Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cảnh Ngộ

Cùng chia sẻ cảnh ngộ được trại trẻ mồ côi nhận nuôi từ khi vừa lọt lòng mẹ, Takakura Yoko – phu nhân một chính trị gia, và nữ nhà báo Aida Harumi trở thành đôi bạn thân gắn bó với nhau sâu sắc. Bước ngoặt xảy ra khi cuốn sách tranh Ruy băng trên trời xanh mà Yoko vẽ tặng con trai Yuta dựa trên câu chuyện đời của Harumi bất ngờ đoạt giải thưởng lớn tầm cỡ và trở thành sách bán chạy. Một thời gian ngắn sau đó, Yuta mất tích. Lá thư đe dọa gửi về văn phòng Takakura có đoạn: “Nếu muốn thằng bé trở về bình an vô sự, hãy công khai sự thật cho mọi người biết”. “Sự thật” đó rốt cuộc là gì? Và ai là hung thủ đã bắt cóc Yuta? TÁC GIẢ: Minato Kanae Tác giả tiểu thuyết Nhật Bản, sinh năm 1973 tại Hiroshima. Năm 2007, với truyện ngắn Kẻ truyền đạo bà đã giành được giải Tác giả tiểu thuyết trinh thám mới lần thứ 29. Năm 2008 bà viết tác phẩm đầu tay Thú tội với chương đầu chính là truyện ngắn Kẻ truyền đạo, đứng vị trí thứ nhất trong Bảng xếp hạng top 10 truyện trinh thám năm 2008 của tuần báo Bunshun, sau đó giành được giải Booksellers’ Award lần thứ 6. Đến năm 2014, Thú tội lại được tờ Wall Street Journal của Mỹ chọn làm một trong 10 tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất. Năm 2012, truyện ngắn Sao trên mặt biển trong tập truyện Vọng hương của bà đã nhận giải Hiệp hội tác giả truyện trinh thám Nhật Bản lần thứ 65 trong hạng mục truyện ngắn. Năm 2016, tiểu thuyết Utopia của bà nhận giải Yamamoto Shugoro lần thứ 29. Những tác phẩm khác của Minato Kanae đã được Nhã Nam xuất bản: - Thú tội - Chuộc tội - Tất cả vì N - Vòng đu quay đêm *** [SHORT REVIEW] CẢNH NGỘ - KANAE MINATO  Khi vừa đọc xong cuốn sách này ngày hôm qua mình đã phân vân không biết có nên viết review cho cuốn này không vì thực sự nó không để lại nhiều cảm xúc trong mình. Nhưng nghĩ rằng có thể sẽ có ích những bạn chưa mua và đọc cuốn này nên quyết định vẫn đưa review này lên sóng. Mạch truyện khá chậm và những cú twist dễ đoán chính là điểm khiến mình không ấn tượng nhiều về tác phẩm lần này. Với những ai từng đọc các tác phẩm khác của Kanae Minato đều cảm nhận được nét đặc sắc của chuyện dựa vào việc bà đi sâu vào tâm lý của từng nhân vật. Tuy nhiên, với tác phẩm lần này câu chuyện vẫn được kể theo cách đổi vai đan xen nhưng mình lại không thấy tâm lý 2 nhân vật chính được khắc họa rõ. Có lẽ vì đây là một câu chuyện nói về tình người nên cách truyền tải có phần nhẹ nhàng và không quá kịch tích, cao trào.  Về thông điệp của cuốn sách, ngay từ lúc mở đầu một câu hỏi đã được đặt ra “Liệu rằng 2 người thân nhau là do cùng chung cảnh ngộ?”. Với cảm nhận của bản thân, mình nghĩ rằng tác giả muốn truyền tải thông điệp: Việc 2 người gặp và đồng cảm với nhau có thể là do cảnh ngộ nhưng để thấu hiểu và chia sẻ sâu sắc được với nhau thì phải bắt nguồn những giai đoạn cùng trưởng thành, tình cảm chúng ta dành cho nhau đã được vun đắp qua năm tháng.  Tổng kết, “Cảnh ngộ” có lẽ là một tác phẩm chưa thể hiện được những điểm đặc sắc của Kanae Minato. Toàn bộ câu chuyện không tệ nhưng cũng không đọng lại nhiều dấu ấn. Bạn có thể đọc nó như thêm một câu chuyện về tình người nhưng sẽ không phải là lựa chọn lý tưởng cho những ai muốn tìm hiểu về Kanae Minato.   Rating: 2,5/5 (0,5 điểm là cho bìa thiết kế rất đẹp và câu chuyện thiếu nhi Ruy băng trên trời xanh). Thêm một góp ý nữa là mong Nhã Nam sẽ không gắn tag Trinh thám ở bìa cho những câu chuyện không phải vì có thể dễ gây nhầm lẫn cho người đọc. Enjoy reading! *** Review Cảnh ngộ “Chúng mình thân nhau là vì có cảnh ngộ giống nhau phải không?” Cảnh ngộ là cuốn tiểu thuyết trinh thám được viết bởi một nữ nhà văn đình đám của xứ hoa anh đào, Minato Kanae, tác giả của cuốn Thú tội đã quá nổi tiếng và gây sốt một thời gian dài. Tuy nhiên đối với cá nhân mình, công tâm mà nói thì Cảnh ngộ thực sự là cuốn gây thất vọng nhất trong tất cả các cuốn sách từ đầu năm đến giờ mà mình đọc được. Phải chăng do đã đặt quá nhiều kỳ vọng vào Cảnh ngộ trước khi đọc, nên vô hình trung khi tác phẩm này khép lại, nó gây cho mình một cảm giác hụt hẫng không thể nói thành lời. Dưới đây sẽ là bài review chi tiết về Cảnh ngộ, có giải thích và spoil về cốt truyện, đưa ra những nhận định chủ quan của mình, và tại sao mình lại cho rằng đây là một tác phẩm đáng thất vọng. Trước hết sẽ nói về một chút thủ pháp kể, Cảnh ngộ là một câu truyện thuân thủ đúng theo phương thức kể chuyện của cấu trúc ba hồi (mình sẽ nói kỹ hơn ở dưới), trật tự trước sau của các biến cố xảy ra theo trục tuyến tính của thời gian, được dẫn dắt dưới hai giọng kể thay phiên nhau của hai nữ nhân vật chính. Mình thực sự đánh giá cao cách kể này, bởi sự đa chiều đến từ hai góc nhìn, người đọc sẽ dể dàng quan sát một cách bao quát hơn toàn cảnh câu truyện, tránh được sự phiến diện, từ đó suy luận ra thủ phạm cuối cùng rất dể dàng. Ấy vậy mà chính cách kể này lại gây nên một đòn phản tác dụng cực lớn, bởi vì tâm lý của hai nhân vật chính được xây dựng một cách rất nông, thiếu chiều sâu và hời hợt, thành ra mối quan hệ và tương tác giữa họ với các nhân vật khác trong truyện, và mối quan hệ chỉ giữa hai con người họ không khiến mình cảm thấy thuyết phục chút nào. Thêm vào đó, mâu thuẫn trong truyện cũng không đủ mạnh, dẫn đến động cơ của thủ phạm không rõ ràng, các nút thắc được giăng lên một cách chấp vá, việc tháo gỡ nó vẫn chưa được thoả đáng, và lẽ dĩ nhiên, những điều đó tạo nên một tổng thể vô cùng cứng ngắc. Cảnh ngộ được chia làm bốn chương và tuân thủ theo cấu trúc ba hồi như đã đề cặp ở trên, mình sẽ giải thích một chút về phương thức kể này. Như một bài tập làm văn mà chúng ta thường hay viết sẽ có ba phần (mở – thân – kết) thì trong văn chương, đặc biệt là tiểu thuyết, nguyên tắc kết cấu đấy rất thường được áp dụng dưới cái tên là “cấu trúc ba hồi” nhằm tạo ra một cốt truyện mang yếu tố hoàn chỉnh và chặt chẽ về mặt nội dung. Mỗi hồi sẽ có những mục đích khác nhau, cụ thể: Hồi một (mở đầu) sẽ là phần giới thiệu nhân vật, bối cảnh hay là đất để tác giả xây dựng một thế giới giả tưởng riêng cho tác phẩm của mình, rồi vẽ nên một (hay nhiều) biến cố khởi đầu để tạo nên mâu thuẫn/bước ngoặc đầu tiên; Hồi hai (phát triển) thường được chia ra hai phần, phần đầu là một sự kiện lớn nào đó (có thể làm thay đổi cuộc đời nhân vật chính) để dẫn đến kết quả của mâu thuẫn/bước ngoặc mà hồi một để lại. Từ kết quả đấy, nhân vật chính sẽ quyết định số phận và con đường đi của chính bản thân mình. Tại đây thì tính cách các nhân vật cũng dần được thể hiện rõ (phe chính hay phản diện), để rồi kéo đến nửa phần sau là một sự kiện mới hòng đưa mâu thuẫn lên cao trào, khiến nhân vật chính lâm vào thế bế tắc buộc phải thay đổi hay đưa ra quyết định nào đó mang đính chủ chốt. Hồi ba (kết thúc) là vòng xoắn cốt truyện (plot twist) để đẩy kịch tính lên đến đỉnh điểm, rồi cuối cùng là giải quyết các xung động, gỡ bỏ mọi nút thắt được giăng lên từ trước và tạo thành một kết cục mở hay đóng tuỳ thuộc vào tác giả. Ở Cảnh ngộ, ta thấy rõ ràng cấu trúc này nhất nên mình sẽ tóm tắt cốt truyện dựa theo từng hồi. Hồi một (Chương 1: Ruy băng xanh là mẹ), mở đầu bằng thông tin tác phẩm Ruy băng trên trời xanh đoạt giải “Gương mặt mới” của Giải thưởng sách tranh toàn quốc, tác giả là Takakura Yoko, phu nhân của một chính trị gia đang trong giai đoạn tranh cử. Sau đó là màn giới thiệu hai nhân vật chính, Yoko và Harumi, đôi bạn thân gắn bó với nhau sâu sắc do có cùng CẢNH NGỘ. Cả hai đều là những đứa trẻ bị đem gửi vào hai trại mồ côi khác nhau trong cùng một năm từ lúc mới chào đời, không hề biết mặt cha mẹ ruột cũng như là ngày sinh tháng đẻ của mình. Nếu Yoko may mắn được một cặp vợ chồng hiến muộn hiền lành nhận nuôi ngay trong năm đó, được trưởng thành trong vòng tay bao bọc của gia đình có cả cha và mẹ, phải đến khi làm hộ chiếu cô mới phát hiện được sự thật mình là đứa con được nhận nuôi. Ngược lại Harumi thì kém may mắn hơn, đã trải qua mười tám năm trong trại trẻ Asashi, cho đến tận lúc tốt nghiệp cấp ba thì cô mới có cơ hội rời khỏi nơi ấy. Nhưng chốn dung thân mới của Harumi không phải ở một gia đình nào cả, mà chỉ là trong một căn phòng trọ nhỏ bé và tối tăm để tiện cho việc đi học đại học. Harumi trở thành một nhà báo với hy vọng sẽ điều tra ra thân thế của chính bản thân mình, còn Yoko cũng không từ bỏ, cô vẫn giữ vững niềm tin rằng một ngày nào đó sẽ tìm thấy được cha mẹ ruột của mình bằng cách tham gia rất nhiều hoạt động thiện nguyện ở các trại trẻ mồ côi khác nhau. Tiếp sau đó xuất hiện một biến cố khởi đầu, đứa con trai năm tuổi của Yoko, người duy nhất trên đời chảy chung một dòng máu với mình mà cô biết, bị bắt cóc. Hồi hai (Chương 2: Nếu muốn con trai trở về bình an vô sự và Chương 3: Vụ án mạng ở Moninoki), sự kiện dẫn đến bước ngoặc đầu tiên là một tờ fax do thủ phạm gửi đến với nội dung yêu cầu Yoko hãy công khai sự thật cho mọi người biết. Sự thật gì thì thủ phạm không đề cặp đến, chỉ là đưa ra gợi ý rằng “hãy nhớ lại vụ án ở thung lũng Shirakawa”. Như vậy, mục đích chính của hung thủ thật ra là muốn nhắm đến bí mật về xuất thân của Yoko hay là về chuyện nghi ngờ nhận tiền quỹ tranh cử bất chính hồi năm ngoái ở văn phòng Masaki (chồng của Yoko). Phải chăng cảnh ngộ đã tôi dũa Yoko trở nên bình tĩnh, cứng rắn và mạnh mẽ hơn những người khác, làm cho cô không thể đặt trọn vẹn niềm tin vào bất kỳ ai, kể cả người chồng bao năm chung sống? Ngoại trừ duy nhất một người mà Yoko tin tưởng, kẻ có cùng cảnh ngộ với mình – Harumi. Vì bảo vệ an nguy của đứa con trai, Yoko quyết định không báo cảnh sát và cùng Harumi dấn thân vào con đường tự điều tra. Biến cố mới dẫn đến một bước ngoặc khác để đẩy cốt truyệt lên cao trào là bức thư thứ hai từ hung thủ, một gợi ý mới về sự thật, đó là “vụ án mạng ở Mominoki”. Sau đó Yoko cùng Harumi tra ra được chuyện ai là người đã tố cáo chồng cô năm xưa cũng như là cả thân thế của mình, rằng Yoko là đứa con của một kẻ giết người. Hồi ba (Chương 4: Công khai sự thật), cú plot twist được dựng lên nhưng có vẻ chưa đủ thuyết phục mình lắm. Thực chất người đọc hoàn toàn có thể suy luận ngay ra thủ phạm từ các twist mà tác giả đã ngầm cắm cài từ trước. Các xung đột được giải quyết, một cái kết đóng và có hậu cho tất cả mọi người. Đầu tiên, mình sẽ dành một lời khen cho tác giả Minato Kanae bởi yếu tố mở đầu của câu truyện rất thú vị và gợi sự liên tưởng. Cảnh mở màn cũng chính là biến cố dẫn đến bước ngoặc đầu tiên ở hồi một, cuốn sách tranh của Yoko sáng tác dựa trên một câu chuyện có thật bất ngờ được giải thưởng lớn tầm cỡ và trở thành cuốn sách bán chạy, đưa Yoko từ một kẻ tầm thường không ai biết thành một tác giả nổi tiếng. Chẳng phải đây cũng chính là bối cảnh ngoài đời thực của tác giả Minato Kanae, người đã ngay lập tức thành công và giành được nhiều giải thưởng chỉ bằng một cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Thú tội. Lời khen tiếp theo là dành cho việc lựa chọn đề tài quá thông minh của Minato Kanae, cô đã dũng cảm bốc trần nhiều thực trạng nóng trong xã hội Nhật Bản. Có ba yếu tố phản ánh hiện thực xã hội mà Minato Kanae đã khéo léo lồng ghép vào: – Thứ nhất là những cái nhìn xấu xí chứa đầy các định kiến đã thâm căn cố đế trong suy nghĩ của rất nhiều người về những đứa trẻ mồ côi. Bởi vì không rõ thân thế của họ nên không thể biết được dòng máu đang chảy trong con người họ được thừa hưởng từ những kẻ như thế nào. Trong Cảnh ngộ, cũng bởi vấn đề này mà dẫn đến cảnh tượng mẹ chồng – nàng dâu. Vì thân thế nên Yoko chưa bao giờ nhận được sự công nhận đến từ mẹ chồng, cô luôn nhẫn nhịn và chịu đựng mọi sự hành hạ về tin thần thông qua những lời nói mang tính ám chỉ cùng cách đối xử đầy tình yêu thương dành cho Aki (cô gái vốn là đứa con dâu theo kế hoạch của bà) thay vì là một cô con dâu chính thống như mình. Chuyện đã chung sống với nhau bốn năm nhưng chưa có con cũng khiến cho sự bất hoà cùng ánh nhìn đầy kinh thường của mọi người đối với Yoko được đẩy lên cao. “Hay là cô đã từng nạo phá thai? Hay gen di truyền có vấn đề? Tôi nghe nói những người cơ thể không bị sao nhưng dòng giống gia đình lại khó có con, nhưng với trường hợp của cô thậm chí còn không thể tìm hiểu được. Đổi lại, nếu là con bé Aki, nó có những ba người anh trai, không biết chừng có thể sinh cho Masaki một cậu quý tử nối dõi tông đường…” Một cái xã hội hào nhoáng bên ngoài nhưng lại rỗng ruột ở bên trong, nơi mà khi đi phỏng vấn tìm việc làm, cho dù Harumi có giỏi đến như thế nào thì những câu hỏi về gia đình như “Bố cô làm nghề gì? Mẹ cô làm nghề gì? Cô có anh chị em không? Anh chị của cô đang làm gì?” vẫn luôn là khắc nghiệt và không thể trả lời được. Lúc đó, Harumi đem chuyện của mình lớn lên ở trại trẻ mồ côi nói ra, cô bảo rằng cô đã được rất nhiều người giúp đỡ, cả những người hiện diện trước mắt lẫn những người chưa từng gặp mặt nâng đỡ nên mới có cô của bây giờ, vậy nên cả xã hội này đều là cha mẹ, là gia đình của cô. Khi ấy người phỏng vấn liền bày tỏ thái độ rất thương cảm, nhưng những ngày sau tuyệt nhiên chẳng có kết quả gì… Chưa dừng lại ở đó, góc nhìn của những bậc phụ huynh mới càng cay đắng làm sao. Theo số liệu mà mình tìm hiểu được trên internet thì “Hiện tại ở Nhật có đến 90% trẻ em sống trong những cơ sở phúc lợi, trong khi chỉ có 10% sống cùng cha mẹ nuôi tạm thời”, chính bởi vì cái lối suy nghĩ cổ hủ rằng bản tính của một đứa trẻ sẽ do dòng máu được truyền từ cha mẹ ruột không rõ lai lịch quyết định, nên họ liền áp đặt ngay sự tiêu cực lên các đứa trẻ tội nghiệp ấy. Đến cả những tầng lớp tri thức, tiến bộ cũng không ngoại lệ, như nhân vật Yoshii trong tác phẩm này, là một Phó giáo sư Kinh tế – Chính trị nhưng khi hay tin vợ mình có ý muốn nhận con nuôi, anh liền buông lời bình luận cay nghiệt: “ […] Nếu nhận con cái họ hàng làm con nuôi đã đành một nhẽ, đằng này lại đi nuôi một đứa trẻ không biết từ đâu ra, sao có thể làm một việc phát ớn như thế được nhỉ.” Nếu xã hội còn tồn tại những ý nghĩ tiêu cực như thế thì liệu có còn con đường nào dành cho những đứa trẻ tội nghiệp đã thua một cách triệt để trên đường đua của số phận ngay từ lúc chào đời như Yoko và Harumi? – Tiếp theo đó là tư tưởng môn đăng hộ đối, vợ chồng về căn bản phải có cùng hệ quy chiếu thì mới hoà hợp được lâu bền. Aki là người phụ nữ được ấn định sẽ là vợ của Masaki từ trước nên mẹ của Aki luôn ép buộc cô phải học những thứ như nội trợ, quán xuyến gia đình… những chuyện mà Aki rất ghét. Masaki và Aki vốn dĩ chẳng hề có tình cảm với nhau nhưng vì gia đình hai bên mà bắt họ phải trở nên thân cận. Cho đến khi Masaki gặp được Yoko, xuất phát từ tình yêu chân chính mà muốn cưới cô, những tưởng chiến thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng với gia đình hai bên và trở thành vợ chồng rồi thì hạnh phúc sẽ xuất hiện, ngờ đâu lại dẫn đến một nỗi phiền luỵ khác, đó là mối quan hệ giữa mẹ chồng – nàng dâu như mình đã có đề cặp ở trên. – Cuối cùng là một tư tưởng tiêu cực đã quá quen thuộc trong một số đầu sách trinh thám, tuy cũ nhưng nay được Minato Kanae khéo léo thổi vào một cách mới mẻ hơn: “con cái cũng phải gánh chịu tội lỗi của cha mẹ?” Với mình, tội lỗi mà cha mẹ gây ra chẳng liên quan gì đến con cái, và xét theo một khía cạnh nào đó thì con cái cũng chính là nạn nhân bị thiệt thòi nhất hay sao? Động cơ cấu thành cốt truyện của Cảnh ngộ rất sâu sắc là thế nhưng với mình thì đây vẫn là cuốn sách gây thất vọng. Tâm lý của tất cả các nhân vật được xây dựng vô cùng hời hợt, thật ra Cảnh ngộ sẽ rất hay nếu tác giả chịu đào sâu hơn vào tuyến nhân vật phụ, để họ có thể phát huy được hết giá trị của mình vào tác phẩm thay vì chỉ xoay quanh hai nhân vật chính. Cụ thể như nhân vật Yoshii được giới thiệu ở hồi một, mình thực sự nghĩ nhân vật này chắc chắn sẽ làm nên chuyện nhưng càng về sau thì càng bay màu, hầu như chẳng được xuất hiện ở hai hồi sau, ngoại trừ có mặt trong một câu nhắc chừng đến Yoko “gần đây hình như có một Phó giáo sư kinh tế nào đó đang đứng ra tranh cử”, thế là hết. Bên cạnh đó, tình bạn giữa Masaki và Iwasaki dù được đề cặp là rất sâu sắc, tựa như một phiên bản ngược giới với tình bạn của Yoko và Harumi nhưng lại không miêu tả rõ động cơ hình thành, khiến cho nguồn gốc của tình bạn ấy trở nên mơ mồ và kém thuyết phục. Tóm lại, Cảnh ngộ đối với cá nhân mình là một cuốn sách với điểm xuất phát ý tưởng tuyệt vời nhưng lại làm không tới, càng về sau càng đuối, khép lại bằng một cái kết đóng vô cùng nhạt nhoà, không bật lên giá trị nhân văn, vì vậy nó khiến mình cực kỳ hụt hẫng và thất vọng. – Kim Hân (IG: hanquilrish) Mời bạn đón đọc Cảnh Ngộ của tác giả Minato Kanae & Mai Khanh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí mật Shakespeare - Jennifer Lee Carrell
Sau khi ra mắt (từ tháng 1/2008), “The Shakespeare Secret” (Bí mật Shakespeare) hay còn có tên khác là “Interred with Their Bones” - tiểu thuyết đầu tay của Jennifer Lee Carrell đã lọt vào top 5 cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm tạo thành một hiện tượng mới của làng xuất bản Mỹ với mức độ thành công tương đương với “Mật mã Da Vinci” của Dan Brown. The Shakespeare Secret (Bí mật Shakespeare) là một tiểu thuyết ly kỳ liên quan đến một vở kịch bị mất của Shakespeare, vở kịch The History of Cardenio. Vào một ngày tháng 6 năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dựng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị, khoa trương của trường ĐH Harvard chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho cô bạn mình là Katharine Stanley - đạo diễn người Mỹ đang dựng vở kịch Hamlet ở nhà hát Globe - một hộp nhỏ gói giấy vàng.  Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta đã giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind, chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời nữ hoàng Victoria được trang trí những bông hoa liên quan đến Ophelia, đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah; Arizona; Washington, D.C.; và quay trở lại London. Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo của vụ giết người.  Từ những tài liệu của Shakespeare cho đến những hầm mỏ hoang tàn, từ hiện tại đến quá khứ, tiểu thuyết tâm lý hành động của tác giả Jennifer Lee Carrell chứa đựng nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị. Sức hút của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua viện Bản quyền tác phẩm đã bán cho 20 quốc gia trên toàn thế giới. *** Một ngày tháng Sáu năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dụng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho Katharine Staley - đạo diễn người Mỹ một hộp nhỏ màu vàng. Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đáng ngờ đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời Nữ hoàng Victoria đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah Anzona… Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết một cách bất ngờ khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo… “Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt đẹp thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ.” Bí mật Shakespeare đã tạo ra một hiện tượng mới trong làng xuất bản Mỹ, với mức độ thành công tương đương với Mật mã Da Vince của Dan Brown. *** LỜI TÁC GIẢ: Một buổi tối mùa thu khi tôi mới bắt đầu vào đại học, trong lúc đang lục lọi tìm kiếm giữa những cuốn sách cũ trong căn phòng phía sau thư viện Child, góc riêng tư của khoa Anh văn nằm ở một góc tầng trên cùng thư viện Widener của trường Harvard, tôi bắt gặp bộ sách bốn tập: Sân khấu thời Elzabeth của E. K. Chambers, xuất bản năm 1923. Tôi lần lượt giở qua từng tập. Những tập sách này đầy ắp thông tin, phần lớn chúng tôi không biết có thể sử dụng làm gì, chẳng hạn như ghi chú rằng “rất nhiều diễn viên thời Elizabeth cũng là nghệ sĩ nhào lộn, và hiển nhiên có thể đi trên dây”. Tuy vậy, ở cuối tập ba, tôi tìm thấy vài trang nói về những vở kịch của Shakespeare, gồm cả một mục ngắn có tên “Những vở kịch đã thất lạc.” Tôi biết phần lớn những vở kich được viết bằng tiếng Anh thời Phục hưng đã không tồn tại được đến ngày nay, và vì thế tôi nghĩ - một cách mơ hồ - rằng một số tác phẩm Shakespeare sáng tác chắc chắn cũng đã thất lạc. Điều làm tôi ngạc nhiên là Chambers biết được một vài điều về những tác phẩm đã mất. Đập vào mắt tôi, bằng giấy trắng mực đen, là hai cái tên, và trong trường hợp của vở kịch Cardenio còn có cả nội dung sơ lược. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ ra sao nếu tìm được một trong những vở kịch này. Ở nơi nào người ta có thể khám phá ra một thứ như vậy? Và khoảnh khắc của sự khám phá sẽ như thế nào? Và liệu một khám phá như thế sẽ ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của một người - ngoài việc hiển nhiên người đó sẽ lập tức trở nên giàu có và nổi tiếng? Nhưng địa điểm thích hợp nhất để tìm kiếm những vở kịch thất lạc của Shakespeare là các thư viện ở châu Âu và những ngôi nhà cổ. Nhưng tất nhiên, nếu một vở kịch nằm ở nơi dễ đoán như vậy, thì nó đã được tìm ra từ lâu. Theo cách chủ quan của những kẻ nằm mơ ban ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ xem ở nơi nào ngoài nước Anh, và cụ thể hơn, ở một số địa điểm tôi có thể thực sự tìm thấy nó, chẳng hạn New England (hay ít nhất nơi nào đó ở hành lang Đông Bắc giữa Boston và Washington D. C. ) hay vùng sa mạc phía tây nam. Thỉnh thoảng, tôi đi xa đến mức tìm kiềm những chiếc hộp đựng những cuốn sách sờn cũ trong cửa hiệu bán đồ cổ nằm trong những ngôi nhà thô kệch sau nhưng con đường mà tôi tình cờ đi qua trong lúc lang thang ở New England. Nhưng chẳng có ai lại để, cho dù một khổ thơ của Shakespeare chứ đừng nói tới cả tập bản thảo, nằm yên tại đó. Ở đâu đó trên bước đường tìm kiếm, tôi tự thừa nhận với mình rằng sẽ chẳng bao giờ tôi thực sự tìm thấy một trong các vở kịch thất lạc của Shakespeare - và rằng có thể sẽ thú vị hơn khi biến nó thành một câu chuyện, vì như thế tôi có thể kiểm soát những gì xảy ra, và xảy ra với ai. Và sau đó tôi nghĩ - tại sao không bám lấy bí mật khác thậm chí còn lớn hơn về Shakespeare? Ông là ai? Tôi đã mất hơn một thập kỉ chỉ để bắt đầu, nhưng Bí mật Shakespeare hay Chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ là kết quả. Đoạn văn trong tập sách của Chambers khởi đầu cho toàn bộ câu chuyện này, với vài chỉnh sửa nhỏ, chính là đoạn văn mà Kate đã đọc trong truyện. Những địa điểm liên quan tới Shakespeare xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết đều là những địa danh có thật, mặc dù tôi đã tự cho phép mình hư cấu đôi chút ở một vài chỗ cho phù hợp với mạch chuyện. Những giả thiết về danh tính thực của Shakespeare cũng đều có thật - ít nhất với tư cách là những giả thiết. Cuối cùng, rất nhiều nhân vật lịch sử được hư cấu từ các sự kiện có thật. Tất cả các nhân vật hiện đại đều là hư cấu. Một mục ghi chú trong cuốn Đăng kí Stationers (một dạng bản quyền sơ khai ở nước Anh) xác nhận Shakespeare là đồng tác giả của vở kịch Cardenio cùng với John Fletcher, người kế tục ông trong vai trò nhà soạn kịch chính cho đoàn kịch của nhà vua (và cũng là đồng tác giả với ông trong nhiều vở kịch khác). Tôi chọn “tìm ra”  Cardenio vì trong hai vở kịch đã thất lạc mà chúng ta biết nhan đề, đây là vở kịch chúng ta biết được nhiều chi tiết về nội dung hơn, và cũng bởi vì nguồn gốc của vở kịch này, từ cuốn tiểu thuyết Don Quixote của Miguel de Cervantes, cho nó một mối liên hệ mơ hồ với vùng thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, và do đó liên quan tới vùng tây nam nước Mỹ - một vùng đất tôi yêu mến, và là nơi tôi muốn các nhân vật của mình chơi trò đi tìm kho báu với vở kịch của Shakespeare. Vở kịch thất lạc còn lại - những nổ lực vì tình yêu được đền đáp - đã biến mất hoàn toàn, nhưng Cardenio đã xuất hiện trở lại dưới dạng bản thảo vào thế kỉ mười tám, khi Lewis Theobald “hiện đại hóa” nó trên sân khấu London. Bản thảo gốc, mà phần lớn học giả chấp nhận coi là xác thực, đã thất lạc, nhưng một bản rút gọn với cái tên Hai sự dối trá [sic] đã tồn tại tới ngày nay. Nhìn chung, bản phóng tác này thực sự kinh khủng đúng như Kate nói: đầy những lỗ hổng, chằng chịt những chỗ vá víu vụng về như khuôn mặt của Frankeinstein. Tuy vậy, rải rác trong bản thảo này có những câu có vẻ như đúng là do Shakespeare hay Fletcher - ở mức độ từng câu riêng lẻ, khó mà phân biệt giữa sự phụ hay đồ đệ, cũng giống như việc phân biệt giữa tranh của Rembrandt với tranh có xuất xứ từ “xưởng họa của Rembrandt” ở mức độ nhát cọ. Hai sự dối trá là nguồn gốc của những từ mà Kate cũng như những người khác đã nhận định là của Shakespeare trong cuốn tiểu thuyết này. Ngoại lệ duy nhất là câu chỉ đạo diễn xuất và dòng thoại về Sancho và Don Quixote: tôi phải mang gánh nặng trách nhiệm về những câu này vì trong bản rút gọn tôi đang nói đến không còn chút dấu vết nào của nhà quý tộc già điên rồ cùng anh hầu thực dụng của ông. Tuy vậy, giống như Kate, tôi muốn nghĩ rằng Shakespeare hẳn sẽ nhìn ra hai người này là không thể thiếu cho sự trào phúng và dẫn dắt mạch chuyện, và do đó chắc đã đưa họ vào dưới một dạng dẫn chuyện nào đó. Tôi đã đọc một giả thiết học thuật, do Richard Wilson đưa ra trong cuốn Shakespeare bí mật (Đại học Manchester xuất bản năm 2004) , cho rằng Cardenio có thể có mối liên hệ nào đso với gia đình Howard và cái chết của hoàng tử Henry. Gia đình Howard ủng hộ Tây Ban Nha và là những tín đồ Thiên chúa giáo bí mật, và nổi tiếng đố kỵ, nhất là bá tước Northampton và cháu ông ta, bá tước Suffolk (Để cho đơn giản, tôi sử dụng tước vị này để nói về hai người đó trong cuốn tiểu thuyết, mặc dù cả hai chỉ được phong bá tước sau khi vua James lên ngôi). Đúng là có những lời đồn đại về mối quan hệ tình ái giữa Frances Howard và hoàng tử, và theo những lời đồn “sự kiện chiếc găng tay” đã thực sự xảy ra (mặc dù tên của quý bà vẫn được giữ kín) ; câu chuyện khủng khiếp về việc Frances đầu độc một trong những tình nhân của chồng bằng những chiếc bánh tẩm thuốc độc đã được ghi lại rất chi tiết trong các tài liệu tư pháp, và bà ta đã thực sự bị phán quyết là có tội trước tòa. Tuy nhiên, chi tiết về những rắc rối của gia đình Howard và Shakespeare và nhà hát Quả cầu hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra. Trong khi cách đơn giản nhất nói rằng William Shakespeare người Stratford đã viết những vở kịch mang tên ông, vẫn có rất nhiều ý kiến phản biện, từ thú vị gây tò mò tới thô thiển kỳ quặc, cho rằng có thể không phải như vậy. Tuy nhiên, vấn đề chính mà mọi giả thiết về “một người khác” đều không tránh khỏi, đó là tất cả đều đòi hỏi một sự đồng thuận im lặng: Nếu có một ai khác đã viết những vở kịch, thì chưa từng ai tiết lộ bí mật này. Trong một môi trường đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng, những lời châm chọc đến mức chuyên nghiệp như tại triều đình của Elizabeth và James, đây là một thiếu sót không nhỏ. Nhiều hiệp hội của những người “chống lại giả thiết người Stratford (anti-Stratfordian)” hiện vẫn tồn tại - từ những tổ chức học thuật cho tới những nhóm theo lý thuyết âm mưu mang tính sùng bái. Rất nhiều người hâm mộ giải mã nhưng thông điệp được mã hóa mà theo họ tiết lộ danh tính của rất nhiều rác giá khác như là tác giả thực thụ, người đã ẩn danh một cách có chủ ý, của những tác phẩm được xuất bản dưới cái tên của “William Shakespeare”. Hai cái tên thay thế mà số người ủng hộ nhiều nhất - và cũng đáng tôn trọng nhất - là bá tước Oxford và Francis Bacon. Các ứng viên sáng giá khác gồm Christopher Marlowe; Edmund Spence; Philip Sidney và em gái ông Mary Herber, nữ bá tước Pembroke; Nữ hoàng Elizabeth; Walter Raleigh; bá trước Southampton, Derby, và Rutland, và một hội đồng bí mật gồm tất cả những người kể trên, được cho là do Bacon, hay Oxford, hoặc cả hai, chủ tọa. Còn điên rồ đến mức khó lý giải hơn là những người ủng hộ cho Henry Howard, bá tước Sussex (bị chặt đầu bốn mươi tư năm trước buổi công diễn đầu tiên một vở kịch của Shakespeare) và Daniel Defoe (ra đời bảy mươi năm sau buổi công diễn đầu tiên vừa nhắc tới ở trên). Một bổ sung mới nhất cho danh sách thu hút được sự chú ý nghiêm túc là vị triều thần khiêm tốn Henry Neville. Edward de Vere, bá tước Oxford đời thứ bảy, hiện là nhân vật được những người anti-Stratfordian ưa thích nhất. Những đoạn đảo chữ và ám chỉ về Oxford tromg cuốn sách này trên thực tế đều đã được đưa ra làm bằng chứng để chứng minh rằng bá tước là người viết các vở kịch. Như Athenaide đã chỉ ra, họ của ông ta - Vere - có liên quan tới từ Latinh verum, hay “sự thật” , theo một truyền thống lâu đời, và câu phương châm của gia đình ông ta - Vero nihil verius, tức “Không có gì đúng hơn sự thật” cũng tham dự vào mối liên hệ này. Đó là cách làm của những người ủng hộ ông ta ngoài đời thực: tìm kiếm những quan hệ “nghi ngờ” hay “có ý ngĩa” tới sự thật về Shakespeare. Từ “ever” là một bằng chứng thuyết phục khác. Người đầu tiên ủng hộ Oxford (hay Oxfordian) một cách nghiêm túc là J. Thomas Looney (đọc là “Loney” ), cuốn sánh Nhận diện “Shakespeare” của ông được xuất bản năn 1920 đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có Sigmund Freud. Tuy vậy, Francis Bacon mới là tác giả thay thế được nhắc tới sớm hơn cả; những lập luận nghiêm túc nghiêng về ông đã được Delia Bacon và một vài người khác đưa ra từ những năm 1850. Những người ủng hộ Bacon (hay các Baconian) đã nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm của Shakespeare và các tác pharm thời Phục hưng khác với một sư hăng say mãnh liệt, khám phá ra vô số đoạn đảo chữ, ẩn ngữ theo chữ cái đầu, mật mã số và từ đồng nghĩa (thường là về “hog” (lơn thịt) và “bacon” (thịt muối) mà theo họ đã chỉ ra người hùng của họ chính lá tác giả các vở kịch; và thêm vào đó Bacon còn thường được cho là con trai của Nữ hoàng Elizabeth). Một số người thậm chí còn đi xa tới mức xem xét những buổi lên đồng hay đi đào trộm mộ. Tuy vậy, không phải tất cả những người ủng hộ Vacon đều dễ dàng bị khuất phục; trong số họ có cả các học giả, tác giả, luật gia, và thẩm phán ở cả nước Anh lẫn nước Mỹ. Tính đến nay bài viết mà các Baconian thích đọc nhất là bài tiểu luận của Mark Twain - “Có phải Shakespeare đã chết?”. Cho dù anh ta còn là gì khác nữa, chắc chắn Bacon là một người vừa xuất chúng vừa khôn ngoan. Đã từng có thời gian là chánh án của Hoàng gia, ông đã phát minh ra một hệ thống mật mã phức tạp đáng khâm phục mà Jem Branville đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết này. Bacon đã công bố mật mã năm 1623, cùng năm Tuyển tập Đầu tiên xuất hiện. Người đề xướng ra cái tên của bá tước Derby đời thứ sáu là Abel Lefranc, nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp và giáo sư trường đại học Pháp, vào những thập kỷ đầu của thế kỉ hai mươi. Bất chấp tên của Derby (William) , những chữ cái đầu tiên tên goi (W. S. ), và cuộc đời nằm trong khoảng thời gian phù hợp, với những người nói tiếng Anh, tư cách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. ách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. Tác phẩm không hư cấu (và cũng không thiên vị) đáng chú ý nhất nói về những tranh cãi về tư cách tác giả này là cuốn Ai đã viết những tác phẩm của Shakespeare? Của John Mitchell (Thames và Hudson, 1996). Về một cái nhìn ủng hộ Shakespeare người Stratford, xin mời xem Cuộc điều tra vì Shakespeare của Scott McCrea (Praeger, 2005). Nhà hát Quả cầu nguyên bản bị cháy rụi vào ngày 29 tháng Sáu năm 1613 (một ngày thứ Ba, theo lịch Julian cũ) trong một buổi biểu diễn vở Henry VIII, sau đó được biết đến với cái tên Tất cả đều đúng. Theo những gì đã biết cho tới nay, đó là một tai nạn, do những tia lửa từ những phát đại bác bắn ra làm hiệu ứng đặc biệt rơi vào mái rạ. Những nhân chứng tận mắt chứng kiến đã thuật lại có một người đàn ông bị bỏng nhẹ trong khi cứu một đứa bé bị kẹt trong đám cháy; lửa bám vào người anh ta được dập tắt bằng bia. Nhà hát Quả cầu mới đúng là tòa nhà đầu tiên lợp mái rạ được chấp nhận ở khu vực phụ cận London từ sau vụ cháy lớn năm 1666. Những công trình kỉ niệm và nà hát về Shakespeare ở Stratford-upon-Avon đều nổi tiếng trên toàn thế giới. Thư viện Folger về Shakespeare ở trên đồi Capitol tại Washington D. C. sở hữu bộ sưu tập phong phú nhất về Shakespeare. Witon, tư gia của bá tước Pembroke, là một trong số ít địa điểm mà Shakespeare chắc chắn đã từng tới thăm còn tồn tại đến ngày nay - việc ông từng có mặt ở đây còn chắc chắn hơn tại bất cứ tòa nhà nào ở Stratford, ngoại trừ nhà thờ nơi ông được an táng. Bản copy tại tại Wilton, đài tưởng niệm Shakespeare ở Westminster cùng những thay đổi và những chữ cái viết hoa lạ lùng đều chính xác, mặc dù tôi đã tưởng tượng ra những màu sơn nhấn mạnh sự đảo chữ. Cũng như vậy, có một loạt tranh về chủ đề Arcadia trong gian phòng theo phong cách Palladian vẫn được gọi là phòng Lập phương, mặc dù tôi đã hư cấu đôi chút cho phù hợp với câu chuyện của mình. Ngăn hốc bí mật đằng sau một trong những bức họa đó là do tôi tưởng tượng ra. “Bức thư bị thất lạc” của nữ bá tước gửi cho con trai, nói rằng “chúng ta đang có Shakespeare ở đây” , đã được đề cặp tới trong tài liệu vào thế kỉ mười chín, nhưng từ đó tới nay chưa có học giả nào được nhìn thấy tận mắt. Bức thư của Will gửi cho con Thiên nga Ngọt ngào nhất là do tôi hư cấu. Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid được vua Tây Ban Nha Philip II thành lập nhằm mục đich đào tạo các thanh niên người Anh thành tu sĩ  Thiên chúa giáo và (theo cách nhìn của Nữ hoàng Elizabeth) gây ra những cuộc nổi loạn tôn giáo tại đất nước họ. Học viện này hiện vẫn tồn tại đào tạo thanh niên người Anh thành tu sĩ. Trong thư viện tuyệt vời của học viện này đã từng có một cuốn Tuyển tập Đầu tiên, nhưng tôi được nghe kể lại cuốn sách đã bị bán đi vào đầu thế kỉ hai mươi. Vào năm 1601, tám năm sau khi Christopher Marlowe bị sát hại, một “Christopher Morley” - tên gọi Marlowe từng sử dụng khi còn sống - được ghi lại trong tư liệu lưu trữ là đang theo học tại học viện. Tới năm 1604, Cervantes cũng có mặt tại thành phố này và hoàn tất Don Quixote tại đây. Những khu mỏ, thị trấn, và các nhà hát liên quan đến Shakespeare tồn tại nhiều vô số kể ở khắp miền tây Hoa Kỳ: những khu mỏ được đặt tên theo các nhân vật và vở kịch của Shakespeare rải rác khắp dãy núi Colorado. Nghiên cứu của Roz về chủ đề này chính là của tôi, được tiến hành cho một bài viết tôi thực hiện cho tạp chí Smithsonian với tên gọi “Một thi sĩ đã chinh phục miền Tây như thế nào” [Tháng Tám, 1998]. Thành phố Cedar, nằm ở vùng núi đá đỏ au của bang Utah, là nơi diễn ra Festival về Shakespear ở Utah, thành phố này rất tự hào về một bản sao mới xây lại của nhà hát Quả cầu thời Elizabeth - mặc dù tôi đã thêm vào Văn khố Preston dưới dạng bản sao ngôi nhà Shakespeare ra đời tại Stratford-upon-Avon. Vụ cá cược về vai diễn Hamlet của Jem Granville được lấy cảm hứng từ một vụ cá cược có thật đã diễn ra vào năm 1861 ở Denver. Tôi đã xây dựng nội dung những bài báo trong tiểu thuyết từ những phóng sự trên tờ Tin tức Rocky Moutain thuật lại một cách chi tiết cuộc cá cược có thật trong lịch sử này. Thị trấn ma mang tên Shakespeare nằm ở miền tây New Mexico, gần Lordsburg, trên biên giới bang Arizona; tôi đã nghe được câu chuyện về Bean Belly Smith vài lần từ những người chủ nhà. Tuy nhiên, tòa dinh thự của Athenaide nằm ở cuối con đường duy nhất của thị trấn là do tôi hư cấu thêm, mặc dù tòa lâu đài “nguyên bản” của Hamlet mà dinh thự đó mô phỏng theo là một địa điểm có thật - lâu đài Kronborg ở ngoại ô Elsinore (hay Helsingor) ở Đan Mạch, cũng như đại sảnh khiêu vũ tại lâu đài Hedingham, nơi đã từng là tư dinh của bá tước Oxford. Sự ám ảnh của những người theo trường phái Oxfordian với vở kịch Hamlet là có thật; những người này đã diễn giải giải vở kịch như một cuốn tự truyện được mã hóa của ứng cử viên họ ủng hộ. Như nhận xét của Kate và Athenaide, quả thực vở kịch có không ít điểm tương đồng đến kỳ lạ với cuộc đời của Oxford. Học giả người Mỹ Delia Bacon đã bị điên năm 1857 trong khi đang viết tác phẩm nổi tiếng Làm sáng tỏ [sic] triết lý trong những vở kịch của Shakespeare. Câu chuyện bà thức trắng đêm trước ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Thánh Ba ngôi ở Stratford được tái hiện theo đúng lời kể của chính bà về sự kiện này, trong một lá thư gửi cho người bạn Nathanien Hawthorne. Mục sư của nhà thờ Thánh Ba ngôi, Granville J. Granville, đã cho phép bà làm việc đó; mục sư Granville có vài người con, nhưng Jeremy (Jem) là do tôi hư cấu thêm vào gia đình ông. Cũng như vậy, bác sĩ George Fayrer đúng là người đã đưa Delia vào trại điên tư của ông ở Henley-in-Arden vào ngày 30 tháng Mười một năm 1857, nhưng cô con gái Ophelia của ông hoàn toàn là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tôi. Francis J. Child là giáo sư Anh văn tại Đại học Harvard từ năm 1876 cho tới tận khi ông qua đời năm 1896; bộ sưu tập các bản ballad bình dân của Anh và Scotland do ông thực hiện cho đến nay vẫn là một trong những công trình học thuật lớn về văn học Anh. Ông cũng là một học giả xuất sắc về Shakespeare. Giống như trong tiểu thuyết, hoa hồng là một niềm đam mê lớn nữa của đời ông (và quả thực có một cây hồng Lady Banks lâu năm rất nổi tiếng mọc trong vường sau một nhà trọ - ngày này là bảo tàng - ở Tombstone, bang Arizona, mặc dù tôi đã lùi thời gian nó được trồng sớm lên vài năm). Tôi hy vọng hương hồn ông sẽ tha thứ cho tôi vì đã gán cho ông một đứa con sinh ra từ tình yêu. Những bài sonnet của Shakespeare có vẻ được viết một cách rõ ràng dành cho chàng thanh niên tóc vàng rụt rè hoặc quý bà tóc đen bí hiểm, thi sĩ có vẻ như bị ràng buộc với hai người này trong mối tình tay ba. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức nhằm xác định xem quý bà và chàng thanh niên là ai; chưa ai trong số hai nhân vật bí ẩn này được xác định danh tính một cách thuyết phục. Trong mười bảy bài sonnet đầu tiên, Shakespeare cầu khẩn chàng thanh niên hãy có một đứa con. Thật đáng tò mò, lòi nói đầu của Theobald cho vở kịch Hai sự dối trá có ảm chỉ đến một người con gái ngoài giá thú của Shakespeare chưa từng được nhắc tới ở bất cứ nơi nào khác. Thi sĩ - người kể chuyện của những bài sonnet bị giày vò bởi ngọn lửa ghen tuông vì mối quan hệ giữa chàng thanh niên và quý bà tóc đen, việc gán đứa bé gái này cho quý bà và làm cho danh tính người cha đưa bé mơ hồ cũng là tự nhiên - nhưng mối liên hệ này là do tôi hư cấu nên và không hề được tìm thấy trên thực tế. Nicholas Hilliard quả thật là họa sĩ nổi bật nhất nước Anh vào thời Shakespeare còn sống; theo một nghĩa nào đó, có thể coi ông như là Shakespeare của mỹ thuật. Hilliard chuyên vẽ những bức chân dung cỡ nhỏ với những chi thiết tinh xảo, chính xác như một bức ảnh chụp. Bảo tàng Victoria và Albert ở London sở hữu một bức chân dung như vậy, vẽ một người đàn ông với hậu cảnh là những ngọn lửa. Thomas Shelton là quản gia mang hai dòng máu Anh và Ireland của gia đình Howard, đúng là người đã dịch Don Quixote sang tiếng Anh; bản dịch của ông ta được xuất bản năm 1612. Trong khi người em của ông ta chỉ là nhân vật hư cấu, trên thực tế đã có một số lượng không nhỏ người Anh theo Công giáo mộ đạo bí mất trốn tới lục địa để học tại các trường dòng giống như Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid. Những tu sĩ Jesuit người Anh thường được gửi trở lại Anh để coi sóc phần hồn cho những tín đồ Thiên chúa giáo ở nước này một cách bí mật. Những tu viện xuất hiện sớm nhất ở Santa Fe và vùng lân cận, ở khu vực hiện nay là bang New Mexico, đều thuộc dòng tu Franciscan. Người bản địa châu Mỹ ở khắp vùng tây nam - lúc đó là Tân Tây Ban Nha với người Âu - liên tiếp nổi dậy trong thế kỉ mười bảy, tàn sát những người Tây Ban Nha xâm lược, đặc biệt là các tu sĩ. Dãy núi Dragoon ở vùng đông nam Arizona là căn cứ địa của người Apache cho tới khi Geronimo bị bắt năm 1886. (Người thủ lĩnh Apache vĩ đại Cochise yên nghỉ ở một địa điểm bí mật nào đó trong những dãy núi này). Mặc dù tôi đã hư cấu ra hẻm núi và khu hang động trong đó Kate tìm thấy kho báu bị chôn vùi cùng những bộ hài cốt, quả thực vùng này chứa đựng vô số hang động. Hang động Kartchner nằm gần đó (và mới được phát hiện gần đây) là một ví dụ tuyệt vời về những “cung điện tự nhiên” mà những lòng núi rỗng chắc hẳn vẫn còn ẩn giấu. “Chữ ký” trong cuốn Kinh thánh của vua James vẫn luôn nằm đó cho bất kỳ ai muốn xem (hay muốn đếm). Tại sao nó lại có mặt ở đó là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, và tôi cũng không rõ ai đã “phát hiện” ra nó. Không ai biết rõ bài Thánh thi số bốn mươi sáu, hay toàn bộ Sách các Thánh thi, được hoàn thành vào thời điểm nào (mặc dù thời điểm đó chắc chắn nằm giữa năm 1604 và 1610) , hay ai đã phụ trách bài Thánh thi nào. Cả Lancelor Andrewes, thu viện trưởng Westminster và sau đó là giám mục Chichester, và Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Đại học Emmannuel ở Cambridge, đều là những nhà thần học đã tham gia biên soạn cuốn Kinh thánh, và Chaderton, một người theo Thanh giáo, là thành viên của “Ủy ban Cambridge thứ nhất” được phân công phụ trách các bài Thánh thi. Tuy nhiên, bức thư của giám mục có nói đến Chaderton là do tôi tưởng tượng ra. Mặt khác, ngày tháng năm sinh của Bacon, Derby, và nữ bá tước Pembroke đều dựa trên các tư liệu lịch sử chính thức. Biến một giấc mơ giữa ban ngày thành một cuốn tiểu thuyết hóa ra lại cần đến vô số sự giúp đỡ và lời động viên. Trước hết và trên hết, tôi muốn cám ơn Brian Tart và Mitch Hoffman, sự kiên nhẫn cùng đôi mắt sáng suốt của họ đã giúp tôi định hình cuốn sách này. Bằng cách nào đó, họ đã giúp tôi luôn giữ được tiếng cười. Neil Gordon và Erika Imranyi đã giúp quá trình sáng tác của tôi được trôi chảy. Noah Lukeman tin chắc đây là cuốn sách tôi nên viết và đã làm những điều kỳ diệu để biến nó thành sự thật. Vì những ý kiến chuyên môn và tư liệu về nhiều lĩnh vực mà họ đã cung cấp, tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Ilana Addis, Michelle Alexander, Kathy Allen, Bill Carrell, Jamie de Courcey, Lionel Faitelson, Dave và Ellen Grounds, cha Peter Harris, Jessica Harrison, Charlotte Lowe-Bailey, Peggy Marner, Karen Melvin, Kristie Miller. Liz Ogilvy, Nick Saunders, Brian Schuyler, Dan Shapiro, Ronald Spark, Ian Tennent, và Heidi Vanderbilt. Diễn đàn Straw Bale và Câu lạc bộ văn học Tucson đã được nghe một số trang bản thảo ban đầu, và để được tham dự vào hai nhóm này, tôi phải biết ơn Bazy Tankersley. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tiến sĩ Javier Burrieza Sanchez, thủ thư và quản lý văn khố tại Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid; tới Nigel Bailey, người quản lý, và Carol Kitching, hướng dẫn viên chính tại dinh thự Wilton và Wiltshire; và tới Sarah Weatherall tại nhà hát Quả cầu của Shakespeare, London. Tập thể nhân viên thư viện Folger ở Washington D. C. , cũng như nhà thờ Thánh Ba ngôi và trung tâm Thư viện Shakespeare, đều ở Stratford, cũng đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Hơn bất cứ ai khác, Marge Garber đã góp phần định hình suy nghĩ của tôi về Shakespeare trên những trang giấy. Những thành viên của đoàn sân khấu Hyperion tại trường Harvard, trong những năm 1996 - 1998, và Shakespeare & Company, tại Lenox, Massachusetts, đã dạy cho tôi biết tất cả những gì về Shakespeare trên sân khấu. David Ira Goldstein và đoàn kịch Arizona đã đón tiếp tôi đến với thế giới của sân khấu chuyên nghiệp như một người khách thường xuyên. Ba người đã lắng nghe, đọc và nhận xét không ngừng trong suốt quá trình cuốn sách này hình thành: Kristen Poole, học giả, người kể chuyện, và người bạn: mẹ tôi, Melinda Carrell, người đầu tiên truyền cho tôi tình yêu với những cuốn sách; và chồng tôi, Johnny Helenbolt. Không gì có thể nói hết lòng biết ơn của tôi dành cho Johnny. *** Jennifer Lee Carrell sống tại Tucson, Arizona, Mỹ. Bà có bằng tiến sĩ về văn học Anh và Mỹ, chuyên đạo diễn các vở kịch của Shakespeare cho đoàn sân khấu Hyperion. Jennifer Lee Carrell là một tác giả người Mỹ của ba cuốn tiểu thuyết và nhiều bài viết cho Tạp chí Smithsonian và Ngôi sao hàng ngày Arizona   Mời các bạn đón đọc Bí mật Shakespeare của tác giả Jennifer Lee Carrell.
Hokkaido Mê Trận Án - Soji Shimada
Tại Hokkaido, trên một mỏm cao xa tít tắp trông xuống biển khơi đầy băng trôi, có xây cất một công trình dị thường mà người trong vùng gọi là "nhà nghiêng". Công trình ấy gồm một ngôi nhà và một ngọn tháp tròn, cùng nghiêng về phía Nam, xây dựng rất kì công với thiết kế mê cung bên trong, nhưng hiện tại đang rơi vào tình trạng hoang phế, rao bán đã lâu mà chẳng ai hỏi mua, không chỉ vì vị trí quá hẻo lánh, mà còn vì nơi này từng xảy ra án mạng. Vào Giáng sinh năm nọ, sau đêm tiệc linh đình, một trong số khách khứa đã bị giết ở phòng kín, ngủ yên mãi mãi với tư thế tay giơ chân múa như cầu thần linh. Khi ai nấy chưa kịp trấn tĩnh, người khách thứ hai tiếp tục đi về cõi vĩnh hằng ở tư thế nằm sấp trong căn phòng kín bưng với ba lớp khóa. Mitarai Kiyoshi tài danh tìm đến, khẳng định có anh ở đây, sẽ không một ai phải chết nữa. Lời chưa ráo miệng, người khách thứ ba ra đi… Bộ đôi Mitarai và Ishioka ở Tokyo hoàng đạo án nay trở lại trong một phi vụ giết người đầy ảo diệu, sử dụng rất nhiều đạo cụ cầu kì… *** Soji Shimada là một tác giả chiêm tinh, nhà thiết kế, kiêm nhạc sĩ nổi tiếng người Nhật Bản. Tokyo hoàng đạo án là tiểu thuyết li kỳ đầu tay của ông, đã được vinh danh ở giải Edogawa Rampo vào năm 1981. Hơn 30 năm qua, Tokyo hoàng đạo án vẫn nằm trong danh sách các tác phẩm văn học bán chạy nhất của Nhật Bản, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Nga, Trung, Thái Lan, Tagalog…   Mời bạn đón đọc Hokkaido Mê Trận Án của tác giả Soji Shimada.
Nỗi Kinh Hoàng Trườn Tới - James Patterson
Nỗi kinh hoàng trườn tới được xây dựng trên một tam giác khác thường bậc nhất: Gary Soneji – tên tội phạm cực kỳ thông minh đang muốn gây ra một vụ long trời lở đất; Alex Cross – viên thám tử xuất sắc có nhiệm vụ phải ngăn chặn hắn ta, và Jezzie Flanagan – nữ giám sát viên đầu tiên của Sở Mật vụ. Điều đáng nói là, trong cuộc chơi này, Gary luôn ở cửa trên. Còn Alex và Jezzie, ngay giữa những thời khắc căng thẳng nhất của cuộc điều tra, lại chấp chới rơi vào một tình yêu cấm kỵ. Một thời điểm không thể tệ hơn được nữa. Những vụ án bí ẩn, cuộc cân não vừa căng thẳng vừa thú vị giữa tên tội phạm xuất sắc và tay thám tử xuất sắc, nhịp độ nhanh với những khúc ngoặt bất ngờ Nỗi kinh hoàng trườn tới có mọi yếu tố của một best seller kinh điển. Và quả vậy, nó đã mở đầu cho cả một series về Alex Cross, một trong những series trinh thám thành công nhất thế giới đã kéo dài suốt hai mươi lăm năm qua. Nhận định “James Patterson đã dọn sẵn cho người đọc một bữa tiệc “cảm giác” thịnh soạn.” (New York Times)   ***   Nhà văn James Patterson sinh ngày 22 tháng 3 năm 1947 tại thành phố Newburgh, bang New York. Ông từng tốt nghiệp cử nhân về tiếng Anh ở trường cao đẳng Manhattan và tiếp theo, đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ cũng về tiếng Anh ở Trường Đại học Tổng hợp Vanderbilt. Năm 1971, Patterson được nhận vào làm tại Công ty Quảng cáo James Walter Thompson. Chính ở đây nhà văn tương lai đã được thăng tiến rất mau lẹ trong công việc, từ một nhân viên bình thường lên tới giám đốc. Ngay khi đang làm quảng cáo, Patterson đã thử viết văn. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Con số Thomas Berryman thoạt tiên đã bị nhiều nhà xuất bản từ chối. Mãi tới năm 1976, Con số Thomas Berryman mới được nhà xuất bản Little Brown nhận in và sau đó, chính nó đã trở thành sách best-seller và được trao giải thưởng mang tên nhà văn Edgar (mang tên nhà văn Mỹ nổi tiếng Edgar Poe) dành cho tác phẩm đầu tay xuất sắc. Trong gần hai mươi năm sau đó, Patterson đã kết hợp hoạt động của một giám đốc hãng quảng cáo với công việc của một ngôi sao mới nổi trong làng nghệ thuật giải trí. Và rất thành công. Các tác phẩm của James Patterson đã được xuất bản tại Việt Nam: - Hồng Rực Đỏ - Tuần Trăng Mật - Chuyến Đi Khủng Khiếp - Luật Sư và Bị Cáo - Ly Rượu Pha Vội - Cạm Bẫy Mong Manh - Nụ Hôn của Casanova - Kẻ Đầu Tiên Phải Chết - Cơ Hội Thứ 2 - Cấp Độ 3 - Ngày 4 tháng 7 - Kỵ sĩ thứ 5 - Mục Tiêu thứ 6 - Thiên Đường Thứ 7 - Cross - Nỗi Kinh Hoàng Trườn Tới - Tick Tock *** CÙNG CHƠI TRÒ TƯỞNG TƯỢNG (1932) NEWJERSEY, gần Princeton; tháng Ba năm 1932 TÒA NHÀ trong nông trại của Charles Lindbergh sáng rực với những bóng đèn màu cam. Nó trông như một tòa lâu đài đang bừng cháy, nhất là trong khu rừng linh sam tối tăm của bang Jersey. Những lớp sương mỏng chạm người thằng bé khi nó tiến ngày càng gần tới khoảnh khắc đầu tiên của vinh quang thực sự, lần giết người đầu tiên của nó. Trời tối đen như mực, mặt đất ướt, nhầy nhụa và đặc quánh bùn. Thằng bé đã biết trước những điều này. Kế hoạch của nó đã tính đến mọi chuyện, kể cả thời tiết. Thằng bé đi đôi ủng lao động cỡ số chín dành cho đàn ông. Mũi và gót ủng nhồi đầy những mảnh vải nhỏ và vụn báo Người điều tra Philadelphia. Nó muốn để lại các dấu chân, thật nhiều dấu chân. Những dấu chân của một người đàn ông. Chứ không phải dấu chân của một thằng bé mười hai tuổi. Những dấu chân ấy xuất phát từ quốc lộ chạy qua hạt, đường Stoutsburg-Wertsville, tới nông trại, rồi từ đó chạy đi. Thằng bé bắt đầu run rẩy khi bước tới chỗ hàng thông, còn chưa đầy ba mươi mét nữa là đến tòa nhà trải rộng trên khu đất. Tòa nhà to lớn đúng như thằng bé đã tưởng tượng: chỉ riêng tầng hai đã có bảy phòng ngủ và bốn phòng tắm. Đây là nơi nghỉ dưỡng của Lindy May Mắn và Anne Morrow ở vùng nông thôn. Tuyệt cú mèo, thằng bé nghĩ. Thằng bé từ từ nhích về phía cửa sổ phòng ăn. Nó bị hấp dẫn bởi thứ gọi là sự nổi tiếng. Nó đã nghĩ về điều này rất nhiều. Hầu như lúc nào cũng nghĩ. Sự nổi tiếng thực ra là thế nào nhỉ? Nó có mùi gì? Vị nó ra sao? Sự nổi tiếng ở gần trông thế nào? “Người đàn ông quyến rũ và nổi tiếng nhất thế giới” đang ngồi ở ngay bàn này. Charles Lindbergh cao ráo, lịch lãm, mái tóc vàng óng đầy quý phái và làn da sáng. ”Lindy May Mắn” thực sự nổi trội hơn tất cả những người khác. Vợ ông là - Anne Morrow Lindbergh. Anne có mái tóc ngắn. Tóc đen, xoăn, khiến cho làn da bà trông trắng như phấn. Ánh sáng từ những ngọn nến trên bàn như nhảy múa quanh bà. Cả hai vợ chồng đều ngồi rất thẳng người trên ghế. Đúng, chắc chắn cặp vợ chồng này trông cao quý, như thể họ là những món quà Chúa dành tặng thế giới. Cả hai đều giữ đầu ngẩng cao, thưởng thức những món ăn bằng phong thái lịch thiệp. Ông miễn cưỡng nhìn những thứ bày trên bàn. Trên bộ đồ ăn bằng sứ đẹp hoàn hảo là món gì đó trông như thịt cừu... Mời các bạn đón đọc Nỗi Kinh Hoàng Trườn Tới của tác giả James Patterson.
Hầm Trữ Đông - Minette Walters
Màn chào sân trinh thám ấn tượng của nhà văn Minette Walters. Tác phẩm đạt giải thưởng John Creasy Dagger cho truyện trinh thám đầu tay xuất sắc nhất và được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 1997. Cái xác không mặt được tìm thấy trong căn hầm trữ đông, một khối kiến trúc cổ nằm giữa điền trang heo hút ở miền quê nước Anh. Trần truồng. Rữa nát. Dường như bị xâu xé bởi con gì đó, hoặc kẻ nào đó. Dân làng hoảng loạn, cảnh sát nháo nhào, nhưng người trong cuộc lại giữ thái độ hết sức thản nhiên, ung dung trước những lời đồn đoán. Bởi họ vô can, hay không ai khác, họ chính là hung thủ? Vụ mất tích kì quái mười năm trước được lật lại. Những nghi ngờ một lần nữa dấy lên. Lẽ nào lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên đến thế? Người chết không thể cất tiếng, kẻ sống lại quá gian manh. Nghi phạm biến thành nạn nhân. Mọi giả thuyết đều đi vào ngõ cụt. Kẻ thủ ác thì vẫn đang lẩn lút, đợi chờ cơ hội để tiếp tục ra tay. Điền trang - địa điểm thu hút các thi hài, với ba người phụ nữ bị ví như phù thủy và cái xác thối rữa cứ thế đưa tất cả vào cơn ác mộng kinh hoàng. Không chỉ đơn thuần là trinh thám, Hầm trữ đông còn chứa đựng vô vàn ý nghĩa về niềm tin vào cuộc sống, về bản chất con người. Khi bị dồn đến chân tường, một con thỏ hiền lành cũng có thể mọc nanh mọc vuốt. *** Minette Walters là một nhà văn chuyên viết truyện trinh thám tội phạm người Anh. Các tác phẩm của tác giả Minette Walters đã được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Hầm Trữ Đông Kẻ Nặn Sáp ... Mời các bạn đón đọc Hầm Trữ Đông của tác giả Minette Walters.