Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mưa Trên Cây Sầu Đông - Nhã Ca

Cây sầu đông không biết có phải là một loại cây đặc biệt ở Huế không, tôi nghe người Bắc gọi là cây Xoan, người Huế gọi là Sầu đông, Thầu đâu hay có khi gọi Sầu đâu. Thân cây cao, có nhiều cành màu đen, khô, lá cây có khứa, nối chùm bằng những cọng nhỏ, hoa nhỏ, có cánh li ti màu tím nhạt, nhụy tím thẩm. Ở gốc cây, nếu bị vết sứt thường chảy ra một thứ nhựa trong màu vàng, có thể dùng để dán được. Bây giờ Huế đã đổ nát, đã tang thương. Tôi viết lại câu chuyện này để cùng những người bạn cũ và những cây sầu đông của Huế còn sống sót, nhớ tới một thành phố êm đềm thơ mộng cũ, những ngày cũ, với những giọt mưa rơi từ trên cây sầu đông. Sài Gòn năm 1968 *** Ánh mặt trời sau một mùa đông dài lẩn trốn, hôm nay hiện ra thật lộng lẫy. Hiện ra trên những mái ngói sạch bóng, trên những vườn cây xanh, hiện ra trên chiếc sân rộng giăng những hàng giây thép song song từ bờ rào đến miệng giếng, trên những hàng giây thép, những áo màu bay lay lắc đẩy đưa theo làn gió xuân nhẹ. Trước thềm nhà đặt đầy những chậu hoa thược dược, thằng Rọm đang ngồi lui cui thay mấy cây đại thọ vừa bị cắt bông để đem cắm vào bàn thờ buổi tối hôm trước. Sáng nay, có chị đàn bà gánh hoa từ trên Long Thọ xuống đi ngang qua nhà thật sớm, thằng Rọm đã gọi vào mua để thay thế những chậu cây cũ. Con Bông đang chạy ven bờ chè tàu, nhón gót hái những sợi tơ hồng non mướt đang giăng mắc trên bờ chưa ráo sương ướt. Ngoài ngõ có tiếng chuông xa xích lô bấm cong cong, thằmg Rọm dơ hai tay bẩn chùi vào đít quần rồi đứng dậy, lật đật đi ra cửa. - Ai? Thằng Đậu hở? Chi rứa? - Nì, xe cái bình sành ni vô. Bên cửa hàng bà biểu chở về đó. Thằng Rọm lạch bạch phụ với anh Đậu xính lô khiêng cái bình sành có hình nổi rồng phượng vô sân. Khi cái bình sành đặt nơi mái hiên rồi, anh Đậu xích lô hỏi thằng Rọm: - Răng, bà đem chậu sành về mần chi rứa. Thằng Rọm ngước mắt nhìn anh Đậu xích lô, nhăn mặt: - Chắc đám cưới bà đó, bà đem về chưng. Anh Đậu trợn mắt: - Nói thiệt hay nói chơi. Bà Phúc Lợi lấy chồng? Lấy ai rứa? - Lấy một người đàn ông. - Cái ông nị kỳ cục, ai giỡn, hỏi thiệt mà. - Thì tui cũng nói thiệt. Răng mà các người tò mò quá. Hỏi mần chi. Hỏi để đi ra bán cho cả làng cả nước biết hỉ? Anh Đậu dơ tay bịt miệng, vẻ hốt hoảng: - Bậy nờ, nhà bà từ lâu phúc đức, ai dám nói xấu. Hôm trước con vợ tui... Anh Đậu lại đưa tay che miệng. Nhưng thằng Rọm cười: - Vợ anh nghe chuyện nhà ni chớ chi? Thiệt tao nói cho mi biết con chó ăn cứt mà thơm, người ta ăn cơm mà thúi... Rồi không đợi anh Đậu nói thêm lời nào, thằng Rọm trở ra mấy chậu cây bông thọ đang trồng dở, ngồi xuống. Anh Đậu đội chiếc nón xích lô rách lên đi ra cổng: - Thôi tui về nghe. Thằng Rọm không trả lời. Nó bận bắt một con sâu màu xanh bám trên lá cây vạn thọ. Nó lấy hai ngón tay bóp con sâu nát bét rồi chùi lên quần. Khi đã trồng hết mấy cây bông, thằng Rọm lại lúi cúi tìm sâu tiếp tục bắt. Nó lượm được mấy con nữa, nó đặt trong vòng tay và cầm chặt lại. Thằng Rọm mãi tìm sâu không để ý đến Tỷ Muội mở cổng rào đi vào. Khi tới gần, thằng Rọm thấy bóng quần trắng loáng thoáng, nó mới ngẩng lên: - A, mi qua đó há? - Mần chi rứa ông thằng Rọm. Thằng Rọm phì cười: - Con ni hay hí? Kêu chi lạ rứa. Nhưng Tỷ Muội không để ý lời nói của thằng Rọm, nó chăm chú nhìn vào bàn tay thằng Rọm đang nắm chặt: - Cầm cái chi rứa. - Ni. Thằng Rọm dơ bàn tay lên rồi mở ra. Tỷ Muội kêu thét lên rồi lùi lại một bước. Trong lúc bàn tay thằng Rọm đầy sâu xanh, có con nằm ngay đơ, có con còn ngúc ngoắc muốn bò. Thấy mặt Tỷ Muội tái xanh, thằng Rọm dọa: - Sợ không? - Sợ, sợ ông thằng Rọm ơi, đừng dọa tui... tội tôi mà. Thằng Rọm cười xoà rồi bóp mạnh tay cho đám sâu bẹp dúm hẳn, lượm miếng lá chuối có rễ vạn thọ rũ sạch đất lau tay. Tỷ Muội đã hết sợ, nó hỏi: - Có ai ở nhà không? - Ai? - Ai nữa. Thằng Rọm cười: - Đang nằm trong buồng. Chắc ngủ chưa dậy. - Con quỷ ngủ dữ ác. Tỷ Muội bỏ thằng Rọm chạy vào nhà. Nó chạm phải bàn thờ bà ngoại của Đông Nghi, mấy cây đèn cầy sáp đang cháy dở và mùi nhang thơm nồng. Tỷ Muội nhìn lên tấm ảnh người đàn bà già, rồi chạy tuột vào một căn buồng nhỏ. - Nghi, Nghi. Ngủ chi dữ rứa. Tỷ Muội thấy Đông Nghi nằm trong giường, mùng màn chưa cuốn. Nó vén mùng chui tọt vào ngồi bên bạn. - Dậy, Nghi. Dậy nói chuyện ni cho nghe. Đông Nghi quay lại, mắt tỉnh khô. Nghi đâu có ngủ, nàng đã thức dậy từ lúc sáng sớm nhưng lười biếng nằm dài đó thôi. Nghe Tỷ Muội nói có chuyện Đông Nghi thở ra: - Nghe chuyện tao chưa đủ răng nghe chuyện người ta nữa? Tỷ Muội tiu nghỉu. Nó nhìn ra vườn, Đông Nghi ngủ mà không đóng cửa sổ. Nó nghe tiếng chim hót ngoài vườn và có tiếng cành lá lay động nữa. Nó hỏi bạn: - Đã móc võng lại chưa? - Rồi. - Ra vườn chơi đi. - Ừ, ra trước đi, đợi tao đi xúc miệng rửa mặt một chút. Đông Nghi nhảy ra khỏi giường, Tỷ Muội không đi mà ngồi đợi nơi chiếc ghế nhỏ. Nó thấy trên bàn của Đông Nghi những tờ giáy vẻ nhăng nhít còn bừa bãi. Trên bàn có thêm một đồ chơi mới, một con búp bê tóc vàng, chân dính vào một cái bục tròn, khi Tỷ Muội xoay, nó nghe thấy một điệu nhạc thật êm đềm. Một lát sau hai cô bạn đã ra ngoài vườn. Chiếc võng đã được giăng ra ở giữa cây sầu đông và cây hồng bì. Cây khế ngọt bị lẻ loi, Tỷ Muội nghĩ thế, và trước khi ngồi lên võng, nó vỗ vào thân cây khế và hái một đọt lá khế con cho vào miệng nhấm: - Lá non ngọt rứa thê mi ơi. Rồi nó nhìn quanh vườn: - Mau quá, mới đó mà mùa Xuân rồi. Đông Nghi im lặng. Mắt nàng nhìn mông lung vào những tàn cây xanh, những đọt lá non, những chồi đang hé. Ngày nào những giọt mưa trên cây sầu đông đã rụng xuống, vậy mà bây giờ, trên những cành khô, lá non đã xanh tươi, vẻ dửng dưng không nhớ nhung. Chính mình cũng đã quên hết rồi răng? Những điều đã nguôi ngoai thì quả là thật đúng. Tỷ Muội chợt nhìn thấy vẻ u buồn trên mặt bạn, nó lại tươi cười: - Nghi, đừng có khóc nghe. Đông Nghi mỉm cười choàng tay qua vai bạn. Nàng cảm thấy thương bạn ghê gớm. Tỷ Muội thật dễ thương, nó cũng bằng tuổi Nghi mà nó vô tư sung sướng quá. Đông Nghi nhìn khu vườn, hôm nay vườn cây đã mang một bộ mặt mới lạ hẳn. Những ngày mùa đông mưa mù trời đất như đã chìm vào giấc mộng xa xưa nào. Và Đông Nghi cũng thấy mình nhớn hẳn. Tay Nghi vẫn choàng qua vai Tỷ Muội. Tỷ Muội nép vào vai bạn: - Nghi nghỉ học luôn thiệt há? - Ừ. - Tụi nó nói Nghi đau Nghi nghỉ vài ngày. Đông Nghi cười, mắt mơ màng nhìn lên đọt cây: - Cô giáo có nhắc gì Nghi không? - Có, mấy cô hỏi thăm Nghi đau ra răng. - Mình có đau ốm chi mô. Tỷ Muội buồn bã: - Rứa là từ nay Muội đi học một mình. Đông Nghi nhìn vào mắt bạn, thấy mắt Tỷ Muội như rưng rưng sắp khóc. Đông Nghi cũng muốn khóc theo: - Thiệt mình không biết mần răng để cựa quậy nữa Muội ơi. - Răng chừ làm đám cưới. - Chắc vài tuần. - May áo mới chưa? - Tuần trước ba tui đi Saigon mua mười mấy chiếc áo dài, chưa kể áo cưới họ may. Tỷ Muội ngồi ngẩn ngơ. Đông Nghi cười lớn vỗ vào vai bạn: - Mi nghĩ là tao bằng lòng lấy thằng Khanh vì lẽ chi? - Mạ mi ép buộc chớ chi. - Không phải, vì tiếng đàn ghi ta của hắn, mùa xuân hắn đàn trở lại tao nghe và mê luôn. - Mê chi rứa? Đông Nghi ghé vào tai bạn: - Hắn có mùi hôi nách giống như con chi đó ở trường. Dù răng hắn cũng có mùi vị đặc biệt. Nói xong Đông Nghi rũ ra cười. Tỷ Muội cười theo nhưng thấy Đông Nghi vừa cười vừa chảy nước mắt ràn rụa, nó ôm chầm lấy bạn: - Nghi, Nghi đừng khóc. Đông Nghi đưa tay chùi nước mắt, vẫn chưa thôi cười: - Không, không, tao mô có khóc. Mi biết không? Khi tao đi lấy chồng mạ tao khóc, ông Bồ Đào khóc, thằng Rọm khóc, cây sầu đông khóc. Rồi không dừng được nữa, Đông Nghi òa khóc thật. Nàng ngồi im, nước mắt chảy như mưa lăn trên mặt lá cây. Tỷ Muội hốt hoảng định dỗ bạn, nhưng rồi nó cũng mũi lòng khóc theo bạn. Khóc một lúc, Đông Nghi nín hẳn. Như sau cơn mưa, cây cối sạch sẽ láng bóng, mặt của Đông Nghi trông rạng rỡ hẳn. Nàng nhìn cây sầu đông, những búp hoa như sắp bung nở. Không còn chi giống cảnh cũ nữa, sao mình vẫn còn đau lòng chuyện cũ? Đông Nghi ngơ ngác hỏi lòng mình, rồi nàng cầm tay bạn: - Hồi nớ Tỷ Muội nói chuyện chi lạ? - Chuyện con Trà. - Hắn mần răng? - Con Trà chửa hoang. Đông Nghi trợn mắt, bấu chặt vai bạn: - Thiệt không? - Thì nó nghỉ học cả tuần rồi, tụi nó đồn rầm rầm... Đông Nghi tự dưng mỉm cười. Thôi câu chuyện dành cho thành phố Huế đã ngã sang kẻ khác. Như vậy là Nghi thoát nạn. Nghi đứng dậy vươn vai, nhưng Tỷ Muội kéo bạn ngồi xuống. - Răng, chừ mi có muốn làm nổ thành phố Huế nữa không? Đông Nghi nhìn quanh khu vườn, mắt mơ màng: - Nổ à? Nó chưa nổ thì không trước thì sau nó sẽ nổ, nhưng tao không làm điều đó nữa. - Nếu nó nổ đi có tiếc không? - Tao thích Huế cứ như rì mãi. - Đồ mâu thuẫn. Đông Nghi hiền lành mỉm cười. Tỷ Muội đứng dậy, kéo tay bạn: - Đi vô đi, mình về. - Về mần chi? - Về học bài chớ. Bà quên tui còn đi học nữa. - Ừ hỉ. Đông Nghi thả tay bạn. Nàng đứng thẫn thờ, mình thì hết nữ sinh rồi. Hết nữ sinh thì mần răng làm nổ thành phố? Đông Nghi buồn bã: - Thôi mi về đi. - Không đưa tao vô hỉ? - Thôi Muội về học bài đi. Tỷ Muội cười và bỏ chạy, Nghi nói: - Mai rảnh đi đo áo mới với mình nghe. Hứa làm phù dâu thì phải diện nghe. - Dị òm. Tỷ Muội nói xong đã khuất sau những hàng cây. Còn một mình, Đông Nghi đi tới nơi cây sầu đông, nàng dựa vào thân cây mắt nhìn lên ngọn. Qua những cành cây xương xẩu và những tàu lá non mát, bầu trời xanh ngắt với những đám mây trắng nõn hiện ra. Những đám mây không bay mà đứng sửng, Đông Nghi bỗng thở dài, nàng đưa móng tay cào cào vào thân cây, bóc một mảng vỏ lớn. Đông Nghi nhớ lại thời còn thơ ấu, nàng hay lấy dao cạo thân cây để sáng ra thấy mủ sầu đông chảy ra, đọng thành những hình thù vàng trong xinh xắn. Đông Nghi đi tới một luống hoa, nàng hái một bông vạn thọ chà nát trong lòng tay. Mùi hoa vạn thọ hăng hắc, ngon ngọt làm Đông Nghi choáng váng. Hoa vạn thọ nhiều nhất là mùa Xuân, mỗi mùa Xuân mới có, và nó mới khoe đầy đủ hương sắc. Như cây sầu đông, mùa đông mới có mưa và có giọt lệ của chàng. Tuấn ơi, chừ anh đang ở đâu? Đang làm gì? Những ngày ở Huế chóng vánh nhưng có đủ kỷ niệm để chàng nuôi nhớ suốt đời không? Nhưng Nghi, Nghi sẽ nhớ suốt đời. Con gái Huế lãng mạn lắm, dữ dội lắm, vậy mà thành trì thành kiến vẫn vây chặt được. Năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, nếu không mọc cánh bay được một lần thì phải bán nắm xương tàn cho sông Hương núi Ngự. Đông Nghi cắn môi, nàng muốn khóc nhưng không thể khóc thêm được nữa. Bây giờ là mùa Xuân, mùa Đông chưa tới để mang những giọt lệ cho nàng. Nghĩ đến Tuấn, tim Đông Nghi đau nhói. Nàng ôm lấy ngực, mắt Đông Nghi hoa lên, rồi bao nhiêu cây cối như vừa quay ngược trước mắt nàng, Đông Nghi cố gượng chạy vào nhà. Vào tới sân, chân Đông Nghi vấp mạnh, rồi nàng lảo đảo muốn té. Đông Nghi lại gượng được, nàng mở bừng mắt, thằng Rọm như vừa ngã té xuống đất và đang lòm còm ngồi dậy. Hắn nạt: - Đi mô như bị ma đuổi rứa, khỉ. Đông Nghi khựng lại, nhưng rồi thấy dáng điệu của thằng Rọm, Đông Nghi không nín cười được, nàng cười phì. Thằng Rọm lại trợn mắt: - Cười nữa há. Ô cha, cái con ni cười chi lạ rứa hỉ? Đông Nghi đỡ thằng Rọm dậy: - Xin lỗi nghe. Rồi nàng mân mê mấy đóa hoa vạn thọ, màu vàng thẩm như ánh mặt trời ban mai chao nhẹ trong lòng nàng những nhớ nhung thơ ấu, màu vàng cũng nhắc nhở tấm lòng phụ bạc của nàng. Nghi chẳng phụ Tuấn là gì? Hình ảnh Tuấn chơ vơ giữa sân ga trống, mắt dõi theo chiếc xe cũ kỷ màu đen láng và bước chân chao hụt của chàng. Như thế là hết. Những lá thư ở xa gửi về không bao giờ Đông Nghi được đọc. Thằng Rọm thấy Nghi đang cười bỗng nhiên đăm chiêu, hắn gạt tay Nghi ra khỏi chậu hoa vạn thọ: - Ê, thả tay ra, gãy hết chừ. Đông Nghi chụm tay thằng Rọm. Rọm để yên bàn tay đen đủi của hắn trong tay Nghi nhìn chăm chăm rồi cười: - Ni lớn tồng ngồng rồi, sắp có chồng rồi, cứ làm như con nít con na. Rồi Rọm chỉ cái bình bằng sứ: - Mạ đem về bữa mô làm đám cưới đó tề. Không nghe Đông Nghi nói gì, thằng Rọm ngước nhìn lên, thấy hai giọt lệ đang lăn dài xuống má nàng. Thằng Rọm kêu: Nghi, răng khóc. Đông Nghi đã bỏ chạy vào nhà cánh cửa đóng lại. Buổi trưa hôm đó, Đông Nghi không ăn cơm, nàng khóc âm thầm một mình rồi ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy trời đã chiều. Đông Nghi nghe tiếng ông Bồ Đào nói chuyện với thằng Rọm ở nhà ngoài. Lát sau nàng đi ra, ông Bồ Đào nói: - Mặc áo đi con. Sang bên nớ mạ rồi ba chở đi thử áo hỉ. Đông Nghi ngoan ngoãn rửa mặt, thay áo. Buổi tối hôm đó, đi thử áo dài xong, Đông Nghi với mẹ và ông Bồ Đào đi ăn phở ở vườn hoa Nguyễn Hoàng. Nhìn qua bên kia sông, vườn hoa trước trường Đồng Khánh tối om, chỉ thấy lờ mờ vài đọt dừa cao và những cột điện nhấp nháy sáng sát mặt đường. Thấy cảnh cũ, Đông Nghi lại muốn khóc, nhưng nàng cố che bằng nụ cười, nàng hỏi mẹ: - Đám cưới con mạ có may áo mới không? Bà Phúc Lợi cười, đưa tay vuốt tóc con gái: - Có chớ, mạ may áo gấm đẹp lắm. Rồi bà nhìn ra mặt sông, giọng mơ màng: - Mặc áo mới chắc hôm đó mạ thấy vui lắm. Lâu lắm mạ không còn biết vui khi mặc áo mới nữa. Đông Nghi cúi đầu. Khi đưa đám ma người ta cũng mặc áo mới. Khi bà ngoại chết Nghi cũng có áo mới. Trong đời ta còn bao nhiêu áo mới nữa, sá chi cái cáo mới ngày cưới. Đông Nghi lặng lẽ ăn. Ông Bồ Đào ân cần: - Con thích đi Saigon không, ba cho đi vài ngày trước đám cưới. Mộtánh sáng loé ra trong đầu Nghi. Nhưng rồi tia sáng đó cũng tắt ngấm rất nhanh. Đông Nghi lắc đầu: - Con không muốn xa Huế nữa. Câu nói của Nghi làm cho ông Bồ Đào nhìn bà Phúc Lợi cười đầy ý nghĩa. Nhưng Nghi không nghĩ như họ, nếu lần này được xa Huế không bao giờ nàng còn trở lại nữa. Nghi biết Nghi cũng không còn can đảm dứt bỏ Huế khi không có Tuấn bên cạnh. Căn nhà giam thành kiến ở trong mọt thành phố đầy thành trì miệng tiếng, khu vườn nhốt tuổi thơ, rồi cây nhãn cây hoàng lan, cây bại hoại. Thôi ngoại ơi, con ở lại đây để hái hoa bại hoại cúng ngoại hỉ? Nhưng giá đám cưới muộn hơn để mùa hè này Nghi còn được tắm sông với Tỷ Muội, đi biển với Tỷ Muội hay hai đứa đánh thẻ, chơi ô làng bên Đò Cồn bẻ bắp nướng ăn. Thôi, mơ ước chi nữa, bầu trời con gái đã sụp đổ, tình yêu đã sụp đổ. Mười phương cũng đã hết chín phương, còn một đi lấy chồng. Đông Nghi nhìn mẹ, nhìn ông Bồ Đào, tại sao hai người không là vợ chồng được. Thành kiến, miệng tiếng đã chia rẽ mẹ, và mẹ lại tiếp tục đổ lên đầu con. Ta ở đây, mai một đẻ con đẻ cái, ta lại tiếp tục giữ trọn cái nề nếp cho cái nhà, cái vườn, ta sẽ thành bà mẹ khắt khe như mạ. Nhưng mạ tiếp tục sống như rứa mạ sẽ làm nổ tung thành phố đó. Nếu một mai bà vợ ông Bồ Đào nổi nơi tam bành. Nhưng Đông Nghi yên trí ngay, thành phố này là nơi mang tiếng trong nhà chưa rõ ngoài ngõ đã hay, không lý gì chuyện mẹ và ông Bồ Đào dấu kín mãi được. Nhưng nàng không đủ sức để tìm hiểu chuyện ai nữa, dù kẻ đó là mẹ nàng. Gió ở bờ sông thổi lên mát rượi, Đông Nghi nhớ lại đêm nào ngồi với Tuấn nơi ghế đá bên kia sông. Tóc nàng bay vào mặt chàng, hơi thở chàng phà ấm bên tai. Đông Nghi bỗng thấy nàng cô đơn, trống vắng như một kẻ đi xa trở về quê cũ vẫn còn nguyên từng ấy cảnh vật, nhưng sự xúc động xưa cũ đã chết mất rồi. Buổi tối hôm đó, ông Bồ Đào với mẹ lại bày bàn ra ngồi ở góc sân, nơi cây nhãn. Cũng người xưa cảnh cũ, bụi hoa nhài tỏa hương thơm nức. Và bà Phúc Lợi kêu, giọng ngọt ngào: - Nghi ơi, lấy nước trà ra cho mạ. Đông Nghi bưng nước trà ra, hương hoa nhài vẫn ngây ngất và nàng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn: Thì ra có gì thay đổi mô? Có chi mô, Đông Nghi đặt hai tách nước trà xuống bàn, nhưng mạ không bắt đứng quạt nữa. Nàng đi vào phòng mở cửa sổ. Song cửa ngắn đã được tháo ra và thay bằng song cửa mới, Đông Nghi không trông thấy gì ở ngoài vườn hết. Nhưng khi nàng đứng yên, tưởng tượng, nàng có cảm tưởng như những giọt nước đang rơi lốp bốp ngoài kia, không biết có phải phía ở cây sầu đông không. Mùa đông qua rồi. Nghi ơi, đợi ta với mùa đông nghe. Bao nhiêu nước mưa sẽ là nước mắt, và ta sẽ khóc với người. Nhưng cũng chả can gì hết, chả chết ai hết. Mùa Xuân cũng sẽ trở lại. Đông Nghi lục lọi tìm xấp thơ của Tuấn. Nàng để giữa phòng và châm lửa đốt. Ngọn lửa bùng lên soi rõ khuôn mặt của Đông Nghi với hai mắt mở lớn, khô lệ.   Mời các bạn đón đọc Mưa Trên Cây Sầu Đông của tác giả Nhã Ca.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phố Những Cửa Hiệu U Tối - Patrick Modiano
Sẽ chẳng bao giờ biết được Guy Roland đã tìm thấy gì ở số 2, phố Những Cửa hiệu U tối... Một địa chỉ tại Rome, địa chỉ cuối cùng, địa chỉ bí hiểm nhất trong số các địa chỉ mà người đàn ông mất trí này tìm đến. Guy Roland là nhân viên của một hãng thám tử tư do nam tước xứ Baltique Constantin von Hutte thành lập, von Hutte vừa nghỉ hưu. Guy Roland, trước thay đổi này, đã quyết định lần tìm về quá khứ để khám phá bí mật nhân thân mình. Anh vừa đoan chắc mình chính là “hậu duệ của một gia đình có tên hiển thị trên một vài cuốn Bottin thời lưu cũ” thì đã bị hướng ngay đến vết dấu của một Pedro McEvoy nào đó vốn là thư ký của một “tòa công sứ Nam Mỹ” từng sống trên phố Cambacérès, quận VIII Paris. Nhưng liệu đó có phải tên đi mượn của Jimmy Stern làm nghề môi giới và đã mất tích vào năm 1940 không? Và chuyện gì đã xảy đến với vợ anh, Denise Coudreuse, một người làm mẫu theo giờ, cũng cùng anh trốn đến Megève lánh nạn vì “Paris đang trở nên quá nguy hiểm”? Thoạt tiên, Guy Roland chỉ tiến hành điều tra trong thủ đô, rồi dần dà anh khôi phục được các mảnh ghép của cuộc sống trước đây của mình. Các mảnh ghép của một câu chuyện không chắc chắn cùng những nhân chứng tha hương, Freddie Howard de Luz, Oleg de Wrédé, Gay Orlow, Porfirio Rubirosa, André Wildmer, và những người khác. Các mảnh ghép của “một thời kỳ kỳ cục”, thời Chiếm đóng và săn lùng người Do Thái, lan đến tận Bora Bora, New York, Jouy-en-Josas, Vichy, và dĩ nhiên là Rome nữa. Phố những cửa hiệu u tối là cuốn tiểu thuyết thứ sáu của nhà văn Nobel 2014 Patrick Modiano, xuất bản năm 1978 và cùng năm đó được giải thưởng văn học Goncourt danh giá nhất nước Pháp. ***  Ta còn lại gì sau khi đã sống qua một đời? Vài bức ảnh ố vàng đựng trong mấy cái hộp bánh bích quy, đôi ba số điện thoại đã đổi chủ thuê bao, một nhúm chứng nhân đến lượt họ cũng tan như mây khói... rồi chẳng còn gì nữa, ta gần như không tồn tại. Nhưng liệu sống thì có ích gì khi ta không nhớ và nhớ thì có ích gì khi ta không sống? Những cuốn sách lớn, dù mỏng manh tới đâu, vẫn mang trong chúng một sức nặng ngầm ẩn. Phố những cửa hiệu u tối là một trong số đó.  Le Monde   - Một ngôn ngữ thoảng qua. Một sự giản đơn bí ẩn. Một thực tế hoàn toàn ảo mờ. Chỉ tài năng đặc biệt của Modiano mới có thể tạo ra được một Phố những cửa hiệu u tối  như thế. L’Express   Mời các bạn đón đọc Phố Những Cửa Hiệu U Tối của tác giả Patrick Modiano.
39 Manh mối tập 8: Mật Mã của Hoàng Đế - Gordon Korman
39 Manh mối là một bộ tiểu thuyết phiêu lưu được nhiều tác giả nổi tiếng của dòng fantasy cùng chắp bút. Qua từng cuốn sách, chúng ta sẽ cùng hai chị em Amy Cahill và Dan Cahill đến những đất nước khác nhau truy tìm 39 manh mối để sở hữu quyền lực vĩ đại nhất từng thấy. Bạn sẽ đắm mình vào cuộc phiêu lưu hồi hộp, tìm hiểu những câu chuyện hư hư thực thực về những con người nổi tiếng có trong phả hệ nhà Cahill như Benjamin Franklin, Mozart, hay Shakespeare... *Bộ sách còn được một số quốc gia đưa vào trò chơi trực tuyến với phần thưởng có giá trị. Mật Mã của Hoàng Đế là cuốn sách thứ tám trong bộ 39 Manh Mối, cuốn sách này được viết bởi Gordon Korman. Ông cũng là tác giả của tập 2 trong bộ sách này, Bí mật của Mozart. Sau cuộc tranh cãi nảy lửa với chị gái Amy, Dan bị nhà Kabra bắt cóc. Nellie và Amy đi tìm Dan, theo một Manh Mối dẫn dắt tới nhà leo núi thuộc nhà Tomas là George Mallory và vị Hoàng Đế cuối cùng của Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên Amy và Dan tách khỏi nhau – làm sao chúng có thể tìm thấy nhau giữa một đất nước có hơn một tỷ người? Mời các bạn đón đọc 39 Manh mối tập 8: Mật Mã của Hoàng Đế của tác giả Gordon Korman.
Đỏ và Đen - Stendhal
Stendhal là người mở đầu cho trào lưu hiện thực phê phán trong Văn học Pháp, song ngoại trừ Honore de Dalzac, ông không được các nhà văn cùng thời đánh giá cao. Mặc dù vậy, trải bao biến thiên thời cuộc, đến nay, vị trí của người có "Giọng điệu cá biệt nhất trong văn học từ trước tới nay" (như nhận xét của Valery) ngày càng thêm vững chắc. Cuốn tiểu thuyết "Đỏ và đen" của Stendhal hiện vẫn là một trong những cuốn sách bán chạy tại nhiều nước trên thế giới (hiện ở Trung Quốc, nó đã xuất hiện với 8 bản dịch khác nhau). Gần đây, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy cũng tiết lộ rằng, cuốn sách ưa thích nhất của ông chính là tiểu thuyết "Đỏ và đen" của Stendhal. Stendhal tên thật là Marie - Henri Beyle. Ông sinh ngày 23/1/1783 tại Grenoble, một thị trấn nằm ở miền Đông nước Pháp, cách biên giới Italia 100 km. Bởi mẹ mất sớm, bố có tư tưởng bảo thủ, ngay từ nhỏ, ông đã được giao phó cho một linh mục Gia tô kèm cặp. Chính sự hà khắc trong cách giáo dục của vị linh mục đã khiến trong trái tim thơ trẻ của ông luôn đầy ắp ác cảm với nhà thờ. Stendhal trưởng thành trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội, gắn với vai trò thắng - bại của Napoleon (Stendhal từng làm thư ký cho Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp - Italia thời Đế chế I). Sinh thời, mặc dù Stendhal thường phát biểu rằng việc viết văn với ông chỉ là một thú tiêu khiển, song thực tế ông đã dành rất nhiều tâm huyết cho việc sáng tạo. Tác phẩm đầu tiên ông viết tại Milan là một công trình biên khảo: "Tiểu sử của Haydn, Mozart và Metastasio" (1814). Ba năm sau, cuốn "Lịch sử hội họa Italia" được in thành hai tập. Năm 1827, tiểu thuyết đầu tay của ông ra đời, đó là cuốn "Armance". Khi Stendhal còn sống, cuốn ''Bút ký của một du khách" viết năm 1838 được coi là tác phẩm đặc sắc nhất của ông. Hai cuốn khác, "Laniel" và "Lucien Lenowen" chỉ được xuất bản sau khi ông mất. "Đỏ và đen" là cuốn tiểu thuyết trứ danh nhất của Stendhal, được xuất bản vào năm 1830. Tác giả dựa trên một sự việc có thật đăng trên nhật báo Tòa án từ ngày 28 đến ngày 31/12/1827. Tiểu thuyết có phụ đề "Ký sự của năm 1830" và lời đề từ: "Sự thật, sự thật cay nghiệt". Nhân vật chính của tiểu thuyết - chàng thanh niên Julien Sorel (có nhiều bóng dáng của Stendhal) là một người đàn ông giàu nghị lực và rất thông minh. Anh ta luôn nuôi dưỡng trong mình những ảo tưởng lãng mạn nhưng rồi cuối cùng trở thành nạn nhân của các mưu đồ chính trị. Stendhal dùng hình ảnh một người hùng bị thất bại để đả phá cái giả trá của tầng lớp quý tộc trong xã hội Pháp thời đó. Tiểu thuyết "Tu viện thành Parme" được xuất bản năm 1839, chỉ ít năm trước khi tác giả tạ thế. Và điều gì xảy ra sau đó? Ông viết "Đỏ và đen", "Tu viện thành Parme". Những tác phẩm cực kỳ tao nhã". Không biết có phải vì sự nhân văn, "tao nhã" này mà trong thời gian Giang Thanh lộng hành ở Trung Quốc, bà ta tỏ ra không thích "Đỏ và đen" của Stendhal. Và đó là một trong những lý do khiến nhiều độc giả ở đất nước đông dân nhất hành tinh này càng thêm tò mò muốn tìm đọc cuốn sách? Mời các bạn đón đọc Đỏ và Đen của tác giả Stendhal.
Bỉ Vỏ - Nguyên Hồng
Bỉ vỏ là tác phẩm đầu tay của Nguyên Hồng được Tự Lực Văn Đoàn tặng giải nhì năm 1937. Bính là cô gái nghèo làng Sòi. Vì nhẹ dạ, yêu một gã Tham đạc điền và bị hắn bỏ rơi giữa lúc bụng mang dạ chửa. Cô bị cha mẹ hắt hủi, đay nghiến và đứa bé sinh ra phải đem bán đi vì sợ làng bắt vạ. Đau đớn, Bính trốn nhà đi Hải Phòng mong tìm được người tình. Sau mấy ngày đêm lang thang đói khát, có lần suýt bị làm nhục ở một vườn hoa, Bính gặp một gã trẻ tuổi nhà giàu. Gã lừa cô vào nhà hãm hiếp và đổ bệnh lậu cho cô. Vợ gã bắt gặp, đánh đập Bính tàn nhẫn và lôi cô ra Sở cẩm, vu là gái đĩ. Thế là Bính bị đưa vào nhà “lục xì”, sau đó rơi vào nhà chứa của mụ Tài sế cấu. Sống ê chề cực nhục ở nơi bẩn thỉu hôi hám, Bính ốm nặng. Đau khổ, tuyệt vọng, Bính toan tự tử nhưng được Năm Sài Gòn, trùm lưu manh ở Hải Phòng, chuộc ra khỏi nhà chứa, đem về chăm sóc hết lòng. Nhưng rồi Năm bị bắt. Tuy túng bấn nhưng Bính nhất định không nhận tiền “bồi” (tiền bọn ăn cắp trích nộp “đàn anh”) mà sống bằng buôn bán lương thiện, hy vọng khi Năm trở về sẽ khuyên y từ bỏ cái nghề bất lương và nguy hiểm. Năm được tha nhưng dứt khoát không nghe lời khuyên của Bính. Thế là, bất đắc dĩ, Bính cũng bị lôi kéo vào con đường lưu manh, trở thành một “bỉ vỏ” – người đàn bà ăn cắp. Do một sự hiểu lầm và ghen tuông, Năm Sài Gòn đuổi Bính đi. Bính về Nam Định, gồng thuê gánh mướn kiếm ăn. Được tin bố mẹ ở gặp tai họa có thể bị tù, Bính không còn cách nào khác, đã phải nhận lời lấy một viên mật thám để có tiền gửi về cứu bố mẹ. Đang sống yên ổn nhàn hạ bên người chồng mới này thì một biến cố xoay chuyển cuộc đời Bính: Năm Sài Gòn bị bắt bởi chính tay người chồng Bính. Không chút do dự, cô đã lẻn xuống trại giam, mở khoá cứu Năm rồi cùng y đi trốn. Từ đó, Bính lại trở lại cuộc sống ngoài vòng pháp luật với Năm Sài Gòn, nhưng trong lòng vẫn day dứt khát khao cuộc đời lương thiện. Nhất là sau lần Năm giết Ba Bay, tên “đàn em” đã hớt tay trên của Năm một món “hàng”, Bính càng bị hối hận và sợ hãi giày vò. Cuối cùng, cái kết cục bi thảm đã đến: một lần, Năm cướp được một đứa bé đeo vòng vàng trên tàu thuỷ. Bính hốt hoảng nhận ra đó chính là đứa con mà bao lâu Bính nhớ thương, khắc khoải mong tìm lại. Nhưng nó đã chết! Giữa lúc đó, đội xếp, mật thám ập vào, Năm và Bính đều bị bắt. Chính người mật thám chồng Bính trước đây đã bước tới xích tay cô… Mời các bạn đón đọc Bỉ Vỏ của tác giả Nguyên Hồng.