹ trong bóng tốicăn phòng ngủ của tôi, thao thao với bà về những sự kiện trong ngày, chuyến phiêu lưu của tôi ở trường, những điều tôi được thầy cô chỉ dạy. Tôi không nghe được giọng nói hay cảm nhận được những vuốt ve của bà, nhưng sự rạng ngời và hơi ấm của bà ngập tràn mọi ngóc ngách trong ngôi nhà, và với sự ngây thơ của những đứa trẻ vẫn còn đếm ssược số tuổi của mình trên mười đầu ngón tay, tôi tin rằng nếu tôi nhắm mắt lại và thủ thỉ với mẹ thì mẹ có thể nghe thấy giọng tôi dù bà có đang ở nơi đâu đi nữa. Có đôi lần khi đang ngồi trong phòng ăn , cha nghe thấy tôi đang lầm rầm, ông thầm khóc trong im lặng.   Vào buổi sáng tháng Sáu hôm đó, trời vừa hừng sáng tôi đã bật dậy hét toáng lên. Tim tôi đấp thình thịch trong lồng ngực như thể chính linh hồn tôi đang muốn xé toang lối ra và   bỏ chạy khỏi thang gác. Cha vội vã xộc vào phòng và bao bọc tôi trong vòng tay ông, gắng sức trấn an tôi.   “Con không thể nhớ nổi. Con không nhớ được khuôn mặt của mẹ,” tôi thều thào, không ra hơi.   Cha siết chặt tay tôi.   “Đừng lo, Daniel. Cha sẽ nhớ cả hai chúng ta.”   Chúng tôi nhìn nhau trong căn phòng chạng vạng sáng, gắng sức thốt lên những từ ngữ vốn không hề tồn tại. Lần đầu tiên, tôi nhận ra rằng cha đang già đi. Ông đứng dậy vén rèm để cho ánh ban mai nhợt nhạt tràn vào.   “Đi nào, Daniel, mặc quần áo vào. Cha muốn cho con xem một thứ,” ông nói.   “Có những thứ chỉ nhìn thấy được trong bóng tối,” cha tôi nói, thoáng lên một nụ cười bí ẩn dường như vay mượn đâu đó từ những cuốn tiểu thuyết lãng mạn của Alexandre Dumas cũ nát của ông.   Lính tuần tra ban đêm vẫn đang loanh quanh trên các con phố mù sương khi chúng tôi bước ra cửa chính. Hàng đèn đường dọc khu RamBlas phác nên một đại lộ trong làn sương sớm khi thành phố bát đầu thức tỉnh, giống như một bức tranh màu nước chầm chậm trở thành thực tại. Sau khi tới được phố Nhà Hát Cổng Vòm[1], chúng tôi tiếp tục đi dọc theo dãy mái vòm của con phố dẫn về phía quận Raval, cùng tiến vào một vòm mù sương xám. Tôi theo bước cha dấn sâu vào lòng con hẻm hẹp, giống một vết sẹo hơn là một con phố, cho tới khi hình bóng của khu Ramblas dần tan mất phía sau hai chúng tôi. Ánh ban mai bị những ban công và mái đua gạn xuống thành những dải sáng xiên yếu ớt hòa tan vào bầu không trước khi chạm được tới mặt đất. Cuối cùng cha tôi dừng lại trước một cách cổng lớn bằng gỗ chạm, úa đen vì ẩm mốc và thời gian. Trước mắt chúng tôi lù lù hiện ra một công trình mà trong mắt tôi trông như xác chết của một toà lâu đài, nơi chốn của những tiếng vọng và bóng đen.   [1. Nguyên gốc: Arco del Teatro.]   “Daniel, con không được kể với bất kỳ ai những gì sắp thấy ngày hôm nay. Kể cả cậu bạn Tomás của con. Không một ai hết.”   Một người đàn ông nhỏ thó với khuôn mặt diều hâu đóng khung trong mái tóc xám dày ra mở cửa cho chúng tôi. Đôi mắt ông xoáy vào tôi một ánh nhìn sâu thẳm đầy cảnh giác như của loài chim ưng.   “Chào buổi sáng, Isaac. Đây là con trai tôi, Daniel,” cha tôi thông báo. “Nó sắp mười một tuổi rồi, về sau cửa hiệu sẽ là của nó. Giờ là lúc nó nên biết tới nơi này.”   Người đàn ông tên Isaac gật đầu và mời chúng tôi vào. Một cảnh u minh nhuốm sắc xanh làm mờ đi các đường quanh lượn sóng của một cầu thang đá cẩm thạch và dãy tranh tường đầy các nhân vật là những thiên thần và các sinh vật trong truyền thuyết. Chúng tôi theo chủ nhà đi qua dãy hành lang nguy nga dẫn tới một đại sảnh lớn hình tròn, cả một vương cung thành đường bóng tối hình xoắn ốc cuộn lên, bị những tia nắng từ mái vòm bên trên xuyên thủng. Những lối đi giữa các giá cao lên kín sách từ chân đến đỉnh làm nên cả một mê cung như một tổ ong kết hợp từ vô số đường hầm, nấc thang, bậc thềm và cầu nối – cho thấy trước về một thư viện khổng lồ có cấu trúc hình học tưởng như không thể tồn tại trên đời. Tôi ngước lên nhìn cha, sững người kinh ngạc. Ông cười và nháy mắt với tôi.   "Chào mừng con đến với Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, Daniel.”   Tôi nhìn ra được chừng hơn chục người rải rác khắp các lối đi và thềm thư viện. Một vài trong số họ quay ra chào tôi từ xa, tôi nhận ra khuôn mặt các đồng nghiệp của cha tôi, họ là những người bạn cùng phường buôn sách cũ. Qua góc nhìn của đứa trẻ mới mười tuổi là tôi, họ trông như thể một hội kín các nhà giả kim đang nghiên cứu trong lén lút. Cha quỳ xuống cạnh tôi, đăm đăm nhìn vào mắt tôi mà nói bằng giọng thì thầm vốn chỉ dành để thốt ra các bí mật và lời thề.   “Đây là một nơi chốn của bí mật, Daniel, một thánh đường. Mỗi câu chuyện, mỗi tập sách con thấy ở đây đều chứa đựng một tâm hồn. Tâm hồn của người đã viết nên cuốn sách, của những người đã đọc, sống và mơ ước cùng nó. Mỗi lần một cuốn sách qua tay một người đọc khác, mỗi lần người nào đó lướt mắt qua từng trang sách là một lần linh hồn của cuốn sách ấy trưởng thành và trở nên mạnh mẽ hơn. Thư viện này đã rất lâu đời khi ông con dẫn cha tới đây lần đầu, nhiều năm về trước. Có lẽ nó cũng nhiều tuổi như thành phố này vậy. Không ai biết rõ thư viện này có từ khi nào, hay ai đã lập ra nó. Dù vậy, cha sẽ truyền lại hết cho con những điều đã được ông con chỉ dạy. Khi một thư viện biến mất, hay một hiệu sách phải đóng cửa, khi một cuốn sách bị ký thác cho sự lãng quên, những người biết rõ nơi này như chúng ta, những người bảo hộ cho cuốn sách, phải đảm bảo rằng cuốn sách ấy được đem tới đây. Ở nơi này, những cuốn sách không còn được ai nhớ tới, những cuốn sách bị quên lãng theo thời gian, đều sẽ tồn tại mãi mãi, im lìm chờ một ngày kia tới được tay một người đọc mới. Ở cửa tiệm chúng ta mua đi bán lại những cuốn sách, nhưng thực tế chúng không hề có chủ. Mỗi cuốn sách con thấy ở đây đều từng là người bạn thân thiết nhất của ai đó. Giờ chúng chỉ còn mỗi chúng ta thôi, Daniel ạ. Liệu con có thể giữ kín một bí mật nhường này chăng?”   Ánh nhìn của tôi lạc lối trong sự kỳ vĩ và trò ảo thuật ánh sáng của thư viện. Tôi gật đầu, và cha khẽ mỉm cười.   “Con có biết điều tuyệt vời nhất trong chuyện này không?” ông hỏi.   Tôi lắc đầu.   “Theo truyền thống, khi ai đó tới đây lần đầu tiên, anh ta phải chọn một cuốn sách, bất kể cuốn gì, và nhận bảo trợ cho nó, đảm bảo rằng cuốn sách ấy sẽ không bao giờ biến mất, rằng nó sẽ mãi tồn tại. Đó là một lời thề vô cùng quan trọng. Nó sẽ theo con suốt cuộc đời,” cha tôi giải thích. “Hôm nay đến lượt con đấy.”   Trong suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, tôi thơ thẩn trong lòng chốn mê cung quanh co ấy, hít thở trong mùi giấy cũ và bụi bặm. Tôi lướt tay qua hàng hàng gáy sách trên giá, trầm ngâm suy nghĩ xem mình sẽ chọn cuốn gì. Trong số những dòng nhan đề bị phai mờ theo thời gian, tôi nhìn ra các từ thuộc những thứ ngôn ngữ quen thuộc và những từ khác tôi không thể nhận biết. Tôi lang thang khắp những dãy dài lèn kín hàng trăm, hàng nghìn tập sách. Sau một hồi tôi chợt ngộ ra rằng giữa những trang bìa của mỗi cuốn sách kia đều tồn tại một vũ trụ không bờ bến đang chờ được khám phá, trong khi ấy, bên kia những bức tường này, tại thế giới bên ngoài, người ta để mặc cho cuộc sống trôi qua với những buổi chiều chìm đắm trong bóng đá và các xê ri kịch truyền thanh sướt mướt, hài lòng với chuyện chả quan tâm gì hơn những vấn đề của riêng mình. Có lẽ là chính cái ý nghĩ ấy, hoặc cũng có thể chỉ do ngẫu nhiên, hay do số phận  –  người họ hàng hoa mỹ hơn của sự ngẫu nhiên, song chỉ biết rằng đúng vào thời khắc ấy tôi thấy mình đã chọn được cuốn sách cần phải bảo trợ, hay có khi chính cuốn sách ấy mới bảo trợ cho tôi. Nó nổi bật một cách khiêm tốn trên góc một giá sách, bọc bìa da có màu rượu vang. Những con chữ nhan đề bằng vàng long lanh trong những giọt nắng từ mái vòm phía trên rỉ xuống. Tôi lại gần, vừa nhẹ nhàng mân mê dòng chữ bằng đầu ngón tay vừa thầm thì đọc lên:   BÓNG HÌNH CỦA GIÓ   Julián Carax   Tôi chưa bao giờ biết đến nhan đề hay tác giả này, nhưng tôi không để tâm tới điều đó. Ý đã quyết rồi. Cẩn trọng hết mức, tôi nhấc cuốn sách xuống giở lướt qua các trang giấy, mặc chúng khẽ kêu lật phật. Được giải thoát khỏi nơi giam cầm trên giá sách, Bóng hình của gió toả ra một đám mây bụi vàng óng. Hài lòng với lựa chọn của mình, tôi kẹp cuốn sách vào nách rồi lần ngược lại các bước chân mình trong thư viện để quay trở ra, với một nụ cười trên môi. Có lẽ bầu không khí mê ảo nơi đây đã mạnh hơn tôi, song dù sao tôi cũng chắc chắn rằng Bóng hình của gió đã nằm đây bao năm chỉ để đợi chính tôi, thậm chí có khi còn từ trước cả khi tôi ra đời.   CHIỀU HÔM ĐÓ, ở căn hộ trên phố Santa Ana, tôi nhốt mình trong phòng để nghiền ngẫm những dòng đầu sách. Trước khi kịp nhận ra, tôi đã mê đắm nó tự lúc nào. Cuốn tiểu thuyết kể câu chuyện về một người đàn ông trên hành trình tìm lại cha ruột của mình, người mà anh chưa từng được biết đến cho tới khi mẹ anh tiết lộ về sự tồn tại của ông lúc bà đang hấp hối trên giường bệnh. Câu chuyện về hành trình tìm cha ấy trở thành một cuộc phiêu lưu siêu tưởng mà trong đó nhân vật chính phải đấu tranh để giành lại thời thanh xuân đã mất, và trong đó bóng ma của một tình yêu bị nguyền rủa dần dần hiện ra ám ảnh anh cho tới tận hơi thở cuối cùng. Khi bí ẩn được hé lộ, câu chuyện gợi tôi nhớ đến một trong những con búp bê Nga, loại có thể chứa vô số bản sao mỗi lúc một nhỏ dần của chính nó ở trong mình nó. Từng bước từng bước câu chuyện cứ tách ra thành hàng ngàn câu chuyện, như thể cuốn tiểu thuyết đó bước vào một khu trưng bày gương kính, khiến nhân dạng của nó phân mảnh rồi tan hoà vào vô cùng tận những ảnh ảo phản xạ. Từng phút từng giờ lướt qua cứ nhanh như trong mơ. Khi tiếng chuông nhà thờ báo hiệu nửa đêm, tôi hầu như chẳng nghe thấy. Dưới ánh sáng ấm áp từ chiếc đèn bàn hắt xuống, tôi bị ném vào một thế giới xa lạ đầy những hình ảnh và xúc cảm, với những nhân vật mà với tôi cũng thật như bầu không khí tôi đang hít thở. Trang này nối tiếp trang kia, tôi mặc cho bản thân bị ma thuật của cuốn sách và thế giới bên trong nó bỏ bùa hoàn toàn, cho tới khi hơi thở của bình minh chạm tay vào cửa sổ phòng và đôi mắt mỏi mệt của tôi lướt qua trang cuối cùng. Tôi nằm trong ánh mờ nhập nhoạng sắc xanh với cuốn sách trên ngực, lắng nghe tiếng lầm rầm của thành phố còn say ngủ. Mắt tôi dần trĩu nặng, nhưng tôi cố cưỡng lại cơn buồn ngủ. Tôi còn chưa muốn ma thuật của câu chuyện tan biến đi, cũng chưa muốn nói lời chia tay với những nhân vật trong đó.   MỘT LẦN NỌ, trong cửa hàng sách của cha, tôi nghe một khách hàng quen nói rằng hiếm có gì để lại dấu ấn trong lòng người đọc sâu đậm như cuốn sách đầu tiên tìm được đường vào trái tim người đó. Những hình ảnh đầu tiên ấy, tiếng vọng của những từ ngữ mà ta tưởng mình đã bỏ quên lại phía sau tự khi nào, chúng vẫn đồng hành cùng ta trong suốt cuộc đời, chúng khắc tạc một lâu đài trong ký ức ta, nơi mà sớm hay muộn – bất kể ta có đọc bao nhiêu cuốn sách, khám phá ra bao nhiêu thế giới, thậm chí học được cách lãng quên bao nhiêu điều  –  chúng ta vẫn sẽ quay trở lại. Với tôi, những trang sách nhiệm mầu đó sẽ luôn là những trang sách tôi khám phá ra trong hành lang nơi Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên      Mời các bạn đón đọc Bóng hình của gió của tác giả Carlos Ruiz Zafón.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bia Mộ Đen - Erich Maria Remarque
Chơi vơi giữa dòng xoáy cuộc đời khi mà những điều khủng khiếp của chiến tranh vẫn còn ám ảnh, Ludwig Bodmer lựa chọn cách đối mặt bằng thái độ hài hước và bất cần. Tuy nhiên, bên trong anh lại là trái tim của một nhà thơ, với tâm hồn nồng nàn và lãng mạn, đang đấu tranh với thời cuộc và với chính mình để tìm ra ý nghĩa thật sự của cuộc sống mà anh đang và muốn sống. Lấy bối cảnh thành phố quê nhà của Remarque giữa hai cuộc thế chiến, Bia mộ đên mang nhiều tính chất tự truyện và đậm màu sắc triết lý trào phúng. Như chính tác giả từng viết, đây là “câu chuyện về tuổi trẻ trễ tràng”, về một thế hệ vỡ mộng, miệt mài đi tìm lời đáp cho những câu hỏi quan trọng mà nhân loại đã dần dần quên lãng. Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết *** Tôi không hề gặp lại một người nào nữa hết. Nhiều lần, tôi có ý định trở về nhưng lần nào cũng bị ngăn chận. Tôi nghĩ là sẽ có một thời gian nào đó thuận tiện hơn nhưng bây giờ thì đã hết rồi. Bóng tối đã phủ trùm lên nước Đức, tôi đã mất quê hương và lúc trở về, tôi chỉ còn thấy những điêu tàn. Georges đã chết. Mụ Konersmann sau bao nhiêu công trình dọ dẫm đã khám phá ra được cuộc tình vụng trộm của Lisa và Georges. Năm 1933, mười năm sau, mụ ta tố cáo với Watzek lúc bấy giờ là chỉ huy trưởng đội S.A. Mặc dầu đã ly dị Lisa tới năm năm, Watzek vẫn cứ nhốt tình địch vào trại tập trung của hắn. Vài tháng sau, Georges chết. Hans Hungermann, ủy viên văn hóa và là Đảng viên cao cấp đã ca tụng Đảng Quốc xã bằng một loạt thơ nóng bỏng. Năm 1945, hắn mất chỗ hiệu trưởng. Tuy nhiên, cũng như một số đảng viên khác, hắn sống một cách khá đầy đủ tiện nghi khỏi phải đi làm, nhờ có tiền hồi hưu. Nhà điêu khắc Kurt Bach sống luôn sáu năm trong một trại tập trung và trở về què quặt. Hiện nay, mười năm sau cuộc thảm bại, hắn vẫn phải vất vả để nuôi miệng cũng như bao nhiêu nạn nhân khác của chiến tranh. Hắn chỉ mong kiếm được mỗi tháng bảy chục ngàn Đức kim, khoảng một phần mười tiền trợ cấp cho Hungermann, khoảng một phần mười số tiền mà nhà nước cấp dưỡng cho viên chúa trùm mật vụ Gestapo, người ta có sáng kiến lập các trại tập trung mà Kurt bị nhốt và trở về què quặt... Đó là chưa kể các khoản trợ cấp cao hơn cho các tướng lãnh, tội nhân chiến tranh, và các đảng viên Quốc Xã khác. Henri Kroll, vượt thoát mọi biến cố, nhận thấy mọi quyền hạn và công lý vẫn còn đứng về phía quê hương yêu dấu của chúng tôi. Viên trung đội trưởng thiết kỵ Wolkeinstein rất lên hương. Người của Đảng và kỳ thị chủng tộc hết mình, sau chiến tranh, im hơi lặng tiếng luôn vài năm và bây giờ, cũng như bao nhiêu đồng chí khác, được làm nhân viên Bộ Ngoại giao. Bodendick và Wernicke cố giấu được một số người Do Thái trong trại điên bất trị. Họ cho những người trốn tránh cạo đầu và học cách giả điên. Sau đó ít lâu, Bodendick bị thuyên chuyển về một làng hẻo lánh vì đã lỡ nói một vài lời bất ý khi đức Giám mục của ông ta chấp nhận làm cố vấn cho một chính phủ chỉ lấy chuyện tàn sát làm bổn phận thiêng liêng. Wernicke cũng bị đổi đi vì không chịu chích thuốc độc cho những người điên. Trước khi ra đi, ông ta đã tập hộp được một số dân Do Thái và tổ chức một cuộc chạy trốn, ông ta bị gởi ra mặt trận và chết ở đó năm 1944. Willy ngã gục năm 1942. Otto Bambuss năm 1945. Charles Kroll năm 1944. Lisa chết trong một cuộc ném bom. Bà Kroll cũng cùng chung số phận. Edouard Knoblock thì vượt qua tất cả. Hắn phục vụ tất cả các quyền lực, tốt cũng như xấu, với tất cả nhiệt tâm. Nhà hàng của hắn bị phá hủy nhưng đã được xây cất lại. Hắn không cưới Gerda và không ai biết cô ta hiện ra sao. Tôi cũng chằng được một tin tức nào về Geneviève Terhoven. Oscar “mắt treo cờ tang” dựng nghiệp một cách huy hoàng. Lúc chiến tranh xảy ra hắn bị gởi sang Nga làm lính trơn và kế đó được chỉ định làm Thanh Tra nghĩa địa. Năm 1945, hắn làm thông dịch viên cho quân đội chiếm đóng và chỉ vài tháng sau được làm Thị trưởng. Thị trưởng Werdenbruck. Kế đó hắn hùn với Henri Kroll, cả hai tạo dựng một xưởng mới và rất phát tài. Vào thời đó mộ bia cũng khan hiếm như bánh mì. ... Mời các bạn đón đọc Bia Mộ Đen của tác giả Erich Maria Remarque.
Bây Giờ và Mãi Mãi - Danielle Steel
Sau một lần gặp gỡ với Margaret Burton, Ian Clarke bị đưa ra tòa vì tội hiếp dâm và bạo hành. Cuộc sống bình yên và hạnh phúc của vợ chồng Ian bỗng nhiên bị đảo lộn vì họ không thể đưa ra những bằng chứng phản bác lại những lời cáo buộc của Margaret Burton. Jessie đã đem tất cả tài sản cầm cố để lo liệu cho chồng. Ian vào tù và Jessie rơi vào một tình trạng khủng hoảng, buồn đau cùng cực. Trong tù, Ian vẫn tiếp tục viết sách và sau đó sách của anh bán rất chạy, một số nhà sản xuất phim cũng định hợp tác với anh. Nhưng lúc này họ đã quá mệt mỏi sau mọi chuyện. Jessie đề nghị ly dị. Những năm tháng sống thảnh thơi tại miền quê thôn dã đã giúp cô hiểu được niềm hạnh phúc vĩnh cửu... *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Rời San Francisco thật dễ dàng, Jessie cũng không dè. Chị không phải bận tâm suy nghĩ, cứ việc ra xa lộ, lái xe phom phom. Không có người tới vẫy khăn tay, mếu máo, và chị lấy thế làm vui thích. Sau khi thanh tra Houghton tới viếng, chị làm một ly cà phê, rửa chén bát, đi giày, soát lại nhà cửa, coi kỹ mấy cái cửa sổ, rồi ra đi. Chuyến xe xuôi Nam thật vui. Chị cảm thấy trẻ trung, ưa phiêu lưu mạo hiểm, lúc tới được ngôi nhà đổ nát trên Quốc lộ Bắc. Chị rất cảm động lúc bước vào bên trong, thấy những công việc dì Beth đã làm. Ngôi nhà sạch sẽ không một vết nhơ, và cái mùng chị để lại trước kia xem ra thật vô dụng. Trong phòng ngủ có kê một chiếc giường hẹp, chăn nệm sáng choang. Giường đó là chiếc giường chị đã sử dụng trong phòng ngủ của chị ở nhà dì Beth. Ở một góc phòng có kê chiếc bàn giấy, và có hai ngọn đèn khiến căn phòng sáng trưng. Nhà bếp đã được chất củi, và tại phòng khách có hai chiếc ghế xích đu, một cái bàn rộng, và một chiếc ghế rộng, thoải mái kê gần bên lò sưởi. Chỗ nào cũng có đặt sẵn đèn cầy, và bên lò sưởi có sẵn củi. Jessie có đủ thứ cần thiết. Ngày hôm sau, Jessie tới ăn tối với dì Beth rất vui. Đêm đầu tiên, chị ở một mình tại nhà mới. Chị thích làm vậy, và đã đi coi hết phòng này tới phòng kia như một đứa trẻ, không cảm thấy cô đơn, mà còn thấy hào hứng, tưởng chừng như mở đầu một cuộc phiêu lưu, và chị cảm thấy như sống lại. - Tốt, cháu thích chỗ đó chứ? Đã sắp sửa về nhà chưa? Dì Beth uống trà, cười nói với Jessie. - Cháu không muốn làm bận đến dì. Cháu sẵn sàng ở đây mãi mãi, và cảm ơn dì, nhờ dì mà căn nhà ấm cúng chưa từng thấy. - Phải thêm nhiều thứ nữa, mới gọi là ấm cúng được, cháu yêu quí ơi. Nhờ những đồ đạc Jessie mang tới, căn nhà đẹp hẳn lên: những bức hình chụp, những móc quần áo, một con cú bằng đá hoa, một bộ sưu tập sách quí, hai bức tranh, và bức chân dung của Ian. Có thêm cả những tấm rèm, những chân đèn bằng đồng và nhiều đồ linh tinh mà chị thích. Chị bầy chật nhà bằng những cây kiểng và bông hoa. Cuối tuần đó, chị còn tới nhà bán đấu giá mua thêm đồ đạc mới đem về bày chung với các báu vật cũ của chị. Chị đặt tại phòng khách, đứng lùi lại ngắm, tỏ vẻ hài lòng. Bây giờ trông đã ra nhà lắm rồi. Chị cất sách vào trong rương, đóng những họa phẩm của chị lên cao, ở góc nhà, nhưng chị chưa có thời giờ vẽ tranh mới, quá bận rộn với căn nhà. Ông quản trại của dì Beth đã cử con trai bỏ mấy ngày nghỉ cuối tuần tới làm cỏ, xén tỉa vườn cỏ cho Jessie. Hai người đã khám phá ra một viên đình đổ nát ở phía sau nhà. Chị muốn trồng hai cây đu; một treo ở dưới cây cổ thụ gần viên đình, để chị có thể đu và ngắm nhìn cảnh hoàng hôn trên ngọn đồi, và một cây đu khác chị có thể ngồi trước nhà, loại cây đu mà cặp vợ chồng trẻ thường ngồi thì thầm: anh yêu em, em yêu anh vào những tối mùa hè ấm áp, đu nhè nhẹ và tưởng trên đời chỉ có hai đứa mình. Sáng thứ bảy có lá thư của Ian gởi tới. Chị đã ở nhà mới được sáu ngày. [i]Vậy là em đã ở đó, cô bé tính tình kỳ quái của tôi, đầu óc bụi bám, cái mũi lem luốc, nhăn mặt mà tỏ ý kiêu hãnh đã đem lại trật tự cho chỗ đổ nát hoang tàn. Anh tưởng như thấy em lúc này đi chân đất tỏ vẻ sung sướng, răng cắn cọng rơm. Hay là em mang giày Gucci mà lại ghét giày? Căn nhà mới như thế nào nhỉ? Anh tưởng tượng ra được căn nhà, nhưng không nghĩ nỗi là em sung sướng nằm mùng mắc ngay trên sàn. Đừng nói với anh là em quên trải thảm nhé. Nhưng chuyện đó nghe chừng cũng vui đấy chứ, Jessie? Và có thể cũng tốt cho em đó. Nghe nói đến cửa tiệm, anh rất xúc động. Em không nhớ tiếc hay sao? Nhưng bán được giá đó thì cũng tốt. Em sẽ làm gì với món tiền lớn đó? Anh nghe tin người ta đang tính dựa vào cuốn sách của anh để chuyển thành phim truyện. Đừng nín thở, anh chẳng giật mình đâu. Những chuyện đó chẳng xảy ra đâu. Họ cũng mới bàn bạc thế thôi. Mặt khác, không bao giờ anh nghĩ nỗi tới chuyện em bán cửa tiệm. Em cảm thấy thế nào? Anh dám cá là em đau khổ đấy. Nhưng có lẽ cũng vì thế mà an dạ, phải không? Vì có thời giờ để làm chuyện khác: du lịch, vẽ tranh, và sửa sang lại tòa lâu đài mà em định ngự suốt mùa hè này. Hay tính ở lâu hơn? Trong lá thư cuối của em, anh thấy giọng là lạ. Hình như em rất yêu căn nhà, và miền quê chung quanh, và dì Beth. Chắc hẳn bà là người đàn bà đặc sắc. Còn mấy con kiến và thằn lằn, em đã tránh xa chưa? Hay vẫn cứ phải xài tới bình xịt tóc.[/i] Jessie cười khúc khích. Có lần ở phòng khách sạn tại Florida, chị đã tìm cách giết một con thằn lằn bằng bình xịt tóc. Ác một nỗi con thằn lằn khoái mùi dầu thơm, còn chính anh chị lại thấy ngạt thở, đành bỏ phòng chạy ra ngoài. Chị đã đọc xong lá thư, tới ngồi chỗ bàn rộng của dì Beth cung cấp. Chị muốn viết thư kể cho anh biết về đồ đạc dì Beth đã đặt trong căn nhà của chị, những vật dụng chị mới mua đấu giá. Để anh tưởng chị nằm ngủ trên sàn mà không hay. ... Mời các bạn đón đọc Bây Giờ và Mãi Mãi của tác giả Danielle Steel.
Bản Du Ca Cuối Cùng - Erich Maria Remarque
Chiến tranh đã đẩy biết bao người vào con đường tha hương khi mỗi bến đỗ đều chỉ là tạm bợ cho đến lúc họ bị dồn đuổi đến nơi khác. Kern, một chàng thanh niên Đức, chạy trốn chế độ Quốc xã bạo tàn, lưu lạc đến Áo, bị trục xuất sang Thụy Sĩ, rồi lại tìm đường trốn sang Pháp... Trong cuộc hành trình bất định ấy, anh có duyên gặp gỡ những con người tốt bụng như Steiner, Marill; họ đã cưu mang, giúp đỡ anh trong cuộc sống khó khăn nơi đất khách. Số phận cũng cho anh gặp Ruth – người con gái mang đến cho anh một tình yêu, một niềm an ủi, một hy vọng mới. Họ đến với nhau bằng sự cảm thông sâu sắc giữa hai con người cùng cảnh ngộ. Họ yêu nhau và làm mọi cách để được ở bên nhau bất chấp những lần bị bắt giam, bị trục xuất. Hành trình của họ tựa như bản du ca của những con người không còn đất sống, chỉ có thể bám víu vào con thuyền mang tên hy vọng và tình người. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Ra đời năm 1939, Bản du ca cuối cùng (Liebe Deinen Nächsten) là thiên tiểu thuyết đầu tiên của Remarque viết về những thân phận người trôi nổi trong cuộc sống lưu vong. Tác phẩm đã tái hiện một châu Âu trong thời kỳ tối tăm ly loạn, nhưng đằng sau đó lại là bài ca về cái đẹp, cái thiện, về niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống và con người. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết … Hầu hết các tác phẩm đều mang khuynh hướng phê phán và tố cáo xã hội mãnh liệt đồng thời miêu tả sức hủy hoại kinh hoàng của cuộc chiến tranh đế quốc đối với thể chất và tinh thần của con người. *** Steiner tới nơi lúc mười một giờ trưa. Anh gởi vali tại nhà ga và đi thẳng tới bệnh viện. Anh không có thì giờ nhìn thành phố, anh chỉ thấy những đợt sóng người và xe cộ cùng những dãy nhà. Anh dừng lại trước một tòa nhà đồ sộ trắng, do dự một lúc. Anh nhìn cái cổng rộng lớn và những dãy cửa sổ ở các tầng lầu cao. Một chỗ nào trên đó… nhưng có chắc không... Anh mím môi bước vào. Hắn hỏi cô thư ký: - Xin cô vui lòng cho biết giờ thăm bệnh. - Hạng mấy... - Không rõ. Tối mới tới đây lần thứ nhứt. - Ông muốn thăm ai... - Bà Marie Steiner. Anh ngạc nhiên khi thấy cô thơ ký vẫn dửng dưng lật sổ. Anh đã tưởng tượng là trần nhà sẽ đổ xuống hoặc nữa người y tá ngồi ở bàn giấy sẽ nhảy dựng lên chạy ra ngoài hô hoán khi nói tới tên Steiner. Cô y tá vẫn tiếp tục lật sổ vừa dò tìm vừa nói: - Nếu nằm phòng hạng nhất thì được thăm suốt ngày. - Chắc không phải hạng nhất. Có thể là hạng ba. - Giờ thăm ở hạng ba là từ ba giờ đến năm giờ. Cô y tá tiếp tục tìm: - Lúc nãy ông nói tên gì... - Steiner, Marie Steiner. Steiner cảm thấy cổ họng như khô đắng. Anh nhìn chăm chăm vào khuôn mặt búp bê của người nữ y tá. Anh chờ cô ta nói tiếng “Đã chết”. - Đây, Marie Steiner, hạng nhì, phòng 505, lầu 5. Giờ thăm là từ ba tới sáu. Steiner mừng rỡ: - 505. cám ơn, cám ơn cô nhiều lắm. Tuy nhiên anh vẫn còn đứng đó. Chuông điện thoại reo, cô y tá vừa nhấc máy vừa hỏi: - Ông còn cần gì không... - Bà Steiner còn sống hay đã chết... Cô y tá đặt máy xuống. Chuông tiếp tục reo. Cô ta trả lời: - Dĩ nhiên là còn sống. Nếu không thì phải có lời phụ chú bên cạnh tên. - Cám ơn cô. Steiner phải cố gắng lắm mới không hỏi là có thể lên thăm được ngay bây giờ không. Anh đi lang thang qua nhiều con đường vòng khu bệnh viện. Thình lình, anh sợ bị nhận diện. Anh không sợ cho mình mà chỉ sợ bị bắt trước khi nhìn mặt vợ. Anh tìm một quán nhỏ trên con đường vắng nào đó ngồi chờ tới giờ thăm. Anh gọi thức ăn nhưng không nuốt nổi. Gã hầu bàn ngạc nhiên: - Ông ăn không vừa miệng... - Không. Ngon lắm. Cho tôi một ly Kirsh. Steiner cố nuốt trôi bữa ăn rồi hỏi mua một tờ báo và gói thuốc. Anh cố đọc báo để quên thì giờ nhưng rồi cũng không đọc nổi. Anh tưởng tượng là Marie đang lịm chết ngay trong lúc nầy, thấy mặt vợ ướt đẫm mồ hôi vì đau đớn trước khi chết. Anh phải hết sức tự chủ mới không đứng lên chạy thẳng tới bệnh viện. Kim đồng hồ từ từ xê dịch như cánh tay định mệnh muốn làm hắn nghẹt thở bằng sự chậm chạp, nặng nề. Anh ném tờ báo qua một bên rồi đứng lên. Gã hầu bàn đang đứng xỉa răng, thấy khách rời bàn gã tới gần hỏi: - Thưa, tính tiền... - Không, cho một ly bia nữa. Gã hầu bàn rót cho hắn một ly bia. Anh mời: - Bồ cũng uống một ly đi. - Cám ơn. Gã hầu bàn rót ngay cho mình một ly bia rồi nâng ly lên với hai ngón tay: - Kính ông. ... Mời các bạn đón đọc Bản Du Ca Cuối Cùng của tác giả Erich Maria Remarque.
Ánh Sao Chiều - Danielle Steel
Một thế giới mới với những khởi đầu, mọi việc đã dần dần tự nó giải quyết đúng theo ý muốn của họ. Tất cả như được định mệnh sắp đặt. Ông ôm hôn bà một lần nữa trước khi Valerie lặng lẽ đi vào nhà và suy nghĩ về Coop. Ông không đúng là người mà bà mong đợi, nhưng cũng cảm thấy hài lòng có một người như Coop trong quãng đời còn lại của mình. Bà không hề có cảm tưởng mình là cô bé Cinderelle đối với Coop, mà thấy mình là một phụ nữ đang yêu một người bạn tốt. Đó cũng là cảm nghĩ của Coop khi ông rảo bước về nhà. Điều mà ông đang mong đợi là những ngày sắp đến của ông ở Cape Cod *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Ánh nắng lấp lánh trên mái ngói của toà biệt thự The Cottage, khi Abe Braunstein cho xe chạy quanh của con đường dài tưởng như vô hạn, dẫn đến khu dinh thự oai nghiêm cất theo kiểu Pháp này. Với một người nào khác Abe, cái quang cảnh nguy nga của khu dinh thự này chắc đã làm cho ông ta phải nín thở. Nhưng Abe thì đã từng đến khu nhà tráng lệ này cả chục lần rồi. Cottage là một trong những toà nhà rất nổi tiếng ở Hollywood, nhắc ta nhớ đến những dinh thự của các dòng họ Vanderbilts và Aston ở New Port, Rhode Island vào khoảng đầu thế kỷ. Nó được một trong những ngôi sao lớn của nền điện ảnh thời phim câm, Vera Harper cho xây cất năm 1918 theo kiểu một lâu đài Pháp của thế kỷ XVIII, mang vẻ giàu có, xinh đẹp, duyên dáng, thanh lịch trong mọi đường nét cấu trúc. Vera Harper là một trong số ít những ngôi sao màn ảnh của thủa ban sơ ấy, đã giữ được của cải làm nên, đã có những cuộc hôn nhân tốt đẹp, và đã sống ở đây cho đến khi qua đời vì tuổi tác già nua vào năm 1959. Bà ta không con cái, không người thừa kế và đã để lại mọi thứ cho giáo hội thiên chúa giáo. Cooper Winslow đã mua lại khu dinh thự này một năm sau đó với một số tiền rất lớn ngay cả vào thời đó, vì thuở ấy ông đã thành công rực rỡ trong ngành điện ảnh. Khi mua lại nó, Cooper Winslow đã làm dư luận xôn xao hẳn lên, vì đó là một toà nhà, một tài sản phi thường đối với một anh thanh niên mới 28 tổi, cho dù là một ngôi sao điện ảnh lớn. Nhưng Coop không hề thấu lúng túng sống trong một dinh thự lớn như thế, mà còn thấy thoải mái vì nó xứng đáng với con người ông ta. Bao quanh tòa nhà là một khu đất 14 mẫu, gồm một phần đất rộng có rào và những khu vườn được chăm sóc thật kỹ lượng ngay trung tâm của Bel Air, một sân quần vợt, một hồ tắm lớn khảm đá xanh và màu vàng kim, và nhiều hồ nước phun đặt rải rác nhiều nơi trong khu vườn. Lối sắp xếp trang trí của khu đất và vườn tược được cho là rập theo mẫu của điện Versailles bên trong biệt thự các trần nhà cao, phần lớn các vật trang trí được các nghệ sĩ mang từ Pháp qua. Tường của phòng ăn và phòng khách ốp gỗ, loại gỗ ốp tường và lát nền của phòng khách cũng được mang từ một lâu đài ở Pháp sang. Toàn thể khu dinh thự đã tạo cho Vera Harper một khung cảnh tuyệt vời và một toà nhà tuyệt đẹp cho Cooper Winslow kể từ khi mua nó. Có một điều làm Abe Braunstein an tâm, là Cooper đã mua dứt nó hoàn toàn vào năm 1960, dù đã hai lầm đem nó cầm thế. Chuyện này dù vậy cũng không làm giảm giá trị của nó. Đến bây giờ, ở Bel Air nó vẫn là một bất động sản quan trọng nhất, không xxác định được thời giá. Trong vùng Bel Air hay bất cứ nơi nào khác, chắc chắn không có toà biệt thự nào so sánh với nó được, ngoại trừ ở New Port, nhưng giá trị của khu bất động sản ày lại lớn hơn nhiều nếu nó ở bất cứ nơi nào khác, cho dù nó đang trong tình trang không được tu bổ. Bước ra khỏi xe, Abe đã nhìn thấy hai người làm vườn đang nhổ cỏ quanh bồn phun nước chính, và hai người khác đang chăm sóc một luống hoa cạnh đấy. Ông nhẩm tính tối thiểu cũng sửa cắt bớt phân nửa nhóm nhân viên làm vườn. Đưa mắt nhìn quanh, ông chỉ thấy toàn là những con số, những món tiền vung vít qua của sổ. ông biết rõ đến từng cắc bạc số tièn của Winslow phải chi tiêu cho khu dinh thự này. Đó là một số tiền lớn quá sức kỳ cục đối với bất kỳ tiêu chuẩn sống nào, và chắc chắn là với tiêu chuẩn của Abe. Ông từng làm kế toán cho ít nhất cũng đến phân nửa các minh tinh điện anh ở Hollywood, và từ lâu không hề kinh ngạc đến độ phải nhăn mặt khó chịu hay tỏ một cử chỉ bất bình khi nghe nói đến những khoản tiêu mà các ngôi sao này đã đổ vào những chiếc xe hơi, những ngôi nhà, những tấm khăn choàng lông thú và những chuỗi hạt kim cương cho các bạn gái của họ. Nhưng so với Cooper Winslow, những xa hoa phung phí này chẳng thấm vào đâu. Abe tin là Cooper Winslow tiêu xài còn hơn cả ông hoàng Farouk. Ông ta tiêu tiền như nước trong gần 50 năm trời, trong khi hơn 20 năm nay ông ta chẳng đóng một vai quan trọng nào trong một cuốn phim lớn. trong 10 năm gần đây, vai diễn của ông ta đã bị giảm xuống chủ yếu những vai phụ, những lần xuất hiện ngắn ngủi trong vài đoạn phim ngắn, và tất nhiên chẳng kiếm được bao nhiêu tiền. Cho dù trong bộ y phục nào, Cooper dường như bao giờ cũng làm cho mình thành một anh chàng Casanova duyên dáng, rất đẹp trai, và gần đây nhất là ông già chịu chơi đầy quyến rũ. Nhưng dù trên màn ảnh ông ta vẫn còn quyến rũ bao nhiêu càng ngày càng có ít vai diễn dành cho ông. Trong khi bâm chuông và chờ người ra mở cửa, Abe thấy là trong hai năm nay ông ta chẳng còn thủ một vai nào cả, vậy mà vẫn cứ bảo mình đã gặp các nhà đạo điễn, các nhà sản xuất phim, hàng ngày thảo luận về những cuốn phim mới của họ. Abe đến đây để nói thẳng cho ông ta biết điều đó, khuyên ông ta cắt giảm nhiều các chi tiêu trong những ngày sắp tới, cho ông ta biết là trong suốt năm năm nay ông ta đã sống trên đống nợ nần và trên những lời hứa. Abe không cần thiết liệu ông ta có làm quảng cáo cho người bán thịt láng giềng không, nhưng Coop sẽ phải ra làm công việc đó, và làm ngay. Ông ta sẽ phải thực hiện nhiều thay đổi, phải cắt giảm chi tiêu rất nhiều, giảm số nhân viên giúp việc, bán bớt một số xe, thôi không mua sắm áo quần nữa và không ngụ tại những khách sạn đắt tiền trên thế giới nữa. ông ta hoặc phải làm vậy hoặc phải bán biệt thự. ... Mời các bạn đón đọc Ánh Sao Chiều của tác giả Danielle Steel.