Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF Thiền sư Khương Tăng Hội - Sơ tổ của Thiền tông Việt Nam và Trung Hoa

Thiền sư Khương Tăng Hội, người đầu tiên mang đạo Phật vào Trung Quốc và Việt Nam!. Đạo Phật truyền vào Việt Nam bằng con đường hàng hải. Đây chính là thể thức giao tiếp, của các nước lân cận thời ấy. Người dân qua lại, giao hảo bằng những đoàn thương thuyền, để trao đổi hàng hóa cần dùng như, tơ lụa, quế, tiêu, các vật dụng hàng ngày. Trên những đoàn thương thuyền ấy, đã mang theo các nhà Sư Ấn Độ, để họ tụng kinh cầu nguyện sự bình an. Đây là quan niệm và cũng là niềm tin tôn giáo, được khẳng định một cách tích cực, trong những sinh hoạt hàng ngày, của dân hàng hải thương nghiệp này. Từ đây, chúng ta hiểu được rằng, đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam, từ thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch. Con đường hoằng pháp của chư Tăng đơn giản, không nhu cầu, phương tiện to tát, mà chỉ được xem như là người thương lái trong đoàn hàng hải, nhưng họ có một niềm tin kiên cố. Chư Tăng có thể tụng kinh, niệm Phật thắp hương, đốt trầm trên những con thuyền đó. Nếp sống tâm linh ấy, đã in sâu vào tâm thức người dân Ấn Độ. Đời sống tâm linh này, đã được sinh hoạt thường nhật, dù nơi quê hương Ấn Độ hay Việt Nam thời bấy giờ. Chính vì sự sinh hoạt tâm linh này, mà người Việt Nam mới biết đến đạo Phật. Ngoài tinh thần văn hóa Phật giáo, người Việt Nam cũng đã học thêm được nhiều điều khác, của nền văn hóa dân gian, cách trồng cấy, lương thực, thảo dược, y học, vân vân, nhờ vậy mà đời sống xã hội, đã có một bước tiến xa hơn.Trong những đoàn người thương lái ấy, có Thân phụ Tổ Sư Khương Tăng Hội, đã đến Giao Chỉ, lưu lại và lập nghiệp nơi đây, có lẽ vì tìm ra vùng đất mới thích hợp, cho nếp sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc, thân sinh Ngài đã lập gia đình với một người phụ nữ Việt. Năm Ngài 10 tuổi, cả hai bậc sinh thành đều khuất núi, kể từ đó Ngài chịu cảnh mồ côi. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng hẳn là có túc duyên, nên Ngài quyết chí xuất gia, tu học đạo giác ngộ, mà chính Thân phụ Ngài thuở sinh tiền cũng đã tu tập, trong vai trò người cư sĩ Phật tử. Sự hiện diện của Ngài trong bối cảnh lịch sử thời ấy, đã minh thị một cách hùng hồn rằng. Cây Phật Giáo Việt Nam đã ăn sâu mọc rễ vững chắc, trên mảnh đất Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3, sau Tây Lịch. Qua giá trị lịch sử ấy, đã cho ta cái nhìn tường tận và hiểu biết chính xác, để biết rằng Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam, sớm hơn Phật Giáo có mặt trên đất nước Trung Quốc!. Phật Giáo Việt Nam, tiếp nhận trực tiếp từ Phật giáo Ấn Độ, Ngài Khương Tăng Hội đã đi tu từ năm mười tuổi, và khi trưởng thành, Ngài đã mang tinh thần Thiền học Việt Nam, sang truyền giáo nơi vùng Giang Tả, thời Ngô Tôn Quyền xưng Đế. Ngài mở cuộc Đông Du, vào năm Xích Ô thứ mười, mới đến Kiến Nghiệp. Ngài dừng chân tại đây, lập ngôi nhà tranh trú ngụ, dựng tượng Phật để thờ, và bắt đầu cho công trình hoằng pháp.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

PDF CỬA VÀO PHONG TỤC VIỆT NAM (KHÔNG BÁN RA BÊN NGOÀI) - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
CỬA VÀO PHONG TỤC VIỆT NAM (1974) - Tài liệu học tập về Văn Minh Việt Nam dành cho sinh viên Đại học Văn Khoa Sài Gòn (KHÔNG BÁN RA BÊN NGOÀI)
PDF Kinh Thư Diễn Nghĩa - Lê Quý Đôn
Kinh thư diễn nghĩa (Giảng nghĩa Kinh Thư) của Lê Quý Đôn, gồm 3 quyển, đã được khắc in, có tựa của tác giả đề năm 1772.Kinh thư còn được gọi là Thượng thư (nghĩa là “Lịch sử thời thượng cổ”), cuốn sách ghi chép chính sự, tương truyền do Khổng Tử soạn ghi lại và chia làm 100 thiên, chép sử từ thời Đường Nghiêu đến thời Tần Mục công, để giảng dạy cho học trò. Nhà Tần đốt sách làm cho một số thiên của Thượng thư bị mất. Nay chỉ còn 58 thiên.Trong quá trình “diễn nghĩa” Kinh Thư, Lê Quý Đôn đã đề cao những giá trị của nó như tưởng thương dân, trọng dân, đòi hỏi các vua chúa, quan lại phải nuôi dân, dạy dân, cứu dân, phải chăm chỉ, tiết kiệm, khiêm tốn, lắng nghe nguyện vọng và tiếng nói của dân, phải biết tôn trọng sử dụng nhân tài, không sa hoa lãng phí của cải, vì đó là mồ hôi xương máu của dân… Khi dân đã không sợ chết nữa thì triều đại, chính quyền sẽ sụp đổ…Bằng những dẫn chứng sinh động lấy từ sách sử Trung Quốc như Tả truyện, Sử ký, và Sử liệu Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, ông đã chứng minh những “bài học” đó là đúng. Phép chứng minh này là điểm đặc sắc chỉ có ở nhà học giả nổi tiếng Lê Quý Đôn.
PDF Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư - Hi Di Trần Đoàn
Tử vi đẩu số toàn thư (1973)Tác giả: Hi Di Trần ĐoànDịch giả: Vũ Tài LụcCuốn sách này được làm thành, đại bộ phận dịch từ tập : Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh do La Hồng Tiên biên soạn, do nhà xuất bản Trúc Lâm An Thư Cục ấn hành tại Đài Loan. Phần bình chú qua tham khảo các sách Tử Vi Xiến Vi của Trương Huy Văn, Chiêm Tinh Thuật của Hoàng Tiểu Nga, Mệnh Lý Huyền Vi của Vô Nhai Cư Sĩ, Trích Thiên Tuỷ của Lưu Bá On, Mệnh Lý Giảng Nghĩa của Vi Thiên Lý, Hám Long Kinh của Dương Quân Tùng, Tạo Hoá Nguyên Thược của Nhiệm Thiết Tiều, Mệnh Lý Chính Tôn của Thần Phong Khảo, Uyên Hải Từ Bình của Từ Tử Bình, Quỷ Cốc Toán Mệnh Thuật … Phần phú nôm để đối chiếu, chúng tôi trích dẫn từ việc ghi chép công phu của Tử Vi Ao Bích của Việt Viêm Tử và Tử Vi Thực Hành của Dịch Lý Huyền Cơ.
PDF Không gian N chiều là gì
Không gian n chiều là một trong những sáng tạo quan trọng vào bậc nhất của các nhà toán học. Nhờ có nó mà khoa học có thêm một công cụ nghiên cứu đắc lực. Bọn duy tâm phản động thì đã từng lợi dụng thành tựu khoa học này đề nói đến những « chiều » mà chỉ có các đấng thần linh mới nhận thức được. Còn những người hiểu biết ít về toán học thi, tuy không tin bọn duy tâm, nhưng cũng thường băn khoăn về các «chiều » thứ tư, thứ năm v.v...Bởi vậy, chủng tôi viết quyền sách nhỏ này nhằm phổ biến thành tựu khoa học nói trên cho những người có trình độ toán kớp 10. Quyền sách có thể phục vụ các đối tượng sau đây:- Các đồng chí giáo viên toán cấp II có thể đọc nó đề nâng cao thêm hiểu biết và do đó sâu sắc hơn trong việc học tập và giảng dạy toán học.- Các đồng chí giáo viên toán cấp III cũng có thể tìm thấy ở đây những kiến thúc mới mà lúc ở trường Đại học kiêng có thì già trình bày; ngoài ra các đồng chỉ có thể sử dụng làm tài liệu ngoại khóa cho học sinh giỏi lớp 10.– Các đồng chí làm công tác triết học có trình độ toán khoảng lớp 10, có thể qua quyền sách nhỏ này mà hiểu thêm vấn đề không gian và thời gian).Phổ biến một kiến thức toán học hiện đại bằng các công cụ sơ cấp là một điều khó khăn. Bởi vậy, quyền sách này chắc không tránh khỏi có nhiều thiếu sót. Mong rằng độc giả sẽ đóng góp nhiều ý kiến cho tác giả.Hà-nội, ngày 20-8-1963NGUYỄN CẢNH TOÀN