Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dải Sam

Một người phụ nữ thuộc tầng lớp bần cùng và bị khinh rẻ nhất trong xã hội Ấn Độ, người phải đi nhặt phân sống của dân làng bằng đôi bàn tay trần. Một cô gái trẻ đang sống bình yên tại một miền biển nước Ý, ngày ngày cần mẫn làm việc trong xưởng sản xuất của gia đình. Và một nữ luật sư danh tiếng tại vùng biển Canada, với hai đời chồng, ba đứa con cùng một sự nghiệp đầy hứa hẹn. Dải Sam là một câu chuyện cảm động về 3 người phụ nữ này, những người phụ nữ không chịu khuất phục trước số phận mà người khác đã định đoạt cho họ. Bạn có thể lướt qua họ hàng ngày trên đường phố. Trước con mắt vô tình của bạn, họ hiện ra như những người hết sức bình thường, nhưng bạn không hề biết về cuộc tranh đấu mà họ đang theo đuổi có khi phải đánh cược bằng cả mạng sống. Cuộc đấu tranh mà bạn không hề biết tới ấy, chúng thật sự phi thường. Smita, Giulia và Sarah sẽ khiến bạn phải tự hỏi: Nếu ở vào hoàn cảnh của họ, liệu bạn có thể có sự can đảm và quyết đoán đến thế không? Và rồi bạn sẽ tìm được câu trả lời cho chính mình, rằng ta buộc phải trở lên mạnh mẽ không ngờ khi ra rơi vào hoàn cảnh không có sự lựa chọn nào khác. *** Ngay trong hai tuần đầu phát hành, tác phẩm “Dải sam” (tên gốc La Tresse) của nữ nhà văn người Pháp Laetitia Colombani đã tạo ra một cơn sốt mới khi cuốn sách này bán được 54.000 bản. Hai tháng sau đó, số ấn phẩm bán ra đã tăng thêm 15.000 bản. Tính đến tháng 3-2018, 340.000 bản của cuốn sách này được độc giả nồng nhiệt đón mua, đây thực sự là niềm ao ước của rất nhiều nhà văn. Không những vậy “Dải sam” còn mang về cho Laetitia Colombani vô số giải thưởng danh giá như Cúp Văn học năm 2017; Quả cầu Pha-lê năm 2018…, một thành tích nổi bật trong chuỗi hoạt động nghệ thuật của cô. “Dải Sam” xoay quanh số phận của ba người phụ nữ ở những quốc gia khác nhau. Thay vì thuật lại đời sống của từng nhân vật, tác giả đã lựa chọn cách kể xen kẽ từng khoảnh khắc cũng như các biến cố trong cuộc đời của những người phụ nữ ấy. Ba người phụ nữ ở ba vùng đất khác nhau và tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến nhau nhưng với cách dẫn dắt của tác giả, người đọc đã cảm nhận được sự liên quan đầy thú vị giữa họ và dần tìm ra câu trả lời vì sao tác phẩm lại có tên gọi là “Dải Sam”.  Tác phẩm mở đầu với câu chuyện về Smita, một người phụ nữ Ấn Độ làm nghề dọn nhà xí. “Công việc của Smita đang làm, quả thật, không một từ ngữ nào có thể dùng để miêu tả được nó. Việc của cô là đi nhặt phân của những người khác với đôi tay trần từ sáng đến tối”. Smita vẫn nhớ cái cảm giác lần đầu tiên theo mẹ làm công việc này. “Cô đã nôn thốc, nôn tháo ở vệ đường. Smita đã học cách nín thở. Giá mà cô có thể sống mà không cần thở, nhưng rõ ràng là cô cần phải thở. Hãy nhìn xem cô ho đến mức nào. Cô cũng cần phải ăn nữa chứ. Đã từ lâu Smita mất đi cảm giác ngon miệng khi ăn. Đói ư? Cô đã không còn nhớ được cảm giác đói là như thế nào nữa rồi”. Không những vậy, cô không được phép chạm mặt những người dân làng và lại càng không được phép trò chuyện với họ. Cô không chỉ là kẻ bần cùng không ai đếm xỉa đến mà cô còn phải vô hình. Chồng cô, Nagarajan làm nghề tìm bắt chuột với hai bàn tay không. Anh cũng không thể quên ngày đầu theo bố làm công việc này. Khi đó, anh mới lên 8 tuổi. Bố Nagarajan đã dạy anh cách nhận biết những lỗ nhỏ xíu, nơi trú ẩn của loài chuột trên mặt đất. Đó là những dấu hiệu vô cùng đặc trưng. Vào ngày hôm đó, khi anh luồn tay vào trong cái lỗ. Một cơn đau nhói chạy dọc làn da, con chuột đã cắn vào phần da mỏng nhất trên tay anh. Nagarajan đã hét lên và bàn tay anh đẫm máu. Những người Dalit như Nagarajan không được nhận thù lao, họ chỉ có quyền giữ lại những gì mình kiếm được và vì thế, chuột là những gì anh được nhận. Buổi tối, gia đình anh ăn những con chuột nướng với cơm. Nghề nhặt phân và nghề bắt chuột đều là những công việc “cha truyền con nối”. Như lời tác giả đã viết, đó là “một vòng tròn mà không ai có thể thoát ra. Một cái nghiệp nặng nề!”. Vào buổi sáng nọ, Smita đã đưa ra một quyết định liều lĩnh, đó là đưa con gái 6 tuổi của cô, Lalita đến trường. Cô cho rằng, đó là cách giúp con gái cô thoát khỏi cái công việc bẩn thỉu và bị xã hội khinh rẻ. Nhưng mọi chuyện đâu dễ dàng như những gì cô nghĩ. Dù lão thầy giáo đã nhận tiền của Smita và nhận con gái cô nhưng ngay trong ngày đến trường đầu tiên, tất cả những gì con bé Lalita nhận được chỉ là những làn roi mây đánh đập khiến làn da đứa trẻ “như bị chẻ nứt làm đôi, những vết máu vẫn còn mới đây. Sắc đỏ son tứa ra như dấu chân bindi trên trán”. Đâu chỉ dừng lại ở đó, đứa trẻ 6 tuổi ấy còn phải hứng chịu những lời phỉ báng: “Mày sẽ chết trong đống phân như mẹ mày và bà mày. Sẽ chẳng có gì ở đây dành cho chúng mày, lũ tiện dân, thứ đồ bỏ đi của nhân loại, không có gì ngoài thứ mùi ô nhục ghê tởm đó, qua hàng thế kỉ, chỉ có phân của những kẻ khác, chất thải của thế giới này là thứ để chúng mày lượm lặt”. Đến giờ ăn trưa, lão thầy giáo còn tịch thu hộp cơm của Lalita và không cho cô bé ăn. Trước những hành động thô bạo, đầy khinh miệt, cô bé không khóc, không gào thét, không hé răng nửa lời, không cầu xin. Cô bé thật mạnh mẽ, đầy phẩm cách!  Smita cảm thấy tự hào cho sự dũng cảm của đứa con gái bé nhỏ nhưng người phụ nữ chưa bao giờ tỏ ra yếu mềm, đầu hàng trước những cay đắng mà cuộc sống đưa lại ấy bỗng chốc trở nên nhỏ bé như chính đứa con của cô và bật khóc cho những hy vọng nhỏ nhoi vừa bị dập tắt của cô. Cô đã khao khát nhưng không thể mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn cho con gái của cô. Tuy vậy, Smita không bỏ cuộc. Cô đã trải qua nhiều đêm không ngủ và khi cô nghe người ta nhắc đến Chennai, vùng đất dành riêng cho những người Dalit, nơi đó có trường phổ thông và đại học. Không những vậy, tới đó, gia đình cô sẽ không phải ăn thịt chuột mỗi bữa, cô chẳng còn phải đi nhặt phân. Cô và chồng sẽ tìm được công việc mới và họ sẽ được mọi người tôn trọng. Một tương lai tươi sáng đang hiện ra trước mắt cô. Và cô đã đưa ra một quyết định táo bạo nhưng cũng vô cùng nguy hiểm: bỏ trốn. Anh Nagarajan, chồng cô tìm mọi lý lẽ để thuyết phục vợ. Anh lo sợ, khi bị phát giác, gia đình anh sẽ bị trừng phạt khủng khiếp. Chắc chắn, họ sẽ chết trong mục ruỗng, chết theo cách thảm khốc nhất có thể. Người ra sẽ không bao giờ buông tha cho con gái họ. Và một điều khác, họ hoàn toàn trắng tay vì họ đã trao hết số tiền tích góp còm cõi cho thầy giáo Lalita để con bé được đi học. Smita quyết định lấy lại số tiền thầy giáo Lalita đã nhận của vợ chồng cô. Cô biết vợ lão ta giấu ở đâu và cô sẽ tới để cầm đi đúng số tiền của mình, không hơn một roupie. Smita đã kiên cường mang theo đứa con gái bỏ trốn, kể cả khi chồng cô không đi theo. Vượt qua bao khó khăn, thử thách, nỗi sợ hãi bị phát hiện trên suốt quãng đường trốn chạy, cuối cùng, cô và con gái đã an toàn đặt chân đến ga Tirupati. Smita quyết định không đến Chennai như dự kiến, cô sẽ cùng con gái đi về phía ngọn núi linh thiêng Tirumala để tạ ơn Lord Venkateshwara, vị “Chúa tể của Bảy Ngọn Đồi” – một trong những hoá thân của thần Vishnou. Người ta tin rằng, Ngài sẽ nghe thấy tất cả những lời thỉnh cầu trong đau khổ của người dân và biến những mong muốn đó thành hiện thực. Khi bước chân đến Đền Thờ Vàng, Smita và con gái cũng giống như những người nghèo khổ khác, họ đã dâng lên Lord Venkateshwara thứ tài sản duy nhất của họ, đó là mái tóc. Truyền thống này vẫn được duy trì đến ngày nay dù tuổi đời của nó cũng lên tới cả hàng vạn năm. Người dân dâng lên thần linh mái tóc của họ nhằm thể hiện rằng, họ sẵn sàng hy sinh cái “tôi” của mình, chấp nhận xuất hiện trước Chúa trời trong hình hài khiêm nhường nhất, trần trụi nhất. Smita nhìn thấy dưới chân mình một mớ tóc đen huyền, đó từng là một thời trở một phần của cô nhưng giờ đã trở thành ký ức. Cô cảm nhận tâm hồn và thể xác mình hoàn toàn tinh khiết, như được ban phước lành và đã sẵn sàng cho một tương lai tươi sáng ở phía trước. Tác giả không kể tiếp đoạn sau của cuộc đời Smita và con gái của họ ra sao nhưng bà đã ưu ái dành những lời văn tràn đầy hy vọng để kết thúc câu chuyện của Smita như sau: “Khi rời khỏi Điện Thờ Vàng, tay nắm chặt tay con gái, Smita không cảm thấy buồn bởi cô biết chắc một điều, trước lễ vật của họ, Chúa Trời sẽ biết cách để tỏ lòng đền đáp”. Ai sẽ giúp Giulia cứu lấy xưởng làm tóc bên bờ vực phá sản của gia đình cô? Mái tóc của hai mẹ con Smita đã vượt qua nhiều đại đại dương và bao vùng đất để đến với xưởng làm tóc của gia đình cô gái Giulia (sống ở Sicillia, nước Ý). Chính mái tóc của những người phụ nữ như Smita đã mang đến cuộc sống mới cho xưởng làm tóc lâu đời ngấp nghé bờ vực phá sản của gia đình Giulia cũng như mối tình rạo rực, đầy yêu thương giữa cô và người đàn ông nhập cư, không xu dính túi. Có thể nói, tác giả đã dành những trang văn vô cùng lãng mạn để miêu tả chuyện tình giữa Giulia và người đàn ông khiến cô chưa bao giờ cảm thấy bối rối đến thế, Kamaljit Singh. Lần đầu tiên cô gặp Kamal là khi anh xuất hiện trong một lễ diễu hành trên phố. Và lần đầu tiên họ bắt chuyện với nhau là khi cô vô tình gặp lại anh tại một thư viện. Lần này, cô đã bạo dạn tiến gần đến anh và ngỏ ý giúp anh lựa chọn một cuốn sách cải thiện khả năng viết bằng tiếng Ý. Chàng thanh niên da sẫm màu Kamaljit Singh đã cầm lấy cuốn sách và không quên cảm ơn cô trước khi ra về. Ngày hôm sau, Giulia quay trở lại thư viện và ấp ủ niềm hy vọng thầm kín sẽ được nhìn thấy anh thêm một lần nữa. Và điều mong ước ấy đã hiện ra trước mắt cô. Cô thật sự bất ngờ và trái tim cô như ngừng đập khi nhìn thấy chàng trai kia đang đứng đúng chỗ họ trò chuyện ngày hôm và vô tình ngước mắt về phía cô như thể anh đang chờ cô tới. Thì ra, lý do anh đến đây là bởi, anh muốn mang tặng cô một chai dầu ô liu ở trang trại anh làm việc để cảm ơn cô. Cảm động trước sự chu đáo, dịu dàng và phẩm cách của anh, Giulia ngỏ ý mời anh đi dạo vài bước cùng cô trên con đập chắn sóng. Kể từ sau ngày hôm đó, cả hai gặp nhau mỗi ngày. Họ hẹn nhau ở thư viện, cùng nhau đi ăn trưa và cuối cùng là đi dạo bên bờ biển. Điều khiến cô vừa tò mò vừa thích thú ở người đàn ông này là vì anh không giống như những người đàn ông trong gia đình cô. Nét tính cách phổ biến của họ là gia trưởng, dễ nổi nóng và ngoan cố.  Chuyện tình của họ ngày càng đi xa hơn, cho đến một ngày, Giulia dẫn anh đến một cái hang, không ai biết tới. Cô muốn chỉ cho anh thấy, đó là nơi thỉnh thoảng cô thường tìm đến để đọc sách. Đó thực sự là nơi yên tĩnh, ẩm ướt và tối tăm. Và rồi chuyện đó cũng đã đến! Mời các bạn đón đọc Dải Sam của tác giả Laetitia Colombani.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Đời Tài Sắc
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Một Đời Tài Sắc của tác giả Hồ Biểu Chánh. Năm 1929 tháng Juillet. Mưa dầm dề luôn mấy ngày, rồi một buổi chiều sớm mơi, bầu trời thanh bạch, mặt trời ló ra chói nắng sáng lòa. Cây cối bị ướt loi ngoi mấy bữa, nay gặp nắng lại, giũ lá phơi ngành, trổ bông đâm tược, từ ngoài ruộng vô tới trong vườn, khoe một màu xanh lặc lìa, coi thiệt là khỏe mắt. Ông Hội đồng Võ Kế Nghiệp, nhà ở làng Phú Lợi gần chợ Cái Tắc, thuộc tỉnh Cần Thơ, có tánh hay trồng bông trồng kiểng; mấy bữa rày bị mưa, ông không chăm sóc kiểng vật của ông được, nay thấy trời nắng, ông mới bước ra sân. Con gái lớn của ông là Võ Thị Xuân Hương, 18 tuổi, học trên Sài Gòn, thi đậu, ông mới rước về, cô cũng đi theo ông ra ngoài sân mà thăm hoa xem kiểng. Ông hội đồng tay cầm cái kéo nhỏ, đi vòng theo mấy chậu bùm sụm, quít tàu, càng thăng mà hớt đọt bắt sâu. Cô Xuân Hương thì đi dài theo mấy liếp bông hường, lo chỏi mấy nhánh bị mưa oằn, gặp cái bông nào tốt thì cô cầm mà coi, mặt gần bông, bông giọi mặt. Mặt càng đẹp, bông càng xinh. Thình lình nghe có tiếng xe hơi ồ ồ ở xa chạy lại, tới ngang cửa, xe chạy chậm rồi quanh vô sân. Ông hội đồng ngó ra rồi nói với con rằng: „Xe nầy của ông Cai Tổng bên Thạnh Hòa mà". Xe ngừng giữa sân, hai vợ chồng ông Cai Tổng Hà Thiện Bình leo xuống. Ông hội đồng bước tới chào mừng. Cô Xuân Hương cũng lại gần chấp tay cúi đầu thi lễ. Bà Cai Tổng Bình ngó cô Xuân Hương và hỏi rằng: - Bày trẻ ở nhà coi nhựt trình nói con thi đậu bằng cấp gì đó rồi phải hôn? - Dạ thưa phải. Con thi đậu „Brevet Élémentaire". - Giỏi à! Bác nghe nói nên lật đật qua đây mà mừng cho con. Thằng Ý ở bên Tây nó cũng đậu Tú Tài kỳ nhì rồi, nó mới đánh dây thép về hôm qua. Có má con ở nhà hôn? - Thưa có. Ông Cai Tổng Bình tiếp hỏi Xuân Hương rằng: - Con đậu „Brevet Elémentaire" rồi con tính đi học nữa hay là thôi? - Thưa, con tính xin với má cho con học thêm ít năm nữa đặng thi „Brevet Supérieur". - Được a. Con học được thì học luôn cho đến cùng. Thằng Ý đậu Tú Tài rồi nó tính học luật. Học luật phải học 3 năm nữa mới được Cử Nhơn. Ông Hội đồng Nghiệp mời khách vô nhà. Bà hội đồng nghe nói có hai vợ chồng ông Cai Tổng Bình qua thì bước ra cửa mà tiếp chào. Ông Cai Tổng Hà Thiện Bình, nhà ở làng Thạnh Hòa, thuộc tỉnh Rạch Giá dựa bên cái lộ mới Long Xuyên - Rạch Giá kêu là lộ Cái Sắn. Ông Cai Tổng với ông Hội đồng Nghiệp vốn là bạn đồng hương, hai người hồi nhỏ ở Thục Nhiêu, thuộc tỉnh Mỹ Tho. Ông Hội đồng là con nhà giàu, rủi chừng ông cưới vợ rồi, cha mẹ lại suy sụp, gia tài bị chủ nợ thi hành phát mãi hết, ông phải qua Cái Tắc theo ở quê vợ mà nương dựa làm ăn. Ông lặn lội nhen nhúm lần lần, lại nhờ tám chín năm nay lúa gạo cao giá luôn luôn, ông dùng ít mà gây ra nhiều, nên hiện bây giờ ông có một cái nhà tốt mới cất tốn trên 12 ngàn đồng bạc lại có gần 100 mẫu ruộng trong làng Phú Lợi, 200 mẫu trong Kinh Xà No, và mới đấu giá mua thêm 200 mẫu bên làng Thạnh Hòa, thuộc hạt Rạch Giá nữa. Ông mới 42 tuổi, vợ chồng sanh được ba đứa con, đứa lớn là cô Xuân Hương đã thấy đó rồi, đứa giữa, con trai mới 15 tuổi học Tú Tài năm thứ tư, tại trường Chasseloup Laubat, còn đứa út cũng con trai, còn học tại Cần Thơ. Còn ông Cai Tổng Bình hồi trước thiệt tên Huỳnh, làng cử ông làm thôn Trưởng, ông xài thâm công nho hơn 1.000 đồng bạc, sợ tội nên bỏ xứ dắt vợ con mà trốn, để cho hương chức Hội tề giăng tay đậu tiền bồi thường. Vô Rạch Giá ông đổi tên lại là Hà Thiện Bình, nương náu ở làng Thạnh Hòa mà làm ruộng, lần lần ông mua điền khẩn đất, trở nên một người giàu, ra làm làng rồi lên chức Cai tổng. Ông năm nay đã hơn 55 tuổi rồi, có bốn người con, người con lớn đương làm Nghị Viên Hội Đồng địa hạt trong Rạch Giá, người kế đó là cậu Hà Thiện Ý 22 tuổi, học bên Tây, một người 18 tuổi, một người 16 tuổi, thôi học ở nhà mà chưa hứa gả nơi nào. Tuy ông Hội đồng với ông Cai tổng ở xa nhau, lại niên kỷ bất đồng, song thuở nay hai nhà thân thiện với nhau lắm, hay giúp đỡ nhau, hay tới lui thăm nhau, lại thường tính chừng Thiện Ý và Xuân Hương lớn khôn, thì hai nhà sẽ làm sui với nhau. Chủ khách gặp nhau mừng rỡ cùng dắt nhau vô nhà, rồi ông Hội đồng với ông Cai tổng thì ngồi bộ ghế giữa, còn hai bà thì ngồi tại bộ ván cẩm lai lót gần đó. Cô Xuân Hương lo trầu nước đãi khách, cô ra vô lăng xăng, mặt tươi cười, bộ nhâm nhẹ, tư cách phải là gái tân học, mà nết na cũng phải là con nhà giàu. Bà Cai tổng ngó theo cô hoài rồi bà nói với bà Hội đồng rằng: - Con nhỏ năm nay nó lớn đại. Nè, tôi nói với thím nó a, phải chờ thằng Ý tôi, chớ đừng có gả chỗ khác tôi không nghe cho mà coi. - Ai mà gả! Anh chị đã nói từ hồi nào tới giờ, gả chỗ khác sao được. Có sợ là sợ cậu Ý ở bển rồi cậu cưới đầm chớ. - Đâu có vậy! Vợ chồng tôi có nói trước cho nó biết rồi mà. - Ờ! Tôi quên nói cho chị hay nữa chớ. Hôm tháng giêng tôi có bịnh, tôi nghe nói ông Bình ngoài Cần Thơ hay lắm, tôi ra tôi cầu đặng xin thuốc. - Xác ông Quan Bình phải hôn? Tôi cũng nghe họ đồn hay lắm. - Thưa phải. Bận đó sẵn có con Xuân Hương bãi trường nên nó ở nhà, tôi biểu nó đi với tôi. Ra đó coi cho tôi rồi, luôn dịp coi cho nó nữa. Nè, ông Bình coi cho nó, ổng nói kỳ lắm chị. - Nói làm sao? - Ổng nói nó thông minh, học giỏi lắm, năm nay nó thi đậu, mà sau nó còn đậu một bằng cấp lớn hơn nữa. Tôi hỏi tới căn duyên của nó, thì ổng nói nó vốn tiên phong đạo cốt nên chừng nó lớn khôn không ham phú quí vinh huê, lại ngao ngán nhơn tình thế tục. Cuối 21 bước qua 22 tuổi thì nó có chồng, nhưng mà nó có chồng có con rồi thì nó lại tu. Nói năm thi đậu trúng rồi, còn sau nữa thì không biết ra sao. Mời các bạn mượn đọc sách Một Đời Tài Sắc của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Một Chữ Tình
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Một Chữ Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh. Chủ nhựt, học trò trường Chasseloup Laubat ra đi chơi hết, duy có trò bị phạt với chừng mười lăm trò thấy ngày thi đã cận rồi, muốn học ôn, nên còn ở lại trong trường mà thôi.  Lúc trưa trời mưa giông trót một giờ đồng hồ, me đổ lá đầy sân, cát chỗ khô chỗ ướt. học trò ngủ trưa thức dậy vào lớp học bài cho đến 4 giờ chiều mới ra ngoài hàng tư ngồi chơi. Đầu nầy năm ba học trò dụm nhau ngồi trò chuyện, đầu nọ vài ba trò dắt nhau đi lại đi qua.  Phạm Quảng Giao tay cầm cuốn sách “Pháp văn bị thể” chơn lần đi lại một góc vắng vẻ, rồi ngồi giở sách ra đọc. Trời tuy đã dứt mưa, song gió thổi ngọn me oằn oại, hễ luồng gió đến thì nước đọng trên cây đổ xuống, rồi lá me cũng lát đát rớt theo. Quảng Giao tính kiếm chỗ vắng học cho dễ, nào dè dở sách ra đọc chưa được mấy hàng mà ngoài sân nước tuôn lá đổ đã mấy lần, làm cho trò ta lãng trí đọc mà không nhớ chi hết.  Quảng Giao để cuốn sách trên gối, tay trái thì đè, còn tay mặt thì chống cằm, ngồi ngó ra ngoài sân, mắt nhìn cảnh vật tiu hiu, trí tưởng tiền trình càng ái ngại. Ngồi hồi lâu, bỗng nghe sau lưng có tiếng giầy động đất, Quảng Giao day lại thấy trò Lê Bác Ái chơn đi nhè nhẹ, miệng cười chúm chím, đương xâm xâm bước tới, ý muốn lén chọc cho giật mình chơi. Bác Ái thấy Quảng Giao day lại, không còn thế chọc ghẹo được, mới cười lớn rồi giựt cuốn sách mà hỏi rằng:  - Học giống gì đây anh?  - Đọc bậy Pháp quốc văn học chơi vậy mà.  - Anh giỏi quá! Trời nầy mà đọc sách được chớ. Tôi có tánh kỳ, hễ trời mưa tôi buồn, chẳng hề khi nào tôi học được.  - Tôi cũng vậy, nãy giờ đem sách lại ngồi đây chớ có đọc được câu nào đâu.  Bác Ái ngồi kề một bên Quảng Giao, tay lật sách lia lịa, dòm ngó láo liên một hồi để dẹp cuốn sách lại một bên nói với Quảng Giao rằng:  - Bữa nay còn có 4 tuần lễ nữa mới tới ngày thi anh há?  - Ừ.  - Anh nhớ đến ngày thi anh sợ hay không?  - Sợ giống gì?  - Thiệt, học như hai anh em mình đây đi thi thì cũng ít sợ. Ngặt chừng thi có học trò mấy trường khác vào thi chung với mình, bởi vậy tôi còn lo một chút.  - Lo sao? Họ thi phận họ, mình thi phận mình, hễ làm bài đủ số điểm thì đậu, chớ có họ rồi họ bớt điểm mình được hay sao mà lo.  - Không phải! Tôi lo là lo họ giựt thứ nhứt, thứ nhì rồi thì mất danh tiếng tụi Chasseloup mình chớ.  - Thi thì phải ráng chớ sao, mà tôi biết tôi giựt thứ nhứt không được đâu.  - Sao vậy?  - Tại cái mạng tôi không có, học thì học chớ không khi nào dành thứ nhứt được đâu.  - Mạng là cái gì? Anh khéo nói thì thôi!  - Vậy chớ anh không thấy sao? Mấy năm học trong lớp có thua ai đâu, mà mấy lần thi có lần nào tôi đứng thứ nhứt đâu nào?  - Tại anh tin tưởng mạng vận quá nên xuôi xả như vậy đa. Phải chi anh sốt sắng, trong trí cứ tính tranh thứ nhứt hoài, thì ắt phải được chớ gì,  - Hứ! Anh nói hơi Tây hoài! Con người ta ai lại không có mạng, vậy chớ kỳ thi năm ngoái anh Hà Tấn Phát học giỏi, ai cũng chắc ảnh đậu đầu, mà ảnh lại rớt đi, còn anh Nguyễn Văn Cảnh ảnh học dở mà lại cà lâm, ai cũng tưởng ảnh rớt, mà sao ảnh lại đậu?  - Ấy là tại may rủi chớ mạng số gì. Anh Phát ảnh rớt là vì lúc đi thi toán rủi ảnh tối tăm mày mặt, làm toán trật hết, nên ảnh mới rớt chớ.  - À! Ảnh giỏi toán sao chừng thi môn ấy ảnh tối tăm mày mặt, làm không được, vậy không phải tại phần số ảnh hay sao?  - Mình học Tây mà nói số mạng nghe kỳ quá!  - Ủa! học Tây là học, chớ cái óc của mình là óc Việt Nam làm sao mà đổi được.  - Anh nói nghe tức quá, nín không được. Học là cái gì? Con người đi học là cố ý muốn mở trí khôn cho rộng đặng biết chỗ nào là chỗ tốt, chỗ nào là xấu, sự nào là sự phải, sự nào là sự quấy, điều nào là điều hay, điều nào là điều dở, rồi chừng thành nhơn ra xung đột với đời, mình khỏi thua sút thiên hạ. Thưở trước ông bà mình học chữ Tàu, sách Tàu thì chuyên dạy lễ nghĩa, đạo đức mà thôi, bởi vậy ông bà mình học rồi trí thâm nhiễm lễ nghĩa, đạo đức đến thay đổi thấy việc chi có lợi thì sợ phi nghĩa nên không dám làm, bị ai hiếp đáp thì sợ thất lễ nên không dám cự, vì vậy, nên mối lợi mới để cho họ dành hết, mới bị người ta hiếp đáp bấy lâu nay đó. Anh nghĩ thử coi, cái óc của người mình như vậy không nên rửa cho sạch rồi sơn màu khác cho nó mới hay sao? Bọn chúng ta đây mau thoát khỏi vòng cựu học rồi chúng ta học theo Pháp quốc giáo dục, Pháp học mở trí khôn mà lại giúp con người có nghị lực, có cam đảm biết tốt biết xấu, biết quấy phải, nghĩa là hễ học thành rồi rồi thì con người có thể cạnh tranh lợi quyền, có thể đối đãi với đồng loại. Hễ học thì phải hành, mình học theo chữ Pháp thì phải ráng mà làm như người Pháp, nghĩa là cư xử, đi đứng, làm ăn, tính toán, suy nghĩ, mỗi mỗi đều phải làm cho giống người Pháp mới được, chớ anh học chữ Pháp mà anh cứ làm theo xưa, cứ nói hơi xưa hoài, thì khó coi quá mà.  - Anh nói nghe hay thiệt, mà tôi coi bạn học của mình đây chẳng phải có một mình anh nói như vậy đâu, trong 10 người hết 9 người đã muốn làm theo người Pháp, chớ không muốn làm theo xưa nữa. Phận tôi thì không chịu vậy. Tôi cũng biết cựu học tệ thì tệ, xưa nay người Nam ta cũng vì môn học ấy mà chậm trễ bước văn minh. Nhưng cựu học tệ thì tệ, chớ cũng có chỗ hay, nhứt là phong hóa có thua môn học nào đâu. Anh nói bây giờ mình học theo Tây, mình phải làm theo Tây, vậy chớ làm theo người Nam là bậy lắm sao? Mà anh tính làm theo Tây, vậy chớ anh đã thông thạo cách người Tây cư xử trong gia đình, họ giao thiệp cùng xã hội, họ suy tính lúc hành sự làm sao không, mà anh dám đại ngôn rằng anh làm như họ! Ê! đừng có vậy nà! Anh có giỏi thì anh học cho bằng trí, tài, nghề nghiệp của họ đi, còn cách cư xử thì mình phải theo người Nam mới phải chớ.  - Anh làm theo người Nam anh làm, còn tôi làm theo Tây chớ tôi không chịu cách cư xử của mình đâu.  - Ờ thôi, anh làm được anh làm, tôi sợ anh muốn làm con công, rồi anh thành con ngổng chớ.  Quảng Giao nói mấy lời rồi thò tay lấy cuốn sách, còn Bác Ái nghe nói như vậy liền day lại xô Quảng Giao đụng trong vách tường, rồi cười nói rằng: “Anh kiêu ngạo quá!”  Bác Ái bỏ đi được vài bước rồi trở lại hỏi rằng:  - Nầy anh, anh tính thi đậu rồi anh xin ra Hà Nội học thêm nữa, hay là ra kiếm việc làm?    Mời các bạn mượn đọc sách Một Chữ Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Lòng Dạ Ðàn Bà
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Lòng Dạ Ðàn Bà của tác giả Hồ Biểu Chánh. Lòng dạ đàn bà là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Hồ Biểu Chánh, được xuất bản vào năm 1935. Thông qua những trang văn của mình, tác giả đã khắc họa chân dung ba người phụ nữ mà mỗi người đều mang một nét tính cách khác biệt.   Lòng dạ đàn bà khắc họa bi kịch của người phụ nữ trong những năm đầu của thế kỷ XX Lòng dạ đàn bà kể về cuộc đời của ba người phụ nữ mà mỗi người đều gánh vác những gian truân riêng, có người lựa chọn cách chịu đựng, người lại cố gắng để vượt qua và cũng có kẻ bị xã hội dồn ép tới mức tha hoá bản chất. Kim Diệp sinh ra trong một gia đình khá giả nên từ nhỏ đã được đi học, tính cách của bà bởi vậy cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Thế nhưng, Kim Diệp đã quyết định cưới Lê Tấn Thành khi mới mười tuổi, bi kịch cũng bắt đầu từ đây. Sau vài năm chung sống, hai người đã có với nhau ba đứa con, hai gái và một trai. Tưởng chừng gia cảnh khấm khá, con cái đuề huề sẽ khiến Kim Diệp hạnh phúc nhưng sự thật phũ phàng, chồng bà qua lại với một cô ả đào bên ngoài. Thậm chí, ông ta còn mua nhà và sống vợ lẽ trên thành phố, hiếm lắm mới chịu về quê với bốn mẹ con bà. Dẫu uất ức nhưng trong xã hội nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, đàn ông được phép năm thê bảy thiếp, Kim Diệp cũng chẳng dám lớn tiếng đòi quyền lợi. “Nhờ cái dịp ấy, cô Thanh Thủy mới hiểu cô Kim Diệp buồn rầu đến nỗi ốm là tại ông Lê Tấn Thành từ ngày đắc cử làm nghị-viên Hội Ðồng Quản Hạt, ông giao thiệp rộng, lên xuống Sài Gòn thường, rồi ông say đắm một cô mỹ nữ, tên là Ba Huyền, 22 tuổi, nhan sắc thiệt là xinh đẹp, mà tánh nết thiệt là lả lơi, mua một cái nhà tại Phú Nhuận mà ở với cô, sắm xe hơi cho cô đi chơi, mua hột xoàn cho cô trang điểm, ngày như đêm say sưa mê mẩn cùng duyên mới, không kể gì đến vợ hiền đức, con thơ ngây ở nhà.” – Lòng dạ đàn bà Người phụ nữ thứ hai trong Lòng dạ đàn bà là Thanh Thuỷ, tuy cô mang nét đẹp truyền thống nhưng suy nghĩ lại có phần hơi hướng hiện đại. Thanh Thuỷ không để cái danh goá chồng và chưa có con cản bước, cô tập tành kinh doanh hột xoàn để tăng thêm niềm vui cho cuộc sống. Thanh Thuỷ và Kim Diệp vốn là bạn bè thân thiết từ lâu, lúc biết tin ông Hội Đồng theo ả đào trên thành phố mà bỏ bê vợ con, không thèm đoái hoài thì cô rất tức giận, thậm chí còn rơi nước mắt thay cho bà Hội Đồng. Thế nhưng, sự thương cảm và cảm khái của độc giả với mối tình chị em này nhanh chóng bị thay thế  bởi những câu hỏi. Thanh Thuỷ tuy tìm mọi cách để ông Lê Tấn Thành hiểu về giá trị gia đình nhưng lại thầm cười khi Kim Diệp ngỏ lời, mong cô làm vợ lẽ của chồng mình. *** Hồ Biểu Chánh - tên thật Hồ Văn Trung, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn Giao thời 1900 - 1930. Tiểu thuyết của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới,... Lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày là một ưu thế khiến tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chiếm được cảm tình đặc biệt của người dân Nam Bộ. *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Lòng dạ đàn bà của tác giả Hồ Biểu Chánh kể về cuộc đời của ba người phụ nữ, mỗi người mang một số phận và tính cách khác nhau. Kim Diệp là một người phụ nữ hiền lành, cam chịu, sống trong gia đình gia giáo. Nhưng cuộc đời của bà lại gặp nhiều sóng gió khi chồng bà, ông Lê Tấn Thành, theo đuổi người phụ nữ khác. Kim Diệp đau khổ nhưng không thể làm gì được vì xã hội phong kiến vẫn còn nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ. Thanh Thủy là một người phụ nữ hiện đại, mạnh mẽ, quyết đoán. Sau khi chồng mất, cô tự tay kinh doanh hột xoàn để nuôi sống bản thân. Thanh Thủy là người bạn thân của Kim Diệp, cô luôn cố gắng giúp đỡ Kim Diệp vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Cuối cùng, Kim Diệp và Thanh Thủy đều lựa chọn những cách khác nhau để đối mặt với những sóng gió trong cuộc đời. Kim Diệp chọn cách cam chịu, chấp nhận số phận, còn Thanh Thủy chọn cách mạnh mẽ, tự lập. Review Cuốn tiểu thuyết Lòng dạ đàn bà là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Cuốn sách đã lên án xã hội phong kiến với những định kiến trọng nam khinh nữ, đã tố cáo những người đàn ông bội bạc, vô tình. Đồng thời, cuốn sách cũng ca ngợi những người phụ nữ hiền lành, cam chịu, kiên cường vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Cuốn sách được viết với lối văn bình dị, gần gũi, dễ hiểu. Các nhân vật trong truyện được xây dựng chân thực, sinh động. Một số điểm nổi bật của cuốn tiểu thuyết Cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề của xã hội Việt Nam thời bấy giờ, như vấn đề hôn nhân, gia đình, và phụ nữ. Các nhân vật trong truyện được xây dựng chân thực, sinh động, khiến người đọc dễ dàng đồng cảm và thấu hiểu. Cuốn sách có giá trị nhân văn sâu sắc, lên án những hủ tục, định kiến trong xã hội phong kiến. Kết luận Cuốn tiểu thuyết Lòng dạ đàn bà của tác giả Hồ Biểu Chánh là một tác phẩm đáng đọc. Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và con người. Mời các bạn mượn đọc sách Lòng Dạ Ðàn Bà của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Lời Thề Trước Miễu
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Lời Thề Trước Miễu của tác giả Hồ Biểu Chánh. Trời gần sáng. Trong mấy xóm ở dọc theo khúc lộ từ cầu Mồng Gà lên chợ Cần Giuộc, gà gáy vang rân, tiếp nhau kêu nông phu thức dậy mà đi ra ruộng. Bên hướng Đông trời giăng mấy cụm mây đen để áng mặt nhựt chưa cho lố lên; tuy vậy mà bên hướng tây vừng trăng khuyết treo lửng đửng trên không đã nhượng bước, nên phai lợt lu mờ, không còn tỏ rạng như hồi canh khuya nữa. Cỏ pha sương ướt ngọn, lúa dợm trổ xóng lưng, cô Đào, là con ghẻ của hương trưởng Tồn, gánh một gánh bánh ú với bánh bò, xung xăng đi lên chợ mà bán. Cô vừa mới được hai mươi tuổi, tuy con nhà nghèo lại mồ côi cha, nên mặc quần áo vải đen, nữ trang thì chỉ đeo một đôi bông tai chuỗi mà thôi, nhưng mà mặt mày cô đề đạm, tướng mạo cô nghiêm trang, vì từ lúc ngây thơ đã thấy những thảm trạng trong nhà, nên cô ảo não trong lòng, ít nói ít cười, mà hễ có dịp vui làm cho cô phải cười, thì mặt như trăng rằm, miệng như hoa nở. Cô đi ngang qua cái gò mả, là chỗ có cái mồ đất của cha cô, là Hương hào Quý, chết chôn tại đó hồi cô mới lên mười hai tuổi, thì cũng như mọi bữa trước, cô day mặt ngó vô gò mà tưởng tượng hình dạng của cha. Cô bưng khuâng, nhớ lúc cô còn nhỏ hễ cha đi xóm về thì ôm cô hun hít, hễ cô đau thì bồng cô lên võng mà đưa. Nhớ người xưa, cô đương cảm động trong lòng, bỗng thấy trong gò mả có một người xăm xăm đi ra lộ. Cảnh vắng, trời khuya, từ phía không người, cô phát sợ, nên hồi hộp trong ngực. Thình lình người đi ra đó kêu hỏi: "Phải chị đó hay không chị Hai?" Cô Đào đứng lại mà ngó. Người ấy ra tới, cô nhìn lại thì là Lân, em ruột của cô, mười bảy tuổi, đầu đội nón nỉ đen, mình mặc một bộ đồ vải trắng cũ. Cô để gánh dựa lề mà hỏi: - Em làm giống gì ở trong đó? Đi thi về hồi nào? - Em về hồi chiều hôm qua; mà buồn quá em không muốn về nhà. Từ hồi hôm đến giờ, em nằm một bên mả của cha. - Em nằm chi đó? - Em thi rớt rồi, chị Hai à. - Trời đất ơi! Thi rớt hay sao? Lân ngồi chồm hổm một bên gánh bánh của chị, khoanh tay trên đầu gối, nước mắt chảy ròng ròng. Cô Đào đứng lặng thinh mà ngó mông một hồi chậm rãi mà nói: "Em đi thi hổm nay, ở nhà má vái van hết sức, má vái vong hồn của cha giúp cho em thi đậu, đặng em đi học nữa, sau khỏi cực tấm thân. Má hay em thi rớt đây chắc má buồn lung lắm". Lân cứ ngồi im lìm. Cô Đào thở dài rồi để cây đòn gánh trên lề đường, vén vạt áo ngồi một bên em. Bóng trăng lờ lạt, đồng ruộng vắng teo, cô ngó thấy em khóc, cô bắt động lòng, nên cô cũng ứa nước mắt. Cô cúi mặt mà nói tiếp: "Má dung cậu năm năm nay, tuy chi em mình khỏi đói khát, nhưng mà tấm thân mình khổ não biết chừng nào. Hễ say thì cậu chửi mắng tưng bừng. Mà cậu chửi thì cứ chửi cha mình hoài, chị buồn hết sức. Em cũng biết, cậu có muốn cho em đi học đâu, cậu muốn để em ở nhà đặng cậu cho em ở đợ. Má khóc gần hết nước mắt, má năn nỉ hết sức, nên mới chịu để cho em học luôn đến bây giờ đó. Hổm nay em đi thi, cậu ở nhà cứ cằn nhằn hoài. Cậu nói học làm chi, bày học đặng ở không đi chơi, chớ học giống gì. Ở đợ ít năm cho biết nghề làm ruộng, rồi chừng lớn mướn ruộng mà làm, cũng no cơm ấm áo được vậy. Cậu lại hăm hễ em thi rớt thì cậu đợ em liền, không cho học hành gì nữa hết. Em về nhà đây chắc là khổ lắm." Lân lau nước mắt mà nói cứng cỏi rằng: - Em nhất định không về nhà nữa. - Không về nhà, vậy chớ em đi đâu - Đi đâu cũng được... Nhà của mình giống như địa ngục, về đó thì bị chửi bị rủa, vui sướng gì mà về. Thà là em đi bậy đi bạ, dầu chết đói vẫn còn sướng thân hơn ở đợ. - Em nói như vậy nghĩ cũng phải. Nhịn đói cũng còn dễ chịu hơn là nghe chửi. Thân chị là gái, chị không biết đi đâu, nên chị phải gầm đầu mà chịu, chớ nhiều khi chị cũng muốn chết phứt cho rồi. Có đêm chị buồn quá, chị vái linh hồn cha về bắt chị theo, đặng chị khỏi bị đày đọa nữa. - Thiệt như vậy, chết cho mát thân, chớ sống mà bị cha ghẻ đày đọa hoài, thì sống làm gì. Em nhứt định đi luôn, không về nhà nữa đâu. Cô Đào lặng thinh suy nghĩ rồi lắc đầu nói: "Mà em không về nhà nữa, chắc là má buồn rầu lung lắm. Em không thấy hay sao, cũng vì chị em mình mà má buồn thảm đêm ngày, má ăn ngủû không được, nên má ốm quá. Nếu em đi mất thì thêm một nỗi sầu cho má nữa." Lân nghe nhắc tới mẹ thì buồn hiu. Cô Đào nói tiếp: "Hồi má lấy chồng khác, chị đã được mười lăm tuổi rồi, nên chị biết. Năm đó lúa cao gạo kém, nhà mình nghèo khổ lắm, nhiều bữa không tiền mua gạo, má phải đổi lúa chịu mà lấy khoai lang cho chị em mình ăn đỡ đói. Cực chẳng đã má phải lấy chồng, tưởng lấy chồng đặng có chỗ nương dựa mà nuôi chị em mình. Nào dè đụng cậu, thiệt cũng như mắc cái họa lớn" Lân thở ra mà nói: - Xưa rày em muốn trốn đi đã lâu rồi. Em còn dụ dự là em sợ má với chị buồn. Nay chị cũng nghĩ em đi là phải, vật thì em hết dụ dự nữa. Chừng em đi rồi, như má có lo sợ, thì chị cắt nghĩa cho má nghe. Xin chị nói với má đừng có buồn. Em lớn rồi, em đủ trí khôn, tuy em không có tài nghề gì, song em tưởng cái lòng quả quyết muốn thoát khỏi tay bất nhơn của cậu, với cái chí tấn thủ quyết tranh một chỗ mà đứng dưới ánh mặt trời với thiên hạ, có lẽ nó cũng có thể làm cho em khhỏi chết đói được.   Mời các bạn mượn đọc sách Lời Thề Trước Miễu của tác giả Hồ Biểu Chánh.