Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phía Sau Tội Ác

"Cuộc sống lúc tốt đẹp thì rất dễ để hưởng thụ, nhưng giá trị chân thật của một con người lại được đo đếm theo cách người ta hành động khi gặp phải điều bất hạnh trong đời". Trước hôm Hội Trinh Thám tổ chức minigame để thắng cuốn sách mới xuất bản trong loạt sách về Amos Decker, Biển đã bỏ cả ngày tìm hiểu rất kỹ về tác giả David Baldacci, nhờ vậy biết thêm rằng cuốn “Phía sau tội ác” của ông ấy được xuất bản đã rất lâu, giờ trở thành sách cũ hiếm. Với lòng ưa thích nồng nhiệt dành cho truyện của Baldacci, Biển tìm mượn bằng được để đọc. Nhưng sách hay cũng như món ăn ngon, phải dè sẻn, ăn lâu hết để từ từ thấm nhuần cái ngon của nó, nên Biển ngâm cuốn này khá lâu, chờ khi tâm thân không ổn mới lấy ra đọc. “Phía sau tội ác” mở đầu hấp dẫn với cảnh người tù Rufus Harms sau 25 năm bị giam oan uổng trong nhà tù quân đội Fort Jackson thì đã liên hệ với luật sư của mình là Samuel Rider để lén gửi một lá thư đến Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Tiếc thay, xung quanh Rufus Harms có cả mạng lưới kẻ xấu theo dõi, nên khi Michael Fiske – thư ký ở Tòa án Tối cao – tình cờ đọc được lá thư và lái xe vượt cả quãng đường xa đến nhà tù để gặp trực tiếp Rufus, thì đó cũng là chuyến đi cuối cùng trong đời Michael. Sau cái chết không minh bạch của Michael, bạn của anh là Sara Evans – cũng là thư ký Tòa án – cùng với anh trai của Michael là John Fiske và một số người khác thuộc lực lượng hành pháp tiến hành điều tra. Sara và John sớm phát hiện rằng họ đang bị gây rắc rối nghiêm trọng bởi một số kẻ giấu mặt nguy hiểm, và tình hình càng tồi tệ hơn khi viên luật sư Samuel Rider cùng vợ cũng bị sát hại. Sau những cuốn Baldacci mà Biển đã đọc thì Biển thấy cốt truyện của ông thường phức tạp, nhiều tình tiết đan xen, không thiếu bước ngoặt bất ngờ. Nói theo kiểu truyện Tàu thì nhân vật chính thường bị “ngược”, bị đẩy vào tình huống oan uổng, bị kết tội phản bội đồng đội, bị truy nã… Và suốt diễn biến truyện thì họ phải vừa tìm cách chứng minh sự trong sạch của bản thân vừa đối phó bọn xấu, có khi còn phải giải cứu cả một tổ chức hoặc một quốc gia khỏi bị tận diệt. Cuốn nào cốt truyện đơn giản (như cuốn True Blue) thì nhịp truyện lại chậm và buồn ngủ. Vừa đọc đến chương II của “Phía sau tội ác” thì Biển thầm nghĩ cuốn này khá giống truyện của John Grisham, vì bối cảnh là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, nhân vật chính cũng toàn những người làm trong tòa án như chánh án, thẩm phán, luật sư, thư ký cao cấp của thẩm phán… Tuy cũng có nhiều đoạn Biển đọc lướt (nhất là những đoạn hội thoại hơi dài dòng và không hữu ích lắm đối với việc hiểu cốt truyện) nhưng phải công nhận “Phía sau tội ác” không buồn ngủ như một số truyện của John Grisham (xin lỗi người hâm mộ của John Grisham vì Biển nói truyện của ông buồn ngủ). Ý tưởng của truyện có phần mới lạ, lẽ ra sẽ rất bốc nếu Badacci viết ngắn gọn và kịch tính hơn. Tuy vậy, sau khi lược bỏ những đoạn dài dòng không cần thiết, chỉ tập trung vào cốt truyện thì Biển phải tấm tắc thừa nhận rằng đây là một cuốn trinh thám hay, đáng đọc. Nói đến trinh thám pháp lý thì người đọc sẽ lập tức nghĩ truyện có những cảnh cãi nhau trên tòa. “Phía sau tội ác” không có nhiều cảnh cãi nhau trên tòa nhưng vì hầu hết nhân vật làm việc trong ngành luật nên truyện nêu nhiều vấn đề liên quan đến luật pháp Hoa Kỳ. Biển nghĩ thông điệp mà tác giả David Baldacci muốn gửi gắm trong truyện là con người phải biết dùng luật pháp để đối xử công bằng và nhân văn đối với đồng loại, chứ không phải áp dụng luật khắc khe, cứng nhắc để dồn ép hãm hại người khác hoặc khư khư giữ cách làm sai trái của riêng mình. Truyện cũng đưa vào vấn đề phân biệt chủng tộc – màu da, tình thân và xung đột giữa các thành viên trong gia đình, những sự lựa chọn khó khăn để sống đúng với lương tâm của mình… “Phía sau tội ác” không phải một cuốn trinh thám mì ăn liền để đọc giải trí nhẹ nhàng mà phải đọc chậm rãi, nhớ kỹ tên + mối quan hệ giữa các nhân vật để đọc không bị loạn hoặc nhầm. Phần dịch thuật tốt, trình bày còn thô sơ nhưng rõ ràng dễ đọc. *** David Baldacci sinh ra và lớn lên tại Richmond, Virginia. Ông là người gốc Ý. Sau khi tốt nghiệp trường trung học Henrico, ông nhận bằng cử nhân Đại học Virginia Common Wealth và bằng luật của Đại học Virginia, sau đó ông hành nghề luật chín năm ở Washington, DC. Baldacci bắt đầu viết những câu chuyện khi còn là một đứa trẻ, ông sử dụng máy tính xách tay mà mẹ mua cho mình để ghi lại chúng. Ông đã viết hơn hai thập kỷ, chấp bút viết truyện ngắn và kịch bản phim nhưng không thành công lắm. Trong khi hành nghề luật sư, ông đã chuyển sang viết tiểu thuyết, tốn ba năm để viết Absolute Power, được xuất bản năm 1996, và đó là một cuốn bán chạy nhất lúc đó. Ông đã viết 25 cuốn tiểu thuyết best seller cho người lớn cũng như ba cuốn tiểu thuyết cho trẻ em. Baldacci và vợ ông, Michelle, là người đồng sáng lập của Wish You Well Foundation, trong đó hoạt động để chống nạn mù chữ ở Hoa Kỳ. Baldacci cũng đã tham gia National Multiple Sclerosis Society sau khi em gái của mình, tác giả Sharon Baldacci, được chẩn đoán mắc MS. [MS viết tắt của MULTIPLE SCLEROSIS: bệnh xơ cứng rải rác] Baldacci cư trú ở Vienna, Virginia với vợ và hai đứa con của họ. Tiểu thuyết của Baldacci đã được dịch ra hơn 45 thứ tiếng và bán ở hơn 80 quốc gia. Hơn 110 triệu bản của cuốn sách của ông được in trên toàn thế giới. Tác phẩm: Bộ Sưu Tập Tội Ác - David Baldacci Bí mật Núi sát nhân - David Baldacci Hoa Hồng Máu - David Baldacci Sát Thủ Lạnh Lùng - David Baldacci Truy Tìm Sự Thật - David Baldacci Tay Súng Cuối Cùng - David Baldacci Phía Sau Tội Ác ... *** Ở nhà tù này, cửa sắt thường dày tới hàng insơ(Đơn vị đo chiều dài Anh, bằng 2,54 cm - N.D). Khi mới ra lò ở nhà máy, chúng càng nhẵn nhụi bao nhiêu thì bây giờ càng mang trên mình nhiều những vết lõm ngang dọc bấy nhiêu. Dấu vết va đập của mặt người, của đầu gối, cùi tay, răng cùng những vệt máu khô in hằn khắp trên những bề mặt màu xám. Chúng giống như một hệ thống chữ tượng hình riêng của nhà tù, thể hiện nỗi đau đớn, sự sợ hãi và cái chết, tồn tại vĩnh cửu nơi đây, ít nhất cho tới khi những tấm sắt mới được mang tới thay thế. Mỗi cánh cửa đều có một ô vuông mở ra ngang tầm mắt. Trong những ca trực của mình, lính canh tù thường ghé mắt qua cái khoảng trống bé xíu đó rồi rọi đèn sáng chói vào những con vật hình người bên trong. Chẳng hề báo trước, những thanh dùi cui bất cứ lúc nào cũng có thể thình lình nện mạnh, kèm theo không bao giờ thiếu tiếng lách cách của súng lục. Giỏi chịu đựng là những tù nhân già đời, những kẻ dù có chú ý lắng nghe nhưng vẫn tiếp tục giả tảng nhìn xuống nền nhà, trông như đang trầm tư suy ngẫm chẳng về bất cứ điều gì bằng một thái độ bất chấp đầy tế nhị. Lũ "lính mới" vẫn luôn căng thẳng mỗi khi tiếng động hoặc ánh sáng đột ngột ập tới, một số kẻ còn són nước tiểu xuống chiếc quần cotton và đứng đó nhìn dòng nước chầm chậm thấm tới đôi giày bè bè màu đen bên dưới. Nhưng rồi tất cả đều sẽ qua, tất cả đều phải dần quen với tiếng sập mạnh của những ô cửa đáng nguyền rủa, tất cả đều học được cách kìm nén những giọt nước mắt trẻ con cùng những cơn đau quặn ở bụng. Nếu như còn muốn sống sót. Khi đêm xuống, bóng tối bao trùm khắp các xà lim, không quên tạo nên những hình thù kỳ quặc nhảy nhót trên các bức tường. Đêm nay đang có một cơn bão với sấm sét kèm theo mưa lớn trong vùng. Qua những ô cửa sổ nhỏ làm bằng kính plêxi, mỗi tia chớp chói sáng nhào xuống từ bầu trời lại rạch vỡ màn đêm trong xà lim thành muôn vàn mảnh sáng. Đi cùng với mỗi tiếng sấm, trên những bức tường đối diện lại loé lên hình ảnh phản chiếu của mạng dây kim loại nhằng nhịt hình tổ ong giăng kín phía ngoài tất cả các ô cửasổ. Trong cái ánh sáng chập chờn ấy, khuôn mặt một người đàn ông nổi lên trên nền tối như một mũi thuyền đột ngột rẽ đôi bề mặt nước. Không giống tù nhân trong các xà lim khác, anh luôn ngồi một mình, suy ngẫm một mình và không nhìn đến một ai. Các tù nhân khác khiếp sợ anh. Cả lính gác ngục cũng vậy, cho dù họ được trang bị vũ khí tận răng, vì anh là một con người có vẻ ngoài đầy hăm doạ. Khi anh đi qua những tù nhân hung đữ và chai cứng lì lợm nhất, tất cả đều phải nhanh chóng cụp mắt nhìn đi nơi khác. Tên anh là Rufus Harms, nổi danh ở nhà tù quân đội Fort Jackson này như một kẻ huỷ diệt, sẵn sàng nghiền nát bất cứ kẻ nào tấn công mình. Harms không bao giờ tấn công trước, nhưng luôn luôn là người kết thúc. Hai mươi lăm năm giam cầm trong tù để lại nhiều dấu ấn trên cơ thể anh. Giống như những vòng tuổi trên thân cây, những vết cào rách trên da, những chỗ gãy xương còn chưa lành hẳn như một cuốn niên giám minh chứng cho thời gian bị cầm tù của Harms nơi đây. Nhưng những tổn thương tồi tệ hơn thế lại chính là những ký ức, suy nghĩ, tình yêu, lòng hận thù, nỗi sợ hãi nằm sâu trong tâm trí. Tất cả đều nhơ nhuốc và thù địch với anh. Mạnh hơn tất cả, ký ức chính là khối u nhọt đau đớn nhất ngày đêm thúc vào từng thớ thịt trong Harms. Mặc dù vậy, đôi cánh tay dài đầy sẹo cùng đôi vai đồ sộ trong cái thân hình to lớn của Harms vẫn chứng tỏ sự tồn tại thực sự của một sức mạnh vững chắc. Ngay chỗ thắt lưng to lớn cũng đã đủ hứa hẹn một năng lượng khác thường trong anh. Harms vẫn như một cây sồi đứng nghiêng một phía, vươn lên mạnh mẽ với những rễ cây mọc chồi lên khỏi mặt đất, bất chấp nhiều cành lá bên trên đã hoặc đang chết. Con người anh là tổng hợp của những đặc tính trái nghịch nhau: một người đàn ông lịch thiệp, biết tôn trọng người khác, biết trung thành với Chúa và một kẻ giết người nhẫn tâm. Cũng vì thế mà lính gác ngục cùng đám tù nhân không dám dính vào Harms và anh vẫn từng bằng lòng với điều đó. Cho tới ngày hôm nay ! Anh trai anh đã mang tới một điều gì đó cho anh. Một gói vàng, một làn sóng hy vọng. Một con đường thoát khỏi nơi này. Một luồng ánh sáng loé lên làm lộ ra cặp mắt đỏ ngầu như đang chảy máu nhưng cũng không che giấu nổi những giọt nước mắt đang chảy dài trên khuôn mặt nặng trĩu và u ám của anh. Harms vuốt phẳng mảnh giấy khi bóng tối bao trùm trở lại, cố gắng không gây ra tiếng động nào vì những tiếng sột soạt sẽ chẳng khác gì lời mời chào lính gác ngục tới dò la tìm kiếm. Trời đã tối được vài giờ. Harms không thể đảo ngược được điều đó nhưng anh cũng đã kịp vừa đọc hết bức thư vừa nuốt lấy từng âm tiết. Mỗi từ ngữ như một cơn ớn lạnh cắt vào da thịt khiến anh phải rùng mình. Huy hiệu của Quân đội Hoa Kỳ in đậm nét ngay góc trên của tờ giấy. Harms quá quen với biểu tượng này vì đó là người chủ, người cai quản trại tù đối với anh đã gần ba mươi năm nay. Mời các bạn đón đọc Phía Sau Tội Ác của tác giả David Baldacci.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Được Minh Oan - Erle Stanley Gardner
Người ta bày ra một bữa tiệc nhỏ trên một con thuyền để bàn bạc những vấn đề mua bán một hòn cù lao. Nhưng mọi việc không suôn sẻ. Ngay sau đó một người bị ngã xuống nước và mất tích. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Jane Keller bước vào tòa nhà Ngân hàng lúc ba giờ kém năm phút và đứng xếp hàng trước một cửa giao dịch phía trên có treo bảng Gửi tiền và trả tiền - J-M. Một người mặc bộ com-lê màu xanh, đứng không xa cửa ra vào, hình như chỉ đợi dịp đó, lấy ở trong túi ra một chiếc ví đã xỉn màu vì đã dùng lâu ngày, và tiến lên về phía cửa giao dịch. Jane Keller đưa mắt lơ đãng nhìn chiếc đồng hồ treo trên tường. Bà ta có vẻ sốt ruột. Dòng người xếp hàng phía trước tiến bước một cách chậm chạp. Jane Keller lại phải nhìn đồng hồ một đôi lần nữa và chau mày. Người mặc bộ đồ xanh đã tiến lại gần bà, đó là một người khoảng bốn mươi tuổi, vẻ mặt hoạt bát và dễ bị kích động. Một nhà sinh lý học sẽ xếp ông ta vào loại những người đấu tranh, nhưng là loại người đấu tranh một kiểu riêng: những người này không ngần ngại đánh lén, nếu họ thấy chắc chắn bằng cách đó đem lại lợi ích cho mình. Người đàn ông lúc này đứng ngang với Jane Keller. Ông ta lấy ra năm tờ giấy bạc một trăm đô-la từ chiếc ví cũ đưa cho người đàn bà bên cạnh. “Đây, thưa bà Keller,” người đó nói. Những ngón tay của người đàn bà nắm lấy những tờ giấy bạc một cách máy móc. Sau đó một cảm giác ngạc nhiên, giống như một người đang ngủ bị đánh thức bất chợt thể hiện trên nét mặt. Bà ta nhấp nháy mắt. “Không, nhưng ông đừng phiền lòng!” một người nào đó càu nhàu với người đàn ông mặc bộ com-lê xanh. “Ông không thể xếp hàng như mọi người hay sao?” “Cái gì vậy?” Jane Keller hỏi. “Ông muốn cái gì ở tôi?” “Tôi là Scott Shelby,” người đàn ông trả lời rõ ràng. “Và số tiền này là tiền trả theo hạn trong 5 tháng của tiền thuê để được quyền khoan thăm dò dầu hỏa trên mảnh đất thuộc sản nghiệp của bà, được qui định trong hợp đồng thuê mướn. Ông Shelby nhờ tôi gởi cho bà.” Người ta có thể nói là ông ta đọc một bản tường thuật đã học thuộc lòng. “Bà hãy ký vào giấy biên nhận. Chỗ này, nơi đã đánh dấu… Đây, chiếc bút máy.” Vừa nói ông ta vừa lấy một cuốn biên lai, mở ra và đưa tới trước mặt Jane Keller. “Nhưng… Tôi không hiểu,” bà ta lắp bắp. “Ông Shelby không có lợi ích gì trong việc này… ông ấy đã khước từ sử dụng những quyền của mình…” “Không bao giờ!” “Nhưng đúng. Chắc chắn là như vậy! Việc này thể hiện ở chỗ đã nhiều tháng nay tôi không nghe thấy nói về ông ấy.” “Có thể là như vậy. Đó là tại sao tôi nộp cho bà 5 tháng tiền trả theo hạn, với một trăm đô-la một tháng. Đúng là như vậy, phải không ạ?” “Vâng!… Đó là cái giá đã thỏa thuận. Nếu ông ấy muốn giữ lấy quyền của mình, thì ông ấy phải nộp tiền hàng tháng.” “Ồ! Không!” Người đàn ông cười như thể một ông giáo nhận ra một trong số học trò của mình không thuộc bài. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #27 Người Được Minh Oan của tác giả Erle Stanley Gardner.
Cô Gái Có Vết Bầm Trên Mắt - Erle Stanley Gardner
Luật sư Perry Mason tiếp một cô gái tóc vàng tên là Diana Regis với một bên mắt bị đánh bầm tím, cô ta nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình vì cô bị người khác đánh và bị vu cho là ăn cắp... Từ đây, nhiều vụ rắc rối xảy ra, có một án mạng mà nạn nhân là bạn của Diana Regis. Cảnh sát nghi ngờ Diana Regis là thủ phạm vì có rất nhiều chứng cứ buộc tội cô ta. Một lần nữa, luật sư lại ra tay giúp cô gái và ông đã phát hiện ra nhiều bí ẩn đằng sau vụ án mạng này. Cô gái có vết bầm trên mắt sẽ mang đến cho bạn nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị với kẻ sát nhân không thể đoán trước cho đến khi đọc tới những trang cuối cùng. *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Perry Mason ra hiệu cho cô thư ký lại gần và nói sẽ: - Della, một cô tóc vàng với bên mắt tím bầm lúc nào cũng là một hình ảnh bất thường, trừ phi cô ta thuộc loại ‘quậy’. Cô ta có dáng như vậy không? - Tôi không nghĩ thế, - Della Street đáp – rõ ràng cô ta có mối lo sợ ghê gớm về một chuyện gì đó… Cô ta có giọng nói thật hay, hình như là được sửa giọng. - Đang ở phòng đọc sách à? - Vâng. - Ăn bận ra sao? - Giày đen, chân không tất, áo măng tô lông thú. Gấu áo ngủ lòi ra ngoài. Thế thôi, không còn gì trên người nữa. - Còn vết bầm? - Trông mà phát ghê. - Mắt phải hay trái? - Mắt phải. Cô ta có mớ tóc vàng nhạt, mắt xanh to, mi dài. Chịu khó trang điểm, có thể rất xinh gái nếu mắt không có vết bầm. Theo mắt ông nhìn thì ông đoán cô ta 22 tuổi nhưng theo tôi ít ra cũng 26. - Cô ta tên gì? - Diana Regia. - Cái tên thật kỳ quặc - Cô ta bảo tên cô ta đúng như thế. Dầu sao cô ta cũng đang ở tình trạng quá xúc động và hốt hoảng. - Mắt có đỏ không? - Tôi không để ý. Cô ta có dáng bồn chồn, lo lắng nhưng không phải loại phụ nữ mau nước mắt. Gặp trường hợp gay go, cô ta sử dụng trí óc nhiều hơn là nước mắt. - Thôi được. Tôi sẽ gặp để hỏi lý do gì cô ta tìm đến tôi. Ông mở cửa phòng đọc sách ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #25 Cô Gái Có Vết Bầm Trên Mắt của tác giả Erle Stanley Gardner.
Băng Cướp Thụy Điển
221 khẩu súng máy biến mất khỏi kho vũ khí quân sự quốc gia. Mười vụ cướp tàn bạo. Một quả bom phát nổ ở Nhà ga Trung tâm Stockholm. Không nhân chứng nào tường tận chuyện đã xảy ra, giới cảnh sát như bị bịt mắt, cả đất nước chìm trong hoảng loạn… Đó không chỉ là những tình tiết trong Băng cướp Thụy Điển mà chính là chuỗi sự kiện gây chấn động đất nước này hồi đầu thập niên 1990, và giờ đây tất cả được thuật lại sống động dưới ngòi bút người anh em trai của ba tên cướp lừng danh. Khắc họa rõ nét và chân thực từng vụ cướp khét tiếng, đồng thời cũng đi sâu vào mối quan hệ gia đình phức tạp nhưng khăng khít, Băng cướp Thụy Điển là một trong những tiểu thuyết tội phạm đáng đọc nhất năm nay.  “Hoàn toàn điên rồ, hoàn toàn liều lĩnh, và hoàn toàn xuất sắc...” - Nordjyske Stiftstidende  “Độc nhất và choáng ngợp. Một trong những tiểu thuyết lôi cuốn nhất của năm.” - Nhà văn Stephen Booth  “Một cuốn sách sâu sắc... miêu tả và phân tích tâm lý tội phạm vô cùng khéo léo và thuyết phục.” - Diversioni “Sự hòa hợp hoàn hảo của thực tế và hư cấu.” - Skanska Dagladet *** Từ xưa đến nay, bạo lực và giận dữ chẳng bao giờ giải quyết được vấn đề. Mahatma Gandhi từng nói “An eye for an eye only ends up making the whole world blind” (tạm diễn dịch: Nếu ai cũng báo thù bằng cách 1 mắt trả 1 mắt thì thế giới sẽ toàn là người mù). Bạo lực có thể nào xuất phát từ tình thương và sự che chở không? Nếu dựa vào thứ gọi là “tình cảm gia đình” mà tự cho mình cái quyền đối xử bạo lực với người thân thì Biển nghĩ hành động đó thật sai lầm, vừa hại mình vừa hại người, và chỉ đẩy mọi người vào cảnh chỉ còn thân thể tồn tại nhưng tâm hồn đã hoàn toàn mất đi. Đã lâu rồi mới có 1 quyển sách đem đến cho Biển nhiều cung bậc cảm xúc như thế. Tuy mới vài tuần trước, quyển “Trảng đất trống” của Robert Dugoni đã khiến Biển khóc 3 lần, nhưng chính quyển “Băng cướp Thụy Điển” này mới khiến Biển từ bất mãn, giận dữ chuyển sang thỏa mãn, rồi lại hoang mang suy tư đủ điều. Qủa thật, những quyển sách được viết bởi 2 tác giả có những nét rất đặc sắc so với những quyển được viết bởi 1 tác giả. Nếu như ở quyển “Dị chủng”, từng dòng chữ bình thường cũng đem lại cảm giác bất an bồn chồn, thì ở quyển “Băng cướp Thụy Điển”, từng chương sách đều khiến Biển cảm thấy 1 sự giận dữ ngấm ngầm. Tính ra thì Biển đọc quyển này suốt 3 tháng, từ tháng 3~5/2018, vì những đoạn đầu khiến Biển rất bất mãn & không muốn đọc tiếp. 1 người vợ bị chồng bạo hành, 1 người phụ nữ khác thì chấp nhận lìa xa con mình để sống chung / để yêu 1 người đàn ông, người mà đem đến cho cô nhiều ngày giờ căng thẳng hơn là những giây phút yêu thương và an toàn. Nhưng rốt cuộc Biển đã lướt qua cảm giác bất mãn ban đầu để theo dõi tiếp quyển sách, càng về sau câu chuyện càng lôi cuốn. Tuy đầu sách có 2 dòng mang tính chất rất đánh đố như sau “Điều này cũng chẳng lấy gì làm quan trọng. Nhưng cuốn sách này được viết dựa trên một câu chuyện có thật” thì Biển cũng không hoàn toàn tin là nó có thật. Nhưng dù có thật hay không thì đây vẫn là 1 câu chuyện rất ấn tượng. Tưởng như bạo lực tràn ngập các vụ cướp, nhưng cá nhân Biển lại tập trung vào những tình tiết mà tính nhân văn được hé mở, tập trung vào những khoảnh khắc mà sự thiện lương còn nguyên vẹn chưa bị đánh mất. Chính những khoảnh khắc ấy đã lôi kéo Biển tiếp tục đọc. Những câu chữ miêu tả tâm lý tuyệt vời, cứ như người đọc đang được ở cạnh và chứng kiến trực tiếp từng khung hình. Đọc xong quyển này và những quyển khác của các nhà văn Thụy Điển, Biển chợt tự hỏi : chẳng lẽ ở 1 đất nước thuộc Châu Âu văn minh lại có tỷ lệ tội phạm và bạo lực cao như vậy sao, hay đó chỉ là tiểu thuyết? Sách khá to, dày, đúng kiểu Biển thích. Bìa có màu sắc đẹp, thiết kế sáng tạo. Trình bày hoàn hảo, chữ in to rõ, dịch thuật rất tốt, không có lỗi chính tả hay lỗi đánh máy. Nhã Nam đã thành công rực rỡ khi xuất bản quyển sách này. Biển không thuộc loại thích khen 1 cách quá mức như thế này, nhưng Biển buộc phải khen quyển “Băng cướp Thụy Điển” này vì không có chỗ nào để chê. Biển cho điểm 10/10 vì đây là 1 siêu phẩm xứng đáng với mức điểm đó, nhưng nếu kết cuộc của nó lạc quan hơn thì Biển sẽ cho điểm cao hơn, khoảng 14/10. Đây là 1 quyển sách xứng đáng có trên kệ của các mọt sách nói chung và các mọt trinh thám nói riêng. *** Bà Ariadne Oliver đi với người bạn ở cùng, bà Judith Butler, giúp chuẩn bị một bữa tiệc cho các trẻ em trong vùng, diễn ra vào buổi tối hôm ấy. Khung cảnh hoạt động chuẩn bị lúc này hết sức rộn rịp. Các bà các cô hăng hái đi ra đi vào, người kê bàn, người giúp chuyển những chiếc ghế nhỏ, bê lọ hoa, và rất nhiều quả bí ngô đặt vào những chỗ được định sẵn một cách có chủ ý. Hôm nay là tiệc Hallowéen cho các vị khách độ tuổi từ mười đến mười bảy. Tách ra khỏi đám người hối hả trong phòng, bà Oliver đứng dựa vào bức tường trống, săm soi nhìn trái bí ngô khổng lồ trên tay. “Lần gần đây nhất tôi nhìn thấy bí ngô,” bà nói, tay khẽ vuốt những sợi tóc muối tiêu vương trên vầng trán cao, “là ở Mỹ hồi năm ngoái - cả trăm trái ấy. Bày khắp trong nhà. Đời tôi chưa thấy nhiều bí ngô thế bao giờ. Mà kỳ thực,” bà nói thêm, vẻ trầm ngâm, “tôi chẳng phân biệt nổi đâu là bí ngô và đâu là bí đao. Đây là loại nào nhỉ?” “Xin lỗi, bồ,” bà Butler vội nói khi vấp phải chân bà bạn. Bà Oliver càng nép sát vào tường. “Là lỗi của tôi,” bà nói. “Tại tôi cứ đứng quẩn chân, chắn lối mọi người đi lại. Nhưng hồi đó họ tổ chức cũng hoành tráng lắm, bao nhiêu là bí ngô, hay bí đao gì đó. Đi đâu cũng thấy, trong cửa hàng cửa hiệu, rồi thì từ nhà ra ngõ, khắp mọi nơi, người ta còn thắp nến hoặc đèn bên trong trái bí, hoặc buộc dây treo chúng lên. Hết sức vui mắt. Nhưng dịp ấy lại không phải trang trí cho tiệc Hallowéen, mà là Lễ Tạ ơn. Tôi thì cứ thấy bí ngô là lại nghĩ đến Hallowéen, tức là cuối tháng 10. Lễ Tạ ơn muộn hơn nhiều chứ nhỉ? Có phải tháng 11 không? Tầm tuần thứ ba của tháng 11 gì đấy? Dẫu sao thì, lại nói, Hallowéen là ngày 31 tháng 10 phải không? Đầu tiên là Hallowéen, rồi sau đó là gì nhỉ? Lễ Các đẳng linh hồn à? Ngày ấy ở Paris người ta đến nghĩa trang và đặt hoa viếng mộ. Cũng không phải ngày lễ buồn thảm gì đâu. Ý là, cả trẻ con cũng đi viếng nữa, và chúng thích thú lắm. Đầu tiên mọi người phải ra chợ hoa và mua thật nhiều nhiều hoa đẹp. Chẳng hoa ở đâu trông đẹp mắt bằng hoa ở Paris bán ở chợ ấy cả.” Các bà các cô hối hả qua lại, thi thoảng lại vấp phải bà Oliver, nhưng chẳng ai nghe bà nói. Ai cũng quá bận với công việc đang làm. Đa số họ là các bà mẹ, có một vài bà cô chưa chồng tháo vát; cũng có những cậu trai mười sáu mười bảy trèo thang hoặc đứng lên ghế để treo đồ trang trí, bí ngô hoặc bí đao, hoặc treo những quả cầu màu sắc sặc sỡ ở ngang tầm mắt; còn các cô bé mười một mười lăm tuổi túm tụm thành nhóm cười khúc khích. “Rồi sau ngày Các đằng và viếng mộ ấy,” bà Oliver lại tiếp tục, khẽ tựa người xuống tay vịn ghế sofa nhỏ, “là đến Lễ Các thánh. Tôi nói có đúng không nhỉ?” Không ai trả lời bà. Bà Drake, một phụ nữ trung niên quý phái, cũng là gia chủ tổ chức bữa tiệc, cất tiếng tuyên bố: “Tôi không định gọi đây là tiệc Hallowéen gì cả, dù tất nhiên, nó đúng là như thế. Tôi sẽ gọi đây là bữa tiệc Trên Mười Một Tuổi. Để chỉ độ tuổi người tham dự, hầu hết là những người sắp học hết trường Elms* và tiếp tục học lên các trường khác.” Elms là trường nội trú nam nữ ở Colwall, Herefordshire, Anh, dành cho trẻ em từ 2,5 đến 13 tuổi. “Nhưng gọi thế không chính xác lắm, có đúng không, Rowena?” cô Whittaker nói, tay chỉnh cặp kính không gọng trên mũi, ra vẻ không tán thành. Cô Whittaker vốn là giáo viên trường làng, rất kỹ tính về chuyện đúng sai trong lời ăn tiếng nói. “Vì chúng ta đã bãi bỏ chế độ trên mười một tuổi từ lâu rồi mà.” Bà Oliver đang ngồi tựa vào tay ghế vội đứng dậy, tỏ vẻ hối lỗi. “Nãy giờ tôi chẳng giúp được gì cả, toàn ngồi đây nói chuyện linh tinh về bí ngô với bí đao.” Và cho phép chân mình ngơi nghỉ một lúc, bà nghĩ thầm, lương tâm hơi có chút bứt rứt, nhưng lại chẳng đủ cảm giác tội lỗi để nói to suy nghĩ ấy ra. “Tiếp theo tôi có thể giúp gì đây?” bà hỏi, rồi chợt thốt lên: “Mấy quả táo này đẹp quá đi mất!” Ai đó mới bưng một tô lớn đựng táo vào đặt trong phòng. Bà Oliver vốn rất mê táo. “Táo đỏ đẹp quá,” bà tấm tắc khen. “Ăn không ngon lắm đâu,” bà Rowenda Drake tiếp lời. “Nhưng được cái trông đẹp mắt và hợp với buổi tiệc. Chỗ táo này là để cho bọn trẻ chơi trò dùng miệng lấy táo trong thau nước. Chúng khá mềm nên dễ cắn hơn. Bưng tô này vào trong phòng đọc sách được không, Beatrice? Trò cắn táo này lúc nào cũng làm nước bắn tung tóe khắp sàn, nhưng thôi kệ, thảm phòng đọc sách đằng nào cũng cũ rồi. Ôi! Cảm ơn cháu nhé Joyce.” Joyce, cô bé mười ba tuổi người rắn rỏi, hăng hái bưng tô đựng táo lên. Hai quả bị rơi xuống sàn và lăn tới chân bà Oliver thì ngừng lại, như thể có ai vẩy đũa phép điều khiển chúng vậy. “Bà thích táo mà, phải không,” Joyce nói. “Cháu có đọc được là bà thích táo, hoặc có khi cháu nghe trên tivi người ta nói thế cũng nên. Bà chính là người hay viết truyện trinh thám đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bà Oliver đáp. “Chắc phải mời bà làm gì đó liên quan đến mấy vụ án mạng mới được. Bà dựng một vụ án mạng trong buổi tiệc tối nay và cho mọi người phá án đi.” “Không, cảm ơn cháu,” bà Oliver nói. “Đủ lắm rồi.” “Là sao ạ? Sao lại đủ lắm rồi?” “Ờ thì, ta từng làm thế một lần, và kết quả không thành công chút nào,” bà Oliver nói. “Nhưng bà đã viết rất nhiều sách,” Joyce hào hứng, “bà kiếm được rất nhiều tiền nhờ đó phải không ạ?” “Ở một chừng mực nào đó,” bà Oliver đáp, tâm trí lang thang trở về Inland Revenue. “Và bà có một thám tử là người Phần Lan nữa.” Bà Oliver thừa nhận. Một cậu bé khác trông có vẻ lãnh đạm, bà Oliver đoán hẳn phải hơn mười một tuổi, nói với vẻ nghiêm nghị: “Sao lại là Phần Lan?” “Ta cũng thường tự hỏi như thế,” bà Oliver thành thực trả lời. Bà Hargreaves, vợ người đánh đàn ống ở nhà thờ thở hổn hển bước vào phòng, tay bê một xô nhựa lớn màu xanh lá cây. “Cái này thì sao,” bà nói, “để chơi trò cắn táo ấy? Có vẻ màu mè rực rỡ đấy, tôi nghĩ thế.” Cô Lee, người bán thuốc theo toa bác sĩ, đáp: “Xô mạ kẽm thì tốt hơn. Thế mới khó lật. Bà định đặt cái này ở đâu đây, bà Drake?” “Tôi đã nghĩ trò cắn táo nên tổ chức trong phòng đọc sách. Tấm thảm phòng ấy cũng đã cũ rồi, và thể nào cũng có nước vương vãi cho xem.” “Được rồi. Vậy để chúng tôi bưng xô này theo luôn. Rowena, đây thêm một giỏ táo nữa này.” “Để tôi giúp,” bà Oliver xăng xái. Bà nhặt hai quả táo dưới chân lên. Gần như quên bẵng mất mình đang làm gì, bà đưa một quả lên miệng cắn và bắt đầu nhai rau ráu. Bà Drake đưa tay giật lại quả táo thứ hai và đặt trở vào giỏ. Cả phòng dậy lên tiếng nói chuyện ồn ào. “Vâng, nhưng giờ biết tìm đâu ra hoa mõm sói?” “Bà phải có hoa mõm sói đặt trong phòng đọc sách chứ, đấy chắc là phòng tối nhất nhà rồi.” “Không, chúng ta phải đặt hoa trong phòng ăn.” “Ta phải phủ cái gì lên bàn trước đã.” “Bàn đã bọc một lớp vải len tuyết dài, rồi lại phủ một tấm cao su lên nữa.” “Thế còn các tấm gương? Chúng ta sẽ nhìn được các ông chồng trong đó chứ?” Len lén cởi giày và vẫn khẽ nhai miếng táo trong miệng, bà Oliver lại thả người trở xuống chiếc sofa nhỏ và chăm chú quan sát căn phòng đầy người qua lại. Lúc này bà bắt đầu dùng đầu óc nữ tác giả của mình để suy nghĩ: “Giờ thì, nếu mình định viết một cuốn sách về tất cả những người này, mình nên viết gì nhỉ? Họ đều là những người tử tế, mình nghĩ là vậy, nhưng ai mà biết được?” Một mặt, bà cảm thấy thật thú vị khi không biết gì về họ. Tất cả đều sống ở Woodleigh Common, vài người bà có biết đôi chút qua lời kể của Judith. Cô Johnson - hình như có liên quan nhà thờ, nhưng không phải là em gái của mục sư. À không, cô ấy là em người đánh đàn ống mới phải, đúng rồi. Rowena Drake, hình như chuyên chỉ đạo các hoạt động chung trong vùng Woodleigh Common này. Và cả người phụ nữ đang thở hổn hển sau khi bưng cái xô nhựa lúc nãy, một cái xô xấu đến phát gớm. Bản thân bà Oliver vốn chẳng bao giờ ưa nổi đồ nhựa. Rồi bọn trẻ con và các cô cậu tuổi choai. Đến bây giờ tất cả chỉ mới là những cái tên trong đầu bà Oliver. Cô bé Nan này, Beatrice này, Cathie, Diana này và Joyce, một cô bé khoác lác và hay hỏi lung tung. Mình không thích cô bé Joyce này lắm, bà Oliver thầm nghĩ. Cô bé kia tên là Ann, trông cao ráo và kẻ cả. Rồi hai cậu thiếu niên, hình như thích thử các kiểu tóc khác lạ, chỉ có điều kết quả không được tốt đẹp lắm. Một cậu bé người nhỏ nhắn rụt rè bước vào phòng. “Mẹ bảo cháu đem những tấm gương này đến xem có dùng được không,” cậu nói, giọng như hụt hơi. Bà Drake đón lấy các tấm gương: “Cảm ơn cháu nhiều nhé, Eddy.” “Chỉ là gương cầm tay bình thường thôi mà,” cô gái tên Ann lên tiếng. “Có thật bọn cháu sẽ nhìn thấy mặt chồng tương lai trong đó không?” “Có đứa sẽ thấy, có đứa không,” Judith Butler đáp, vẻ bí hiểm. “Bà đã bao giờ thấy mặt chồng mình khi đến một bữa tiệc chưa ạ - ý cháu là những bữa tiệc như thế này này?” “Tất nhiên là chưa rồi,” Joyce đáp thay. “Có lẽ bà ấy đã thấy rồi,” Beatrice lên giọng kẻ cả. “Cái đó người ta gọi là giác quan thứ sáu,” cô bé nói thêm, giọng hài lòng vì mình thông thạo những từ ngữ hợp thời. “Cháu đã đọc truyện của bà,” Ann nói với bà Oliver, “The Dying Goldfish. Cuốn đó hay đấy ạ.” cô bé lịch sự tán dương. “Cháu lại không thích cuốn đó,” Joyce lên tiếng. “Không đủ máu me. Cháu thích những vụ án đổ máu thật nhiều ấy.” “Thế thì hơi bẩn,” bà Oliver nói, “cháu không thấy vậy sao?” “Nhưng rất ly kỳ,” Joyce đáp. “Cũng không hẳn,” bà Oliver nói. “Cháu đã chứng kiến một vụ án mạng đấy,” Joyce la lên. “Đừng có ăn nói hàm hồ vậy chứ, Joyce,” cô giáo Whittaker lên tiếng. Mời các bạn đón đọc Băng Cướp Thụy Điển của tác giả Anders Rosluno & Stefan Thunberg.
Án Mạng Tiệc Hallowe'en
Trong lúc mọi người chuẩn bị buổi tiệc Hallowe'en dành cho những đứa trẻ từ 11-17 tuổi trong vùng tại Biệt thự Vườn Táo của bà Rowena Drake - một phụ nữ vừa giàu có vừa thích những hoạt động cộng đồng, có tài tổ chức lẫn thích chỉ huy người khác - thì cô bé Joyce 13 tuổi huênh hoang rằng mình từng chứng kiến một vụ giết người. Chẳng ai tin vì cô bé Joyce này nổi tiếng "nổ" và dựng chuyện. Tuy nhiên, sau khi buổi tiệc diễn ra hết sức vui vẻ thành công, người ta phát hiện Joyce bị dìm đầu vào một xô nước chết. Hercule Poirot được mời tới truy tìm hung thủ. Với lập luận phá án: có phải đúng vì Joyce từng chứng kiến và kẻ giết người có mặt trong số khách khứa nghe được nên ra tay giết cô bé diệt khẩu không? Thế thì chắc chắn trước đó phải có án mạng từng xảy ra trong vùng. Poirot lần lại quá khứ, hóa ra một cộng đồng vùng quê nhỏ những tưởng là yên bình như thế lại từng có rất nhiều vụ giết người, mất tích, âm mưu chiếm đoạt thừa kế... đều chưa tìm ra thủ phạm. Những tội ác đã xảy ra đó liên quan thế nào đến cái chết của Joyce? Trong lúc Poirot đang lần dò trong mớ rối rắm những tình tiết kỳ lạ, bí ẩn thêu dệt thì một cái chết nữa xảy ra: lần này là đứa em trai 11 tuổi của Joyce.  Ngay khi vị thám tử tài ba bắt đầu lóe ra tia sáng đầu tiên về [những] kẻ đứng đằng sau tất cả vụ việc thì cũng là lúc nạn nhân mục tiêu thực sự - một đứa trẻ khác nữa - rơi vào tầm ngắm của kẻ giết người. Poirot có cứu được đứa trẻ này không, hay phải mất thêm một mạng sống nữa mới đưa được thủ phạm ra ánh sáng?  Trong một cái kết thực sự hấp dẫn và bất ngờ, không chỉ sát nhân bị lật mặt mà những tội ác từng xảy ra liền lạc lại do một dã tâm không hề có nhân tính. Mời các bạn đón đọc Án Mạng Tiệc Hallowe'en của tác giả Agatha Christie.