Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Tàu Trắng (Chyngyz Torekulovich Aytmatov)

CON TÀU TRẮNG của Chyngyz Torekulovich Aytmatov là một câu chuyện buồn kể về một cậu bé có những ước mơ không ai hiểu được. Bố mẹ chia tay, cậu ở với ông ngoại Mômun già nua ở một trạm gác rừng hẻo lánh. Cậu bé sống bằng những món ăn đơn giản và tâm hồn chất chứa những những huyền thoại và truyền thuyết đẹp đẽ mà ông Mô-mun kể. Trong đó có câu chuyện về Mẹ Hươu Sừng.Theo truyền thuyết, Hươu sừng Maran đã cứu bộ lạc Kirghidi khỏi bị diệt vong và được coi là tổ mẫu của người Kirghidi.

Đây là huyền thoại từ ông Mômun. Còn cậu bé cũng có một huyền thoại của riêng mình- Con tàu trắng".Những khi trèo lên núi tìm bóng con tàu trắng, nó cứ mơ cái ngày nó bước xuống sông, biến thành cá và bơi ra biển, bơi thẳng ra chỗ con tàu trắng để gặp người bố làm thuỷ thủ của nó và bảo: Bố ơi, con là con của bố đây!"

Nhưng cậu bé mơ mộng phải đối mặt với một thế giới không huyền thoại và đầy bạo lực. Ông ngoại bị ép phải bắn con hươu Maran mà cậu tin là Mẹ Hươu Sừng...Kẻ ép ông cậu bắn hươu tàn nhẫn hơn, đem cho cậu phần thịt xẻ từ con hươu Maran đã chết...

Bi kịch đầu tiên xảy ra với ông già Mô mun.Vì cháu trai của ông "không hề ngờ rằng ông nó nằm đây để đền nợ về câu chuyện hoang đường của mình về Mẹ Hươu Sừng, rằng do bị cưỡng ép, ông đã giết chết những gì mà chính ông đã gieo vào tâm hồn thằng bé khiến nó suốt đời không quên - ông đã xúc phạm đến lòng tôn kính tổ tiên, đến lương tâm và những lời dạy bảo của chính ông, nó có biết chăng rằng ông làm việc đó là vì người con gái khốn khổ của ông, là vì nó, đứa cháu trai của ông…Và bây giờ, ngã gục vì đau xót và nhục nhã, ông già nằm như người bị giết, mặt úp sấp, không đáp lời thằng bé."

Bi kịch thứ hai xảy ra nặng nề hơn với cậu bé."Không ai nhận thấy thằng bé từ trên giường tụt xuống và ra khỏi nhà. Nó vừa kịp rẽ vào góc nhà là ói mửa liền. Thằng bé vịn vào tường, rên rỉ, khóc qua làn nước mắt, nó nức nở nghẹn ngào, lẩm bẩm: Không, thà làm cá còn hơn. Ta sẽ bơi đi nơi khác. Thà ta làm cá còn hơn." Cậu bé muốn đi tìm Con tàu trắng... Tìm mua: Con Tàu Trắng TiKi Lazada Shopee

Con tàu trắng như là một bài thơ dài.Sự băn khoăn, tiếc nuối và nỗi đau ẩn trong từng trang sách. Ngay cả ở nơi sơn cùng thủy tận ta cũng không còn chốn nương thân. Khi đối diện với cô đơn, cùng lúc có thể ta phải đối diện với sự hiển hiện của các ác làm tan vỡ mọi giấc mộng đẹp nhất. Dường như khi đau đớn và tổn thương hiện hữu, chỉ có sự tỉnh táo mới cứu nổi ta.***

Nó có hai huyền thoại. Một của riêng nó, không ai biết. Chuyện kia do ông kể. Rồi chẳng còn huyền thoại nào cả. Ở đây xin thuật lại câu chuyện đó.

Năm đó nó vừa tròn bảy tuổi, mới lên tuổi thứ tám..

Mở đầu, nó được mua một chiếc cặp, chiếc cặp giả da mầu đen, có chốt kim loại bật tanh tách luồn qua móc gài. Có túi ngoài để đựng các thứ lặt vặt. Tóm lại là một chiếc cặp học trò hết sức bình thường mà lại rất lạ kỳ. Có lẽ mọi chuyện đều bắt đầu từ đó. Ông nó mua cái cặp ở ô tô bán hàng lưu động khi chiếc ô tô đó đến đây. Chiếc ô tô đó đưa hàng đến bán cho những người chăn gia súc trong núi, dôi khi cũng tạt vào trạm gác rừng của ông cháu nó ở hẻm Xan-Tasơ. Từ trạm gác này, khu rừng cấm qua các khe hẻn và các sườn dốc leo lên tận thượng nguồn. Ở xóm trạm gác chỉ có ba gia đình. Tuy vậy, ô tô bán hàng đôi khi vẫn ghé thăm những người coi rừng.

Là một thằng bé duy nhất trong cả ba hộ, bao giờ nó cũng là người trước tiên trông thấy chiếc ô tô bán hàng.

-Xe đang đến đấy, - Nó vừa gào ầm lên vừa chạy tới các cửa lớn và cửa sổ.- Ô tô bán hàng đến đấy.

Con đường cho xe chạy tới đây khởi đầu từ ven hồ Ix xưc-Kun, luôn luôn qua các khe núi và bờ sông, toàn đá và ổ gà. Cho xe chạy trên con đường như thế không phải là dễ dàng gì. Đến núi Karaun, đường từ đáy lũng hẹp lên trên cao, rồi lại đổ xuống theo sườn núi dựng đứng trơ trụi, chạy dài mãi đếnn sân nhà những người gác rừng. Núi Karaun ở ngay cạnh xóm, mùa hè ngày nào thằng bé cũng chạy lên núi chiếu ống nhòm nhìn ra hồ. Ở đấy, bao giờ cũng nhìn thấy hết mọi thứ trên đường cái, rõ như trên lòng bàn tay: cả người đi bộ, cả người cưỡi ngựa, cà cố nhiên cả ô tô.

Lần ấy vào một ngày hè nóng bức, thằng bé tắm trong cái đập nước của mình và từ đấy nó nhìn thấy chiếc ô tô tung bụi trên sườn dốc. Cái đập ở ria bãi sông, trên đá sỏi. Ông nó chất đá đắp nên cái đập ấy. Nếu như không có cái đập thì chưa biết chừng thằng bé đã mất mạng từ lâu. Thì có lẽ như bà nó nói, nước sông đã rửa trắng xương nó từ lâu và cuốn trôi tuột ra hồ Ix xưc-Kun, cá và các loài thủy tộc tha hồ mà ngắm nghía. Sẽ chẳng ai tìm kiếm và đau buồn xót thương nó. Bởi vì ai bảo đi nhảy xuống nước làm gì, vả chăng người ta cũng chẳng thiết gì nó lắm. Hiện thời chuyện đó chưa xảy ra. Chứ nếu xảy ra chuyện chẳng lành thì không chừng bà sẽ chẳng nhảy xuống cứu nó đâu, thật thế đấy. Nếu nó là máu mủ ruột thịt thì chẳng nói đằng này bà lại bảo nó là người dưng. Mà người dưng thì dù có nuôi nấng chăm sóc thế nào đi chăng nữa cũng vẫn cứ là người dưng. Người dưng nước lã…Ừ, nhưng nếu nó không muốn là người dưng thì sao? Tại sao chỉ có nó bị coi là người dưng? Có thể không phải nó, mà chính bà mới là người dưng thì sao?

Nhưng chuyện ấy sau này sẽ nói, cả chuyện đập nước cũng để sau…

Vậy là nó nhìn thấy chiếc ô tô bán hàng từ xa, chiếc xe đang xuống núi, bụi cuốn bốc lên đường theo sau xe. Thằng bé mừng quýnh lên, như thể là nó biết chắc là nó sẽ được mua chiếc cặp. Nó lập tức lên cạn, xỏ đôi chân gầy guộc vào ống quần, và người còn ướt nước, tái ngắt ( nước sông vẫn lạnh), nó chạy trên con đường mòn về sân, để là người đầu tiên báo tin người bán hàng đang tới.

Thằng bé chạy nhanh, nhảy qua những bụi cây và chạy vòng qua những khối đá tảng nếu không đủ sức chạy qua, không dừng lại lấy một giây ở bất cứ chỗ nào: dù là bên những đám cỏ cao hay bên những khối đá, mặc dù nó biết đấy hoàn toàn không phải là những vật thông thường. Chúng có thể bực tức và ngáng chân cho ngã, “ô tô bán hàng đã đến rồi. Tớ sẽ trở lại sau.”- nó vừa chạy vừa nói với” Lạc đà nằm” (đấy là tên nó đặt cho khối đá hoa cương có bướu lún sâu dưới đất đến ngang ngực.). Bình thường, không bao giờ nó đi qua mà không vỗ vào bướu con “Lạc đà” của mình. Nó vỗ về con lạc đà như chủ vỗ về con vật, như ông nó vỗ về con ngựa thiến cộc đuôi của ông, nhân đi qua thì tiện tay làm thế thôi, như có ý bảo: mày đợi đây nhé, tao đi có việc một lúc. Nó có khối đá ’Yên ngựa": khối đá nửa trắng nửa đen, đốm khoang, lưng oằn xuống có thể ngồi lên như cưỡi ngựa. Còn có khối đá “Chó sói”, rất giống con chó sói lông màu nâu đốm bạc, ót rất khoẻ, gồ trán nặng nề. Thằng bé thường len lén bò tới gần và nhắm bắn. Nhưng khối đá nó thích nhất là “chiếc xe tăng”- khối đá kiên cố vô cùng, ở ngay cạnh sông, chỗ bờ bị xói mòn. Nom cứ như “Chiếc xe tăng” sắp từ trên bờ lao xuống nước, bò đi và sông sẽ sủi réo, tung lên những đợt sóng nhào trắng xoá. Trên màn ảnh, xe tăng cũng từ trên bờ lao xuống nước và bò đi…Thằng bé ít được xem phim, nên nó nhớ như in tất cả những gì đã được xem khi ông đèo cháu đến xem phim ở trại quốc doanh nuôi vật giống, trại này thuộc địa khu lân cận, phía bên kia núi. Chính bởi thế trên bờ sông mới xuất hiện “Chiếc xe tăng” sẵn sàng lao xuống nước, vựơt qua sông. Ngoài ra còn có những khối đá khác, “có hại” hoặc “hiền từ”, thậm chí “ranh mãnh” hay “đần độn”.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Tàu Trắng PDF của tác giả Chyngyz Torekulovich Aytmatov nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Người Đàn Bà Trong Cồn Cát (Kobo Abe)
“Người đàn bà trong cồn cát” được xuất bản vào năm 1961 và đem về cho tác giả Kobo Abe (1924-1993) giải văn chương danh giá Yomiuri của Nhật, đã đưa tên tuổi của Abe lên hàng quốc tế sau khi bản dịch Anh ngữ được phát hành. Ông là tác giả Nhật được dịch ra tiếng ngoại quốc nhiều nhất. Một cuốn phim cùng tên, do chính tác giả viết truyện phim và Hiroshi Teshigahara (1927-2001) đạo diễn, được trình chiếu vào năm 1964, cũng đã đoạt giải Special Jury Prize tại Cannes Film Festival, 1964. Năm sau, cuốn phim đã được đề cử, nhưng không trúng, giải Oscar cho Best Foreign Language Film Oscar, và giải Oscar cho Best Director. Đó là câu chuyện về một anh giáo viên vô danh tiểu tốt ở Tokyo, tên Niki Jumpei, và là một tay sưu tập côn trùng tài tử. Tuy nhiên, anh ta cũng có một tham vọng, đó là có thể tìm được một con côn trùng nào mà chưa ai kiếm ra, để tên anh sẽ được gắn liền với con côn trùng đó và được đi vào bách khoa tự điển. Ước vọng này đã đưa anh đến một làng ven biển vào một dịp nghỉ. Mải mê tìm côn trùng, anh không để ý là đã lỡ chuyến xe buýt cuối cùng về thành phố. Khi ngỏ ý với ba người đàn ông anh gặp trên đụn cát là liệu anh có thể nghỉ qua đêm tại nhà một dân làng nào đó để sáng mai tiếp tục đi kiếm côn trùng, họ liền tỏ ra sẵn sàng giúp và đưa anh ta tới một căn nhà xiêu vẹo ở duới sâu trong lòng một cái hố cát, phải leo xuống bằng thang giây. Tại căn nhà đó, một người đàn bà còn trẻ đã đón tiếp và cơm nước cho anh. Niki không ngờ đấy là một cái bẫy mà định mệnh đã dành cho anh. Nguyên ngôi làng này bị nạn bão cát đe dọa chôn vùi. Ngôi nhà của người đàn bà ở bìa làng sát biển, như một thứ tiền đồn, cần phải giữ cho đừng bị cát chôn vùi, vì nếu một khi cát chôn căn nhà đó thì sẽ tiến tới căn nhà kế và rồi dần dà cả làng sẽ bị xóa sổ. Xúc cát là công việc hàng đêm - phải làm ban đêm vì lúc đó cát ẩm, dễ xúc vào xô, để người ta tới kéo những xô cát này lên và đem đi bán. Ngoài sứ mệnh bảo vệ làng, qua tinh thần "Yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình”, châm ngôn của làng, người đàn bà được trả công bằng thực phẩm, nước và những thứ cần thiết khác. Từ ngày chồng và con của chị ta bị bão cát chôn sống một năm về trước, chị làm việc xúc cát một mình không xuể. Và người ta đã lừa bắt cóc Niki để điền vào chỗ nhân sự thiếu hụt đó. Khi biết ra, Niki đã tìm mọi cách để thoát. Thoạt đầu anh ta trói người đàn bà lại làm áp lực dân làng. Đáp lại, dân làng ngưng cung cấp nước và thực phẩm cho hai người. Niki đành làm cái việc xúc cát trong khi âm mưu tìm cách trốn. Một lần anh ta đã leo lên được trên miệng hố và tìm cách thoát khỏi ngôi làng, nhưng bị bắt lại và buộc phải tiếp tục cái việc xúc cát ban đêm để rồi ban ngày cát khô bị gió thổi tiếp tục đe dọa ngôi nhà của người đàn bà, như nhân vật Sisyphe trong huyền thoại Hy Lạp bị buộc làm cái việc vô tận: đẩy một hòn đá lên đồi, chờ nó lăn xuống chân đồi, rồi lại đẩy lên, cứ thế, không được ngừng. Dù vậy, Niki cũng vẫn chưa bỏ cuộc. Biết rằng nước là vũ khí dân làng dùng để khuất phục anh, nếu anh không chịu ngoan ngoãn làm theo ý họ, họ sẽ cúp nước, Niki tìm cách triết nước từ cát ẩm. Cũng trong thời gian âm thầm nghiên cứu việc này, Niki và người đàn bà, như lửa gần rơm lâu ngày phải bén, trở nên gần gũi hơn, sống với nhau như vợ chồng. Khi người đàn bà mang bầu và khám phá ra là đã mang thai ngoài dạ con, dân làng phải thòng cái thang giây xuống để kéo chị ta lên đưa đi nhà thương cấp cứu. Niki ở lại cái hố. Anh ta đã không tin ở mắt mình khi thấy dân làng sau khi đưa ngưòi đàn bà đi nhà thương đã không rút cái thang lên. Anh mon men lại bên cái thang, rồi leo lên mà không gặp một trở ngại nào. Lần đầu từ khi bị bắt cóc bỏ xuống hố cát, anh ta nhìn thấy biển. Niki đi lang thang trên miệng hố, rồi lại leo trở xuống hố cát. Anh xem xét công trình triết nước và thấy nước uống được giữ lại trong thùng chứa, như vậy dự án triết và trữ nước của anh đã thành công. Anh ta không cảm thấy có nhu cầu phải thoát thân ngay. Anh nghĩ anh sẽ ở lại để cho dân làng biết về việc này. Tìm mua: Người Đàn Bà Trong Cồn Cát TiKi Lazada Shopee Cuốn truyện kết thúc bằng một án lệnh của tòa tuyên bố người đàn ông đã chết sau bảy năm có tên trên danh sách người bị mất tích, để lại cho người đọc một câu hỏi “tại sao Niki chọn ở lại” to lớn, và những nhà nghiên cứu về tác giả và tác phẩm mặc sức lý giải tại sao!***Trong khi Haruki Murakami và Banana Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe (1935 - 2007), tác giả đạt Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998, có viết: “Lớp nhà văn này đã tích lũy trong mình cảm nghĩ về thực hạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro, v.v., ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hóa đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941, Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đây Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhẩt các kỹ thuật của chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943, Kobo Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami, tác giả Rừng Na Uy, viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách. Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ của ông bao gồm Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng của Kafka càng rõ rệt trong hai tác phẩm Kabe (Bức tường) và S. Karuma Shino Hanzai (Tội lỗi của S. Karuma) sáng tác vào năm 1951. Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hóa thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh ta bị tòa án lôi ra phán xử. Năm 1947, Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chi thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết, Owarishi Michi No Shirube Ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi Đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của Đảng Cộng sản Nhật Bản. Những tác phẩm mang tính trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, Aai Mayu (Cái kén đỏ, 1950), Kabe (1951) và S. Karuma Shino Hanzai (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn F. Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiếu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant-garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không thực tế, và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau đây của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Dai - Yon Kampyoki (1959), Moetsukita Chizu (Tấm bản đồ rách, 1967), Mikkai (1977) và Hako Otoko (Người đàn ông trong chiếc hộp, 1974). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Women in the Dunes (Người đàn bà trong cồn cát, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1964). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hóa, vong ngã trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã bị ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muốn loài, nhưng tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài, không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hóa thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thế chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thế thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Ở Người đàn bà trong cồn cát, người đọc khó mà phân định được thực hư, người nào là kẻ chạy trốn, người nào là kẻ lùng bắt, ai biết đâu là ranh giới giữa hư ảo và hiện thực. Kobo Abe đã giải thích những vấn đề tâm sinh lý, ý thức và tiềm thức... để cố gắng truyền đạt đến người đọc một cách cụ thế những hiện tượng có thực ở vùng sâu kín trong hay dưới tầng ý thức. Ông chú trọng đến ảnh hưởng của tiềm thức và vô thức đối với hành vi của con người. Kobo Abe đã sử dụng mọi dạng cảm xúc của con người, từ niềm tự hào và nỗi sợ hãi tới những khát khao tình dục và cả nỗi thất bại ê chề - tất cả, tất cả đều dồn vào nhân vật chính trong câu chuyện (Niki Jumpei), rồi thì qua đó mặc cho bạn đọc tiến hành một sự tự nhận thức (self-awareness) về sự phi lý của thân phận con người. [1] Tác phẩm Người đàn bà trong cồn cát ngay lập tức đã cuốn hút đạo diễn điện ảnh Teshigahara Huoshi, cuốn phim của ông dựa trên tác phẩm kể trên đã giành được thành công to lớn vào năm 1963. Tác phẩm điện ảnh này đã giành Giải thưởng Đặc biệt tại Liên hoan Phim Cannes. Diễn viên Kyoko Kishida, người khởi nghiệp điện ảnh qua vai thiếu phụ trẻ trong tác phẩm này, sau đó đã trở nên nổi tiếng trong phim Moomin và một số phim khác. Đạo diễn Teshigahara Huoshi còn cộng tác với Kobo Abe để dựng phim cho hai tác phẩm The Pitfall (Cạm bẫy khó lường, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1966). Abe còn sáng tác một số vở kịch và điều hành một công ty biểu diễn do ông thành lập ở Tokyo. Các chủ đề về trạng thái cô độc và bị xa lánh, ghét bỏ trong các vở kịch như Friends (1967) và The Suitcase (1973) của ông được diễn trên sân khâu có một cái gì đó rất gần gũi với các tác phẩm của Samuel Beckett và Harold Pinter. Sau khi nhà văn danh tiếng Yukio Mishima qua đời, Abe được xem như nhà soạn kịch chủ chốt ở Nhật vào những năm 1970. Nhà hát của ông, còn có tên Abe Kobo Studio, được mời lưu diễn tại New York City vào năm 1979. Abe mất vì bệnh tim ngày 22 tháng Giêng năm 1993, giữa lúc đang viết tiểu thuyết cuối cùng The Flying Man (Người bay), tác phẩm vừa mới xuất bản đã ngay lập tức được truy tặng giải thưởng trong năm 1993. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX.Hà Nội, Mùa hạ 2009Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Kobo Abe":Bọn Chiếm ĐóngChiếc Thuyền Nô-ÊKhuôn Mặt Người KhácNgười Đàn Bà Trong Cồn CátĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Đàn Bà Trong Cồn Cát PDF của tác giả Kobo Abe nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Đàn Bà Đang Yêu (D. H. Lawrence)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Đàn Bà Đang Yêu PDF của tác giả D. H. Lawrence nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Đàn Bà Đáng Ngờ (Erle Stanley Gardner)
Cô Ambler cứ nằng nặc đề nghị vạch bụng cho luật sư trứ danh Perry Mason xem vết sẹo với sự chứng kiến của nhà thám tử tài ba Paul Drake. Ngay sau đó Ambler ra phi trường Los Angeles bắn ba phát súng đạn giả ở nơi đông người rồi chạy biến vào khu vệ sinh. Cảnh sát ập tới bắt được một cô gái có thân hình, mặt mày, trang phục giống hệt như Ambler nhưng lại là - cô gái triệu phú Minerva Minden … ***Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại.- Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour Tìm mua: Người Đàn Bà Đáng Ngờ TiKi Lazada Shopee Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Erle Stanley Gardner":Bí Ẩn Vụ Song SinhCon Mồi Táo BạoĐôi Tất NhungKẻ Giết Người Đội LốtKẻ Hùn VốnNgười Đàn Bà Đáng NgờNgười Đàn Bà Đáng SợNgười Được Minh OanThe Case Of The Spurious SpinsterTiếng Chó Tru Trong ĐêmVị Giám Mục Nói LắpVụ Án Hoa Hậu Áo TắmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Đàn Bà Đáng Ngờ PDF của tác giả Erle Stanley Gardner nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Cuối Cùng Của Bộ Tộc Mohican (James F. Cooper)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Cuối Cùng Của Bộ Tộc Mohican PDF của tác giả James F. Cooper nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.