Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mục Dã Quỷ Sự

“Ma Thổi Đèn - Mục Dã Quỷ Sự” là tác phẩm Thiên Hạ Bá Xướng khổ tâm sáng tác trong vòng 4 năm, giải đáp toàn bộ những thắc mắc/mơ hồ trong “Ma Thổi Đèn”! Đây là một cuốn tiểu thuyết hỗn hợp hiện thực & hư cấu, trộm mộ & thám hiểm. Tác phẩm là nơi tác giả tập hợp những câu chuyện ly kỳ thú vị mà bản thân đã trải qua, tràn ngập màu sắc huyễn ảo, thể hiện giá trị văn hoá truyền thống bác đại tinh thâm cùng sức tưởng tượng vô cùng phong phú của tác giả. *** Về bộ Ma Thổi Đèn: Ma thổi đèn Phần một: Thành Cổ Tinh Tuyệt Mê Động Long Lĩnh Trùng Cốc Vân Nam Thần Cung Côn Luân Phần hai: Mộ Hoàng Bì Tử Quy Khư Nam Hải Thi vương Tương Tây Vu hiệp Quan Sơn Mô Kim Hiệu Úy Thiên Hạ Bá Xướng sau khi nhượng quyền thương hiệu Ma thổi đèn đã viết tiếp câu truyện về ba mô kim hiệu úy trong hệ liệt mới của mình tên Mô Kim Hiệu Úy. Cuốn đầu tiên trong bộ Mô Kim Hiệu Úy được viết vào năm 2015 tên Mô Kim Hiệu Úy - Cửu U Tướng Quân. Hiện tại Thiên Hạ Bá Xướng đã viết tới cuốn thứ hai là Mô Kim Hiệu Úy - Câu Thi Pháp Vương nhưng sau đó đã dừng lại. Mô Kim Quyết Quỷ môn thiên sư Một phần khác cũng của tác giả viết. Nội dung kể về những năm 60 của thế kỉ XX, Hồ Bát Nhất và Tuyền béo được phân công về tham gia sản xuất kiến thiết tại Hắc Long Giang, binh đoàn nông khẩn, nông trường số 17 của sư đoàn 3. Trung đội trưởng an bài ba người là Hồ Bát Nhất cùng Tuyền béo và nhân viên liên lạc trực ở lại để trông coi vật tư, còn mình thì dẫn theo những người khác rời khỏi nông trường. Mấy người ở lại trông coi nông trường, phát hiện củi gỗ trong nhà kho ngày càng ít. Thì ra là do một con hồ ly kiếm chuyện báo thù, lén lút lấy đi củi. Ít hôm sau, một trận bão tuyết trước giờ chưa từng thấy ập đến, mấy người dự tính bắt con hồ ly, chẳng ngờ gặp phải một đàn sói từ Siberia tới đang tán loạn chạy bão, vì chạy thoát thân nên đi theo con hồ ly chui vào một cái hang đất, vô tình phát hiện một cổ mộ từ thời nhà Liêu bị che giấu từ vạn năm trước. Mục Dã Quỷ Sự “Ma Thổi Đèn - Mục Dã Quỷ Sự” là tác phẩm Thiên Hạ Bá Xướng khổ tâm sáng tác trong vòng 4 năm, giải đáp toàn bộ những thắc mắc/mơ hồ trong “Ma Thổi Đèn”! Đây là một cuốn tiểu thuyết hỗn hợp hiện thực & hư cấu, trộm mộ & thám hiểm. Tác phẩm là nơi tác giả tập hợp những câu chuyện ly kỳ thú vị mà bản thân đã trải qua, tràn ngập màu sắc huyễn ảo, thể hiện giá trị văn hoá truyền thống bác đại tinh thâm cùng sức tưởng tượng vô cùng phong phú của tác giả. Do Ngự Định Lục Nhâm chấp bút: Năm 2011, nhà sách Kim Thành (Trung Quốc) đã xuất bản bộ Ma Thổi Đèn mới, dưới sự nhượng quyền của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng, người viết là Ngự Định Lục Nhâm. Ngự Định Lục Nhâm là một nhóm tác giả viết văn, gồm sáu người. Do được phép của Thiên Hạ Bá Xướng mà nhóm Ngự Định Lục Nhâm đã viết ra bộ Ma Thổi Đèn mới dựa theo 8 cuốn đầu. Cuốn đầu tiên tên Ma Thổi Đèn - Thánh Tuyền Tầm Tung. Không chỉ dừng lại ở 1 cuốn, Ngự Định Lục Nhâm còn viết thêm: Ma Thổi Đèn - Thánh Tuyền Tầm Tung  Ma Thổi Đèn - Phủ Tiên Độc Cổ  Ma Thổi Đèn - Sơn Hải Yêu Trủng  Ma Thổi Đèn - Tương Tây Nghi Lăng  Ma Thổi Đèn - Trấn Khố Cuồng Sa *** Tiếng súng ầm ầm làm rung động đất trời của cuộc khởi nghĩa Vũ Xương cuối cùng đã khiến cho Trung Quốc thoát khỏi gông cùm xiềng xích nặng nề của chế độ quân chủ phong kiến kéo dài suốt mấy nghìn năm qua, đồng thời đưa đất nước bước vào một thời đại mới, thời đại của những xung đột dữ dội giữa xu hướng cải cách tiến bộ và những phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ. Những năm đầu Trung Hoa Dân Quốc, tình hình xã hội đặc biệt hỗn loạn, không chỉ có chiến sự liên miên giữa các nhóm phiến quân, mà còn xuất hiện đợt thiên tai trăm năm mới gặp “Bắc hạn Nam lụt", khiến cho khắp mọi nơi đều rơi vào cảnh màn trời chiếu đất, hàng trăm hàng vạn người trở thành nạn dân, để có được miếng ăn qua ngày, nhiều người bất chấp tất cả lên núi làm thổ phỉ, hoặc giở thủ đoạn thất đức buôn bán một số mặt hàng cấm như thuốc lá lậu, vũ khí, thậm chí là cả con người. Vậy nên vẫn có câu “Mười năm khói lửa ngập trời, chúng sinh tứ hải một đời bi ai!” Thường nói: “Thịnh thế cổ đổng, loạn thế hoàng kim", trong những năm tháng binh hoang mã loạn ấy, chỉ có những thỏi vàng sáng bóng lấp lánh mới được coi là thứ tiền tệ có giá trị nhất. Tuy nhiên trong mắt những tên trộm mộ, dưới thời cuộc như hiện giờ, mọi thứ như luật pháp hay đạo đức đã không còn tác dụng, đây chính là thời cơ tốt nhất để đào sâu xuống những mộ cổ, lấy đi những đồ vật quý giá được chôn giấu bấy lâu nay. Những tên trộm mộ già đời kinh nghiệm đầy mình, tất nhiên, cũng sẽ không bỏ lỡ cơ hội ngon ăn như vậy. Đợi một ngày tình hình chính trị ổn định, giá cổ vật sẽ lại một lần nữa tăng lên chóng mặt, đến lúc đó đem những thứ lấy được bán ra, liền có thể dễ dàng kiếm được một món tiền lớn. Một tên trộm mộ tự xưng là “Mã Vương Gia" cùng hai đồng bọn của hắn - Lão Bắc Phong và Phí Vô Kỵ, chính là nhìn thấy cơ hội ở ngay trước mắt, bèn tính toán thừa dịp hai phe quân phiệt đóng quân ở phụ cận sông Ứng Nê giao chiến với nhau, khiến cho lão bách tính xung quanh phải bỏ thôn chạy nạn không còn một ai, lập tức động thủ nhằm vào một toà cổ mộ vô danh bên cạnh bờ sông. Mã Vương Gia tên thật là Mã Vương Thành, bởi vì kinh nghiệm trộm mộ cực kỳ phong phú, lại có không ít thủ đoạn tinh ranh khó lường, hơn nữa nhãn lực hết sức cao thâm, thậm chí có người còn nói trên trán hắn mọc ra con mắt thứ ba, không cần biết dưới lớp đất kia có chôn cổ mộ kiểu gì, bất luận nông sâu như nào, hắn ta chỉ cần trong nháy mắt là đã có thể nhìn ra được đầu mối, cho nên mới bị người ta nói thành ra như vậy. Tuy nhiên đối với những người tương đối quen thuộc bản lĩnh của Mã Vương Gia, tự nhiên đều biết hắn ta không hề mọc ra con mắt thứ ba nào trên trán cả, chỉ tôn trọng gọi là “Quan Sơn Mã Gia". Mã Vương Gia đã để mắt tới toà cổ mộ bên cạnh dòng Ứng Nê này không phải mới ngày một ngày hai, địa điểm là tại một khu rừng cách bờ sông một đoạn không xa lắm. Vật đổi sao dời, nhiều năm trôi qua, núi non thung lũng dần dần bị san bằng, gò mả cùng bia đá dẫn đường cũng biến mất từng ngày, không phải người trong nghề tuyệt đối không có cách nào phát hiện ra chúng. Nếu lấy tay gạt bỏ đám cỏ khô héo vàng bên trên, dưới lớp bùn dày chừng nửa thước, liền có thể thấy được từng viên một gạch mộ vô cùng lớn, khe hở giữa các viên gạch được gia cố bằng nước thép nung chảy, nếu muốn trong thời gian ngắn đào ra được mộ cổ bên dưới, chỉ có cách là sử dụng thổ pháo cho thổi tung một lỗ lớn. Chỉ là khu vực này lại nằm ngay sát đường lớn, tuy rằng có chút hoang vu vắng vẻ, nhưng là con đường chính bắt buộc phải đi qua mỗi lần họp chợ, trước kia thỉnh thoảng vẫn thường có người qua người lại cho nên rất khó tìm cơ hội để hạ thủ, cho dù trong đêm lén lút dùng thổ pháo nổ tung tường mộ, cũng có khả năng làm kinh động đến đội dân đoàn (Trans: Tổ chức vũ trang ở địa phương của bọn cường hào địa chủ thời xưa ở Trung Quốc) hoặc cảnh sát. Do đó Mã Vương Gia tuy rằng sớm đã nhòm ngó đến nơi này nhiều lần, nhưng vẫn chậm chạp chưa dám làm ra bất cứ động tĩnh gì. Ấy thế mà chiến loạn kéo tới, đột nhiên khiến cho khu vực này trở thành một nơi không dấu chân người, chuyện này đối với Mã Vương Gia mà nói thì quả thật là một cơ hội trời ban hiếm có, hắn liền lập tức bắt tay cùng với hai tên trộm mộ khác cũng có chút tiếng tăm - “Lão Bắc Phong” với biệt tài thông thạo sử dụng thuốc nổ, cùng tay hảo thủ sức lực hơn người “Phí Vô Kỵ", để tránh bị người khác nhòm ngó sinh nghi, ba người đều đóng giả thành đạo nhân, mang theo một số đồ nghề chuyên dụng, chất đầy trên lưng mấy con lừa, ngày nghỉ đêm đi, từ từ tiếp cận bờ sông Ứng Nê. Sở dĩ con sông này có tên là “Ứng Nê", bởi vì trong lòng sông một nửa là nước còn một nửa là bùn đất phù sa, dù cho hạn hán hay lũ lụt, trước sau vẫn luôn ngập trong bùn nhão như này. Những năm gần đây, lưu lượng nước đổ về sông Ứng Nê càng ngày càng ít dần, vốn lòng sông từ đầu cũng phải rộng đến mấy trượng, lại bị phù sa chia tách thành mấy đoạn sông, chỉ khi nào nước mưa lên cao đến đỉnh điểm, mới thỉnh thoảng liền thành một dòng. Trong lòng sông mọc lên đầy những bụi cỏ cao vài thước, có nhiều người từ nơi khác đi ngang qua không biết tình hình khu vực này, lúc đi ngang qua định bụng ghé xuống sát bờ sông tranh thủ vốc miếng nước uống hoặc để rửa mặt gì đó, trong tình huống không hề có chút chuẩn bị nào, nếu một chân vô tình đạp phải vũng bùn bên dưới đám cỏ khô, rất dễ bị mắc kẹt rồi bỏ mạng một cách oan uổng, không một ai có thể nói rõ rốt cuộc đã có biết bao nhiêu người phải chôn thây tại đây. Chỉ là con sông này bởi vì chết quá nhiều người, ngoại trừ lạch nước hẹp ở giữa lòng sông còn có thể tạm coi là sạch ra, đại bộ phận những đoạn sông khác quanh năm suốt tháng đều chảy ra thứ nước đen ngòm, một mùi hôi thối tởm lợm toả ra khắp xung quanh. Thời điểm đám người Mã Vương Gia tới được bên bờ Ứng Nê, mặt trời đã ngả về tây, hoàng hôn sớm đã buông xuống. Bởi vì trước đó đám người Mã Vương Gia đã tới nơi này không ít lần để quan sát tình hình địa thế, cho nên bọn họ gần như không tốn một chút sức lực nào đã tìm thấy vị trí cổ mộ, liền đem bức tường gạch kiên cố chuẩn bị đào ra. Lão Bắc Phong đi trước dẫn đầu, dùng ngón tay gõ gõ lên những viên gạch mộ to lớn, thăm dò vị trí bên dưới. Hai người Mã Vương Gia cùng Phí Vô Kỵ đứng ở một bên chờ đợi, Mã Vương Gia thần sắc nhàn nhã cầm tẩu thuốc hút từng hơi dài, Phí Vô Kỵ thì không được thảnh thơi như vậy, hắn tập trung nhìn chằm chằm vào biến hoá trên khuôn mặt của Lão Bắc Phong, có chút lo lắng sợ rằng số lượng thuốc nổ mang theo không đủ. Lão Bắc Phong không nhanh không chậm, bình tĩnh thăm dò kỹ càng độ dày mỏng của từng viên gạch, rồi nói với hai người kia: “Hai vị lão ca, cái vách sắt này thật sự kiên cố đấy, thuốc nổ chúng ta mang theo tuy rằng không đủ, nhưng theo tôi dự đoán, chỉ cần tập trung hoả lực của thổ pháo đặt vào điểm yếu nhất của bức tường, không mở được một lối to thì ít nhất phải mở được một lối nhỏ, cũng không có gì sai biệt lắm!” Mã Vương Gia nghe thấy vậy, khẽ gật đầu, lên tiếng phân phó: “Thôn dân xung quanh đây đã sớm bỏ chạy hết sạch, chúng ta gây ra động tĩnh lớn một chút cũng không sao, chỉ là cần phải tính toán lượng thuốc nổ vừa phải, chớ nên làm hỏng đồ vật bên trong mộ là được, tiền cả đấy!” Trong ba người Mã Vương Gia chính là thủ lĩnh, sau khi được hắn ta cho phép, Lão Bắc Phong mới dám bắt tay vào động thủ, thuốc nổ pháo dẫn được lắp đặt một cách hết sức thuần thục nhanh chóng, ầm ầm, tiếng nổ rền vang một góc trời, đừng nhìn loại thuốc nổ này được làm từ đất mà coi thường, tỉ lệ phối trộn nguyên liệu bên trong của nó hết sức cao minh, uy lực gây ra khi nổ quả thực không nhỏ, trực tiếp khiến cho đất đá nổ tung rơi xuống như mưa rào, khói bụi mịt mù. Lão Bắc Phong thời trẻ có một quãng thời gian làm việc tại cục Hoả Khí Bắc Dương, đã từng chế tạo đủ các loại thuốc nổ đạn dược, những năm gần đây lại đi theo Mã Vương Gia lăn lộn giang hồ trộm qua không ít mộ cổ, dùng thổ pháo phá tường chính là sở trường của hắn, đợi sau khi khói bụi tan đi, chỉ thấy phần đỉnh của toà cổ mộ vô danh này đã bị thủng ra một lỗ hổng lớn. Lỗ hổng bị thổ pháo cho nổ ra, vị trí vừa vặn nằm ngay trên đỉnh cửa đồng chắn ngang mộ đạo, vòng qua lớp vách sắt kiên cố nhất, nhưng khoảng trống lộ ra phía sau cũng không phải là mộ đạo, bên trong có một tấm bia mộ tạc từ thạch bích được dựng thẳng đứng, ba người không khỏi cảm thấy có chút kỳ quái, làm cái nghề trộm mộ này nhiều năm như vậy, vẫn chưa từng thấy qua nhà nào lại đặt mộ bia ở trong phần mộ cả, đây là phong cách kiểu quái gì vậy? Ngay sau đó mấy người liền đánh bạo cùng nhau tiến về phía trước, hai mắt cẩn thận dò xét từng chút một, ai cũng đều không nhịn được ý nghĩ muốn xem thử xem trên tấm bia đá thạch bích kia rốt cuộc ghi chép thứ gì. Tấm bia này vừa dài vừa phẳng, được chế tạo trông hết sức kỳ lạ, chất liệu được dùng chỉ là loại đá xanh phổ thông rất dễ kiếm, phần đỉnh phía trên chạm khắc một cái đầu quỷ, ngay chính giữa tấm bia lại khắc một dòng chữ lớn xiên xiên vẹo vẹo, các nét chữ gây cho người ta cảm giác quái dị cẩu thả, lộ ra mấy phần tà khí. Trong số ba người bọn họ, chỉ có Phí Vô Kỵ là người thô kệch một chữ bẻ đôi không biết, Lão Bắc Phong tuy rằng nhận biết được một số mặt chữ thường dùng hằng ngày, nhưng hơn phân nửa là nhận sai, cho nên nhiều nhất cũng chỉ biết được chừng hơn trăm mặt chữ đơn giản nhất, hơi phức tạp hơn tí là hắn chịu chết không đọc nổi, đối với lối chữ khắc triện trên bia đá này càng là một chữ cũng không biết. Hai người hắn tiến lên quan sát tấm bia đá này, chẳng khác gì như xem thiên thư, liền nửa chữ cũng không đọc ra được, đành phải quay sang thỉnh giáo Mã Vương Gia rốt cuộc chữ viết bên trên bia đá này có nghĩa là gì. Mã Vương Gia là người có học vấn uyên bác, lại thông hiểu cổ kim, tự nhiên là không làm khó được hắn, dòng chữ khắc trên bia đá mặc dù có điểm kỳ lạ, tuy nhiên vẫn chưa phải là loại chữ triện cổ đại phức tạp khó đọc đã sớm thất truyền từ lâu, hơi động não suy nghĩ một chút, trong lòng lập tức thấu hiểu tất cả.   Mời các bạn đón đọc Mục Dã Quỷ Sự của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đồng Xu Nhuốm Máu
Tác giả Thạch Bất Hoại đã giới thiệu với bạn đọc yêu thích thể loại truyện ma một truyện khá đặc sắc, vẫn là không khí ghê rợn thường thấy, vẫn là những chi tiết làm người ta phải nghẹt thở mỗi khi chạm vào, có những bí mật, những lời nguyền và cả những ám ảnh, truyện Đồng Xu Nhuốm Máu sẽ dẫn dắt bạn vào một thế giới đầy kì bí, ma mị như vậy rồi ta sẽ chạm mặt ít nhất một lần trong đời, rồi sẽ qua và rồi sẽ có chút nghi hoặc hay hoảng hốt không yên. *** Truyện Kinh Dị Chọn Lọc:  Hồn Ma Báo Mộng Nghiệp Chướng Sợi Dây Thừng Người Chết Người Đàn Bà Của Bóng Đêm Bến Đò Biệt Ly Vết Xăm Ma Ma Tình Một Xác Hai Hồn Linh Hồn Trong Ngọn Nến Trò Chơi Ma Quái Tình Người Kiếp Rắn Trở Về Từ Kiếp Sói Chuyến Xe Cuối Cùng Đồng Xu Nhuốm Máu Bức Tranh Chết Chóc Chiếc Áo Khoác Trên Mộ Tiếng Khóc Trên Mộ Gốc Cây Mặt Quỷ Bóng Người Trên Biển Vắng ... *** Tỉ ôm đầu lảo đảo chạy vào con hẻm sâu hun hút. Hắn cứ cắm đầu cắm cổ mà chạy như bị ma đuổi phía sau lưng, chạy không cần định hướng. Vừa chạy vừa thở hồng hộc. Một đám đàn bà, trẻ con đang ngồi túm tụm bên đường nói cười rôm rả, thấy bộ dạng điên cuồng của hắn chạy tới, tất cả đều dạt ra nhường đường cho Tỉ, không ai dại gì lại đi dây vào một đứa đang có vấn đề. Người dân ở đó cũng không biết Tỉ là ai, nhưng nhìn thoáng qua cũng đoán được đó là một kẻ thuộc thành phần bất hảo, không phải người lương thiện đàng hoàng! Tỉ cóc cần biết mọi người nghĩ sao về hắn. Hắn chỉ muốn trốn thoát, trốn thoát điều gì thì ngay cả bản thân hắn cũng không biết! Hắn chỉ biết hắn cần phải chạy thật xa, phải làm một cái gì đó để xua tan những cảm xúc dữ dội đang trào ứ trong hắn. Con hẻm ngoằn ngoèo uốn khúc như một con rắn khổng lồ cuối cùng đâm ra một bãi rác lớn. Nơi đó người ta vứt tất cả những thứ rác rưởi và chất thải của cả cái thị xã này. Mùi xú uế nồng nặc bốc lên làm Tỉ bất giác muốn nôn ọe. Hắn giựt lùi muốn quay trở lại, nhưng không biết ma quỉ xui khiến gì tự nhiên hắn lại xăm xăm tiến về phía cuối bãi rác chỗ có những chiếc ống cống bằng xi măng đang nằm lăn lóc chờ ngày các cơ quan chức năng đưa chúng về đúng vị trí. Ở phía đó ngược chiều gió, đồng thời cũng phía cuối của bãi nên hầu như chỉ toàn là rác cũ, lâu năm, mùi hôi thối cũng không nồng nặc như ở chỗ lúc nãy. Tỉ bước chậm lại, hai tay buông thõng xuôi theo người một cách chán chường, mệt mỏi. Trong lòng Tỉ giờ đây ngổn ngang biết bao nỗi lo âu sợ hãi. Tỉ đã thua đến đồng bạc cuối cùng! Không những thế, cả giấy tờ nhà đất Tỉ cũng thế chấp mất rồi, cộng thêm tờ giấy nợ một trăm triệu kia nữa... Biết làm sao bây giờ? Chỉ còn mỗi một cách là chết đi mà thôi! Nhưng nếu Tỉ chết đi thì mẹ và vợ con Tỉ sẽ sống sao đây? Căn nhà nhỏ và mảnh đất bé xíu mà lâu nay vợ Tỉ vẫn chăn nuôi và trồng mấy liếp rau liếp cải ấy sẽ bị chủ nợ xiết đi, mẹ và vợ con Tỉ sẽ phải lang thang đầu đường xó chợ, không chốn nương thân... Nhưng nếu Tỉ không chết thì sao? Nhà đất vẫn bị xiết, đồng thời chắc chắn sẽ bị truy tố ra tòa vì số nợ một trăm triệu có giấy tờ cam kết hẳn hoi kia. Chết! Chết! Đúng rồi, chỉ có cái chết mới có thể giúp được Tỉ trong lúc này... Nhưng làm sao Tỉ đành lòng... Mẹ Tỉ già rồi cứ nay yếu mai đau, vợ Tỉ lại sắp đến ngày sinh nở. Trời ơi... tại sao ông trời lại đẩy con vào đường cùng thế này? Ông trời ơi, ông không thương con thì xin ông hãy thương lấy mẹ và vợ con của con. Mẹ con đã khổ cả đời vì cha con rồi. Còn vợ con, từ ngày về làm vợ con, cô ấy chưa một ngày được thảnh thơi vui sướng. Nhưng cô ấy chưa khi nào hờn trách gì con mà vẫn vui vẻ chịu đựng, san sẻ cùng con những thiếu thốn, khó khăn... Con không có lỗi... chính vì con thương mẹ và vợ con con, con muốn họ được sống sung sướng hơn, vì vậy con mới... và bây giờ con ra nông nỗi thế này đây... hu hu hu... Không nhấc chân lên nổi nữa, Tỉ ngồi thụp xuống, lưng tựa vào một ống cống và khóc ngất lên từng hồi như có điều oan ức đớn đau lắm vậy. Công bằng mà nói, Tỉ không phải là đứa bỏ đi. Hắn là một đứa con hiếu thảo, là một người chồng biết yêu thương vợ. Nhưng có lẽ tại số phận của hắn, tại cái kiếp người của hắn đã được đặt để vào khuôn khổ nghèo hèn nên mặc dù hắn rất siêng năng làm lụng mà vẫn không khá lên được! Từ lúc hơn mười tuổi hắn đã biết bưng thúng bánh đi dài theo các con hẻm, cất tiếng rao lanh lảnh để giúp mẹ kiếm tiền lo bừa ăn hàng ngày cho bốn miệng ăn: ba mẹ, hắn và đứa em gái út. Ba hắn là một gã đàn ông nát rượu. Không ngày nào ông không uống, mà không phải chỉ uống sương sương, nhâm nhi vui bạn vui bè... Ba hắn uống như hũ chìm, uống đến say khướt quên trời, quên đất. Hôm nào mẹ hắn không có tiền lo rượu cho ba hắn thì chắc chắn hôm đó bà sẽ bị một trận đòn nhừ tử đến nỗi cười cũng không chịu được, hoặc là chính mẹ hắn hoặc là hắn chạy tới quán bà Tư ở đầu đường mua chịu rượu và một ít cá khô về làm mồi cho hắn thì mới có thể yên thân được. Nhưng những hôm có rượu, có mồi thì cũng đau dễ được yên thân. Ba hắn khi đã uống say thường đem những chuyện bực mình từ năm xửa năm xưa ra dày vò mẹ hắn. Nếu mẹ hắn nín nhịn không cãi lại thì ba hắn bảo mẹ hắn coi thường: - Tao không đáng mặt nói chuyện với mày sao? Còn nếu mẹ hắn không nín nhịn được, có lời đôi co qua lại thì lập tức ba hắn hùng hổ: - À... à, cái con này hỗn! Mày dám ăn nói tay đôi với chồng mày à? Tao phải dạy ày một trận mày mới hiểu được câu "phu xướng phụ tùy"! Những ngày thơ ấu của Tỉ là những ngày thấm đẫm nước mắt khổ đau của người mẹ gầy gò khốn khổ. Có lần Tỉ hỏi: - Sao mẹ không bỏ phứt ổng đi, con thấy ba mẹ thằng Tam cũng bỏ nhau có, có sao đâu? Không có cha như thằng Tam coi bộ còn sướng hơn... Mẹ Tỉ khóc òa lên rồi ôm hắn vào lòng nói nhỏ: - Con không được nói vậy! Mẹ con mình mang ơn ông ấy, dù khổ hơn nữa mẹ cũng không thể nào bỏ ông ấy được, mẹ phải đền ơn ông ấy... - Ơn gì hở mẹ? Tỉ ngây thơ hỏi nhưng mẹ hắn lại gạt đi: - Con còn nhỏ, con chưa hiểu, chưa biết được đâu. Hiện nay, con chỉ biết nghe lời mẹ là đủ rồi! Dù ba con có thế nào đi nữa con vẫn phải thương yêu và kính trọng ông ấy, con không được quyền nói xấu ông ấy, nghe không? Bởi vì... với mẹ con mình, ông ấy là người đàn ông tốt nhất trên đời! Tỉ rất hậm hực khi nghe mẹ nói thế, nhưng vốn là một đứa ngoan, biết nghe lời nên Tỉ cũng không dám hỏi nhiều. Nó miễn cưỡng yêu thương, miễn cưỡng kính trọng người đàn ông luôn hành hạ mẹ nó. Với Tỉ và em gái thì đỡ hơn, ông ấy hầu như không hề làm khó hai anh em Tỉ. Đồ nhậu có món gì ngon, thấy anh em Tỉ đi ngang ông đều ngoắt lại: - Ê... ê! Hai đứa bây vô đây ăn với tao nè... cái này ngon lắm nghe... ăn đi, ăn đi au lớn để mẹ mày nhờ... Hầu như ông luôn luôn lặp lại câu đó mỗi khi gọi anh em Tỉ vào ăn cùng. Ông cũng chưa hề đánh Tỉ dù chỉ là một roi phết nhẹ trên mông hay một bạt tai khi tức giận. Tuy nhiên ông cũng chưa bao giờ tỏ ra yêu thương, quyến luyến Tỉ. Với em gái Tỉ thì khác. Có những lúc ông ôm con bé vào lòng, vuốt tóc vuốt tay nó rồi cười khà khà đầy mãn nguyện: - Con gái rượu của tao! Con gái vàng gái ngọc đây mà... Không ít lần Tỉ thấy thắc mắc trong lòng, bởi vì hắn thấy ở những nhà khác, người cha thường tự hào về con trai của mình hơn. Mẹ Tỉ đã phải chịu đựng một người chồng như vậy hết năm này qua năm khác. Cho đến một ngày, ba Tỉ nhậu say về ngang qua cây cầu nhỏ, do sơ sẩy thế nào mà rơi tòm xuống dưới không ai hay, mãi đến sáng hôm sau đi tìm khắp nơi không thấy, chỉ nghe một người bạn nhậu bảo: - Chiều hôm qua anh ấy có tới đây uống rượu với tôi nhưng đã về lúc chập tối! Mẹ Tỉ hoảng lên, mếu máo kêu khóc, mọi người đổ xô đi tìm thì mới phát hiện xác ông vướng dưới đám lục bình ớ khúc sông gần đó. Sau đám tang ba, cuộc sống của mẹ con Tỉ dễ thở hơn rất nhiều, nhưng Tỉ vẫn không hiểu sao mẹ Tỉ cũng vẫn không vui mà mặt mày cứ u sầu ủ dột. Rồi một hôm, Tỉ được nghe mẹ kể cho nghe về bí mật đời mình, về lý do tại sao bao nhiêu năm qua mẹ Tỉ vẫn một lòng yêu thương ba Tỉ dù đã bị ông hành hạ không thương tiếc những khi say rượu. Ngày đó, mẹ Tỉ là một cô gái quê nghèo khổ trôi dạt lên Sài Gòn tìm kế sinh nhai. Vừa chân ướt chân ráo lên nơi thành thị, cô đã lọt ngay vào tầm ngắm của một tên sở khanh. Hắn tìm mọi cách để ve vãn, dụ dỗ cô, và hắn đã làm được điều đó không mấy khó khăn đối với một cô gái thật thà và cứ tưởng xung quanh mình ai cũng thật thà như thế! Hắn hứa hẹn đủ điều, nhưng đến lúc cô gái báo tin mình đã mang thai thì hắn cao chạy xa bay không một lời từ giã. Một mình thân gái nơi xứ lạ quê người, không người thân, không tiền bạc, cô làm sao tồn tại được? Còn trở về quê thì cô biết ăn nói sao đây về cái bào thai đang lớn dần từng ngày trong bụng? Khổ đau, tuyệt vọng, một đêm mưa gió đầy trời, cô gái đã tìm tới bên sông vắng để quyên sinh. Nhưng bất ngờ, cũng trong đêm đó có một chàng trai lang thang đi dưới trời mưa trên đường vắng, tình cờ phát hiện cô gái định hủy mình. Chàng trai đã kịp thời cứu cô thoát chết và nghe cô kể về hoàn cảnh của mình. Xót thương cho thân phận người con gái bơ vơ nơi đất lạ, người con trai đã đứng ra nhận lấy trách nhiệm về mình. Ngay sáng hôm sau, anh dắt cô gái về quê thưa chuyện với gia đình rằng: - Con đã lỡ làm cho con gái người ta bụng mang dạ chửa, ba mẹ thương con, thương cháu nội mà đừng trách phạt chúng con, cho phép chúng con được thành vợ thành chồng ... Ai nấy ngớ người la trước cái tin hệ trọng của cậu con trai cả, nhưng sau đó cả nhà cũng mừng vui không kém vì sắp có cháu nội để bế bồng. Thế là việc cưới xin được tiến hành ngay sau đó, tuy đơn sơ giản dị nhưng đã cứu vớt được cuộc đời của cô gái và cả đứa bé chỉ mới là bào thai. Rồi khi đứa bé chào đời, người cha vẫn làm tròn bổn phận, không một chút đối xử phân biệt hay hà khắc nào với nó. Lắm lúc nó nghịch phá nhưng chưa bao giờ người cha vung roi đánh con lấy một lần. Chính điều đó làm cho người mẹ cảm động và nguyện với lòng mình, suốt đời này kiếp này mẹ con cô sẽ làm tất cả để đền đáp ân tình của người đàn ông đó. Nghe mẹ kể lại chuyện đời mình, Tỉ vô cùng hối hận vì đã có những lúc cảm thấy ghét cha, thù cha, và cả đến khi ông ấy chết, tuy Tỉ cũng buồn đau, cũng thương đấy, nhưng đâu đó bên cạnh vẫn là cảm giác được giải thoát, không phải giải thoát cho bản thân mình, mà là giải thoát cho người mẹ mà Tỉ luôn yêu thương, kính trọng. Tỉ giúp mẹ làm đủ thứ việc để kiếm tiền nuôi em. Từ bán bánh bán khoai, đến gánh nước, khiêng hàng,... thứ gì Tỉ cũng làm, miễn kiếm được ít tiền đem về ẹ. Mẹ Tỉ nhiều năm lao lực nên sức khỏe sa sút rất nhanh, bà không còn làm được những việc nặng nhọc nữa, chỉ quanh quẩn ở nhà lo cơm nước vá, may cho anh em Tỉ, đã vậy bà cứ nay đau mai yếu quặt quẹo rất thương tâm. Những đồng tiền ít ỏi Tỉ kiếm được nếu chỉ để lo cho ba miệng ăn không thôi thì còn tạm đủ, chứ thêm khoản thuốc thang ẹ thì Tỉ không sao lo nổi. Thế nên cuộc sống của ba mẹ con vẫn cứ đắp đổi qua ngày. Năm hai mươi tuổi, trong một lần đi theo một ông thầu xây dựng làm một công trình lớn tận Bình Dương, Tỉ tình cờ quen Lan, một cô gái nhỏ hơn Tỉ hai tuổi, hiện đang làm công ở một lò gốm gần nơi công trình Tỉ đang thi công. Sau khi tìm hiểu, Tỉ biết được hoàn cảnh của Lan cũng bi đát không kém gì mình. Lan mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cô sống với vợ chồng người chú và thường xuyên bị bạc đãi. Lan phải làm việc và giữ em quần quật suốt ngày không được nghỉ tay, vậy mà vẫn bị chú thím chửi là "thứ đồ ăn hại", là "tội báo oan gia". Lớn lên một chút, Lan được thím giới thiệu vào làm ở đây, lương mỗi tháng đều bị thím ứng trước gần hết, chỉ chừa lại cho Lan một số ít ỏi, không đủ để cô ăn xôi mỗi sáng đi làm. Nhưng dẫu sao Lan vẫn thích đi làm hơn. Đi làm thế này vừa có bạn bè để trò chuyện, có những giây phút lặng lẽ một mình để thả cho tâm hồn thiếu nữ mười tám tuổi được bay bổng với những ước mơ, và đi làm thế này thì đỡ phải nghe những câu mắng chửi nặng nề vô lý... Chuyện không có tiền trong người với Lan cũng đã trở nên quen thuộc rồi, bình thường rồi nên cô cũng không cảm thấy buồn hay phẫn uất gì cả. Tỉ và Lan quen nhau không lâu thì cả hai đã thật sự cảm mến và thương yêu nhau vô hạn. Nhưng chuyện cưới xin đối với Tỉ lại là một vấn đề nan giải. Ngày mẹ Tỉ lặn lội lên Bình Dương tìm đến thưa chuyện với chú thím Lan, bà trở về nhà với vẻ mặt ỉu xìu buồn tủi... Chú thím Lan luôn miệng nói hai người đã nuôi dưỡng Lan từ hồi còn bé nên coi cô như con gái ruột của mình, giờ gả cô đi lấy chồng, họ không đòi hỏi gì nhiều, nhưng bắt buộc phía nhà trai phải lo đầy đủ các lễ vật và cả nữ trang cho cô dâu, tiền đưa cho nhà gái... Chỉ một trong những yêu cầu đó thôi cũng đủ làm mẹ con Tỉ xính vính rồi, có đâu tới nữ trang, lễ lộc... Mời các bạn đón đọc Đồng Xu Nhuốm Máu của tác giả Thạch Bất Hoại.
Con Quỷ Một Giò
Truyện Kinh Dị Chọn Lọc:  Hồn Ma Báo Mộng Nghiệp Chướng Sợi Dây Thừng Người Chết Người Đàn Bà Của Bóng Đêm Bến Đò Biệt Ly Vết Xăm Ma Ma Tình Một Xác Hai Hồn Linh Hồn Trong Ngọn Nến Trò Chơi Ma Quái Tình Người Kiếp Rắn Trở Về Từ Kiếp Sói Chuyến Xe Cuối Cùng Đồng Xu Nhuốm Máu Bức Tranh Chết Chóc Chiếc Áo Khoác Trên Mộ Tiếng Khóc Trên Mộ Gốc Cây Mặt Quỷ Bóng Người Trên Biển Vắng ... *** Tiếng gió hú nghe thật thê lương trong màn đêm thâm u tĩnh mịch. Tân khẽ rùng mình, kéo lại cổ áo rồi rảo bước thật nhanh để vượt qua đoạn đường vắng đi xuyên qua bãi tha ma rộng lớn mang đầy âm khí này. Trong xóm đã bắt đầu râm ran tiếng chó sủa. Ban đầu chỉ là những tiếng sủa rời rạc, chừng như mới chỉ là những lời báo hiệu cho bạn bè chúng biết rằng có một người lạ đang đi về xóm. Và chỉ một loáng sau đó, những tiếng sủa lại rộ lên, đủ mọi thanh âm phá vỡ sự im lặng của một thôn xóm bình yên trong đêm tối. Ánh trăng đầu tháng lờ mờ treo lơ lửng trên bầu trời tỏa xuống trần gian một thứ ánh sáng lạnh lẽo huyền hoặc làm cho cảnh vật xung quanh thêm phần kỳ bí. Tân vốn là một thanh niên cường tráng, chưa từng biết run sợ trước điều gì, nhưng bỗng dưng tối nay lại cảm thấy trong lòng như có điều bất an đang len nhẹ... Lâu lắm rồi Tân mới lại tìm về cái xóm nhỏ đìu hiu quạnh vắng này. Ở đây, Tân có một người chú họ, tuổi đã ngoài năm mươi mà chẳng vợ con gì, sống một mình cu ki suốt quãng đời dài dằng dặc. Hơn mười năm trước thì Tân ở với chú, hai chú cháu thân thiết, thương yêu nhau vừa như cha con, vừa như bè bạn. Nhưng rồi Tân phải trở về quê để làm tròn bổn phận của đứa con trai độc nhất đối với cha mẹ. Tân cưới vợ, rồi lo làm ăn sinh sống, và những tất bật cơm áo gạo tiền cứ cuốn phăng Tân đi, làm Tân cũng ít khi nào nhớ tới chú, nghĩ về chú. Mấy năm vừa qua, Tân liên tiếp gặp những chuyện đau buồn. Cha mẹ qua đời chỉ cách nhau một năm. Hai cái tang chồng chất vẫn chưa mãn thì vợ Tân cũng bỏ Tân mà đi trong một ca sinh khó, cả đứa bé mà vợ chồng Tân thiết tha mong đợi cũng chưa được cất tiếng khóc chào đời... Tân đau đớn, bơ vơ… bỏ bê công việc, vùi mình vào những cuộc nhậu thâu đêm suốt sáng để cố quên đi những nỗi buồn đau mà ông trời đã giáng xuống cuộc đời Tân không một chút xót thương nương nhẹ... Nhưng có quên được đâu, dẫu cả ngày say sưa lướt khướt? Nhìn quanh mình, chỗ nào cũng đầy ắp hình bóng của những người ruột thịt, thân yêu… Tân không chịu đựng nổi nữa, Tân muốn làm một điều gì đó để phá hủy tất cả, nhưng cuối cùng Tân chẳng biết phải làm gì ngoài việc gom góp chút hành lý đơn sơ, khóa cửa nhà và tìm về với ông chú họ... Vì lỡ mất một chuyến xe, Tân phải lội bộ gần mười cây số nên khi về tới xóm này thì màn đêm đã buông xuống từ lâu, nhà nhà đã tắt hết đèn, chìm trong giấc ngủ. Mặc những con chó hung tợn cứ như chực chờ nhảy bổ vào mình, Tân vẫn điềm nhiên cất bước. Những hàng cây bên đường đứng lù lù, trông giống như những người khổng lồ đang gườm gườm với kẻ lạ mặt không mời mà đến trong đêm. Cuối cùng, Tân dừng bước trước một căn nhà ngói ba gian nằm khuất trong vườn chuối ở cuối xóm. Căn nhà đã cũ kỹ, già nua theo thời gian, trong một đêm như thế này trông nó càng có cái vẻ tội nghiệp vì nó giống như một ngôi nhà mồ hơn là nhà của người sống. - Chú ơi! Chú... Tân cất tiếng gọi to. Trong nhà vẫn không có tiếng ai đáp lại, cũng không có một con chó nào nhảy xổ ra như tưởng tượng của Tân. Tân run run... Chẳng lẽ... chẳng lẽ cả đến chú cũng không còn? - Chú ơi... chú có nhà không? Bây giờ thì những con chó của các nhà bên cạnh lại xộc ra sủa ỏm tỏi, như muốn ăn tươi nuốt sống Tân, như muốn đánh thức cả xóm cả làng thức dậy. Tân lùi lại một bước, đứng thủ thế trước những cái miệng ngoác ra lộ hàm răng trắng nhởn của mấy con chó nhà bên. Có tiếng lục đục mở cửa, rồi tiếng một người đàn ông cất lên ồm ồm: - Ai đó? Ai kêu réo gì lúc đêm hôm khuya khoắt thế này đây? Cánh cửa xịch mở, và với ánh đèn dầu leo lét đủ để Tân nhìn thấy gương mặt già nua nhăn nhúm đến tội nghiệp của người chú họ. Tân run giọng vì những xúc cảm đột ngột trào dâng: - Chú... chú ơi! Con là thằng Tân nè! Thằng Tân về thăm chú nè chú! Ông già giơ cao ngọn đèn lên, đôi chân bước dần ra cổng. Tân sải bước tiến gần lại chú để ông nhìn cho rõ mặt mình. - Mày... mày đúng là thằng Tân? Ông già giương đôi mắt đục lờ lờ nhìn thẳng vào mặt Tân mà dường như không thể nào thấy rõ, ông hỏi lại như để khẳng định cái điều mình vừa nghe được là sự thật chứ không phải giấc mơ. Tân đỡ lấy cây đèn trên tay ông, cánh tay còn lại đưa ngang qua lưng dìu ông trở lại vào nhà. - Chú ơi! Mấy năm rồi chú sống ra sao? Chú không được khỏe hay sao mà trông chú... không được như trước? Tân vừa đi vừa hỏi. Ông già cười móm mém: - Mồ tổ cha mày, làm như mày mới đi có mấy ngày không bằng! Hơn mười năm rồi đó nghe con, hơn mười năm rồi mày chưa một lần thăm lại lão già này... Tân chua xót: - Dạ... cháu biết cháu có lỗi nhiều với chú... nhưng... mà thôi, để từ từ cháu kể chuyện nhà mình cho chú biết. Dù sao hôm nay cháu trở về, thấy chú còn đi đứng được vầy là cháu mãn nguyện lắm rồi chú ạ! - Tao còn sống đây cũng là để chờ mày đó con ạ! Ông già nhìn Tân trìu mến. Một nỗi hối hận nghẹn ứ trong cổ Tân. Bao nhiêu năm qua, tuy cuộc sống nhiều khó khăn vất vả nhưng nếu thật sự muốn, Tân vẫn có thể thu xếp để về thăm chú, thậm chí vẫn có thể đón chú về sống với gia đình mình. Vậy mà Tân đã không làm! Để bây giờ, khi chỉ còn trơ lại một mình, khi đã cảm nhận được nỗi cô đơn tê tái, Tân mới chợt nhớ tới người chú cô độc nơi này... Mình quả là đứa bỏ đi... Tân tự trách mắng mình như thế. Mời các bạn đón đọc Con Quỷ Một Giò của tác giả Thạch Bất Hoại.
Chuyến Xe Cuối Cùng
Truyện Kinh Dị Chọn Lọc:  Hồn Ma Báo Mộng Nghiệp Chướng Sợi Dây Thừng Người Chết Người Đàn Bà Của Bóng Đêm Bến Đò Biệt Ly Vết Xăm Ma Ma Tình Một Xác Hai Hồn Linh Hồn Trong Ngọn Nến Trò Chơi Ma Quái Tình Người Kiếp Rắn Trở Về Từ Kiếp Sói Chuyến Xe Cuối Cùng Đồng Xu Nhuốm Máu Bức Tranh Chết Chóc Chiếc Áo Khoác Trên Mộ Tiếng Khóc Trên Mộ Gốc Cây Mặt Quỷ Bóng Người Trên Biển Vắng ... *** … Xe nổ máy, đi khỏi trại hòm chừng nửa cây số, máy đột nhiên tắt. Ông chủ Thọ Lộc kêu trời: - Hôm này ngày gì vậy không biết, xui xẻo quá chừng. Ông Yêu ơi là ông Yêu, ông chọn ngày chết gì mà khôn quá. Kiểu này làm sao mà làm ăn… Nhân làu bàu: - Ông chủ, tôi xin chịu thua… tôi cả đời lái xe chở xác chết, có bao giờ như vậy đâu? Bà vợ ông Yêu rầu rĩ: - Thôi, chú Nhân, nghĩa tử là nghĩa tận mà, chú cố gắng giúp chị nhé. Nhân khổ sở: - Chị thấy đấy, cả buổi hôm nay, em cực khổ vì ông Yêu. Thế mà không hiểu sao lại như vậy? Em đâu có gây gì cho ông ấy. Mà em lại bị như vậy chứ… Hay là em nặng vía quá… Ông chủ Thọ Lộc kêu lên: - Đúng rồi, cậu quá nặng vía. Ông ấy tuổi dần, còn cậu tuổi sửu. Dần là cọp, sửu là trâu. Con cọp nó ăn con trâu là phải rồi. Nhân làu bàu: - Em đâu có nghĩ như vậy, ông chủ…. Thế ta phải làm sao? Ông chủ Thọ Lộc bần thần: - Biết tìm ai bây giờ? Mà trời thì trưa rồi, quá giờ làm lễ của thầy chùa, họ đang chờ trên đó. Bà vợ ông Yêu bảo: - Bộ lái xe chở xác chết cũng phải coi người ư ông? Ông chủ Lộc Thọ gật đầu: - Đúng vậy, vì cậu Nhân kỵ tuổi với ông Yêu, nên mới xảy ra cơ sự như vầy. Thật tôi khổ hết biết… Bà vợ ông Yêu nghĩ ngợi, rồi kêu lên: - Hay ta nhờ ông Bác? Lúc xưa, chồng tôi với ông Bác rất thân nhau, hay tâm sự với nhau nhiều chuyện lắm… Nhân vui vẻ: - Đúng rồi. Vậy mà ta quên mất, ông chủ, mau cho người gọi ông Bác đi… Ông chủ Thọ Lộc lắc đầu: - Không được. Vì ông Bác tuổi hợi. Dần thân tị hợi tứ hành xung…đến cậu không nằm trong tứ hành xung, mà còn như vậy, huống chi là ông Bác. Vả lạ, ông Bác đang ngày nghỉ… Bà vợ ông Yêu rú lên thảng thốt: - Tôi nhớ ra rồi. Hồi trước, ông Yêu nhà tôi có kể cho tôi nghe lời giao ước với ông Bác. Nếu một trong hai người, tức là ông Yêu và ông Bác, ai chết trước, thì người còn sống phải chở người chết ra nghĩa địa… Nay ông Yêu chết, chỉ có ông Bác mới chở được….” Mục lục: Chuyến xe cuối cùng Cưới chồng cho người chết Hồn ma cô bán bưởi Ma tình kiếp trước Đám tang hoa hồng Hồn ma hoa ban trắng Ngôi mộ cổ ở chùa Già Lam Đứa bé bị chôn sống Hồn ma uống rượu Mất trinh từ kiếp trước Ngôi nhà có chín người chết. Mời các bạn đón đọc Chuyến Xe Cuối Cùng của tác giả Thạch Bất Hoại.
Bức Tranh Chết Chóc
Chuyện kể rằng 1 người họa sỹ ở Pakistan bị vợ phát hiện ngoại tình, bà ta quá buồn bã và tự tử. Sau khi vợ chết, ông ta vô cùng hối hận và ngày nào cũng ngồi vẽ hình bà ta trong phòng một mình. Sau hơn 1 tháng tự giam mình trong phòng, cuối cùng ông ta cũng đã hoàn thành xong bức tranh người vợ của mình, đồng thời lúc đó ông cũng ra đi mãi mãi vì kiệt sức... Bức tranh người vợ của ông ta mang một vẻ đẹp huyền bí, huyền bí nhất chính là đôi mắt bà ta, nó như long long ánh lệ, thể hiện một nỗi buồn sầu thảm của cuộc tình đau khổ giữa 2 vợ chồng. Ánh mắt ấy chính là ánh mắt của vợ người họa sỹ khi bắt gặp chồng mình ngoại tình. Chính sự kỳ bí đó, bức tranh đã được 1 người phụ nữ giàu có mua về. Bà ta rất thích bức tranh, luôn ngắm nhìn nó. Bỗng 1 ngày kia người ta thấy bà ta la hét kinh khủng, đập phá đồ đạc trong nhà và hét lên: "Bà ta đã về rồi, bà ta đã về rồi..."... Ngay sau đó, người ta đã đưa bà vào nhà thương điên. 1 ngày sau thì bà ta chết. Và rồi bức tranh tiếp tục được lưu truyền qua nhiều người: 1 họa sỹ , 1 người thợ may, 1 tỷ phú, 1 nhân viên lập trình,... và tất cả họ đều có tình trạng chung như người đầu tiên, đó là đều phát cuồng sau khi xem tranh và chỉ sau đó vài ngày là chết. Kể từ đó bức tranh đã được người ta vứt đi một nơi nào đó không biết đến. Cách đây 5 năm, khi xuất hiện trên mạng internet, bức tranh đã làm hơn 2.000 người chết mà trên desktop, trong tay có hình bức tranh này. Thế rồi, cơ quan bảo Nhưng thời gian gần đây, bức tranh ấy lại xuất hiện trên mạng và tình trạng trên lại diễn ra. Bức tranh này sau khi xuất hiện đã cướp đi mất hơn 999 bloggers chỉ sau 1 tháng... *** Truyện Kinh Dị Chọn Lọc:  Hồn Ma Báo Mộng Nghiệp Chướng Sợi Dây Thừng Người Chết Người Đàn Bà Của Bóng Đêm Bến Đò Biệt Ly Vết Xăm Ma Ma Tình Một Xác Hai Hồn Linh Hồn Trong Ngọn Nến Trò Chơi Ma Quái Tình Người Kiếp Rắn Trở Về Từ Kiếp Sói Chuyến Xe Cuối Cùng Đồng Xu Nhuốm Máu Bức Tranh Chết Chóc Chiếc Áo Khoác Trên Mộ Tiếng Khóc Trên Mộ Gốc Cây Mặt Quỷ Bóng Người Trên Biển Vắng ... *** Bức Tranh Chết Chóc Nhà Ông Thạnh ở ngay mặt tiền của đường phố lớn căn nhà sáu tầng lầu, sang trọng, đầy đủ tiện nghi. Bên dưới mặt tiền, lầu trệt, ông kinh doanh tranh ảnh, đèn quảng cáo... Còn lầu thượng, ông trồng hoa kiểng, nuôi chim và một bể cá cảnh... Ông là một đại gia của làng trang trí nội thất. Ông Thanh tuổi dần. Vì vậy, những người đối tác với ông, đều có vẻ lép vế. Họ thần phục ông. Tính khí người tuổi dần rất dữ dội. Vợ ông, bà Thìn, lại tuổi con heo. Người xưa nói: Dần Thân Tị Hợi tứ hành xung. Tuổi hai người xung khắc, nhưng không hiểu sao lại ăn nên làm ra. Bà Thìn lớn hơn ông Thạnh mấy tuổi rất đẹp gái. Họ có với nhau hai đứa con Bà Thìn rất sợ ông Thạnh. Phải dùng từ “sợ như sợ cọp” mới đúng... Mà ông Thạnh khéo dạy vợ. Ông nói gì bà cũng nghe răm rắp. Thậm chí khi bà Thìn có lỗi, còn bị ông phạt quì suốt đêm ngay chỗ giường ngủ. Chuyện này, người làm công trong nhà ông bà đều biết. Nói tóm lại ông Thạnh gia trưởng, độc đoán trong căn nhà sang trọng, ai cũng phải phục tùng ông... Vợ ông, khi ông gọi, hoặc sai bảo điều gì, rất mực lễ phép thưa gửi, và không bao giờ đám ngẩng mặt đối diện với chồng. Ông Thạnh có ba người bạn thân, cũng là dân làm ăn cả. Nhưng cả ba ông đều rất sợ vợ. Thế mới lạ. Ba người bạn đó là Đức, Hiển, Thuận. Một hôm, họ tụ tập ở nhà ông Thạnh, mừng vừa trúng một hợp đồng lớn. Rượu khui tràn ly Ông Thạnh ngồi cạnh vợ, hể hả: - Ở đời người xưa nói: Tề gia trị quốc, bình thiên hạ, còn tôi không có tài đó, tôi chỉ có tài dạy vợ, và làm ăn... Nhờ đó mới giàu có như hôm nay… Ông Đức tấm tắc: - Bác giỏi thật đấy. Còn tôi làm ăn được, có tiền, vậy mà bị sợ vợ, có khổ không cơ chứ? Ông Hiển xen vô: - Vợ mình, mình sợ, chứ có sợ vợ hàng xóm đâu? Ai không sợ vợ, thì đâu nên người… Ông Thuận tần ngần: - Nhưng mà sợ quá, như tôi cũng hỏng. Mà mình lại có thú sợ vợ mới chết chứ … Ông Thạnh cười mỉa: - Tại các ông không biết cách đó thôi. Để bây giờ cọp đủ lông cánh làm sao mà dạy? Măng không uốn, lấy gì uốn tre... Ông Thuận hỏi: - Thế bác làm cách gì mà giỏi thế, chỉ bí quyết cho em với? Ông Thạnh hể hả: - Đơn giản thôi, dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về... Vợ tôi, tôi nói cái gì cũng phải nghe răm rắp... Có phải vậy không em? Bà Thìn cúi mặt lí nhí: - Dạ, anh nói đúng. Vì anh là chồng, còn em là vợ vợ phải phục tùng chồng tuyệt đối... Ba người bạn tròn mắt, ông Thạnh tiếp: - Em đọc lời giáo huấn của Khổng Tử mà anh vẫn dạy em hàng ngày xem nào? Bà Thì run rẩy: - Dạ đó là câu: Tại gia tòng phu Xuất giá tòng phu Phu tử tòng tử Ông Thạnh gật gù: - Đó là tam tòng, thế còn tứ đức thì sao? Bà Thìn rưng rưng: - Dạ, tứ đức của người phụ nữ là công, dung, ngôn, hạnh ạ… Ông Thạnh vui vẻ: - Các chị đã thấy vợ tôi thanh minh trả lời chưa? Vợ là phải như vậy chứ, nếu không vợ là cọp cái, nó ăn thịt mình khi nào không biết. Nhắc đến chữ “cọp” bạn bè ông thạch la lên: - Hèn chi bác tuổi cọp là phải, mà bác thạch kiếm đâu ra bức tranh cọp to quá vậy, đẹp quá vậy? Ông Thạch phấn khởi: - Nó không phải là bức tranh cọp đơn thuần, mà nguyên cả xác cọp, được lồng trong khung kính… Giá trị của nó thì vô giá. Nhìn vào y như cọp đang ở trong khu rừng… Bộ tranh này tôi mua từ Đài Loan về. Ông Hiển gặt gù: - Đẹp quá, oai vệ quá, cọp chết để da, người ta chết để tiếng, cọp chết rồi mà làm các con vật khác nhìn thấy còn khiếp vía… Ông Đức trầm trồ: - Tuổi ông tuổi cọp, treo bức tranh này là hợp quá rồi. Ông Thạnh hể hả: - Bức tranh này không chỉ có trang trí đơn thuần, nó như vật thần tài. Từ ngày có bức tranh này, nhà tôi ăn nên làm ra thấy rõ. Thần cọp hộ mệnh cho tôi đó. Ông Thuận cười: - Hèn chi mà vợ ông sợ ong như cọp.. Còn chúng tôi cầm tinh con heo, con gà, cũng chỉ sợ vợ mà thôi.. A, này tôi có quen một tay thầy bói hay lắm, ăn nhậu xong, ta đi coi cho vui… Mọi người cùng ồ lên vui vẻ… Ông Thạch nói với vợ: - Em ở nhà phụ dọn dẹp giúp anh nhé. Lâu lâu, anh muốn thử xem vận mạng thế nào? Bà thìn chỉ biết ngoan ngoãn gật đầu… Ông Thuận dẫn ba người dạn đến một ngôi nhà chùa nhỏ, ở đó có một ông thầy bói mù, sau khi coi quẽ cho ba người là ông Thuận, Đức, Hiền…tất cả đều tốt đẹp, đến lượt ông Thạch, thầy bói ngạc nhiên: - Số ông là tốt lắm, giàu có, cai quản gia đình đâu ra đó. Nhưng mạng ông là mạng cọp. Sớm muộn gì cũng bị cọp vồ. Ông Thạch cười khùng khục: - Tôi mạng cọp, cọp phải bảo vệ em chứ? Sao lại vồ được, khoản này thầy bói sai rồi. Thầy nói nghiêm nghị: - Thiên cơ bất khả lộ, tôi chỉ biết đến thế mà thôi. Tin hay không tuỳ ông. Ba người ra về ông Thạch nhếch mép: - Đúng là thầy bói nói láo ăn tiền. Nhà mình ở thành phố, mà ông ta bảo mình bị cọp vồ, thật không thể tin được. Ông Thuận thanh minh: - Xưa nay, ông ấy ít khi đoán sai lắm... ở thành phố cũng có cọp vậy? Ông Thạnh nói: - Cọp ư? ở đâu? Ông chỉ cho tôi xem nào? Ông Thuận cười: - Thì ở sở thú chứ ở đâu.. Mà nữa, dạo này thú nuôi cọp đang phổ biến đó nghe.. Ông nên cẩn thận. Lần trước, có tay đến coi bói, ông ta bị thầy bói phán câu xanh rờn: số ông chết vì sông nước. Ông kia cười to: Tôi ở phố, làm gì mà chết vì sông nước.. Thế mà cuối cùng chết thật. Ông ta uống rượu say, về nhà nóng quá, xả vòi nước vào hồ tắm. Rồi chết ngạt trong đó. Ai nghe cũng kinh hoàng. Ông Thạnh gạt đi: - Thôi, bỏ chuyện đó, nghe chi tổ nhức đầu. Tiền buộc dải yếm bo bo, đeo cho thầy bói đâu lo vào mình... Tôi về đây, mệt quá rồi... Ba người chia tay nhau. Ai về nhà nấy. Người vẫn còn chếnh choáng vì men rượu. ° °     ° Ông Thạnh về nhà, nằm lăn ra ngủ. Bà Thìn đấm bóp cho chồng, tự nhiên lòng bà bùi ngùi. Bà biết ông Thạnh yêu bà, cưng chiều bà, nhưng ông đối xử với bà như một nô tì nhiều hơn là người vợ. Trưa nay để thể hiện quyền uy của mình với vợ, ông đã làm bà xấu hổ. Nhưng vì sợ ông, bà phải phục tùng. Mà bà Thìn sợ ông Thạnh thật. Rất sợ là khác. Mỗi lần nhìn ánh mắt lạnh lùng của chồng, là bà lại co rúm người lại. Người ta bảo bà cầm tinh con heo, còn chồng bà cầm tinh con cọp, Mà con cọp thì ăn con heo. Hồi xưa, khi còn yêu nhau, chưa nên vợ nên chồng, ông Thạnh đã bộc lộ bản tính gia trưởng, bắt bà phải luôn phục tùng ý nguyện của ông ấy. Và khi cãi nhau gì đó bao giờ bà cũng phải là người làm lành trước. Bản tính nhu nhược khiến bà nể sợ ông từ đấy... Khi nên vợ, nên chồng rồi, ông Thạnh đối với bà lại càng khắc nghiệt... Bà luôn khép nép, e dè trước ông. Nhiều lúc bà tự trách mình yếu đuối... Mà quả thật bà quá yếu đuối sống lệ thuộc vào ông. Về khoản làm ăn kinh doanh, ông Thạnh quả là tay giỏi giang. Từ tay trắng, ông tạo nên sự nghiệp. Bà Thìn không phải lo lắng gì về chuyện ăn uống, quần áo, đồ trang sức. Bề ngoài, ai nhìn vào cũng khen bà sung sướng, có chồng giỏi giang. Mà họ đâu biết nỗi khổ tâm của bà... Ông coi vợ như một đồ trang sức, hay đúng hơn là một nô tì. Phải công tâm mà nói, ông Thạnh chỉ mê làm ăn. Chuyện ngoại tình là không bao giờ có. Dù ông đẹp trai, nói năng lịch lãm, khéo ngoại giao. Tất nhiên là với người ngoài... Ông Thạnh có một thú vui kỳ cục, mỗi lần nghĩ đến, là bà Thìn lại đỏ mặt thẹn thùng. Dù bà đã là vợ của ông mười năm nay... Đó là ông thích lột trần truồng vợ ra, ngắm nghía, xăm xoi cơ thể của bà Thìn, hầu như ngày nào cũng vậy. Có lúc ông bắt bà quì xuống, loã lồ, úp hai tay sau gáy, y như bà đã phạm tội gì vậy... Bà thắc mắc: - Anh Thạnh, em đâu có lỗi gì với anh mà anh bắt em phải làm như vậy? Em là vợ của anh kia mà, chứ đâu phải là nô tì. Ông Thạnh hôn vợ âu yếm: - Thì anh thích như vậy, em cứ chiều anh đi. Đàn ông thú nhất là ngắm vợ mình, em không muốn vậy sao? Bà Thìn thẹn thùng: - Dĩ nhiên là em thích rồi, đã mười lăm năm nay, làm vợ anh, anh có bỏ sót ngày nào đâu... Thế anh không chán à? Ông Thạnh thích thú: - Vợ anh là báu vật của trời cho anh, làm sao mà chán được. Anh yêu em mà. Bà Thìn thở dài: - Nhiều lúc, em cứ nghĩ anh là con cọp dữ dằng giày vò con heo nhỏ. Nhưng mà em phải chấp nhận thôi. Vì em là vợ của anh, anh có toàn quyền với em... Ông Thạnh vui vẻ. - Em ngoan lắm, Thế mới là vợ hiền chứ. Bổn phận của em là hầu hạ chăm sóc chồng, em không phải lo lắng bất cứ điều gì cả... Và sau các cuộc nói chuyện, là những màn âu yếm cực kỳ nồng thắm, mà ông Thạnh dành cho bà Thìn. Ông Thạnh cựa quậy, chợt kêu rú lên: - Cứu, cứu tôi với. Cọp cọp nó vồ tôi … Mặt ông lộ vẻ hốt hoảng, mắt lờ đờ, bà Thìn lay chồng: - Anh Thạnh, anh làm sao vậy? Chắc tại say rượu quá mà. Ông Thạnh mở choàng mắt, mồ hôi vã ra như tầm... Ông thấy vợ bên cạnh, bình tĩnh trở lại... Bà Thìn lo lắng: - Có chuyện gì thế anh? Anh thất thần thế kia? Ông Thạnh lắp bắp: - Anh mơ một giấc mơ khủng khiếp quá, nghĩ lại còn toát cả mồ hôi. Bà Thìn hỏi: - Anh là người có thần kinh thép, ai cũng sợ anh, nhất là em, sao lại sợ giấc mơ nhỉ? Ông Thạnh thẩn thờ: - Em chưa biết đó thôi. Anh thấy anh lạc vào một khu rừng rậm, lối đi lại chằng chịt cây cối, anh đang loay hoay tìm đường đi ra, bất chợt có tiếng cọp gầm. Anh quay lại, muốn đứng tim vì sợ: một con cọp to tướng, mắt nhìn anh trừng trừng. Con cọp nói tiếng người. - Ông bạn, hôm nay ông sẽ là món đồ ăn ngon cho tôi. Tôi đói đã lâu lắm rồi... Anh rùng mình: - Trời ơi, con cọp nói được tiếng người. Ngươi là ma cọp hay sao? Con cọp gầm lên ghê sợ, nó xông vào, vồ lấy anh, anh cuống cuồng chạy trốn. Nhưng không kịp phút chốc thấy đầu mình bị đứt lìa, xác nằm chình ình ra một chỗ, con cọp nhai đầu anh ngấu nghiến... Lát sau, có con chó đen, nó kéo anh vào một góc ăn nốt phần thân còn lại... Mơ đến đó, anh bàng hoàng tĩnh dậy. Thật không hiểu ra sao nữa...'' Bà Thìn ngó chồng đăm đăm, nhìn ông Thạnh sao thấy tội nghiệp quá, còn đâu oai khí cửa một người chồng hùng dũng trong mắt bà.. Bà an ủi. - Ối dào, hơi đâu mà tin ở giấc mơ hả anh? Mạng anh là mạng cọp, nó phải phù hộ cho anh chứ? Ông Thạnh thở dài: - Biết là như vậy, nhưng hôm nay, anh tình cờ theo ông Thuận đi coi bói, lão thầy bói phán anh bị cọp vồ, thế có khiếp không cơ chứ? Bà Thìn cười rổn rảng: - Đúng là lão thầy bói đó nói bậy quá di, ở thành phố làm gì có cọp... Mà ở sở thú cọp người ta nhốt chặt mấy lớp chuồng, có gì sợ nữa.. Anh à, mai con nó đòi đi sở thú chơi, anh cho em và con đi nhé... Ông Thạnh rùng mình: - Nhỡ gặp con cọp sổng chuồng thì sao? Thôi em ạ ta ra biển tắm vui hơn... Bà Thìn thở dài: - Sao mà chồng em lại nhát thế? Tự nhiên đi sợ những thứ vớ vẩn. Nếu anh sợ, thì em và con đi một mình. Con nó thích đi sở thủ chơi chứ nó đâu có muốn ra biển. Ông Thạnh bị vợ trách, khí huyết sôi lên sùng sục: - Ừ, em nói đúng, việc quái gì anh phải sợ. Mai ta đưa con đi chơi... Bà Thìn vui vẻ: - Có thế chứ? Thôi, mình ngủ nghe anh, từ nãy đến giờ đấm bóp cho anh, em mệt lắm rồi... Ông Thạnh ôm vợ, âu yếm: - Muốn ngủ thì ngủ, nhưng phải cho anh yêu đã chứ? Bà Thìn lỏn lẻn: - Coi anh kìa, mới vừa mặt xanh như tàu lá, bây giờ lại đòi hỏi rồi. Anh muốn thì anh làm đi, em là vợ anh mà... Ông Thạnh lột trần truồng vợ ra, ngắm nghía, vẻ hả hê ông quên hẳn giấc mơ kinh hãi vừa rồi, chỉ biết vợ ông mà thôi, Bà Thìn quả là đẹp. Cặp vú no tròn, đùi thon dài, y như đùi các cô người mẫu. Dù đã ngoài ba mươi, nhưng vẫn còn rừng rực lửa tình. Ông Thạnh yêu vợ xong, lăn ra ngủ. ° °     ° Hôm sau, ngày chủ nhật, trời nắng đẹp. Ông Thạnh lấy xe hơi chờ vợ con đi sở thứ .. Hai đứa cơn ông tung tăng chạy nhảy rồi đến bên chuồng cọp trêu chọc. Con cọp cái giận dữ nhe nanh gầm gừ. Ông Thạnh hết hoảng: - Kìa hai con, đừng có chọc nó. Con cọp hung dữ lắm đó. Hai đứa bé cười ngặt nghẽo: - Cha ơi, nó đã bị nhốt trong chuồng rồi, có gì mà sợ nữa. Mà cha cầm tinh con cọp, sao lại sợ nó... Ông Thạnh lẩm bẩm: - Ừ nhỉ việc gì mà sợ. Ta thật lẩn thẩn, cứ bị giấc mơ ám ánh hoài. Ông đến bên con cọp nhìn nó. Con cọp thấy ông, ngó chòng chọc. Bất giác nó gầm rú man dại. Ông Thạnh thấy chóng cả mặt. Đôi mắt con cọp như phát sáng. Miệng nó gầm gào như nói: - Ta đợi ngươi đã lâu, mau đến nộp mạng cho ta... ngươi không thoát khỏi ta đâu. Ông Thạnh thất sắc rú lên, ôm đầu bỏ chạy cuống cuồng. Bà Thìn vội chạy theo chồng, dìu ông ngồi xuống ghế đá. Mọi người đi chơi nhìn họ, không hiểu vì sao ông Thạnh lại sợ hãi thế kia. Bà Thìn bần thần. - Anh Thạnh anh mệt à? Ngồi nghỉ mệt một lát. Con cọp đó có gì mà sợ kia chứ? Ông Thạnh thừ người ra: - Anh cũng không hiểu tại sao lại có cái cảm giác kỳ lạ vậy? Xưa nay anh đâu có biết sợ là gì? Bất chợt mắt ông trợn tròn. Cạnh ông, chỗ ghế đá ông và vợ đang ngồi, có con cọp đá, nó nhìn ông chòng chọc. Cái nhìn hớp hồn ông. Ông lắp bắp: - Đừng, đừng như thế... Khiếp quá... Bà Thìn lo lắng: - Cái gì vậy anh, hay anh mệt, suy nhược thần kinh quá rồi, ta đi bệnh viện khám thử sức khoẻ xem sao? Ông Thạnh chỉ con cọp đá, bà Thìn phì cười: - Anh mắc bệnh ''tự kỷ ám thị'' mất rồi, nhìn đâu cũng thấy cọp. Có việc gì đâu, nó chỉ là con cọp đá thôi mà... Ông Thạnh thở phào: - Vậy mà anh cứ tường là cọp sống chứ. Hết cả hồn... Bà Thìn chép miệng: - Anh bây giờ nên mang lốt thỏ thì hơn, chứ mang tính cọp ai lại sợ thế nhỉ? Ông Thạnh nghiêm nghị: - Em đùa với anh đó à? Em nên nhớ, em là vợ của anh, rõ chưa? Chẳng qua là vì ảo giác, nên anh mới như vậy? Mà anh đã nói rồi. Hôm nay đi sở thú là chiều em và con. Bà Thìn sợ sệt. - Em xin lỗi, anh đừng giận em, em luôn kính trọng anh mà. Ông Thạnh không nói gì, đôi mắt nhìn xa xăm. Hình như ông đang nghĩ về cái gì mông lung lắm... Bà Thìn tự nhiên linh cảm thấy điều gì chẳng lành. Chồng bà dạo này thật kỳ lạ. ° °     ° Đêm đó, ông Thạnh đang ngủ, thấy một người đàn ông hung dữ bước vào. Mắt ông ta loé sáng, tóc tai bờm xờm. Ông Thạnh rú lên: - Ông là ai, tại sao lại vào nhà tôi? Người đàn ông gằn giọng: - Ta là người đang truy lùng ông, mà ông lại còn có quyền hỏi điều đó à? Ông Thạnh lắp bắp: - Truy lùng tôi ư? Tôi có tội gì mà truy lùng? Người đàn ông trợn mắt: - Ta tìm ông để ăn thịt, chứ còn gì nữa mà phải hỏi? Ngươi hãy mở mắt nhìn cho kỹ đi. Phút chốc người đàn ông há miệng hoá thành một con cọp đực to tướng, mồm đầy máu. Ông Thạnh rú lên, vừng vẫy chân tay như bị trói chặt, miệng ông ú ớ Bà Thìn hốt hoảng: - Anh Thạnh, anh làm sao vậy, người anh như bị động kinh. Ông Thạnh giãy giụa hồi lâu, rồi mở mắt thao láo mổ hôi vã ra: - Tôi còn sống ư? Ai vừa kêu tôi vậy? Bà Thìn lo lắng: - Em gọi anh đó. Anh làm em sợ quá Khi không lại rú lên như người bị ai bắt hồn... Ông Thạnh đờ người ra: - Anh lại mơ bị con cọp vồ, em ạ. Con cọp đó nó hoá thành người đàn ông dữ tợn, đến bên anh, phút chốc hoá cọp, vồ lấy anh. Anh vợ quá, kêu rú lên, lúc đó em gọi anh dậy... Bà Thìn càu nhàu: - Chung qui cũng chỉ tại lão Thuận mà ra hết, tự dưng đang yên đang lành, lại dẫn chồng ta đi coi bói, để ông ấy sợ.. Ngày mai, ta sẽ mắng cho ông ta một trận. Ông Thạnh thở dài: - Lỗi đâu phải ông Thuận, em đừng có nói bậy! Có lẽ tại anh làm việc quá sức. Hay tại căn phòng mình có ma cọp? Bà Thìn gạt đi: - Anh đừng có nói vậy, thì bộ mình sống mười lăm năm nay ở căn phòng này đều có ma cả ư? Thế anh coi em là ma à? Ông Thạnh bần thần: - Anh đâu có nói vậy? Nhưng quả thật là anh lo lắng... Anh không hiểu ra sao nữa, anh không kiểm soát được hành vi của mình... Thôi, đêm nay em ngủ trong buồng, anh ra phòng khách ngủ vậy. Bà Thìn thổn thức: - Tuỳ ở anh thôi. Chứ anh cứ mộng mị hoài như vậy làm sao mà có sức khoẻ để làm việc… Ông Thạnh ra phòng khách, nằm trên bộ sa lông, bật đèn sáng trưng... Quả nhiên những cơn ác mộng biến mất, ông ngủ ngon lành... Hôm sau, ông thấy tinh thần sảng khoái. Ông hồ hởi nói với vợ: - Anh đã rõ căn bệnh của mình rồi. Tại anh suy nghĩ quá nhiều. Đêm qua ngủ ở đây, anh thấy khoẻ khoắn, không còn ác mộng nữa... Bà Thìn ngạc nhiên: - Vậy ư? Nhưng anh chỉ ở một đêm thôi nhé. Tối mai phải vào với em chứ anh để em cô độc một mình. Ông Thạnh cười: - Coi kìa cô vợ anh, càng ngày càng lấn lướt chồng rồi đó. Được rồi. Anh sẽ làm theo ý em. Nhưng hễ cứ vào căn phòng với vợ, là ông Thạnh gặp ác mộng càng ngày dữ dội. Còn khi ra sa lông ngủ, dưới bức tranh treo trên tường, bức tranh có hình con cọp là ông ngủ ngon lành, an giấc… Ông nói với bà Thìn: - Từ nay, anh sẽ ngủ ở sa lông này, khi nào cần sinh hoạt vợ chồng, anh sẽ đến với em. Em đừng ngăn cản anh nữa... Bà Thìn chỉ biết gật đầu, thở dài: - Thôi, tuỳ ở anh, anh là cuộc sống của gia đình này... Em phải chăm sóc anh. Ông Thanh cảm động: - Em luôn là người vợ tốt của anh... Anh yêu em... Sức khoẻ của ông Thạnh trở lại bình thường, tinh thần làm việc hăng hái, gia đình ông trở nên giàu có hơn. Ông nhìn bức tranh cọp, vui vẻ: - Tranh cọp, phải chăng ngươi là thần tài của ta. Có ngươi, ta cảm thấy yên tâm lắm. Chẳng ma qua nào có thể hù doạ được ta... Ông Thuận đến chơi, thấy ông Thạnh ngủ ở sa lông, đùa: - Sao vậy, ông Thạnh, bị vợ cấm vận à? Ông tự hào là người dạy vợ giỏi lắm kia mà... Bà Thìn càu nhàu: - Tất cả là ở lỗi của anh đấy, anh Thuận à? Ông Thuận ngạc nhiên: - Sao vậy, tôi đâu có làm gì để ông bà phải giận nhau? Ngược lại, tôi còn kính phục ông về cách dạy vợ đấy chứ. Bà Thìn dẩu môi: - Dạy vợ ư? Tôi có gì mà phải dạy, tôi luôn phục tùng chồng tôi mà. Tôi đâu dám trái lời ông ấy. Ông Thuận sửng sốt. - Thế sao ông ấy lại ngủ ở sa lông này? Thật khó hiểu. Ông Thạnh nhăn nhó: - Tại vì từ sau khi đi cùng ông coi bói đến giờ, tôi luôn gặp ác mộng. Ông Thuận hỏi: - Chuyện coi bói ấy à? Tôi đã quên rồi Thế ông gặp ác mộng ra sao? Bà Thìn cáu gắt: - Thì ông ấy luôn thấy bị cọp vồ! Khi ngủ với tôi, luôn gặp ác mộng, còn ra sa lông thì ngủ ngon lành Ông ơi, có phải tôi là con cọp dữ vồ ông ấy không? Ông Thuận cười hề hề: - Trời ơi, cái chuyện bói toán ấy mà tin làm gì. Mà chị Thìn này, càng ngày chị càng lấn chồng đó nghe. Cứ như là chị cầm tinh con cọp, còn ông ấy là tinh của con heo rồi. Mà cũng hay nhờ vậy, chị mới khẳng định mình chứ. Phụ nữ phải đôi lúc vùng lên sống sau cái bóng của chồng mãi sao được. Bà Thìn được khen lại phấn khởi, nhưng rồi lại ỉu xìu: - Nhưng tôi, tôi lo lắm anh Thuận ạ. Vì xưa nay chồng tôi đâu có gặp ác mộng bao giờ đâu. Ông Thuận cười xoà: - Thì phải lâu cứ cho ông ấy gặp ác mộng một vài bữa chứ. Có thế mới biết sợ. Đi đêm lâu ngày cũng phải gặp ma chứ. Ông Thạnh ngượng ngập: - Ông cứ đùa hoài. Mà cũng lạ ông ạ. Khi tôi ngủ dưới bức tranh này, y như được che chở, không gặp ác mộng gì hết. Ông Thuận tò mò: - Vậy à? Vậy bức tranh này hợp với ông, là thần hộ mệnh của ông rồi còn gì? Sao ông không đời bức tranh vào nhà trong, chỗ buồng ngủ ấy. Chứ chồng một nơi, vợ một nẻo, cũng ái ngại thật. Bà Thìn thẹn thùng: - Chuyện vợ chồng người ta, làm sao ông biết được. Thế ông tới đây, lại rủ chồng tôi đi coi bói à? Ông Thuận lắc đầu: - Không tôi quên chuyện đó rồi. Tôi tới thăm ông bà, vì lâu quá không gặp, có vậy thôi. Tiện thể, rủ ông đi uống vài cốc bia. Ông Thạnh xua tay: - Thôi, để hôm khác. Còn bây giờ, ở đây, tôi đãi ông một chầu. Lâu quá mình không gặp… Ông Thuận vui vẻ, đồng ý ngay, và cuộc nhậu tưng bừng. Ông Thuận ra về, ông Thạnh lên sa lông nằm ngủ. Bà Thìn đắp mền cho ông, rồi tắt đèn ngủ. Nửa đêm, bà Thìn nghe tiếng rầm rất mạnh, tiếng ông Thạnh rú lên đau đớn: - Trời ơi, chết tôi rồi... Bà Thìn hết hoảng chạy ra, bật đèn sáng. Một cảnh tượng khiến bà kinh khiếp. Cả bức tranh cọp to đùng đè xuống người ông Thạnh. Thân thể ông dập nát, máu mồm ộc ra. Ông đã tắt thở. Bà Thìn rú lên, rồi ngất lịm... ° °     ° Đám ma ông Thạnh diễn ra buồn bã. Bà Thìn ngất lên, xỉu xuống nhiều lần. Bà nức nở: - Anh Thạnh ơi, sao anh lại chết thảm như vậy? Bức tranh chết chóc này đã hại chồng tôi rồi… Mọi người ai cũng bùi ngùi. Chuyện ông Thạnh chết vì bức tranh trở thành lời đồn đại. Ai cũng nghĩ hồn ma con cọp đã giết chết ông ấy. Những cơn ác mộng mà ông Thạnh gặp, có lẽ là từ bức tranh cọp mà ra... Đúng là không ai thoát khỏi mệnh trời... Bức tranh sau đó bị đốt thành tro… Mời các bạn đón đọc Bức Tranh Chết Chóc của tác giả Thạch Bất Hoại.