Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trò Chơi Của Thiên Thần

Nếu đã yêu thích Bóng hình của gió hay Tù nhân của thiên đường, bạn sẽ không thể bỏ qua Trò chơi của thiên thần. Tập thứ 2 trong bộ sách về Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên kể về nhà văn trẻ David Martin. Trong những tháng ngày bị ám ảnh bởi mối tình bất thành, anh nhận được lời đề nghị kỳ lạ từ một chủ nhà xuất bản bí hiểm: Viết một cuốn sách chưa từng có trên đời, một câu chuyện mà vì nó người ta có thể sống và cũng có thể chết, có khả năng giết người và cũng có khả năng bị giết hại. Đổi lại, anh sẽ nhận được một gia tài khổng lồ và có thể nhiều hơn thế nữa. Thế nhưng, từ khi đặt bút ký vào bản hợp đồng kia, David cũng đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ, đặt mạng sống của những người thân xung quanh mình vào vòng đe doạ… GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Carlos Ruiz Zafón sinh năm 1964, là một trong những nhà văn Tây Ban Nha được đọc nhiều nhất và được yêu quý nhất. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm viết cho lứa tuổi thiếu niên, mà khởi đầu là một tiểu thuyết dày 500 trang được ông sáng tác năm mười bốn tuổi. Trò chơi của thiên thần nằm trong xê ri bộ tứ Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên, bên cạnh các tập Bóng hình của gió, Tù nhân của thiên đường và Mê cung của linh hồn. Sách của Zafón đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng trên thế giới, được giới phê bình khen ngợi và giành được nhiều giải thưởng quốc tế. NHẬN ĐỊNH: “Nhà văn Tây Ban Nha Carlos Ruiz Zafón có một cung tên mang nhiều dây cung, và ông thích cùng lúc kéo căng tất cả: tiểu thuyết trinh thám, huyền ảo, tình cảm. Trò chơi của thiên thần là một cuộc pha trộn thể loại được xử lý một cách hoàn hảo.” Marianne Dubertret - La Vie *** 80 năm trước, trong một tác phẩm đầy thách đố của mình, Jorge Louis Borge đã tưởng tượng ra một thư viện trong đó chứa đựng những cuốn sách dày 410 trang, mỗi cuốn sách bao gồm những chỉnh hợp của 23 chữ cái, dấu câu và dấu cách – nghĩa là mọi cuốn sách đã từng có và sẽ có trên đời, về tất cả những gì đã biết và sẽ được biết tới. Nói cách khác, đó không phải là một vũ trụ sách, đó là một vũ trụ. Thư viện là cõi vũ trụ. Cố nhà văn người Tây Ban Nha Carlos Ruiz Zafón nói rằng ông không thấy có lí do chi để Borges (sự uyên bác) không thể trộn cùng với Neil Gaiman (tính giải trí), “chỉ là kể chuyện thôi; những cách khác nhau để sử dụng mật mã và hình ảnh và ngôn từ và tiếng động”. Và vì không có lí do chi để không làm vậy, nên ông liền làm vậy, bằng cách viết Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên, chuỗi tiểu thuyết bốn tập độc lập tựa một biên niên u huyền về Barcelona, nơi những kẻ mộng mơ sẽ bị kéo về phía một mê cung thư viện bí ẩn để cất giấu những cuốn sách mà không hay đó chỉ là chương đầu cho những ngày thẫm tối. Bộ tiểu thuyết như tòa lâu đài làm bằng thủy tinh giữa một vương quốc bị bỏ quên, lộng lẫy vô cùng và cũng mong manh vô kể, sẵn sàng bốc cháy mọi ngọc ngà thành tro bụi ngay khi đến lúc.   Được đọc những tập tiểu thuyết như thế này luôn là một ân điển, khiến ngay cả một vài đêm không ngủ cũng chỉ là chuyện phù du, ta chấp nhận cái giao kèo mơ hồ đổi lấy vài đêm thức trắng ấy để quăng mình vào một giấc chiêm bao lưu huyết, và ta nhận lại một thứ gì đẹp đẽ - vâng, những cuốn sách của Carlos Ruiz Zafón là minh chứng rằng rốt cuộc vẫn còn một thứ gì dẫu điêu tàn, nhưng đẹp đẽ. Cho nên sẽ quá tham vọng nếu định viết về cả bốn tập sách của ông trong khuôn khổ một bài viết đôi ngàn từ, thay vì thế, hãy chỉ ngẫu nghiên chọn ra một trong số đó, Trò chơi của thiên thần. Sẽ không thể lôi văn chương ra từ một tâm hồn lành lặn an ổn, chỉ những kẻ đã bị bể dập tan tành và trải qua những cuộc đại phẫu hư ảo thì từ những vết nức toác mới nảy lên được văn chương. David Martín, một nhà văn trẻ trên bờ vực lụn bại nhận được một đề nghị không-thể-từ-chối từ một người đàn ông bí hiểm: một trăm ngàn france đổi lại việc anh sẽ sáng tác một câu chuyện khiến mọi người có thể sống vì nó, chết vì nó, giết chóc vì nó và để mặc cho mình bị giết chóc vì nó, một câu chuyện khiến người ta tin, mơ, dâng hiến, hy sinh, chuộc tội – hay, một tôn giáo mới, một Kinh Thánh mới. Giống như Faust, anh bằng lòng, đâu hay biết mình đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Đó trước hết là một tiểu thuyết noir, lắt léo những ngóc ngách và nấp trong ngóc ngách là những kẻ truy lùng giấu mặt, gợi nhớ về những bộ phim thời kỳ đỉnh cao của Jean-Pierre Melville, tàn nhẫn mà cũng băn khoăn triết lí. Đó tiếp theo là một bảo tàng ngây thơ về Barcelona thế kỷ 20. Cuộc điều tra, rượt đuổi và chạy trốn của David Martín đưa anh xuyên qua thành phố được làm nên từ tội ác và hoài niệm, từ thiên thần và địa ngục, từ tâm hồn si tình đến chết của những cư dân hữu tử và từ những bóng ma bất tử nán lại trong hoang phế, từ những ngôi nhà bị nguyền rủa và những cuốn sách bị vùi quên, từ những ô cửa sổ nhìn ra sương mù và những đại lộ trong hũ nút. Trên tư cách nhà văn của một nơi chốn, Carlos Ruiz Zafón ngang hàng với Paul Auster của New York, Patrick Modiano của Paris hay Orhan Pamuk của Istanbul. Số phận của Barcelona là số phận của ông, say đắm nhưng đồng thời đẫm máu như một cuộc đấu súng trong mơ.  Lúc sinh thời, Carlos Ruiz Zafón nhận được rất nhiều lời đề nghị để chuyển thể các tác phẩm của ông thành phim, nhưng lần nào ông cũng từ chối. “Chẳng có gì sai khi chuyển thể sách thành phim nhưng tại sao mọi thứ lại cứ phải là một bộ phim điện ảnh, một mini series hay một series truyền hình? Sao một cuốn sách không thể chỉ là một cuốn sách?”, ông chất vấn. Và ông bảo, những cuốn sách của ông “ổn khi là chính nó”. Đáng để suy nghĩ về một câu hỏi như thế, sao một cuốn sách không thể chỉ là một cuốn sách mà thôi.  Không cần bàn, Carlos Ruiz Zafón là người có khả năng mise-en-scène (dàn cảnh) không thua gì những tiểu thuyết gia vĩ đại của thế kỷ 19. Ông tạo nên những vũ đài điện ảnh ngoạn mục chỉ bằng ngôn từ, nào là hình ảnh trinh bạch u ngục của một người thiếu phụ chết dưới hồ băng, nào là trường đoạn giằng giật dữ dội trên cáp treo giữa bầu trời Barcelona khi trời ngả tối, nào là cảnh tòa dinh thự cũ xưa chìm trong biển lửa. Chúng quá phù hợp để được chuyển thành một bộ phim, nhưng tác giả lại khăng khăng giữ chúng như chúng vẫn là, như thể ông đã lấy được cuốn sách này từ Nghĩa địa những cuốn sách bị lãng quên, nơi mỗi người chọn lấy một cuốn sách và lập lời thề sẽ bảo vệ nó vĩnh viễn.  Ông muốn bảo vệ sự sinh động vô hình ấy – điều vốn là bản chất tự nhiên của văn chương, dù nghẹt thở, rợn ngợp hay tráng lệ đến mấy thì cũng không nhìn thấy được, tất cả bị gói chặt trong những con chữ màu đen ngay ngắn. Văn chương là giấc mơ, ta hình dung được nó như một người nằm mơ tưởng như đã nhìn rõ vạn vật trong mơ, nhưng tất thảy sẽ tan biến ngay khi ta tỉnh giấc, ta không thể thấy bản lai diện mục của giấc mơ. Khác với mọi môn nghệ thuật thị giác, văn chương tạo nên những phóng chiếu trong đầu mỗi người, nó không dựa trên hình ảnh hiện thực vững chắc nào. Văn chương đích thực là thế đấy, lộng lẫy vô cùng và cũng mong manh vô kể, sẵn sàng bốc cháy mọi ngọc ngà thành tro bụi ngay khi đến lúc. Cho nên, sau những lớp kịch noir, những hành lang bảo tàng về một thành phố, Trò chơi của thiên thần đến cùng đích là một nghiền ngẫm về văn chương, về sự viết. Hành trình vật lộn để sống của David Martín trùng với hành trình vật lộn để viết của anh. Thỏa thuận giữa anh và người đàn ông bí hiểm tóm lược lại chỉ là: nếu muốn sống, anh phải viết. Và chẳng phải đây là định mệnh không thể tránh khỏi của mọi nhà văn, với họ, sống và viết là một, “không thể sống mà không viết”, nói như Pablo Neruda. Và giống như David Martín, để viết nên một tác phẩm để đời, mọi nhà văn phải đánh bạn với quỷ dữ và bán linh hồn cho cái ác. Sẽ không thể lôi văn chương ra từ một tâm hồn lành lặn an ổn, chỉ những kẻ đã bị bể dập tan tành và trải qua những cuộc đại phẫu hư ảo thì từ những vết nứt toác mới nảy lên được văn chương. Mọi nhà văn đều sống trong ngôi nhà với căn phòng nguyền rủa khóa kín và bị một bóng ma ám ảnh, đôi khi bóng ma ấy là chính họ, họ tự săn đuổi và giam cầm mình. Nhìn xem, David Martín đã lì lợm viết bản thảo nguy hiểm ấy đến cùng bất chấp sự can ngăn và những lời cảnh báo. Tình yêu không ngăn cản được anh, quyền lực không ngăn cản được anh, sự hoài nghi, sự ghê tởm và sự căm phẫn của chính mình không ngăn cản được anh, không gì ngăn được ham muốn kể chuyện của một người kể chuyện, cái ham muốn mãnh liệt không thể gò cương. Tất cả chỉ bởi David Martín tin rằng chỉ câu chuyện ấy mới cứu được đời anh. Không phải biết, mà là tin. Anh đã dấn quá sâu để không thể không tin. Văn chương là một loại cuồng giáo, mà mọi loại cuồng giáo đều đi tới hủy diệt tín đồ.  Biết là vậy, nhưng làm sao khác đi đây với một nhà văn? Trong tác phẩm của Goethe, quỷ Mephistopheles đã nhắn nhủ với Faust rằng: “Đừng âu yếm những nỗi khốn khổ của mình, nó ăn mòn ngươi như một con kền kền vậy”, nhưng không âu yếm những nỗi khốn khổ thì làm sao hoài thai văn chương, làm sao hoài thai cái đẹp? Với một nhà văn, không thể sống mà không viết, không thể viết mà không tự hủy hoại mình.  Theo Báo Thanh niên *** Kẻ viết văn không bao giờ quên được khoảnh khắc lần đầu tiên chấp nhận đổi một câu chuyện lấy chút tiền hoặc vài lời khen ngợi. Hắn cũng không bao giờ quên lần đầu tiên cảm thấy trong mạch máu mình nọc độc ngọt ngào của lòng kiêu hãnh và tin rằng nếu không ai phát hiện sự bất tài nơi hắn, giấc mộng văn chương của hắn có thể mang lại cho hắn một mái nhà che nắng che mưa, một bữa ăn tử tế mỗi tối và điều mà hắn khát khao nhất trần đời: tên hắn được in trên một mẩu giấy thảm hại mà hắn dám chắc rằng sẽ còn tồn tại ngay cả khi hắn đã từ giã cõi đời này. Kẻ viết văn buộc phải nhớ về khoảnh khắc ấy, bởi lẽ kể từ giờ phút ấy, hắn đã thất bại: linh hồn hắn đã được định giá. Khoảnh khắc ấy, tôi đã biết đến vào một ngày xa xăm thuộc tháng Mười hai năm 1917. Bây giờ tôi mười bảy tuổi và đang làm việc tại Tiếng nói ngành công nghiệp, một tờ báo bên bờ phá sản đang lay lắt trong ngôi nhà xây đầy ngóc ngách, xưa kia vốn là xưởng sản xuất axit sunfuric với những bức tường vẫn còn tiết ra thứ hơi độc ăn mòn đồ đạc, quần áo, những khối óc và cho tới cả đế giày. Tòa nhà mọc lên sau một rừng thiên thần và thánh giá của nghĩa trang Pueblo Nuevo, và từ đằng xa, cái bóng của nó hòa lẫn với bóng các lăng mộ để nổi bật trên nền trời tua tủa hàng trăm ống khói và nhà máy khiến cho buổi hoàng hôn bao trùm Barcelona vĩnh viễn có màu đỏ ối pha đen. Buổi tối đó hẳn đã xoay chuyển dòng đời tôi. Phó tổng biên tập, ông Basilio Moragas, đã gọi tôi tới căn phòng tối tăm nằm tận cuối tòa soạn, là nơi được ông dùng như phòng làm việc kiêm phòng hút xì gà. Ông Basilio có vẻ ngoài dữ tợn với bộ ria rậm, ông ghét cay ghét đắng những thứ vô vị và công khai bày tỏ lý thuyết cho rằng việc sử dụng thừa thãi trạng từ và tính từ là hành vi của những kẻ đồi bại và thiếu vitamin. Nếu phát hiện biên tập viên nào thiên về lối văn hoa lá cành, ông sẽ phân cho hắn viết cáo phó ba tuần liền. Nếu sau đợt thanh trừng này mà đối tượng vẫn tái phạm, ông Basilio sẽ đày hắn vĩnh viễn sang mục “nội trợ gia đình”. Chúng tôi ai cũng khiếp sợ mục này, và ông biết rõ điều đó. “Ông gọi tôi, ông Basilio?” tôi rụt rè đánh tiếng. Phó tổng biên tập gườm gườm nhìn tôi. Coi đó như một mệnh lệnh, tôi liền bước vào phòng làm việc nồng nặc mùi mồ hôi và thuốc lá. Phớt lờ sự hiện diện của tôi, ông Basilio tiếp tục đọc soát một trong những bài viết nằm trên bàn, tay lăm lăm cây chì đỏ. Suốt nhiều phút, phó tổng biên tập nã liên tiếp vào bài viết những chỗ chỉnh sửa, thậm chí là cắt xén, miệng làu bàu những lời thô tục như thể không có mặt tôi ở đó. Đang không biết phải làm gì, tôi chợt nhìn thấy một chiếc ghế đặt dựa vào tường, bèn vờ ngồi xuống. “Ai đã cho phép cậu ngồi?” ông Basilio lầm bầm, mắt vẫn không rời bài viết. Tôi vội vàng đứng lên và nín thở. Phó tổng biên tập thở dài, buông rơi cây chì đỏ, rồi dựa vào lưng ghế bành để dò xét tôi như thể tôi là một thứ cặn bã vô dụng. “Ta được nghe kể là cậu viết văn, Martín.” Tôi bỗng cảm thấy cổ họng khô khốc và khi tôi mở miệng, từ đó thoát ra một giọng nói lố bịch. “Một ít... à mà tôi không biết... Có nghĩa là, vâng, tôi có viết…” “Ta hy vọng cậu viết tốt hơn là nói. Mà cậu viết những gì vậy, nếu hỏi như vậy không quá tọc mạch?” “Vài truyện trinh thám. Thực ra là…” “Được, ta hiểu rồi.” Ông Basilio hướng về tôi một cái nhìn khó tả. Cũng hào hứng ngang bằng khi giả sử tôi nói mình chuyên tâm vào việc dùng phân bò nặn thành tượng để trang trí máng cỏ Giáng sinh. Ông thở dài lần nữa rồi nhún vai. “Vidal cho rằng hẳn cậu không tệ đến mức ấy. Thậm chí cậu hẳn còn có chút tài cán. Đúng là ở đây cậu không có nhiều đối thủ. Nhưng dù sao, nếu Vidal đã khẳng định thế…” Pedro Vidal là cây bút ngôi sao của tờ Tiếng nói ngành công nghiệp. Anh phụ trách mục thời luận vặt hằng tuần, mục duy nhất đáng đọc trong cả tờ báo, và anh cũng đã xuất bản mươi mười hai tiểu thuyết đề cập đến những tên đầu đảng của khu Raval và những cuộc dan díu tình cảm của chúng với các phu nhân tầng lớp cao trong xã hội, những cuốn tiểu thuyết này mang lại cho anh một thành công khiêm tốn. Luôn diện những bộ com-plê lụa hoàn hảo cùng đôi giày mô-ca Ý bóng loáng như gương, Vidal có dáng dấp cũng như phong thái của một tài tử điện ảnh thường xuất hiện trong những suất phim chiều, với mái tóc vàng luôn chải mượt, hàng ria như được vẽ bằng bút chì cùng nụ cười dung dị và độ lượng của một người cảm thấy mãn nguyện về bản thân và cả thế giới. Anh xuất thân từ một gia tộc mà ông cha đã tạo dựng sản nghiệp tại Mỹ nhờ ngành công nghiệp mía đường, và khi trở về, họ chiếm được cả một mảng lớn trong việc cung cấp điện cho thành phố. Cha anh, người đứng đầu gia tộc, là một trong số các cổ đông chủ chốt của tờ báo, và Pedro dùng tòa soạn như thể sân chơi để tiêu diệt nỗi buồn chán bởi không bao giờ cần phải làm việc dù chỉ một ngày trong đời. Việc tờ báo thất thoát các khoản tiền theo cùng cách các loại ô tô tân thời bắt đầu lưu thông khắp các đường phố Barcelona bị rò dầu đối với anh không quan trọng: được ban vô số tước hiệu quý tộc, kể từ giờ triều đại Vidal chuyên tâm thu nạp nhà băng và những tòa nhà trên những diện tích tương đương các lãnh địa nhỏ trong khu Ensanche. Pedro Vidal là người đầu tiên tôi dám cho xem những bản thảo mà tôi viết hồi mới chỉ là một thằng nhóc với công việc chủ yếu là mang cà phê và thuốc lá tới tòa soạn. Anh luôn có thời gian dành cho tôi, để đọc những gì tôi viết và đưa ra lời khuyên hữu ích. Vài năm trôi qua, anh nhận tôi làm trợ lý riêng và cho phép tôi gõ lại những bản thảo anh viết tay. Cũng chính anh từng nói nếu tôi muốn đùa giỡn với số phận bằng nghiệp văn chương may rủi, anh sẽ sẵn lòng giúp đỡ và định hướng cho tôi vào con đường đúng đắn. Và đúng như lời đã hứa, giờ đây anh ném tôi vào nanh vuốt của ông Basilio, tay gác cổng hắc ám của tòa báo. “Vidal là một người cảm tính vẫn còn tin vào loại chuyện hoang đường hoàn toàn không phù hợp với Tây Ban Nha, ví như chế độ trọng dụng nhân tài hay quan điểm là cần ban phát cơ hội cho người thực sự xứng đáng chứ không phải cho dạng con ông cháu cha. Cậu ấy giàu sụ nên có thể dễ dàng cho phép bản thân làm những trò ngông cuồng lãng mạn ấy. Nếu có được một phần trăm trong số gia tài cậu ấy đang phung phí, ta cũng sẽ chuyên tâm vào việc làm thơ và lũ chim nhỏ bé sẽ tới ăn trên tay ta, bị thu hút bởi lòng tốt và sự quyến rũ nơi ta.” “Vidal là một người tốt bụng!” tôi khẳng định. “Còn hơn thế ấy chứ. Cậu ấy là một vị thánh, bởi vì bất chấp bộ dạng khố rách áo ôm của cậu, cậu ấy vẫn quấy nhiễu ta hàng tuần trời khi cứ lải nhải về tài năng và công việc của thằng nhóc ít tuổi nhất tòa soạn. Cậu ấy biết, sâu thẳm trong tâm hồn, ta thực ra rất dễ mềm lòng, vả lại cậu ấy còn hứa là nếu cho cậu cơ hội, ta sẽ nhận được quà của cậu ấy là một hộp xì gà La Habana. Và nếu Vidal đã nói thế thì cũng giống như thể nhà tiên tri Moise xuống núi, tay cầm những bảng đá ghi Mười Điều Răn và mang theo Thần khải. Thế nên tóm lại, vì đang dịp Giáng sinh, và cũng để anh bạn của cậu ngậm miệng một lần cho xong, ta sẽ trao cho cậu cơ hội khởi nghiệp viết lách như những vị anh hùng: đương đầu với bão táp và thủy triều.” “Nghìn lần biết ơn ông, ông Basilio. Tôi cam đoan rằng ông sẽ không phải hối hận vì đã…” “Đừng vội hăng tiết vịt, chàng trai. Mà trước tiên, cậu nghĩ gì về việc sử dụng bừa phứa và không đúng lúc các phó từ và tính từ?” “Đó là một sự sỉ nhục và đáng bị luật hình sự trừng phạt, tôi đáp lời với niềm tin chắc của một chiến binh quá khích.” Ông Basilio tỏ vẻ tán thành. “Hoàn hảo, Martín. Cậu có những mối ưu tiên tuyệt vời. Những người tồn tại trong nghiệp viết lách này là những người có ưu tiên chứ không phải có nguyên tắc. Vậy thì công việc là thế này. Hãy ngồi xuống và lắng tai nghe cho rõ, vì ta sẽ không lặp lại tới lần thứ hai đâu.” Công việc là thế này: vì một số lý do mà ông Basilio thấy tốt hơn hết là không đi sâu vào chi tiết, trang bìa cuối của số báo ra ngày Chủ nhật từ trước tới nay vốn luôn được dành để đăng truyện ngắn hoặc bài viết về du lịch đã bị để trống vào giờ chót. Nội dung dự kiến là một bài viết thấm đẫm tinh thần yêu nước và một bài thơ trữ tình hừng hực xoay quanh sự nghiệp anh hùng của những chiến binh Almogavare, ngợi ca chiến công bảo vệ đạo Thiên Chúa cũng như mọi giá trị đạo đức trên đời của những hiệp sĩ Catalan thời Trung cổ khi họ tiến quân từ Vùng Đất Thánh và dừng chân tại đồng bằng Llobregat. Thật không may, bài viết không thể hoàn thành đúng hạn định, mà tôi ngờ rằng, đơn thuần là ông Basilio không muốn cho đăng bài đó. Tòa soạn chỉ có sáu tiếng trước giờ phải lên trang toàn bộ số báo, mà hiện lại không có bài nào dự phòng ngoài một trang quảng cáo áo nịt ngực làm từ tấm lược trong miệng cá voi với lời hứa hẹn đảm bảo một vòng eo trong mơ và xóa bỏ những ngấn mỡ thừa. Trước tình thế khó xử, ban biên tập đã quyết định đối đầu thử thách, kêu gọi tài năng văn chương ẩn giàu trong một thành viên bất kỳ của tòa báo, ai cũng được, để chữa cháy tạm và phát hành số báo Chủ nhật với bốn cột chữ mang đậm tính nhân văn hòng thỏa mãn những độc giả trung thành vốn thân thiết như gia đình của chúng tôi. Danh sách những cây bút tài năng được công nhận trong tòa soạn bao gồm mười cái tên, và dĩ nhiên, trong đó không hề có tên tôi. “Martín thân mến, hoàn cảnh trớ trêu khiến không ai trong số những cây bút gạo cội của chúng ta kịp có mặt tại đây vào thời điểm nguy cấp này, cũng không một ai hiện đang ở trong tầm liên lạc. Trước thảm họa đang tới gần, ta quyết định ban cho cậu cơ hội này.” “Xin ông cứ tin ở tôi.” “Ta tin vào năm trang giấy cách dòng đúp hoàn thiện trong sáu tiếng đồng hồ, Edgar Allan Poe* ạ. Hãy mang tới cho ta một câu chuyện, không phải một bài diễn văn. Nếu muốn nghe lời thuyết giáo, ta thà đi dự lễ misa vào lúc nửa đêm. Hãy đem tới đây một câu chuyện mà ta chưa từng đọc, và nếu ta đã đọc truyện nào tương tự rồi, hãy viết thật khéo sao cho ta không nhận ra chút quen thuộc nào trong đó.” Tôi đang định chạy biến đi thì ông Basilio đứng dậy, đi vòng qua bàn, đoạn đặt bàn tay vừa to vừa nặng không kém gì cái đe bằng thép lên vai tôi. Đôi mắt ông như đang mỉm cười. “Nếu truyện cậu viết đạt tiêu chuẩn, ta sẽ trả mười đồng peseta. Còn nếu truyện hay hơn thế và được độc giả yêu thích, ta sẽ tiếp tục cho cậu đăng bài.” “Còn chỉ dẫn đặc biệt nào nữa không, ông Basilio?” tôi hỏi. “Có đấy: đừng làm ta thất vọng.” Sáu tiếng đồng hồ tiếp theo tôi ở trong trạng thái tập trung cao độ. Tôi ngồi dính lấy chiếc bàn đặt ngay giữa phòng nội dung vốn được dành riêng cho Vidal vào những ngày anh nổi hứng ghé qua tòa soạn. Ngoài tôi ra, căn phòng không có một ai và ngập trong thứ bóng tối mịt mù tù đọng bởi khói của chục ngàn điếu thuốc. Nhắm mắt lại giây lát, trong đầu tôi hiện lên một hình ảnh: một tấm màn kết từ những đám mây đen loang ra trên thành phố đang chìm ngập trong cơn mưa, một người đàn ông vừa rảo bước vừa tìm cách ẩn mình trong bóng tối với máu dính trên đôi tay và bí ẩn hàm chứa trong đôi mắt. Tôi không biết anh ta là ai, cũng không biết anh ta đang trốn chạy khỏi điều gì, nhưng trong vòng sáu tiếng đồng hồ tới đây anh ta sẽ trở thành người bạn thân thiết nhất của tôi. Tôi gài một trang giấy trắng vào máy chữ, rồi không ngừng lấy một giây, bắt đầu vắt kiệt mọi câu chữ xuất hiện trong đầu mình. Tôi vật lộn với từng từ, với mỗi câu cũng như các cấu trúc, hình ảnh và chữ cái, như thể đó là những điều cuối cùng tôi viết ra. Tôi viết rồi viết lại từng dòng như thể cả cuộc đời tôi phụ thuộc vào đó, rồi tôi còn viết lại thêm lần nữa. Bạn đồng hành với tôi là tiếng lạch cạch không ngừng từ chiếc máy chữ vang vọng khắp căn phòng tối tăm cùng chiếc đồng hồ treo tường đang rút dần đi từng phút giây còn lại cho tới lúc bình minh lên. Ngay trước khi kim đồng hồ chỉ sáu giờ sáng, tôi giật trang giấy cuối cùng khỏi máy chữ, thở dài vì kiệt sức, đầu óc quay cuồng như thể bên trong có cả đàn ong đang bay lượn. Tôi nghe thấy tiếng bước chân nặng nề, chậm rãi của ông Basilio, ông đang lững thững tiến tới chỗ tôi sau khi tỉnh dậy từ một trong những giấc ngủ ngắn vẫn luôn được ông kiểm soát chặt chẽ. Không dám đối diện trực tiếp với ánh mắt của ông Basilio, tôi xếp lại các trang bản thảo và đưa cho ông. Ông Basilio ngồi xuống cái bàn ngay cạnh, đoạn bật đèn đọc lên. Đôi mắt ông lướt trên bản thảo, không để lộ chút cảm xúc nào. Rồi ông đặt điếu xì gà xuống cạnh bàn, đoạn liếc nhìn tôi và đọc to dòng đầu tiên trong truyện: “Màn đêm buông xuống thành phố, những con đường ngập trong mùi thuốc súng như hơi thở của một lời nguyền.” Ông Basilio liếc mắt nhìn tôi còn tôi thì trốn sau nụ cười không để lộ dù chỉ một chiếc răng. Không nói thêm một lời, ông đứng dậy rồi bỏ đi cùng tập bản thảo của tôi trong tay. Ông khép cánh cửa lại sau lưng. Tôi sững sờ đứng ngây ra đó, không biết nên chạy trốn hay ở đây đợi chờ án tử giáng xuống. Mười phút sau - thực ra tôi có cảm giác như đã mười năm trôi qua - cửa phòng làm việc của phó tổng biên tập bật mở và giọng nói như sấm rền của ông Basilio vang khắp khu phòng nội dung. “Martín. Làm ơn lại đây.” Tôi lết vào phòng ông chậm rãi hết mức, cứ mỗi bước lại rụt cổ so vai, tới khi không còn lựa chọn nào khác là ló mặt vào phòng và ngước nhìn lên. Ông Basilio, với cây chì đỏ đáng sợ trong tay, lạnh lùng nhìn tôi. Tôi muốn nuốt ực một cái, nhưng miệng lại khô không khốc. Ông cầm tập bản thảo lên và đưa cho tôi. Tôi nhận lại xấp giấy và quay về phía cửa nhanh hết mức, tự nhủ với bản thân rằng chắc vẫn còn chân đánh giày ở sảnh khách sạn Colon. “Hãy mang xấp bản thảo xuống phòng sắp chữ và bảo họ lên trang ngay,” giọng nói phía sau lưng tôi ra lệnh. Tôi quay phắt lại, chắc mẩm mình chính là nạn nhân của một trò đùa ác. Ông Basilio mở ngăn kéo bàn làm việc, đếm đủ mười đồng peseta rồi đặt lên mặt bàn. “Đây là phần của cậu. Ta khuyên cậu nên dùng số tiền này sắm cho mình một bộ cánh ngon lành hơn, vì ta thấy cái thứ cậu đang mặc vẫn y như vậy sau bốn năm trời, chưa kể còn to hơn cậu đến tận sáu cỡ. Nếu muốn, cậu cứ thử ghé qua tiệm quần áo của ông Pantaleoni trên phố Escudellers, cứ nói là ta giới thiệu cậu. Ông ấy sẽ tiếp đãi cậu tử tế.” “Cảm ơn ông rất nhiều, ông Basilio. Tôi sẽ làm như vậy.” “Còn giờ hãy tiếp tục nghĩ thêm những truyện khác cho ta. Ta cho cậu một tuần lễ. Nhưng đừng ngủ quên trên chiến thắng. Và lần này cậu phải xoay xở sao cho có ít xác chết hơn đấy, bởi độc giả ngày nay chuộng những cái kết lâm ly trong đó tinh thần nhân đạo cao cả chiến thắng trước mọi tai ương, đại loại là mấy trò nhảm nhí kiểu như vậy.” “Vâng thưa ông Basilio.” Phó tổng biên tập chìa tay ra. Tôi bắt lấy tay ông. “Làm khá lắm, Martín. Vào thứ Hai tới ta muốn thấy cậu ngồi ở cái bàn trước từng thuộc về Junceda, giờ nó là của cậu. Ta xếp cậu vào bộ phận chuyên viết tin vặt.” “Tôi sẽ không khiến ông thất vọng đâu, ông Basilio.” “Không, cậu sẽ không khiến ta thất vọng. Cậu sẽ chỉ bỏ ta mà đi thôi, chẳng sớm thì muộn. Và cậu hoàn toàn đúng khi làm vậy, vì cậu không phải một nhà báo và sẽ chẳng bao giờ làm được nhà báo. Nhưng giờ cậu vẫn chưa phải tiểu thuyết gia trinh thám đâu, dù cậu cứ tưởng là như vậy. Hãy ở đây một thời gian và bọn ta sẽ chỉ dạy cho cậu một vài mánh mà về sau sẽ luôn hữu dụng.” Vào giây phút ấy, lá chắn phòng thủ đột ngột rơi xuống, tôi ngập tràn trong cảm giác biết ơn đến mức tưởng chừng muốn ôm chầm lấy người đàn ông to lớn trước mặt. Ông Basilio, vừa đeo lại chiếc mặt nạ dữ dằn quen thuộc, ném cho tôi một cái nhìn sắc lẹm rồi chỉ thẳng về phía cửa. “Làm ơn đừng diễn mấy trò xúc cảm ở đây. Đóng cửa lại. Và Giáng sinh vui vẻ.” “Chúc ông Giáng sinh vui vẻ.” Vào ngày thứ Hai tuần kế tiếp, khi đến phòng nội dung và sẵn sàng ngồi vào bàn làm việc riêng của mình lần đầu tiên, tôi nhìn thấy có một phong bì giấy xám buộc ruy băng, trên đó là tên tôi được gõ bằng chiếc máy chữ mà tôi đã miệt mài sử dụng suốt nhiều năm nay. Bên trong phong bì là trang bìa cuối số ra ngày Chủ nhật cùng với câu chuyện của tôi được đóng khung hẳn hoi, kèm theo đó là một tờ giấy nhắn: “Đây mới chỉ là khởi đầu thôi. Mười năm nữa tôi sẽ thành tay thợ học việc còn cậu sẽ là thầy. Bạn và đồng nghiệp của cậu, Pedro Vidal.” Mời các bạn đón đọc Trò Chơi Của Thiên Thần của tác giả Carlos Ruiz Zafón & Ngô Hoàng Việt (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Giao Sữa
NGƯỜI GIAO SỮA - TÁC PHẨM ĐẠT GIẢI MAN BOOKER 2018  Hội đồng giám khảo giải Man Booker (một trong những giải thưởng văn học danh giá nhất hành tinh) đã nhận định: "Vừa gây sợ hãi lại vừa truyền cảm hứng, Người giao sữa là tác phẩm có phong cách tuyệt đối riêng biệ Một câu chuyện hoàn toàn độc đáo về Ireland vào thời kỳ Nhiễu nhương qua trí óc của một cô gái trẻ Một tác phẩm choáng váng"  TÓM TẮT:  Trong một thành phố không tên, một cô gái mười tám tuổi bị rình rập bởi một kẻ được gọi là Người giao sữa. Cô không chỉ phải trốn tránh hắn, mà còn phải đối phó với những đơm đặt đàm tiếu từ chính gia đình và cộng đồng của mình.  Người giao sữa là cái nhìn của một cô gái trẻ về thời kỳ Nhiễu nhương ở Ireland với những xung đột tôn giáo và chính trị len lỏi vào mọi ngõ ngách trong đời thường, chắp cánh cho những thù hằn, tị hiềm, ác ý hèn lạ lan tràn tạo nên một bầu không khí ngột ngạt, sợ hãi và cũng không kém phần nực cười. Bằng văn chương lạnh lùng và châm biếm, Anna Burns đưa người đọc đi xuyên qua một cuộc sống u ám trĩu nặng thứ lịch sử đầy mất mát và nghi kỵ, nơi mỗi hành động dù nhỏ nhất đều kéo theo một mê cung bất tận những nguy cơ và chằng chịt những hậu quả khôn lường.  Người giao sữa là cuốn tiểu thuyết phi thường về sự trưởng thành của con người trong một thế giới đã trở nên ngập tràn cạm bẫy. *** [Review sách hay] Người giao sữa và thời kỳ ngột ngạt ELLE Team Đăng ngày: 14/07/2020 Năm 2018, lần đầu tiên một tác giả người Bắc Ireland được trao giải Man Booker – Anna Burns – với cuốn sách “Người giao sữa”. Cuộc đời Burns có đầy đủ các chi tiết để biến bà thành huyền thoại: Bà viết cuốn sách Người giao sữa khi toàn thân đau đớn vì một ca phẫu thuật hỏng, và từ sau khi hoàn thành nó đến nay bà không thể viết tiếp được gì; bà sống nhờ trợ cấp, cụ thể là ngân hàng lương thực; bà sung sướng hân hoan vì có thể dùng tiền thưởng để giúp mình sạch nợ. Dường như có một khoảng cách khủng khiếp giữa hai thời điểm: lúc bản thảo cuốn sách Người giao sữa bị hàng loạt nhà xuất bản từ chối, và lúc toàn bộ thành viên ban giám khảo nhất trí chọn trao giải Man Booker cho nó. Người giao sữa kể về một cô gái 18 tuổi không tên bị một gã đàn ông trung niên rình mò ở một thành phố không tên, tại một đất nước không tên. Là một cuốn tiểu thuyết cực kỳ khó đọc, được viết với phong cách văn chương lạ lùng, với giọng kể độc nhất vô nhị, Người giao sữa là tiếng nói nữ quyền về thân phận người phụ nữ trong thời kỳ loạn lạc. Câu mở đầu ấn tượng của Người giao sữa gần như thâu tóm được toàn bộ không khí đầy đe dọa của tác phẩm: “Ngày Ai Đó McAi Đó kê súng vào ngực mà gọi tôi là đồ đĩ rồi dọa bắn cũng là ngày người giao sữa chết”. Cô gái bị dọa bắn ấy có thói quen vừa đi vừa đọc sách, một thói quen bị mọi người gièm pha và phản đối, bởi ở xã hội nơi cô sống thì hành động xách thuốc nổ dẻo Semtex đi quanh được coi là bình thường còn đọc Jane Eyre trước mắt mọi người lại là bất bình thường. Thế giới văn hóa [Review sách hay] Ngàn cánh hạc: Độ tối của thân phận, độ sâu của tội lỗi Chính vì sống ở một thời kỳ quái đản như vậy mà một sự việc đáng lo ngại xảy đến với cô lại bị gạt đi một cách nhẹ bẫng: Cô bị một người đàn ông trung niên, mà cô gọi là người giao sữa, đeo bám, gạ gẫm. Hắn tỏ ra quen biết cô, rành rõi chuyện gia đình cô, hắn đe dọa giết bạn trai của cô. Hành động quấy rối ngày một leo thang: Hắn rình rập cô khắp mọi nơi, thuộc lịch làm việc và học hành của cô. Sinh ra trong một gia đình có mười một anh chị em, với các chị lớn đã đi lấy chồng, các anh trai đã bỏ đi hoặc chết vì theo phe ly khai, với một ông bố chết vì trầm cảm, với một bà mẹ ngoan đạo dằn vặt cô vì mãi chưa chịu lấy chồng, cô không có cách nào tự phòng vệ. Cô không biết tâm sự cùng ai, mà cũng không biết làm cách nào đáp trả những hành vi quấy rối của gã giao sữa. Ấy vậy mà, cô bị chính người trong gia đình của mình quy kết là đang có quan hệ tình cảm với người giao sữa. Bị anh rể thêu dệt đời tư, bị hàng xóm đồn thổi, bị cả cộng đồng xa lánh, cô rơi vào một tin đồn hiểm ác mà không thể rửa sạch. Bằng câu chuyện rõ ràng về tình trạng dễ tổn thương không nơi bấu víu của một cô gái say mê sách vở, Burns dần làm sáng tỏ tại sao cô gái 18 tuổi ấy lại lạc lối trong cái thời đại mình đang sống. Chính trị thấm đẫm trong mọi cuộc chuyện trò, mọi hành động, mọi suy nghĩ của các nhân vật trong cuốn sách. Lớn lên ở Belfast trong giai đoạn xung đột vũ trang ở Bắc Ireland giữa phe ly khai và phe chính phủ, Burns chứng kiến và không thôi bị ám ảnh bởi chính những bạo lực ấy. Nhân vật “chị tư” của bà sống trong một cộng đồng phân rã và xung đột vì chính trị, nơi sự phe phái phân chia rạch ròi rõ nét giữa “ta và họ”, nơi mọi sự hớ hênh vi phạm phạm vi cũng có thể dẫn đến cái chết, nơi đánh bom và bắn súng diễn ra hằng ngày, nơi tang tóc diễn ra ở mọi nhà. Nhưng Burns chọn một lối đi riêng, như chính bà đã tâm sự trong một cuộc phỏng vấn: “Tiểu thuyết của tôi viết về cả một xã hội bị ảnh hưởng bởi bạo lực trong một quãng thời gian dài dặc và tồn tại dưới sức ép căng thẳng. Nó viết về cách mà các xã hội cùng với cá nhân phản ứng và phân rã khi mỗi ngày đều phải sống trong sợ hãi xen lẫn hoang tưởng và về những con người phải khốn khổ vì những tổn thương ở cả ý thức lẫn tiềm thức lén lẩn vào từng sợi từng thớ trong bản thể của họ”. Burns đã chọn một cách vô cùng độc đáo khi tạo ra các nhân vật của mình: tuyệt đối không đặt tên. Nhân vật chính được gọi là “chị tư”, cô gọi các chị của mình theo thứ tự “chị đầu, anh rể đầu, chị hai, anh rể hai”. Cô đặt biệt danh cho những người xung quanh: “bạn trai hờ”, “thằng bé hạt nhân,” “đứa con gái hạ độc”. Sự phiếm chỉ ấy được tác giả áp dụng cả cho thời gian câu chuyện này xảy ra, “giai đoạn nhiễu nhương” (mà chỉ một đôi lần nhân vật chính có nhắc đến thoáng qua là thập niên 70), cho cả vùng đất nơi Anh được gán cái tên “đất nước bên kia biển”, còn Ireland thì trở thành “bên kia ranh giới”. Được viết bằng thứ ngôn ngữ hòa trộn giữa lời ăn tiếng nói hằng ngày với văn chương tinh hoa và những pha chơi chữ tài tình, dòng tự sự thì miên man những suy nghĩ, những câu chuyện bên lề, cuốn sách Người giao sữa được nhiều nhà phê bình so sánh với thứ văn chương dòng ý thức bất tận. Tù túng, bi kịch xen lẫn hài hước, đây là một tác phẩm độc đáo khai thác cách bạo lực bị bình thường hóa đã tác động lên cách sống của cá nhân và cả xã hội. Nó cũng là một tiếng chuông vang vọng về cảnh huống con người bị giám sát, bị đưa vào vòng vây của tin đồn trong một cộng đồng bị kìm nén ngộp thở mà không thể nào tự cất tiếng giải thích. Nhóm thực hiện Bài: Zét Nguyễn *** Ngày Ai Đó McAi Đó kê súng vào ngực mà gọi tôi là đồ đĩ rồi dọa bắn cũng là ngày người giao sữa chết. Hắn bị một đội đặc nhiệm của nhà nước bắn nhưng tôi không để tâm đến chuyện người này bị bắn. Nhưng người khác lại để tâm, và những người này, như thành ngữ nói, “chỉ nhìn mặt tôi mà bắt hình dong” và tôi đang bị thiên hạ bàn tán vì có tin đồn do họ khơi mào, có lẽ đúng hơn là do người anh rể đầu khơi mào, rằng tôi đang có quan hệ tình cảm với người giao sữa này và tôi mới mười tám còn hắn bốn mươi mốt. Tôi biết tuổi hắn, chẳng phải vì hắn bị bắn rồi truyền thông đưa tin, mà bởi, nhiều tháng trước vụ ám sát, những đảng ngồi lê đôi mách đã bàn tán, rằng bốn mươi mốt với mười tám thì thật khó coi, rằng hai mươi ba tuổi chênh lệch thì thật khó coi, rằng hắn có vợ rồi và đâu thể để tôi lừa phỉnh, bởi lẽ có nhiều người trong bóng tối âm thầm theo dõi. Dường như vụ dan díu với người giao sữa này cũng là lỗi của tôi. Nhưng tôi đâu có dan díu với người giao sữa. Tôi không ưa người giao sữa và đã hoảng sợ và rối trí khi hắn đeo bám và thử gạ gẫm tôi. Tôi cũng không thích ông anh rể đầu. Gã thèm khát dựng chuyện về đời sống tình ái của mọi người. Về đời sống tình ái của tôi. Khi tôi còn nhỏ, khi tôi mười hai, gã xuất hiện đúng lúc chị cả tôi vực lại tinh thần sau khi bỏ bạn trai lâu năm vì không chung thủy với chị, người mới này làm chị có thai nên họ cưới nhau ngay tắp lự. Gã nói với tôi những câu dâm dật về tôi từ phút đầu gặp tôi — về cái hĩm của tôi, trôn tôi, bím tôi, nường tôi, húm tôi, lỗ tôi, lá đa tôi, thè le tôi — và gã dùng những từ, những từ gợi dục, mà tôi không hiểu. Gã biết tôi không hiểu nhưng cũng đủ sức đoán ra những chữ đó là tục tĩu. Cái đó khiến gã khoái trá. Gã ba mươi lăm tuổi. Mười hai với ba mươi lăm. Đó cũng là hai mươi ba tuổi chênh lệch. Vậy là gã cứ nói những câu đó và thấy có quyền nói những câu đó còn tôi thì không nói gì vì tôi không biết phải phản ứng trước người này ra làm sao. Gã chưa từng nói câu nào như vậy khi có mặt chị tôi. Lần nào cũng vậy, cứ chị rời phòng là như có cái công tắc bật lên trong gã. Được cái tôi không phải sợ gã xâm hại thể xác. Thời ấy, nơi ấy, bạo lực là tiêu chí chính để đánh giá những người xung quanh và tôi thấy ngay rằng gã không thuộc loại đó, gã không có cái thái độ đó. Dẫu vậy đi nữa, bản chất săn mồi của gã lần nào cũng dồn tôi đến chỗ sợ chết trân. Gã là hạng rác rưởi còn chị hồi ấy thì khổ sở vì dính bầu, vì còn yêu người đã yêu bao năm và không chịu tin những gì anh ta làm với chị, không chịu tin anh ta giờ chẳng hề thương nhớ chị, vì quả anh ta không nhớ. Giờ anh ta tếch theo người khác rồi. Chị không thực sự hiểu người đàn ông này, cái gã lớn tuổi hơn mà chị đã cưới khi chị còn quá trẻ, quá buồn khổ, và quá lụy tình — chỉ là không phải lụy tình vì gã — nên mới dính vào gã. Dù chị buồn nhưng tôi không đến thăm nữa vì tôi không chịu nổi lời lẽ và bản mặt gã. Sáu năm sau, khi gã tìm cách mon men đến tôi và hai chị kia, và ba chị em tôi — trực tiếp, gián tiếp, lịch sự, huỵch toẹt — cự tuyệt gã, thì người giao sữa, cũng là kẻ không mời mà tới nhưng đáng sợ hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều, không biết từ đâu xuất hiện. Tôi không biết hắn giao sữa cho nhà nào. Hắn không giao sữa cho nhà tôi. Tôi nghĩ hắn không giao sữa cho ai cả. Hắn không nhận đặt hàng sữa. Hắn chẳng liên quan gì đến sữa. Hắn chưa bao giờ đi giao sữa. Còn nữa, hắn không lái xe tải chở sữa. Thay vì vậy hắn lái xe hơi, các loại xe khác, thường là xe bóng lộn, dù hắn thì lại không bóng lộn. Ấy vậy mà tôi chỉ nhận thấy hắn và mấy xe hơi của hắn khi hắn bắt đầu chui vào mấy xe đó trước mặt tôi. Rồi còn chiếc xe van đó nữa — nhỏ, màu trắng, không có gì nổi bật, luôn thay hình đổi dạng. Thỉnh thoảng cũng thấy hắn lái chiếc xe van đó. Một ngày nọ, khi tôi đang vừa đi vừa đọc Ivanhoe thì hắn xuất hiện, lái một trong số những cái xe của hắn chạy lại. Thường thì tôi vẫn vừa đi vừa đọc. Tôi thấy chuyện này chẳng có gì sai nhưng người ta cũng gộp nó vào những bằng chứng chống lại tôi. “Vừa đi vừa đọc” nhất định là nằm trong danh sách. “Cô em là cô gái ấy ấy, phải không nào? Ông gì gì đấy là bố của cô em, đúng không? Mấy anh trai cô, cậu ấy, cậu kìa, cậu kia, cậu nọ, từng chơi trong đội hurley nhỉ? Lên đi. Tôi cho cô em đi nhờ.” [] Một môn bóng chơi bằng gậy cong ở Ireland. Câu này được nói rất thản nhiên, cửa bên phía khách đã mở rồi. Tôi đang đọc thì giật mình. Tôi không nghe thấy tiếng xe này chạy lại. Người đàn ông ở ghế lái, cũng chưa từng thấy bao giờ. Hắn nghiêng người qua, nhìn tôi, tươi cười thân thiện kiểu sốt sắng. Nhưng mà giờ, ở tuổi mười tám, “tươi cười, thân thiện, sốt sắng” luôn khiến tôi tức thì cảnh giác. Không phải chuyện cho đi nhờ xe. Ở đây người có xe thường dừng xe và ngỏ lời cho những người đang ra vào khu này đi nhờ. Ngày ấy xe hơi không nhiều, còn phương tiện vận tải công cộng, vì báo động có bom và trưng dụng xe, cứ ít lâu lại bị thu hồi. Rà xe kiếm gái, từ này có lẽ mọi người ở đây biết, nhưng xảy ra ngoài thực tế thì chưa thấy bao giờ. Tất nhiên tôi chưa từng gặp vụ đó. Dẫu sao tôi cũng không muốn đi nhờ xe. Đó là nói chung chung. Tôi thích đi bộ — vừa đi vừa đọc, vừa đi vừa nghĩ. Còn nói cụ thể, tôi không muốn ngồi chung xe với người đàn ông này. Thế nhưng tôi không biết phải nói thế nào, bởi hắn không thô lỗ mà hắn lại biết gia đình tôi vì hắn đã kể tên đàn ông trong gia đình tôi để làm chứng, nên tôi không thô lỗ được vì hắn không thô lỗ. Thế nên tôi ngập ngừng, hay đứng trơ trơ, làm thế thật bất lịch sự. “Tôi đang đi bộ,” tôi nói. “Tôi đang đọc,” rồi tôi giơ cuốn sách lên, cứ như Ivanhoe giải thích được chuyện đi bộ, tính thiết yếu của việc đi bộ. “Cô em ngồi trên xe đọc cũng được kia mà,” hắn nói, và tôi không nhớ mình đáp trả ra sao. Rốt cuộc hắn cười và nói, “Thôi khỏi. Cô em đừng lo. Cứ đọc đi,” rồi hắn đóng cửa xe và phóng đi. Mời các bạn đón đọc Người Giao Sữa của tác giả Anna Burns & Thiên Nga (dịch).
Bước Chân Thiên Thần
Nhà văn Karen Kingsbury sinh năm 1963. Bà là một tiểu thuyết gia người Mỹ, sinh ra ở Fairfax, Virginia. Hiện tại bà đang sống ở Tennessee cùng chồng và các con. Là tác giả của nhiều câu chuyện truyền cảm hứng rất được yêu thích của Mỹ. Hơn 25 triệu bản các cuốn sách đạt giải thưởng của bà đã được in. Thông tin tác phẩm: Tyler Ames là một cầu thủ ném bóng chày đầy tài năng, người đã lựa chọn từ bỏ tất cả - từ việc học đại học cho đến cô bạn gái Sami để theo đuổi sự nghiệp bóng chày chuyên nghiệp. Tuy nhiên chấn thương nghiêm trọng trong trận đấu quyết định sự nghiệp của Tyler đã khiến anh mất gần như mọi thứ. Anh bị sa thải khỏi đội bóng của mình – điều đồng nghĩa với việc mất đi lý tưởng sống bấy lâu, không có tiền phẫu thuật, không thể trả tiền nhà, không còn đồng đội hay bất kì người bạn nào để có thể xin sự giúp đỡ, Tyler như rơi vào tận cùng của sự tuyệt vọng. Một thời gian sau, Tyler làm lao công ở nhà hưu trí Merrill Place. Tại đây, anh làm bạn với một bà cụ tên là Virginia, người đã nhầm tưởng anh thành con trai của bà. Tyler quyết định đóng vai và trò chuyện cùng bà cụ, giúp cho sức khoẻ của bà cụ được cải thiện, khiến mọi người xung quanh rất ngạc nhiên và vui mừng, đặc biệt là người chủ của nhà hưu trí cũng như con gái bà. Tyler cũng liên lạc với Sami trên Facebook. Hai người gặp nhau, tại đây cô mới biết sự thật là Tyler đã bị loại khỏi đội ngay sau chấn thương. Gặp nhau, trò chuyện và rồi tạm biệt nhau trong đắng cay, khi những hiểu lầm đã được sáng tỏ thế nhưng những bức tường ngăn cách họ vẫn còn tồn tại. Khi thế giới xung quanh quay lưng với bạn, khi chỉ còn một mình, tâm hồn bạn không có một phút giây yên ổn. Chúa, Thượng đế, thiên thần, bất cứ ai…họ có nghe lời cầu xin của bạn để giúp bạn vượt qua thử thách này? Xen lẫn giữa các sự kiện là sự can thiện tế nhị và bí mật của hai thiên thần Beck và Ember. Một nhóm các thiên thần trên thiên đường được lập ra để giúp đỡ những người con của Chúa. Mỗi nhân vật trong cuốn Bước chân Thiên Thần đều mang theo thông điệp về sự cố gắng, nỗ lực không từ bỏ dù hoàn cảnh có tồi tệ thế nào. Một cuốn sách không dễ quên bởi vì thông điệp của nó có thể an ủi tâm hồn bạn! *** Yêu gửi Donald Anh có nhận thấy cách mà thời gian đang trôi nhanh dần? Kelsey đã kết hôn được hai năm và Tyler đang ở giai đoạn nước rút đến kỳ tốt nghiệp đại học. Chẳng phải Chúa của chúng ta rất thành tín? Không chỉ những đứa con của chúng mình, mà cả gia đình mình còn được Ngài dẫn dắt đến nơi mà Ngài muốn. Em yêu cái bảng hiệu treo trong bếp nhà mình: “Tôi không được sinh ra ở miền nam, nhưng tôi đã đến đây nhanh nhất có thể”. Không có gì chân thực hơn ngôi nhà mới, và cuộc sống mới của chúng mình ở Nashville. Vẫn rất rõ ràng là Chúa muốn chúng mình ở đây. Nó không chỉ giúp cho nghiệp viết của em và việc được ở gần những bộ phim và âm nhạc Thiên Chúa giáo - mà còn cho các con của chúng mình, và cả chúng mình nữa. Em yêu cách anh bắt đầu trở nên tích cực hơn trong đoàn mục sư của em trong thời gian này và giúp đỡ các con thu hẹp khoảng cách giữa tuổi thiếu niên và tuổi vị thành niên. Giờ anh đã đi dạy và huấn luyện trở lại, chúng ta đều đang ở đúng nơi Chúa muốn. Cảm ơn anh vì đã kiên định, mạnh mẽ, tốt bụng và tử tế. Hãy nắm tay em và đi cùng em qua những khoảng thời gian sắp tới - những buổi tốt nghiệp, trưởng thành và già đi. Mọi thứ đều có thể nếu anh bên cạnh em. Hãy cùng nhau vui đùa, cười vui, hò hát và nhảy múa. Và chúng ta sẽ cùng nhìn các con tung cánh bay xa. Chuyến đi đó sẽ thật là ngoạn mục đến tuyệt vời. Em cầu mong điều đó tồn tại lâu dài cho đến những năm đầu bạc răng long. Đến khi đó, em sẽ tận hưởng việc không phải lúc nào cũng biết nơi mình kết thúc và anh bắt đầu. Em luôn luôn và mãi mãi yêu anh. --- Mến gửi Kyle Kyle, con đã trở thành một phần vô cùng quan trọng trong gia đình chúng ta. Con bây giờ và mãi mãi là con của bố mẹ, chàng trai mà Chúa đã dành cho con gái chúng ta, người đến mức chúng ta đã cầu nguyện và hi vọng và đã nói chuyện với Chúa. Con có trái tim đẹp đẽ ở nhiều mặt: cách con trân trọng những khoảnh khắc giản đơn và cách con là người tốt bụng mà không từ ngữ nào diễn tả được. Con thấy điều tốt trong con người ta và trong những tình huống và con tìm được cách để luôn dâng vinh quang đến Chúa. Mẹ thích nhìn con dẫn dắt Kelsey, trưởng thành cùng con bé trong niềm tin và cuộc sống và theo đuổi những giấc mơ của mình. Mẹ luôn kính nể sự thông thái mà con đã biểu lộ, vượt xa tuổi của con. Con là một tấm gương cho các con trai của chúng ta và là một hiện thân về cách một người chồng yêu thương vợ mình. Cảm ơn con vì điều đó. Dù vậy thì, mẹ vẫn ấn tượng về cách con ngắm Kelsey yêu quý - như thể là không có gì và không có ai trên thế giới này tồn tại ngoài con bé. Trong mắt con khi đó là hình ảnh của tình yêu. Đó là một khoảng thời gian đẹp, con và Kelsey cùng tham gia trong các sự kiện của mẹ, rồi dự án nhạc Thiên Chúa đơn ca đầu tiên của con thành hiện thực. Kyle à, khi Chúa đưa con từ sân khấu này qua sân khấu khác - sử dụng chất giọng tuyệt vời của con để làm vinh quang Ngài và dẫn dắt những người khác yêu quý Chúa - mẹ cầu nguyện rằng con sẽ luôn nhìn Kelsey theo cách con nhìn con bé ngày hôm nay. Chúng ta cảm ơn Chúa vì con, và chúng ta mong đợi những khoảng thời gian tươi đẹp sắp tới. Luôn yêu con! --- Thương gửi Kelsey Con gái quý báu của mẹ, mẹ cảm thấy rất hạnh phúc cho con và Kyle. Những giấc mơ của con về diễn xuất và ca hát cho Chúa Jesus trở nên rõ ràng, nhưng dù vậy thì chính là trái tim đẹp đẽ của con đã định nghĩa con người con một cách tốt nhất. Mẹ chưa từng thấy con hạnh phúc đến vậy, và mẹ luôn hướng về con và Kyle như là minh chứng cho sự thành tín của Chúa. Giờ đây, khi hai con đang hướng đến tương lai mà Chúa đã sắp đặt, khi hai con đang theo đuổi những giấc mơ và tỏa sáng rực rỡ cho Ngài trong tất cả những gì mà các con thực hiện, thì chúng ta sẽ ở đó vì cả hai con. Chúng ta sẽ cầu nguyện cho các con, tin tưởng ở các con và ủng hộ các con hết mình. Chúng ta cũng chúc mừng cho cuốn sách đầu tiên của con và Kyle, Sự theo đuổi: Khi Chúa viết nên câu chuyện cổ tích của bạn! Mẹ cầu mong cuốn sách đó sẽ đến được với thế hệ tương lai vì Chúa. Giờ đây, với cuốn sách đó và cùng với dàn âm nhạc của Kyle và sự diễn xuất của con, không còn giới hạn nào khi Chúa sử dụng hai con nữa. Trong khoảng thời gian đó, con vẫn sẽ luôn ở trong trái tim mẹ. Mẹ yêu con, con yêu. --- Thương gửi Tyler Thật khó mà tin được rằng con đã học đến năm thứ ba đại học, và sẵn sàng cho khoảng thời gian tới của những thử thách và những chuyến thám hiểm. Ngắm nhìn con trên sân khấu trong khoảng thời gian gần đây luôn là một trong những điểm sáng trong cuộc đời mẹ. Mẹ có thể tưởng tượng được hình ảnh ông của con đang dõi theo từ một nơi đặc biệt trên thiên đường. Ông sẽ ngồi ở hàng ghế trước nếu có thể, ngay cạnh bố con và mẹ. Nhưng có lẽ thời điểm mẹ yêu thích nhất là khi đọc bức thư điện tử từ một cô bạn của con. Cô bé nói mình đã đi du học nước ngoài một thời gian. Khi cô ấy trở lại, thì khoa đã khác trước. Tốt hơn. Tinh thần mạnh mẽ hơn. Cô ấy nói rằng không mất quá lâu để cô ấy nhận ra sự biến đổi là nhờ con. Chúa đã dùng con theo một cách thật tuyệt, Ty. Có nhiều khoảng thời gian thú vị trước mắt, mẹ khó mà đưa hết chúng vào được. Nhưng khi những giấc mơ của con được bộc lộ ra, chúng ta sẽ ngồi ở hàng ghế đầu và cổ vũ nhiệt tình trong khi ngắm nhìn chúng xảy ra. Hãy tin vào Chúa, con trai. Hãy tỏa sáng vì Ngài! Mẹ yêu con. --- Thương gửi Sean Mùa thu năm nay con hướng tới Đại học Liberty với giấc mơ được tham gia đội bóng bầu dục. Trong chuyến đi hướng đến thời khắc này, con vẫn đặt Chúa lên hàng đầu. Chúng ta rất tự hào về con vì điều đó. Chúa sẽ ban phúc cho con bởi cách mà con đã thành tín với những điều nhỏ nhặt. Chúa có một kế hoạch tuyệt vời cho con. Sean, con luôn luôn có thái độ tốt nhất, và giờ đây - kể cả khi thời điểm này khá khó khăn - con vẫn giữ được thái độ tốt đó. Hãy mừng vui, Chúa nói với chúng ta như vậy. Hãy thành thật. Hãy là người có chí khí. Tiếp tục làm việc, tiếp tục thúc đẩy, tiếp tục tin tưởng. Hãy lên giường mỗi tối và biết rằng con đã làm tất cả những gì có thể để chuẩn bị cho mình vì cánh cửa của Chúa sẽ mở ra trong những ngày sắp tới. Con là một món quà quý giá, con trai à. Mẹ yêu con. Hãy tiếp tục cười vui và tìm kiếm điều tốt đẹp nhất của Chúa. --- Thương gửi Josh Bóng đá là điểm khởi đầu khi con từ Haiti đến nhà mình, và bóng đá đã tạo nên một phần lớn cuộc sống của con. Mẹ chưa từng có giây phút nào nghi ngờ rằng con sẽ chơi bóng đá ở đội I NCAA[1], nhưng được nhìn thấy điều đó xảy ra là một trong những niềm vui lớn nhất của mẹ. Giờ đây mẹ cầu nguyện rằng con sẽ tiếp tục đi theo Chúa tại Đại học Liberty trong môn bóng đá và bóng bầu dục, Ngài sẽ tiếp tục dẫn dắt con để những bước đi của con luôn bám sát những bước chân của Ngài. Có điều này chúng ta biết: luôn có khả năng là con sẽ chơi thể thao đối kháng ở mức độ cao hơn. Chúa sẽ sử dụng con cho những điều lớn lao, và mẹ tin rằng Ngài sẽ đặt con lên bục cao để làm điều đó. Hãy tin tưởng mạnh mẽ vào Ngài, và lắng nghe lời thì thầm của Ngài để con có thể nhận ra hướng đi nào phù hợp với chính mình. Mẹ rất tự hào vì con, con trai. Mẹ sẽ luôn luôn cổ vũ cho con ở khu vực biên. Hãy đặt Chúa lên hàng đầu trong cuộc sống của con. Mẹ luôn yêu con. --- Thương gửi EJ EJ, thật khó tin là con đã bắt đầu học đại học! Bố mẹ rất vui vì con đỗ trường Đại học Liberty khi Sean quyết định chuyển qua học tại đây. Đó là trường đại học tốt nhất thế gian! Khi con bắt đầu khoảng thời gian này, mẹ rất vui vì con biết bố mẹ yêu con đến nhường nào, và bố mẹ tuyệt đối tin tưởng vào những kế hoạch mà Chúa dành cho con. Với những cơ hội mới mở ra trước mắt con, hãy dõi theo Chúa và con sẽ luôn luôn có đầy khả năng như bây giờ đây. Mẹ trông chờ vào những điều lớn lao từ con, và mẹ biết rằng Chúa cũng mong chờ như vậy. Mẹ rất vui vì con là một phần của gia đình ta - luôn luôn và mãi mãi. Cảm ơn vì trái tim san sẻ của con, EJ. Mẹ yêu con nhiều hơn con biết. --- Thương gửi Austin Austin, mẹ chỉ có thể nói rằng mẹ rất đỗi ngạc nhiên về sự nỗ lực của con trong năm học vừa qua. Con là một nhà lãnh đạo đấy, Austin. Mọi người đều đi theo tấm gương của con và đúng thế, mọi người sẽ muốn có con. Các ngôi trường sẽ muốn có con. Nhưng sau cùng mẹ cầu mong con ghi nhớ rằng con chỉ mạnh mẽ như sự tin cậy của con vào Chúa. Chỉ dũng cảm như sự kiên trì của con vào đức tin của Ngài. Câu chuyện của con là chuỗi những phép màu và chương tiếp theo cũng sẽ như vậy - mẹ tin là thế. Trong khoảng thời gian đó, bố và mẹ sẽ ở hàng ghế đầu tiên để cổ vũ cho con. Mẹ cầu mong Chúa sẽ cho con bục cao tuyệt vời nhất khi con phục vụ Ngài. Bầu trời là giới hạn, Aus. Giấc mơ của con là do con chọn lấy. Mẹ cảm ơn Chúa vì con, vì phép màu của cuộc sống của con. Mẹ yêu con, Austin. --- Và kính gửi Thượng Đế toàn năng, tác giả của sự sống Ngài đã và đang ban những phước lành này cho con. Mời các bạn đón đọc Bước Chân Thiên Thần của tác giả Karen Kingsbury & Nguyễn Thế Hiền (dịch).
Bộ Tột Cùng Hạnh Phúc
BỘ TỘT CÙNG HẠNH PHÚC là thiên sử thi về xã hội Ấn Độ phi lý tân thời: hỗn loạn, mâu thuẫn, bạo lực, bất công, điên rồ và vô lý, nó vừa là một chuyện tình bi thương vừa là lời phản kháng quyết liệt. Giọng văn của Roy khi tỉ tê, khi lớn tiếng, khi nghẹn ngào, và có khi với cả tiếng cười, cùng với thủ pháp khéo léo Roy đã dệt nên những câu chuyện đan xen về đẳng cấp và tôn giáo, về bản sắc giới tính và xung đột chính trị - Nhân vật chính là những thân phận bị hủy hoại, thế giới quan tan vỡ, những con người bên lề xã hội đang cố tìm cho một chỗ đứng. Cuốn tiểu thuyết tuy viết về hiện thực bất ổn, nhưng lại đem cho người ta những hy vọng về tình yêu, và những ngày đen tối nhất rồi cũng sẽ qua đi, ngày mai bao giờ cũng tới, tình yêu sẽ đến với những ai vẫn hy vọng dù đã từng thất vọng, vẫn tin tưởng dù từng bị phản bội, vẫn yêu thương dù từng bị tổn thương.  *** 'Bộ tột cùng hạnh phúc' và mặt tối của Ấn Độ "Bộ tột cùng hạnh phúc" là thiên sử thi về những mặt trái của xã hội Ấn Độ thời hiện đại: hỗn loạn, mâu thuẫn, bạo lực, bất công và vô lý. Tác giả Arundhati Roy (sinh năm 1961) là nhà văn, nhà hoạt động chính trị, xã hội tích cực người Ấn Độ. Tiểu thuyết đầu tay của bà The God of Small Things ra mắt năm 1997, giành giải Booker, đưa tên tuổi Roy nổi tiếng trên toàn thế giới. 20 năm sau, bà cho ra mắt cuốn tiểu thuyết thứ hai Bộ tột cùng hạnh phúc. Tiểu thuyết mới được NXB Hội Nhà văn và Tao Đàn phát hành tại Việt Nam, qua bản dịch của Thiên Nga.  Bộ tột cùng hạnh phúc là câu chuyện trải dài trong nhiều thập kỷ, với bối cảnh chính diễn ra ở Delhi và Kashmir (Ấn Độ). Tác phẩm thể hiện một giai đoạn đen tối và bạo lực của lịch sử Ấn Độ hiện đại, từ cải cách ruộng đất, vụ việc đốt cháy tàu Godhra năm 2002, cuộc nổi loạn Kashmir. Truyện chứa đựng những câu chuyện lớp lang, đan xen về tôn giáo, đẳng cấp, bản sắc giới tính, xung đột chính trị - cõi trần thế trần trụi và đầy khổ đau. Tác phẩm xây dựng hệ thống nhân vật phức tạp, hầu hết đều là những người bị hủy hoại, tổn thương, những con người bên lề xã hội đang cố tìm bình yên cho mình.  Anjum là một người phụ nữ chuyển giới, sợ hãi cuộc sống, vì thế cô tìm sự an bình bên những người chết - trong nghĩa trang. Ban đầu cô trải thảm nằm cạnh những ngôi mộ, dần dà dựng lên một nếp nhà che nắng che mưa, rồi lại nối thêm vào những căn phòng và đặc biệt căn phòng nào cũng có một hoặc hai ngôi mộ. Căn nhà chắp vá của Anjum trở thành Nhà trọ Jannat - Thiên đường. Lâu dần Nhà trọ Jannat trở thành tụ điểm cho dân hijra (người đã qua phẫu thuật để chuyển giới tính từ nam thành nữ) và những người lạc lối. Nơi ở tồi tàn ở chốn không ai muốn tới đã trở thành mái ấm không những cho Anjum mà còn cho vô số những con người khác cũng chịu số phận bất hạnh không kém cô, trong đó có Tilo. Tilo là một sinh viên ngành kiến trúc, cô có mẹ nhưng không được nhận mẹ, cô yêu Musa, một chiến binh giải phóng Kashmir, nhưng không được bên anh. Tilo nhặt được (hay đúng hơn là bắt cóc) một em bé bị bỏ rơi và đó cũng chính là mảnh ghép gắn cô vào cuộc đời của Anjum, một người “phụ nữ” luôn mong mỏi có một đứa con cho riêng mình. Những mảnh đời bị xã hội xô đẩy, giày xéo níu lại với nhau, nương tựa vào nhau. Những người lạ trở thành bạn bè, bạn bè trở thành gia đình. Họ tạo nên một chốn “thiên đường” cho riêng mình - nơi tột cùng hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên mà tiểu thuyết được đánh giá là thiên sử thi về Ấn Độ tân thời. Tác phẩm soi tỏ những mặt tối của đất nước đông dân thứ hai thế giới: những vụ bạo động, bạo loạn do xung đột sắc tộc, tôn giáo với chủ nghĩa dân tộc cực đoan; sự bất bình đẳng giới qua các vụ giết chóc, tra tấn, cưỡng hiếp phụ nữ; chênh lệch đẳng cấp; nghèo đói, thất nghiệp khắp nơi... Giọng văn của Roy khi tỉ tê, khi lớn tiếng, khi nghẹn ngào, và có khi ngập tràn tiếng cười. Với thủ pháp khéo léo, bà đã nhặt những mảnh vụn, ghép thành một bức tranh lớn lao với những gam màu đối chọi của hiện thực bất ổn, xã hội rối ren nhưng vẫn đem tới những hy vọng về tình yêu và hạnh phúc. Ra mắt năm 2017, Bộ tột cùng hạnh phúc đã đạt một số thành tựu nhất định. Tác phẩm lọt vào danh sách rút gọn giải thưởng Hindu 2017, đề cử giải Manbooker 2017, vòng chung kết Giải thưởng Sách Quốc gia 2018. *** “Bộ tột cùng hạnh phúc”: Thiên sử thi về Ấn Độ tân thời Phải đến hai mươi năm sau khi ra mắt tiểu thuyết đầu tiên, nhà văn Arundhati Roy mới dồn toàn lực cho ra cuốn tiểu thuyết thứ hai - Bộ tột cùng hạnh phúc (Tao Đàn và NXB Hội Nhà văn ấn hành). Tác phẩm được giới phê bình hết mực ca ngợi. Có thể xem Bộ tột cùng hạnh phúc là thiên sử thi về Ấn Độ tân thời: hỗn loạn, mâu thuẫn, bạo lực, bất công, điên rồ và vô lý. Chuốt những sợi tơ vò số phận của những con người bên lề xã hội, Arundhati Roy đã khéo léo dệt nên những câu chuyện lớp lang đan xen về đẳng cấp, tôn giáo, bản sắc giới tính, xung đột chính trị - cõi trần thế trần trụi và đầy khổ đau. Ấn Độ dưới ngòi bút của Roy không chỉ là một quốc gia với vốn văn hóa lâu đời, đặc sắc; một vùng đất hoang sơ với cảnh quan ngoạn mục, những công trình nguy nga tráng lệ; chốn hoa lệ với những cô gái, chàng trai xinh đẹp khoác tấm áo sặc sỡ mà đó còn là đất nước của chênh lệch đẳng cấp, xung đột tôn giáo, bạo động chính trị, kỳ thị giới tính... Những mặt tối của đất nước lớn thứ 7 về diện tích, đứng thứ 2 về dân số được Roy không ngần ngại soi tỏ trong tác phẩm của mình: Đó còn là nơi những người thuộc tầng lớp tiện dân sẽ chỉ được làm những công việc tay chân rẻ mạt, bẩn thỉu, các tầng lớp trên chạm vào họ sẽ bị ô uế. Những con người "lệch lạc" giới tính bị khinh rẻ đến cùng cực. Bạn có thể bị buộc tội giết bò đầy oan trái và bị hành hạ không thương tiếc. Bạn cũng có thể bị đối xử tệ bạc hay thậm chí mất mạng vì thứ tôn giáo bạn tôn thờ khác những người còn lại... Bộ tột cùng hạnh phúc có lượng nhân vật đồ sộ. Hết thảy đều là những thân phận bị hủy hoại với thế giới quan tan vỡ, những con người bên lề xã hội đang cố tìm một chốn “thiên đường” cho bản thân mình. Họ là những hijra (bán nam bán nữ), người nghiện, gái mại dâm, người Hồi giáo, trẻ mồ côi, chiến binh, quân phiến loạn... Nổi bật lên nhất là cuộc đời của hai “nữ” chính. Anjum, một người phụ nữ chuyển giới, sợ hãi cuộc sống, vì thế chị tìm sự an bình bên những người chết - trong nghĩa trang. Ban đầu chị trải thảm nằm cạnh những ngôi mộ, dần dà chị dựng lên một nếp nhà che nắng che mưa, rồi lại nối thêm vào những căn phòng và đặc biệt căn phòng nào cũng có một ngôi mộ (hoặc hai). Căn nhà chắp vá của Anjum trở thành Nhà trọ Jannat - Thiên đường. Lâu dần Nhà trọ Jannat trở thành tụ điểm cho dân hijra và những người lạc lối. Nơi ở tồi tàn ở chốn không ai muốn tới đã trở thành mái ấm không những cho Anjum mà còn cho vô số những con người khác - cũng chịu số phận bất hạnh không kém chị, trong đó có Tilo - nữ chính thứ hai. Tilo là một kiến trúc sư, cô có mẹ nhưng không được nhận mẹ. Tilo nhặt được (hay đúng hơn là bắt cóc) một em bé bị bỏ rơi và đó cũng chính là mảnh ghép gắn cô vào cuộc đời của Anjum, một người “phụ nữ” luôn mong mỏi có một đứa con cho riêng mình. Những mảnh đời bị xã hội xô đẩy, giày xéo níu lại với nhau, nương tựa vào nhau. Những người lạ trở thành bạn bè, bạn bè trở thành gia đình. Họ tạo nên một chốn “thiên đường” cho riêng mình - nơi tột cùng hạnh phúc. Giọng văn của Roy khi tỉ tê, khi lớn tiếng, khi nghẹn ngào, và có khi ngập tràn tiếng cười, cùng với thủ pháp khéo léo, bà đã nhặt những mảnh vụn tản mác, ghép thành một bức tranh lớn lao với những gam màu đối chọi của hiện thực bất ổn, xã hội rối ren nhưng vẫn lại đem cho người ta những hy vọng về tình yêu và hạnh phúc. Những ngày đen tối nhất rồi cũng sẽ qua đi, ngày mai xán lạn bao giờ cũng tới, tình yêu sẽ đến với những ai vẫn hy vọng dù đã từng thất vọng, vẫn tin tưởng dù từng bị phản bội, vẫn yêu thương dù từng bị tổn thương. Arundhati Roy (sinh năm 1961) là nhà văn, nhà hoạt động chính trị, xã hội tích cực người Ấn Độ. Bà nằm trong top 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2014. Cuốn tiểu thuyết đầu tay The God of Small Things xuất bản năm 1997 đã giành giải Booker và giúp Arundhati Roy trở nên nổi tiếng toàn thế giới. Sau đó, bà dành toàn bộ thời gian cho các hoạt động chính trị, xã hội cùng các tác phẩm phi hư cấu. QUỲNH YÊN *** Đến giờ huyền diệu, mặt trời đã lặn nhưng ánh sáng chưa tắt, từng đàn dơi gỡ mình khỏi đám cây đa trong khu nghĩa địa lâu đời rồi dạt qua thành phố tựa khói. Khi bầy dơi đi, đàn quạ trở về. Tiếng chúng huyên náo về nhà cũng không sao khỏa lấp được cảnh im ắng còn lại khi đàn chim sẻ biến đi, cùng lũ kền kền lưng bạc lâu đời, kẻ canh giữ người chết hơn trăm triệu năm nay đã bị xóa sổ. Kền kền chết vì nhiễm độc diclofenac. Thứ aspirin dành cho bò, cho gia súc uống để giãn cơ, dịu đau và tăng sản lượng sữa, phát tác - phát tác rồi - thành chất độc thần kinh ở loài kền kền lưng bạc. Mỗi con bò hay trâu cho sữa được ngơi sức nhờ hóa chất chết đi đều thành mồi độc cho kền kền. Khi gia súc biến thành những cỗ máy chế biến bơ sữa tốt hơn, khi thành phố ăn nhiều kem, bánh quy bơ, bánh xốp, kẹo sô cô la hơn, khi họ uống nhiều sữa lắc vị xoài hơn, thì cổ kền kền bắt đầu gục xuống như thể chúng đã mệt và đơn giản là không còn tỉnh táo được nữa. Dãi nhễu xuống từ mỏ thành chòm râu bạc, rồi từng con một trên cành rơi rụng xuống đất, chết. Không mấy ai nhận thấy lũ chim già thân thiện ra đi. Còn quá nhiều thứ khác để trông chờ. Mời các bạn đón đọc Bộ Tột Cùng Hạnh Phúc của tác giả Arundhati Roy & Thiên Nga (dịch).
Bãi Hoang
JEAN-RENÉ HUGUENIN VÀ BÃI HOANG Một con ong chết. Nắng xế qua triền cửa sổ. Mùa hè đổi hướng. Cummings chết: tôi không buồn. Hemingway, Blaise Cendrars, Hermann Hesse, Faulkner chết: tôi không buồn. Một con ong chết: tôi buồn lắm. Jean-René Huguenin chết: tôi buồn lắm. Anh mới hai mươi sáu tuổi và chỉ mới xuất bản một tác phẩm: La Côte Sauvage (Bãi hoang) là quyển tiểu thuyết duy nhất của anh. Anh viết tiểu thuyết quá buồn. Nắng chiều. Đêm. Đêm tối. - Tôi không biết. Anh đã tìm thấy gì? - Một con ong chết. Je ne sais pas. Qu’est - ce que vous avez trouvé? Une abeille morte. Jean-Rene Huguenin đã viết hai câu trên trong quyển La Côte Sauvage (tr. 57). Pierre, nhân vật trong quyển ấy, là một chàng trai trẻ rất buồn, một người cô độc, một kẻ ích kỷ không tự thương mình: L’egoiste qui ne s’aime pas (tr. 70). Pierre yêu người em gái của một người bạn thân chàng… Một hôm, Pierre bỗng tìm thấy một con ong chết trên triền cửa sổ. Et ce fut l’autre versant de l’été, le jour où Pierre découvrit, sur le rebord de sa fenêtre, une abeille morte (tr. 65). Lòng người luân lưu thay đổi như những cây dương xỉ vàng sẫm, như hoa bát tiên chóng tàn, như những ngày xế bóng thoi đưa, như những con ong khô chết. Alors l’évidence éclatait: les fougères brunissaient, les hortensias se fanaient, les jours déclinaient plus vite, les abeilles mouraient - c’était l’autre versantde l’été (tr. 65). Ừ, hỏi làm gì? Đời là ngộ nhận triền miên. Người làm gì biết được. Mỗi người là một vạn lý trường thành, chắn lại hết giao thông. Người làm gì hiểu được ta. Ngộ nhận chân lý: chắc người không hiểu tôi đã tìm thấy gì trên triền cửa sổ vào buổi sáng nay? Vous ne savez pas ce que j’ai trouvé ce matin sur le rebord de ma fenêtre?(tr. 66). * * * Năm 1962, báo Pháp đăng tin rằng Jean-René Huguenin đụng xe chết. Như James Dean, Albert Camus. Tôi giở lại quyển La Côte Sauvage và tình cờ gặp lại một đoạn văn như sau: - Người ta không chết vì buồn chán. - Không, không phải vì buồn chán. Mà không vì một căn cớ nào. Tôi sẽ chết như vậy, không một căn cớ nào. On ne meurt pas d’ennui. Non, pas d’ennui. De rien… Je mourais comme çà, de rien. (tr. 86). Jean-René Huguenin sinh ngày 1 tháng 3 năm 1936 tại Paris, bắt đầu viết văn hồi còn rất nhỏ, viết báo vào năm 18 tuổi, xuất bản quyển La Côte Sauvage vào năm 24 tuổi và chết ở tuổi 26. * * * Nhân vật chính của La Côte Sauvage là Olivier. Chàng đi quân dịch vài năm rồi được giải ngũ trở về sống lại với gia đình. Gia đình chàng chỉ gồm có mẹ, chị và em gái. Quê hương chàng buồn lắm. Biển. Gió. Đá cuội. Sương mù. Olivier rất yêu em gái, nhưng không thích chị. Sau hai năm nhập ngũ, lúc trở về lại đời sống bình thường, Olivier thay đổi. Chàng cảm thấy cô đơn dị thường. Đứa em gái chàng tên là Anne, chàng thương Anne ngay từ thuở bé thơ. Bây giờ chàng được tin em sắp lấy chồng; chồng Anne là bạn thân của chàng, tên Pierre. Pierre và Anne đầm ấm xoắn xuýt nhau. Olivier cô đơn. Olivier định ngăn cản đám cưới. Những thoáng nhìn, những câu hỏi xa xôi, những cử chỉ thông thường của Olivier đã khiến Pierre buồn nhiều. Pierre chán nản. Một dạo, Olivier cũng khiến Anne chán Pierre. Olivier vẫn muốn Anne sống mãi bên cạnh chàng. Tại sao thế? Thực khó trả lời. Sau cùng, Pierre và Anne vẫn lấy nhau. Họ dẫn nhau đi Paris và Tây Ban Nha. Chỉ còn Olivier ở lại sống cô đơn. Quyển La Côte Sauvage đưa tôi vào nỗi cô đơn mênh mông của Olivier, của Pierre. Lối văn của Huguenin rất ngắn và giản dị. Tôi đã đọc quyển La Côte Sauvage đến hai lần. Thế mà tôi không thể nào viết nhiều về quyển này vì La Côte Sauvage là một quyển sách để đọc, cảm và im lặng. Chúng ta đã tìm được sao mai rồi? PHẠM CÔNG THIỆN *** Bãi hoang là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Jean – Rene. Xoay quanh câu chuyện của Oliver, Pirre, và Anna, những tâm tình sâu kín của tuổi trẻ mênh mang được biểu hiện sâu sắc. Jean – Rene Huguenin viết Bãi hoang khi anh 24 tuổi. Hai năm sau, anh mất vì tai nạn giao thông. Anh lưu dấu lại cuộc đời ở tuổi 26, mãi mãi tuổi hoa niên. Ở Pháp. Mùa hè. Trên những bãi biển. Hoàng hôn. Bình minh. Những bữa tiệc trà. Những buổi đi dạo. Những nhân vật của Bãi hoang loanh quanh trong cái khoảng không gian mùa hè bao trùm ấy. Không khí mùa hè ấy từng khiến Meursault vô thức giết người (Người xa lạ, Albert Camus); Aschenbach chết trong trạng thái mê man đẹp đẽ (Chết ở Venice, Thomas Mann)... Trong mùa hè, Elio Perlman và Oliver đã sống rực rỡ bên nhau trong tình yêu (Gọi em bằng tên anh, đạo diễn Luca Guadagnino); François và Maïté đã trải qua những xúc cảm nổi loạn trước ngưỡng cửa trưởng thành (Những cành lau dại, đạo diễn André Téchiné)… Ở Bãi hoang của Jean - Rene, Oliver là người lính giải ngũ từ Paris trở về quê nhà sống với gia đình, có mẹ, em gái và chị gái. Oliver sống mùa hè trẻ tuổi cuối cùng bên cạnh người yêu dấu của riêng mình. Anne là người yêu dấu của Oliver. Tình cảm giữa họ không giống như những tình cảm anh trai em gái thông thường. Jean – Rene bằng ngòi bút văn chương tinh tế, dịu dàng của mình đã gợi ra nhiều khoảnh khắc tuyệt đẹp của Anne và Oliver. Họ sát gần nhau, thì thầm với nhau, họ an ủi nhau, trách hờn nhau, nhưng ở đó, dưới ánh hoàng hôn của bãi biển, khi mặt trời dần xuống, họ lặng lẽ đi bên cạnh nhau, như đan cài trong nhau. Khi hay tin Anne sắp kết hôn với Pierre, người bạn thân nhất của chàng, Oliver hoang mang, chàng đóng mình trong tình cảm của chính bản thân. Hai người thương mến ấy bỏ chàng lại quê nhà buồn bã, bên bờ biển vắng lặng, để đi Paris, đi Tây Ban Nha. Họ kết hôn. Chỉ còn lại Oliver, buồn bã, cô đơn, và đợi chờ. Cho đến những trang cuối cùng của cuốn sách, biển vẫn mênh mang ngoài kia, cùng Oliver mỏi mệt. Cốt truyện giản đơn, nhưng đượm không khí hư ảo của mùa hè, với những gặp gỡ và tan rã, Jean - Rene đã tạo nên tiểu thuyết đẹp đẽ vô cùng. Khung cảnh ba người trẻ tuổi ở bên cạnh nhau, trên bãi biển, cảm giác “luôn tránh làm tổn thương nhau, làm mất đi sự đồng tình tế nhị”, cũng đã diễn tả được một vòng tròn ba người vừa gắn bó, vừa thân tình, vừa sợ sệt. Khung cảnh mờ nhòe bởi lớp mù sương của thời gian, của kỷ niệm càng dễ tạo được sự cảm động đối với độc giả. Theo dõi bóng dáng Anne, Pierre và Oliver bên nhau, tưởng như họ vừa có mặt ở đây (hiện tại), vừa có mặt ở đó (quá khứ). Thế giới của họ, thật mơ hồ như những ảnh hình trong nắng chói mùa hè. Khi mùa hè gần tàn, chỉ còn Oliver ở lại quê nhà. Khi ấy, chàng nghĩ gì chăng? Chàng có còn buồn vì “một con ong mới chết”, hay chàng vẫn buồn vì “mùi hương” Anne đã rời bỏ chàng hẳn rồi. Dẫu mùa hè đã đi qua, người yêu đã xa lìa nhưng trong mộng tưởng của Oliver, Anne ngự trị ở đó, hệt như lời William Shakespeare đã viết trong bài thơ Sonnet số 18 của mình: “But thy eternal summer shall not fade” (Chỉ mùa hạ của nàng không chút hư phai). Anne trong tâm hồn Oliver, sẽ mãi lấp lánh ở đó, mặc mùa hè trôi đi. Bãi hoang của Jean - Rene không phải nhấn ý vào tình cảm loạn luân. Tình cảm giữa Oliver và em gái Anne, là thứ tình cảm thuần khiết, như sự gắn kết tự nhiên của đất trời. Jean –-- Rene chết trẻ quá. 26 tuổi, trẻ như mãi mãi tuổi 20. Anh chỉ có một tác phẩm để lại. Jean - Rene cũng giống như Alain Fournier, tử trận khi 27 tuổi, với cuốn tiểu thuyết duy nhất, Kẻ lãng du. Bãi hoang và Kẻ lãng du đều là những mộng mơ tuyệt đẹp của tuổi trẻ, với những tình cảm thênh thang về tình bạn, tình yêu, về mộng ước. Nhưng nếu Kẻ lãng du, Meaulnes chìm đắm trong cuộc phiêu lưu quyến rũ, với nhiều thi vị, thì Oliver của Bãi hoang tự ấp ủ mình trong nỗi cô đơn buồn bã. Một nỗi buồn thật thanh tân của Kẻ lãng du, hay một nỗi buồn ngập tràn cô độc của Bãi hoang, đều khiến tuổi trẻ trở thành dấu vết rực rỡ. Hai nhà văn trẻ tuổi tạo nên hai nhân vật trẻ tuổi, dẫu họ đã từ biệt cõi tạm này rồi, nhưng tuổi trẻ của họ, Oliver và Meaulnes, độc giả không thể nào quên. Bãi hoang được viết bằng ngôn ngữ văn chương giản dị, ngắn gọn, nhưng đẫm chất tình thơ. Chàng tác giả trẻ tuổi đã thực sự dụng công trong việc trau chuốt ngôn từ, dùng ngôn từ để bộc bạch, nâng niu những rung động của tâm tư Oliver, Anne hay Pierre. Bản tiếng Việt của Bãi hoang do dịch giả Huỳnh Phan Anh chuyển ngữ. Một tác phẩm dịch xuất sắc. Bản dịch cô đọng, súc tích, với tiếng Việt tinh hoa được chắt lọc tinh tế, cẩn trọng. Huỳnh Phan Anh đã dịch nhiều tác phẩm kinh điển nổi tiếng như Tình cuồng (Raymond Radiguet, dịch chung với Nguyễn Nhật Duật), Tình yêu và lý tưởng (Thomas Mann), Tình yêu và tuổi trẻ (Valery Larbaud), Thời gian của một tiếng thở dài (Anne Philipe), Lạc lối về (Heinrich Boll)… Ngoài dịch thuật, ông còn viết phê bình, nghiên cứu, làm báo, viết văn, và mảng nào cũng để lại dấu ấn quan trọng. Thủy Nguyệt   Mời các bạn đón đọc Bãi Hoang của tác giả Jean-René Huguenin & Huỳnh Phan Anh (dịch).