Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cò Súng Tử Thần

“Cò súng tử thần” là một tiểu thuyết trinh thám kể về nhân vật chính “James Bond” đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế lại là một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế. James Bond đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ để biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ, đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế là lại một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế *** Loạt tác phẩm James Bond xoay quanh một nhân vật mật vụ người Anh hư cấu, được sáng tạo bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953. Fleming đã khắc họa Bond trong 12 cuốn tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện ngắn. Sau khi ông qua đời vào năm 1964, đã có tám tác giả tiếp tục viết tiếp các tác phẩm tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết chuyển thể về James Bond, bao gồm: Kingsley Amis, Christopher Wood, John Gardner, Raymond Benson, Sebastian Faulks, Jeffery Deaver, William Boyd và Anthony Horowitz. Forever and a Day của Anthony Horowitz, xuất bản vào tháng 5 năm 2018, là cuốn tiểu thuyết James Bond mới nhất. Ngoài ra, có thể kể đến loạt truyện viết về Bond thời trẻ của Charlie Higson hay Kate Westbrook với bộ ba tiểu thuyết dựa trên cuốn nhật ký của Moneypenny, một nhân vật từng xuất hiện trong loạt truyện. Nhân vật James Bond còn được biết tới với mã tên 007, được chuyển thể rộng rãi thành các tác phẩm truyền hình, phát thanh, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim ảnh. Loạt phim về James Bond hiện đang là loạt phim liên tục dài nhất mọi thời đại và thu về tổng doanh thu 7.04 tỉ đô la Mỹ, trở thành loạt phim có doanh thu cao thứ sáu lịch sử. Nó được khởi đầu vào năm 1962 bằng phần phim Dr. No với ngôi sao Sean Connery trong vai Bond. Tính tới năm 2020, loạt phim do Eon Productions sản xuất đã có 24 phần. Spectre (2015) là bộ phim James Bond gần nhất, có sự tham gia diễn xuất của Daniel Craig với lần thứ tư anh thủ vai mật vụ Bond trong loạt phim của Eon. Ngoài ra, còn có hai tác phẩm độc lập: Casino Royale (một phiên bản giễu nhại ra mắt năm 1967, với sự tham gia của David Niven) và Never Say Never Again (bản làm lại bộ phim do Eon sản xuất trước đó của Thunderball, ra mắt năm 1965, cả hai bản đều có sự tham gia của Connery). Năm 2015, với trị giá ước tính 19.9 tỷ đô la Mỹ, James Bond trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Các bộ phim về Bond nổi tiếng bởi một số điểm đặc trưng, như phần nhạc đệm với các bài hát chủ đề đã nhiều lần được đề cử Oscar và chiến thắng hai lần. Vài yếu tố xuyên suốt quan trọng khác bao gồm những chiếc xe hơi của Bond, các khẩu súng của anh và những thiết bị mà anh được Q Branch cung cấp. Mỗi phần phim cũng chú ý khắc họa mối quan hệ của Bond với nhiều phụ nữ khác nhau, đôi khi được gọi là các "Bond girl". *** Đó là lúc cả thế giới đã bão hòa. Mặt trời đã xuống tới đường chân trời, luồng ánh sáng đỏ mềm mại trườn trên lớp sóng triều, phía cao tít bên trên đàn chim đang vẽ nên những hình kỷ hà ngẫu nhiên trên bầu trời quang. Gió đã ngừng thổi và cái nóng buổi chiều trở nên ngột ngạt, ngập trong khói xăng và bụi. Xuyên qua bầu không khí đó, chiếc Crosley màu lam bất ngờ còn lại một mình chạy theo đường 13, hướng từ biển vào đất liền. Crosley là một chiếc xe nhỏ, xấu, mũi dài, khoang vuông, thân đã bị gỉ sét ăn thủng. Người lái xe, đang gập người trên vô lăng, mắt không rời khỏi con đường phía trước, đã mua nó với giá ba trăm đô la. Tay bán hàng thề thốt rằng chiếc xe có thể chạy sáu mươi cây số chỉ với ba lít xăng và còn có thể tăng tốc lên tám mươi ki lô mét một giờ. Tất nhiên là hắn nói dối… với hàm răng hoàn hảo và nụ cười thân thiện của một con phe tỉnh lẻ. Chiếc Crosley chẳng tăng tốc được thêm chút nào ngay cả trên đường lao dốc, nữa là ở đây, gần với bờ Đông Virginia, nơi địa hình đã trở nên bằng phẳng suốt nhiều cây số. Người lái xe có thể là một giáo sư hoặc một thủ thư. Gã có vẻ ngoài của một kẻ chủ yếu sống trong nhà với làn da xanh xao, những ngón tay ám nicotine và cặp kính theo thời gian đã từ từ chìm vào mũi cho đến khi trở thành một phần vĩnh viễn của khuôn mặt. Tóc gã đã thưa, lộ ra những vết đồi mồi trên trán. Gã là Thomas Keller. Mặc dù hiện đang mang hộ chiếu Mỹ, gã sinh ra tại Đức và vẫn nói tiếng mẹ đẻ trôi chảy hơn nói thứ tiếng của đất nước đã nuôi nấng gã. Không rời tay lái, Keller lật tay liếc nhìn chiếc đồng hồ quân sự Elgin 16 chân kính mà gã mua tại một cửa hiệu cầm đồ ở Salisbury, gần như chắc chắn bị vứt lại đó bởi một quân nhân đang gặp vận đen. Gã rất đúng giờ. Gã nhìn thấy lối rẽ ngay phía trước và bật xi nhan. Sau một giờ nữa thôi, gã nghĩ, gã sẽ có đủ tiền để mua một chiếc xe tử tế và một chiếc đồng hồ tử tế - đồng hồ Thụy Sĩ, tất nhiên, có thể là Heuer hoặc Rolex gì đó - và cuối cùng, một cuộc sống tử tế. Gã dừng lại trước một quán ăn, một cái hộp đẹp đẽ màu bạc trông như vừa mới lấy ra từ sau xe tải. Tên quán - Lucie - được uốn bằng đèn neon hồng ngay trên bốn món ăn đã định hình nền ẩm thực Mỹ đối với hầu hết cư dân của nó, bất kể là họ sống ở bang nào: Bánh kẹp, Xúc xích, Sữa lắc và Khoai chiên. Gã ra khỏi xe, áo sơ mi hơi bị dính vào lớp vỏ bọc ghế bằng nhựa vynil, và nhặt áo khoác để trên ghế trước. Gã đứng lặng một lúc trong không khí ấm nóng, lắng nghe một đoạn nhạc phát ra từ chiếc máy hát tự động, và nghĩ đến hành trình đã đưa gã đến đây. Thomas Keller vừa tốt nghiệp với tấm bằng vật lý và kỹ sư thì gặp được thứ rồi sẽ trở thành niềm đam mê lớn của đời gã. Chuyện xảy ra tại rạp Harmonie ở Sachsenhausen nơi gã cùng một cô gái xinh đẹp tới để xem bộ phim mới của Fritz Lang, Frau im Mond, Người đàn bà trên mặt trăng. Bộ phim bắt đầu được năm phút là gã đã quên tiệt cô gái, và vì thế, cả hy vọng được sờ soạng cô sau đó ngoài bãi đỗ xe của rạp. Thay vào đó, cảnh trên màn hình chiếu một quả tên lửa nhiều tầng đang rời khỏi quỹ đạo trái đất đã đánh thức thứ gì đó bên trong gã và từ đó trở đi hoàn toàn chiếm lĩnh gã. Có thể nói rằng gã đã được phóng đi, bằng một sức mạnh không thể cưỡng lại, đầu tiên là tới Đại học Tổng hợp Berlin, sau đó tới Verein für Raumschiffahrt - Hiệp hội Du hành Không gian - và cuối cùng là tới bờ biển Baltic và cảng biển Peenemünde. Khi đó, nghiên cứu tên lửa của Đức đã có tiến bộ hơn hẳn, vì mặc dù Hiệp ước Versailles bị nhiều người căm ghét đã đặt ra rất nhiều hạn chế đối với việc phát triển vũ khí nhưng du hành không gian lại được miễn trừ. Điều này tạo thuận lợi cho quân đội Đức, họ đã nhanh chóng nhận ra rằng tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng được phóng đi từ một bệ phóng tạm thời và tương đối đơn giản, có thể bay xa và nhanh hơn nhiều loại đạn pháo, đem tải trọng thuốc nổ của nó đến mọi thành phố lớn ở châu Âu. Keller ba mươi sáu tuổi khi gã gặp người phụ trách chương trình không gian của Đức: kỹ sư tên lửa (và là một thành viên SS-Sturmbannführer) Wernher von Braun. Con trai của một bá tước Phổ, von Braun xuất thân từ một gia đình đã từng tham chiến từ thế kỷ 13 và chưa bao giờ đánh mất những đặc trưng quý tộc của mình. Ông ta luôn đi lại khệnh khạng, quát mắng tất cả những ai tranh cãi với mình và có thể trở nên thô bạo lạnh lùng khi rơi vào một tâm trạng nhất định. Nhưng đồng thời ông ta lại vô cùng đam mê công việc, luôn đòi hỏi những điều tốt nhất từ bản thân và từ những người xung quanh. Keller kính trọng ông ta vậy nhưng cũng sợ hãi không kém. Tất nhiên, trong thời gian đó một tay hạ sĩ người Áo đã lên nắm quyền và nước Đức đang có chiến tranh. Nhưng chẳng có chuyện gì thực sự làm Keller quan tâm. Cũng giống như nhiều học giả và các nhà vật lý khác, những người bạn hiếm hoi, gã không quan tâm nhiều đến thế giới xung quanh, và nếu như Hitler lại chuyển tiền - mười một triệu mác Đức trích từ Không lực và quân đội - vào các thiết bị đánh chặn bằng tên lửa và tên lửa đạn đạo thì gã sẵn sàng lờ đi những mối bận tâm kém hấp dẫn khác của đảng Quốc xã. Thực sự là khi cuối cùng đã đến được Peenemünde, lúc những quả tên lửa V-2 đầu tiên rời bệ phóng vào mùa hè năm 1944, gã chưa từng nghĩ đến sự chết chóc và tàn phá mà chúng sẽ đem đến với trọng tải một tấn của mình. Gã là một nghệ sĩ và đây là tấm toan của gã. Việc ngắm nhìn các vụ phóng đã cho gã một giây phút xuất thần tinh khiết: những đám mây khói trắng đầy những tia lửa nhỏ từ bộ đánh lửa đột nhiên đổ xô lại với nhau thành một ngọn lửa đỏ rực rỡ, dây cáp bung ra và một tạo vật xinh đẹp, lịch lãm được tung lên bầu trời. Những rung động xuyên qua gã. Làn da gã dường như sống dậy, gã cảm thấy phấn khích khi biết rằng mình là một trong số ít các kỹ thuật viên đã giúp tạo ra nó, rằng các động cơ sẽ tạo ra công suất đáng kinh ngạc 800.000 mã lực và rằng tên lửa sẽ sớm đạt được năm lần tốc độ của âm thanh. Đám dân thường London sẽ không thể biết gì về sự hoàn hảo, về thiên tài vĩ đại của thứ vũ khí đã giết họ. Thường thì Keller không thể kiềm chế được mình. Gã rơi những giọt lệ của niềm vui thuần khiết. Một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc, Keller tự hỏi không hiểu gã có phải đối mặt với hậu quả nhất định nào đó hay không. Thực ra gã đã có mặt khi von Braun đầu hàng người Mỹ và sau đó bị họ thẩm vấn vì cũng nằm trong Danh sách Đen nổi tiếng, mật danh dành cho các nhà khoa học và kỹ sư Đức có vai trò quan trọng đặc biệt. Nhưng gã không quá lo lắng. Những gì von Braun và nhóm của ông ta đã tạo ra quá có giá trị đối với Đồng minh và gã tin rằng công việc của họ bằng cách nào đó vẫn sẽ được tiếp tục. Gã đã đúng. Hai người họ được thả cùng một ngày. Cùng với hơn một chục nhà khoa học và kỹ thuật viên khác họ đã được đưa ra khỏi nước Đức trên cùng một chuyến bay, và cuối cùng đã tới Fort Bliss, một căn cứ quân sự Mỹ gần Al Paso, nơi mà với những ông chủ mới và trong một số trường hợp ít ỏi khác - nhân thân mới, họ lại tiếp tục công việc từ đúng chỗ trước đó họ đã bị ngắt quãng một cách thô bạo. Giờ Keller năm mươi tư và đã đi gần hết sự nghiệp. Gã sống ở Mỹ đã mười hai năm nhưng chưa bị ai nhận nhầm là người Mỹ. Gã có diện mạo và hình thể của một người nước ngoài, vụng về và chậm chạp. Lối nói chậm rãi và nặng khẩu âm luôn tiết lộ nguồn gốc của gã ngay khi gã bắt đầu mở miệng. Cũng chẳng quan trọng lắm. Chiến tranh đã đủ xa rồi. Người ta cũng chẳng còn quan tâm nữa. Vả lại, trong ý thức gã đã đồng hóa theo cách tốt hơn - và điều đó làm cho gã hoàn toàn thỏa mãn. Ba năm sau khi đến Mỹ, gã lấy một cô tiếp viên Mỹ bán cocktail mà gã gặp ở El Paso làm vợ và hai người họ chuyển đến sống trong một ngôi nhà phong cách thuần Mỹ gần Salisbury, bang Maryland. Keller được thuê làm giám sát viên tổng hợp trong Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân (NRL) tại bãi phóng tên lửa của cơ quan này trên đảo Wallops. Gã vừa ra khỏi văn phòng một giờ trước. Giờ thì gã đã đến nơi. Gã bước vào quán và ngay lập tức cảm thấy cái mát lạnh của điều hòa không khí, đúng lúc máy hát tự động phát một bài mới của Everly Brothers. Tạm biệt tình yêu Tạm biệt hạnh phúc… Keller không quan tâm đến âm nhạc Mỹ nhưng gần như không thể thoát được giai điệu này suốt mấy tháng nay. Gã cảm thấy lời bài hát có vẻ lạc quẻ một cách lạ lùng, vì gã đến đây với hy vọng và kỳ vọng vào điều hoàn toàn trái ngược. Người gã đến gặp đang chờ gã ở đúng chỗ mà hắn đã nói, cái bàn cạnh cửa sổ góc. Hắn mặc bộ vét hiệu Brooks Brothers, áo sơ mi cài hết cúc và đi giày lười, kiểu trang phục thường xuyên của hắn. Hắn đến sớm. Trên mặt bàn có một tờ báo và hắn đã điền được một phần trò ô chữ. Keller biết đến hắn với tên gọi Harry Johnson, nhưng gã không chắc đấy có phải tên thật của hắn hay không. Gã giơ tay chào, hơi lúng túng bước trên nền gạch đỏ trắng đến phía bên kia của cái bàn. Đến phút cuối gã mới nhận ra mình đã quên khoác áo vét. Thôi kệ, đằng nào thì cũng đã quá muộn. Gã quyết tâm không làm gì tỏ ra thiếu chuẩn bị hoặc vụng về. Gã đặt cái áo lên ghế bên cạnh. “Anh thế nào, Keller?” Johnson nói đều đều, giọng Manhattan. “Tôi ổn, cảm ơn anh.” Harry Johnson trẻ hơn gã đến mươi mười lăm tuổi, nhưng trông lại có vẻ già dặn hơn với khuôn mặt dài quá mức, má đầy nếp nhăn và mái tóc bạc cắt ngắn. Hắn đang xoay cái bút bi giữa những ngón tay. Trên một ngón tay, hắn đeo chiếc nhẫn vàng có khắc hình. “Thủ đô của Venezuela là gì?” hắn hỏi. “Sao cơ?” Keller sửng sốt. “Thứ chín từ trên xuống, thủ đô của Venezuela. Từ bảy chữ cái bắt đầu bằng chữ C.” “Tôi không biết,” Keller cáu kỉnh nói. “Tôi không chơi ô chữ.” “Này, không sao. Tôi chỉ hỏi thôi mà.” Johnson rời mắt khỏi ô chữ. “Thế nào, xong rồi chứ?” Lần này thì Keller hiểu ý hắn. Đây là lần thứ tư họ gặp nhau. Keller vẫn nhớ lần đầu tiên, một cuộc gặp có vẻ như tình cờ trong một quán rượu trung tâm Salisbury. Johnson bằng cách nào đó đã ở đó, ngay ghế bên. Không thể biết được hắn vào từ lúc nào. Họ đã nói chuyện với nhau. Johnson nói hắn là một doanh nhân, cũng có thể đúng là vậy thật nhưng thực sự thì nó cũng gần như chẳng có ý nghĩa gì. Hắn có vẻ phấn khích khi biết Keller là một nhà khoa học ngành tên lửa và sau ly thứ hai - Johnson đòi được trả tiền - hắn đưa ra một loạt câu hỏi đầy quan tâm nhưng vô hại, không có gì khiến cho gã phải nghi ngờ. Đương nhiên mọi thứ đã được sắp xếp từ trước. Hắn đã biết tất cả về Keller từ trước khi họ mở miệng nói chuyện với nhau. Đến cuối buổi tối hai người đã thu xếp gặp nhau lần nữa. Sao lại không cơ chứ? Johnson là một người bạn tốt, và khi ra về hắn gần như vô tình nói rằng mình có thể đề nghị việc này. “Có thể kiếm cho anh một ít tiền. Mới chợt nghĩ vậy thôi. Lần sau ta trao đổi nhé.” Nhưng đến lần sau đó hắn không nói gì. Họ so sánh vợ con, gia đình, lương lậu, khát vọng. Toàn là những câu chuyện của đàn ông, mặc dù người nói chính vẫn là Keller. Chỉ đến lần thứ ba khi họ đã hiểu nhau rõ hơn thì Johnson mới đưa ra lời đề nghị của mình. Đáng ra khi đó Keller phải tới gặp cảnh sát, hoặc hợp lý hơn nữa là phòng An ninh Hải quân ở phía Nam đảo Wallops. Tất nhiên là gã không làm thế. Johnson, hay những người đứng sau hắn, đã chọn Keller vì họ biết gã sẽ không làm thế. Có khi họ đã tìm hiểu gã nhiều tháng trời rồi. Chính xác thì họ là ai? Keller không quan tâm. Cũng chính chứng chỉ nhìn tầm gần này đã giúp gã qua được cuộc chiến. Gã không có nhu cầu nhìn toàn cảnh. Không quan trọng. Gã đơn giản chỉ tập trung vào đề nghị được đặt ra cho mình và hai trăm năm mươi ngàn đô la, miễn thuế, mà gã có thể có được nếu như làm theo đề nghị đó. Gã đồng ý gần như ngay lập tức và chỉ cần một buổi gặp nữa để thảo luận chi tiết. Rất thẳng thắn. Điều mà gã được đề nghị làm không hề dễ dàng. Nó cần có sự hiểu biết sâu sắc về cơ học chất rắn và ứng suất kéo - nhưng đó chính là lĩnh vực chuyên môn của gã. Và sau khi gã đã đo đếm tỉ mỉ mọi yếu tố thì bản thân công việc này vẫn là một vấn đề. Nhưng may mắn thì gã cũng sẽ có được bốn hoặc năm phút một mình. Có rủi ro đáng kể - nhưng phần thưởng cũng lớn. Đó là tính toán ban đầu của gã. “Thế là xong rồi chứ?” “Phải.” Keller gật đầu. “Nhiệm vụ hóa ra lại dễ hơn tội tưởng nhiều. Tôi từng được vào xưởng lắp ráp trong lúc tập dượt cứu hỏa.” Gã dừng lời. Gã đã lộ ra sự nhiệt tình quá mức và khiến điều gã đã làm được có nguy cơ mất giá. “Tất nhiên là tôi phải làm nhanh. Người ta luôn luôn tăng cường an ninh trong khi chuẩn bị phóng. Và phải làm rất cẩn thận. Có khả năng, anh hiểu chứ, người ta sẽ đi kiểm tra vào phút chót. Việc tôi làm cần phải… unsichtbar.” Gã tìm từ trong tiếng Anh. “Tàng hình.” “Động cơ sẽ hỏng chứ?” “Không. Nhưng nó sẽ không hoạt động tử tế. Lượng thuốc phóng được bơm vào buồng đốt sẽ không đủ. Tôi đã giải thích điều đó cho anh rồi. Kết quả sẽ đúng như mong muốn.” Hai người cùng im lặng khi hầu bàn đưa cà phê và nước lạnh đến. Hai cuốn thực đơn để mở trước mặt. Họ không có ý định ăn uống gì. “Thời điểm phóng thì thế nào?” Johnson hỏi. Keller nhún vai. Gã không thích cà phê. Gã đã nốc hết bao nhiêu lít món này từ khi đến Mỹ, trong lúc hút thuốc và làm việc thâu đêm? Gã đẩy cái cốc sang một bên. “Vẫn còn mười hai ngày nữa từ hôm nay. Tôi đã xem dự báo. Thời tiết tốt. Nhưng thời tiết thì không bao giờ chắc chắn được. Hướng và tốc độ gió rất quan trọng, và nếu như điều kiện không thích hợp thì…” Gã hạ giọng bỏ lửng câu nói. “Nhưng đấy không phải chuyện tôi quan tâm. Tôi đã làm điều anh yêu cầu. Anh có đem tiền không?” Người đàn ông kia không nói gì. Hắn nhìn chằm chằm gã người Đức. Sau đó hắn chìa tay ra và gỡ cặp kính mát gài trên túi áo phía trước. Đó là tín hiệu cho thấy công việc của họ đã kết thúc. “Dưới gầm bàn có một cái cặp.” “Còn tiền thì sao?” “Trong đấy hết.” Johnson toan ra về nhưng Keller ngăn hắn lại. “Tôi phải nói với anh một chuyện,” gã nói. “Quan trọng đấy.” Gã đã tập dượt điều sắp nói. Gã khá tự hào về cách nói mà gã đã nghĩ ra, về việc gã đã suy nghĩ điều đó thật kỹ càng. “Tôi sẽ không đếm tiền. Tôi sẽ coi như đã đủ. Nhưng đồng thời, tôi phải cảnh báo anh. Tôi không biết ai thuê anh, tôi không quan tâm. Rõ ràng là anh làm việc cho những người nghiêm túc. Nhưng một phần tư triệu đô là rất nhiều tiền. Cược đặt rất cao. Và vì sự an toàn của bản thân mình anh có thể chọn cách bịt miệng tôi lại. Không phải khó lắm, phải không? Theo tôi hiểu, có thể trong cái cặp ấy có thuốc nổ và tôi có thể chết trước khi ra đến xe. Hoặc có thể sẽ có tai nạn giao thông.” “Thế nên tôi muốn anh biết rằng tôi đã ghi lại tất cả những gì xảy ra giữa chúng ta với nhau và tất cả mọi thứ tôi được yêu cầu thực hiện. Không những tôi miêu tả anh, tôi còn chụp ảnh. Tôi mong là anh sẽ tha thứ cho sự lừa đảo nhỏ này của tôi, nhưng tôi chắc chắn anh sẽ thông cảm cho tình thế của tôi. Tôi cũng ghi lại thông tin về xe của anh, biển số xe. Tất cả những thứ đó được gửi ở chỗ một người bạn của tôi và gã đã được dặn là sẽ chuyển tất cả cho cơ quan có thẩm quyền nếu có điều gì đó đáng ngờ xảy ra cho tôi. Anh hiểu tôi nói gì chứ? Sẽ không có chuyện tên lửa bị hỏng nữa. Và dù cảnh sát phải tốn chút thời gian để tìm ra anh thì họ cũng đã biết về sự tồn tại của anh và sẽ theo anh mãi mãi.” Johnson yên lặng nghe hết. Keller nói xong Johnson ngờ vực chằm chằm nhìn gã. Đó là lần đầu tiên hắn thể hiện cảm xúc thực của mình. “Anh nghĩ chúng tôi là ai?” hắn hỏi. “Anh nghĩ chúng tôi là gangster à? Tôi phải nói với anh, Tom, anh đọc nhầm loại sách rồi. Chúng tôi yêu cầu anh cung cấp cho chúng tôi một dịch vụ. Anh cung cấp cho chúng tôi dịch vụ đó và anh đã được trả tiền. Nhân tiện mà nói, anh nhầm rồi. Một phần tư triệu đô cũng không phải quá nhiều trong chuyện này. Anh sẽ gặp lại chúng tôi chỉ trong trường hợp anh không làm như chúng ta đã thỏa thuận - và nếu đúng như vậy, trong trường hợp ấy, cuộc sống của anh rất có thể sẽ bị nguy hiểm một chút. Nhưng cho dù anh không tin chúng tôi thì chúng tôi vẫn có niềm tin tuyệt đối nơi anh.” Hắn ném vài đồng xu ra bàn để thanh toán tiền cà phê, cuộn tờ báo lại rồi đứng lên. “Tạm biệt.” “Chờ đã…” Keller cảm thấy xấu hổ. “Caracas,” gã nói. “Caracas?” “Ô chữ còn thiếu của anh. Thủ đô Venezuela.” Johnson gật đầu. “Tất nhiên rồi. Cảm ơn anh.” Keller nhìn hắn đi khỏi. Đúng là bài phát biểu của gã có chút khoa trương, được lấy cảm hứng từ mấy bộ phim gã từng cùng xem với vợ. Và nó cũng không thật. Không có bản ghi nào về những gì đã xảy ra, không có ảnh, không có người bạn nào đang chờ để đến gặp cảnh sát. Gã chỉ nghĩ rằng sự đe dọa này có thể là đủ để bảo vệ mình khi cần. Liệu gã có sai không? Liệu gã có tự biến mình thành thằng ngốc không? Sau đó gã nhớ đến tiền. Gã mò mẫm dưới gầm bàn và cảm thấy các khớp tay mình va phải thứ gì đó đặt sát tường. Cái cặp! Gã kéo nó ra và bật khóa, hé mở vừa đủ để có thể liếc vào trong. Có vẻ có đủ tiền trong đó: tiền năm mươi đô, được buộc thành cọc gọn gàng. Gã đóng cặp, khoác áo vét lên rồi vội vã ra ngoài. Không có dấu hiệu nào của Harry Johnson ngoài bãi đỗ. Gã ra xe, ném chiếc cặp vào ghế trước rồi chui vào xe. Mất hai mươi phút để gã lái xe về đến nhà, nơi gã biết Gloria đang chờ gã. Nghĩ đến Gloria, gã mỉm cười và thư giãn một chút sau tay lái. Xét cho cùng, mọi thứ đều là cho nàng. Nàng trẻ hơn gã mười lăm tuổi, thấp và hơi mũm mĩm theo cái cách làm gã thấy phấn khích, ngực và hông lúc nào cũng căng đầy dưới lớp quần áo. Khi hai người gặp nhau thì nàng đã ở giữa độ tuổi hai mươi, và khi gã kể với nàng về mình thì nàng thấy rạo rực. Này là một người đàn ông được đưa lậu từ châu Âu đến, làm việc cho một cơ sở nghiên cứu tuyệt mật chế tạo tên lửa không gian. Nó giống như tình tiết trong những cuốn sách bìa mềm nàng thích đọc, và mặc dù thực ra gã là người Đức, thiếu hấp dẫn và đôi khi có những yêu cầu làm nàng đau, điều đó có vẻ cũng chẳng quan trọng gì. Họ đã hạnh phúc khi lấy nhau và cả hai đã cùng quyết định chuyển lên phía Bắc, chọn Salisbury vì gần đảo Wallops. Họ đã mua nhà và cùng chọn nội thất. Nhưng từ đó trở đi mọi việc giữa họ đã không còn mấy tốt đẹp. Họ không thể có con, nàng thì phát chán vì ngôi nhà, vì cái công việc quản lý một nhà hàng địa phương hầu như không có khách trừ những ngày cuối tuần. Nàng không muốn nghe bất cứ điều gì về tên lửa và dạo này nàng chỉ miễn cưỡng đến xem các vụ phóng. Nhưng Keller vẫn còn yêu nàng. Dĩ nhiên là gã si mê nàng. Theo một cách nào đó, gã coi nàng như biểu tượng cao nhất về vị thế, sự công nhận đối với công trình của đời người. Nàng là một người vợ Mỹ. Gã xứng đáng có nàng. Gã kể với nàng về người bạn mới của mình, Harry Johnson, về đề nghị gã nhận được. Có nằm mơ gã cũng không dám nhận nếu như không có sự chấp thuận của nàng. Gã mừng là gã đã làm như vậy. Tiền cược là vô cùng cao. Gã sẽ phạm một tội ác mà nếu bị phát hiện gã sẽ bị kết tội phản quốc. Nhưng ngay từ đầu Gloria đã tỏ ra quyết tâm hơn cả gã, thúc giục gã khi lòng dũng cảm của gã không còn. Hàng tuần nay hai người họ đã trao đổi về tương lai mà họ sẽ xây dựng cùng nhau, về việc họ sẽ làm gì với số tiền, họ phải thận trọng để không tiêu hết nó quá sớm ra sao. Keller thấy hình như vợ gã đã biến đổi. Giờ thì gã nhớ lại được nàng như thế nào khi lần đầu tiên gã để mắt đến nàng. Tất cả năng lượng và lebensfreude - sức sống - của nàng đã quay trở lại. Và nàng lại khôi phục được sự thèm khát giường chiếu, hiến dâng cho gã với sự buông thả như trong đêm tân hôn của họ. Nàng đang đợi gã ngoài cửa căn nhà gỗ một cửa sổ. Đó là một ngôi nhà như bước thẳng ra từ catalogue nhà đất với khu vườn gọn gàng phía trước và dãy hàng rào màu trắng. Keller đỗ xe trên lối vào nhà và lại với nàng, tay xách cặp. Họ hôn nhau trên ngưỡng cửa. Nàng mặc chiếc váy hoa ban ngày, chiết eo. Mái tóc vàng óng của nàng đổ những lọn xoắn lên vai. Ngay lúc đó Keller thèm muốn nàng hơn bao giờ hết. “Anh làm được rồi,” nàng nói. “Phải.” “Anh đếm chưa?” “Ở đây cả mà. Không cần.” “Anh phải đếm chứ.” “Mình có thể đếm trong nhà.” Họ cùng nhau vào nhà, vào phòng khách gọn gàng có sofa, bàn cà phê và chiếc ti vi phủ tấm che cửa lật. Họ mở cặp và đếm tiền. Gloria đứng tì vai và mông vào gã, gã vòng tay ôm nàng. Khi đã chắc chắn mọi thứ đều ổn, nàng vặn người hôn má gã. “Em đã để sâm banh sẵn trong tủ lạnh rồi đấy,” nàng nói. Gã theo nàng vào bếp, đứng đó trong khi nàng lục lọi ngăn kéo. “Không thấy cái mở nút chai chết tiệt ấy đâu cả,” nàng nói. Hắn lại chỗ nàng, và chỉ khi tới nơi thì hắn mới nhớ ra là để mở sâm banh thì đâu có cần đến mở nút chai, và đó cũng là lúc nàng quay lại còn gã thì cảm thấy có cái gì đó đè vào mình. Gã cúi nhìn và thấy, không thể nào như vậy, một cái cán dao thò ra từ bụng mình. Hẳn phải có nhầm lẫn gì rồi. Không thể như thế được. Nhưng khi ngẩng lên và nhìn thấy mắt nàng thì gã biết đây chính là sự thật. Gã cố gắng cất tiếng nhưng máu đã ộc ra từ cơ thể, và cùng với nó là hơi thở và sự sống của gã. Vẫn còn ôm lấy nàng, gã khuỵu xuống, rồi, khi nàng bước sang một bên, gã đổ vật xuống sàn. Gloria nhìn xuống gã và rùng mình. Không phải cảnh tượng máu gã tràn trên lớp vải sơn làm ả ghê sợ. Mà là ký ức về đôi bàn tay gã trên thân thể ả, mùi chua chua trong hơi thở của gã. Chẳng còn gì nhiều để làm. Ả đã mua sẵn xăng. Ả vẩy xăng lên tay chồng đã chết, lên bếp, phòng khách, cầu thang. Rồi ả lấy chiếc va li, đóng gói vài thứ định mang theo và đổ tiền vào trong. Cuối cùng, ả bật diêm. Ả lấy chiếc Crosley của chồng, cho dù đấy là một cái xe kinh khủng. Ít nhất thì ả cũng có thể trông chờ vào nó để đến California, nơi ả dự tính sẽ bắt đầu cuộc đời mới. Ả đi tới cuối con phố và rẽ ra đường lớn mà không nhìn lại. Và thế là không nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên khi chúng bùng lên phía sau mình và làn khói đang lan tỏa vào không khí ban đêm.   Mời các bạn đón đọc Cò Súng Tử Thần của tác giả Anthony Horowitz & Phạm Hồng Anh (dịch).  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cảnh Ngộ
Cùng chia sẻ cảnh ngộ được trại trẻ mồ côi nhận nuôi từ khi vừa lọt lòng mẹ, Takakura Yoko – phu nhân một chính trị gia, và nữ nhà báo Aida Harumi trở thành đôi bạn thân gắn bó với nhau sâu sắc. Bước ngoặt xảy ra khi cuốn sách tranh Ruy băng trên trời xanh mà Yoko vẽ tặng con trai Yuta dựa trên câu chuyện đời của Harumi bất ngờ đoạt giải thưởng lớn tầm cỡ và trở thành sách bán chạy. Một thời gian ngắn sau đó, Yuta mất tích. Lá thư đe dọa gửi về văn phòng Takakura có đoạn: “Nếu muốn thằng bé trở về bình an vô sự, hãy công khai sự thật cho mọi người biết”. “Sự thật” đó rốt cuộc là gì? Và ai là hung thủ đã bắt cóc Yuta? TÁC GIẢ: Minato Kanae Tác giả tiểu thuyết Nhật Bản, sinh năm 1973 tại Hiroshima. Năm 2007, với truyện ngắn Kẻ truyền đạo bà đã giành được giải Tác giả tiểu thuyết trinh thám mới lần thứ 29. Năm 2008 bà viết tác phẩm đầu tay Thú tội với chương đầu chính là truyện ngắn Kẻ truyền đạo, đứng vị trí thứ nhất trong Bảng xếp hạng top 10 truyện trinh thám năm 2008 của tuần báo Bunshun, sau đó giành được giải Booksellers’ Award lần thứ 6. Đến năm 2014, Thú tội lại được tờ Wall Street Journal của Mỹ chọn làm một trong 10 tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất. Năm 2012, truyện ngắn Sao trên mặt biển trong tập truyện Vọng hương của bà đã nhận giải Hiệp hội tác giả truyện trinh thám Nhật Bản lần thứ 65 trong hạng mục truyện ngắn. Năm 2016, tiểu thuyết Utopia của bà nhận giải Yamamoto Shugoro lần thứ 29. Những tác phẩm khác của Minato Kanae đã được Nhã Nam xuất bản: - Thú tội - Chuộc tội - Tất cả vì N - Vòng đu quay đêm *** [SHORT REVIEW] CẢNH NGỘ - KANAE MINATO  Khi vừa đọc xong cuốn sách này ngày hôm qua mình đã phân vân không biết có nên viết review cho cuốn này không vì thực sự nó không để lại nhiều cảm xúc trong mình. Nhưng nghĩ rằng có thể sẽ có ích những bạn chưa mua và đọc cuốn này nên quyết định vẫn đưa review này lên sóng. Mạch truyện khá chậm và những cú twist dễ đoán chính là điểm khiến mình không ấn tượng nhiều về tác phẩm lần này. Với những ai từng đọc các tác phẩm khác của Kanae Minato đều cảm nhận được nét đặc sắc của chuyện dựa vào việc bà đi sâu vào tâm lý của từng nhân vật. Tuy nhiên, với tác phẩm lần này câu chuyện vẫn được kể theo cách đổi vai đan xen nhưng mình lại không thấy tâm lý 2 nhân vật chính được khắc họa rõ. Có lẽ vì đây là một câu chuyện nói về tình người nên cách truyền tải có phần nhẹ nhàng và không quá kịch tích, cao trào.  Về thông điệp của cuốn sách, ngay từ lúc mở đầu một câu hỏi đã được đặt ra “Liệu rằng 2 người thân nhau là do cùng chung cảnh ngộ?”. Với cảm nhận của bản thân, mình nghĩ rằng tác giả muốn truyền tải thông điệp: Việc 2 người gặp và đồng cảm với nhau có thể là do cảnh ngộ nhưng để thấu hiểu và chia sẻ sâu sắc được với nhau thì phải bắt nguồn những giai đoạn cùng trưởng thành, tình cảm chúng ta dành cho nhau đã được vun đắp qua năm tháng.  Tổng kết, “Cảnh ngộ” có lẽ là một tác phẩm chưa thể hiện được những điểm đặc sắc của Kanae Minato. Toàn bộ câu chuyện không tệ nhưng cũng không đọng lại nhiều dấu ấn. Bạn có thể đọc nó như thêm một câu chuyện về tình người nhưng sẽ không phải là lựa chọn lý tưởng cho những ai muốn tìm hiểu về Kanae Minato.   Rating: 2,5/5 (0,5 điểm là cho bìa thiết kế rất đẹp và câu chuyện thiếu nhi Ruy băng trên trời xanh). Thêm một góp ý nữa là mong Nhã Nam sẽ không gắn tag Trinh thám ở bìa cho những câu chuyện không phải vì có thể dễ gây nhầm lẫn cho người đọc. Enjoy reading! *** Review Cảnh ngộ “Chúng mình thân nhau là vì có cảnh ngộ giống nhau phải không?” Cảnh ngộ là cuốn tiểu thuyết trinh thám được viết bởi một nữ nhà văn đình đám của xứ hoa anh đào, Minato Kanae, tác giả của cuốn Thú tội đã quá nổi tiếng và gây sốt một thời gian dài. Tuy nhiên đối với cá nhân mình, công tâm mà nói thì Cảnh ngộ thực sự là cuốn gây thất vọng nhất trong tất cả các cuốn sách từ đầu năm đến giờ mà mình đọc được. Phải chăng do đã đặt quá nhiều kỳ vọng vào Cảnh ngộ trước khi đọc, nên vô hình trung khi tác phẩm này khép lại, nó gây cho mình một cảm giác hụt hẫng không thể nói thành lời. Dưới đây sẽ là bài review chi tiết về Cảnh ngộ, có giải thích và spoil về cốt truyện, đưa ra những nhận định chủ quan của mình, và tại sao mình lại cho rằng đây là một tác phẩm đáng thất vọng. Trước hết sẽ nói về một chút thủ pháp kể, Cảnh ngộ là một câu truyện thuân thủ đúng theo phương thức kể chuyện của cấu trúc ba hồi (mình sẽ nói kỹ hơn ở dưới), trật tự trước sau của các biến cố xảy ra theo trục tuyến tính của thời gian, được dẫn dắt dưới hai giọng kể thay phiên nhau của hai nữ nhân vật chính. Mình thực sự đánh giá cao cách kể này, bởi sự đa chiều đến từ hai góc nhìn, người đọc sẽ dể dàng quan sát một cách bao quát hơn toàn cảnh câu truyện, tránh được sự phiến diện, từ đó suy luận ra thủ phạm cuối cùng rất dể dàng. Ấy vậy mà chính cách kể này lại gây nên một đòn phản tác dụng cực lớn, bởi vì tâm lý của hai nhân vật chính được xây dựng một cách rất nông, thiếu chiều sâu và hời hợt, thành ra mối quan hệ và tương tác giữa họ với các nhân vật khác trong truyện, và mối quan hệ chỉ giữa hai con người họ không khiến mình cảm thấy thuyết phục chút nào. Thêm vào đó, mâu thuẫn trong truyện cũng không đủ mạnh, dẫn đến động cơ của thủ phạm không rõ ràng, các nút thắc được giăng lên một cách chấp vá, việc tháo gỡ nó vẫn chưa được thoả đáng, và lẽ dĩ nhiên, những điều đó tạo nên một tổng thể vô cùng cứng ngắc. Cảnh ngộ được chia làm bốn chương và tuân thủ theo cấu trúc ba hồi như đã đề cặp ở trên, mình sẽ giải thích một chút về phương thức kể này. Như một bài tập làm văn mà chúng ta thường hay viết sẽ có ba phần (mở – thân – kết) thì trong văn chương, đặc biệt là tiểu thuyết, nguyên tắc kết cấu đấy rất thường được áp dụng dưới cái tên là “cấu trúc ba hồi” nhằm tạo ra một cốt truyện mang yếu tố hoàn chỉnh và chặt chẽ về mặt nội dung. Mỗi hồi sẽ có những mục đích khác nhau, cụ thể: Hồi một (mở đầu) sẽ là phần giới thiệu nhân vật, bối cảnh hay là đất để tác giả xây dựng một thế giới giả tưởng riêng cho tác phẩm của mình, rồi vẽ nên một (hay nhiều) biến cố khởi đầu để tạo nên mâu thuẫn/bước ngoặc đầu tiên; Hồi hai (phát triển) thường được chia ra hai phần, phần đầu là một sự kiện lớn nào đó (có thể làm thay đổi cuộc đời nhân vật chính) để dẫn đến kết quả của mâu thuẫn/bước ngoặc mà hồi một để lại. Từ kết quả đấy, nhân vật chính sẽ quyết định số phận và con đường đi của chính bản thân mình. Tại đây thì tính cách các nhân vật cũng dần được thể hiện rõ (phe chính hay phản diện), để rồi kéo đến nửa phần sau là một sự kiện mới hòng đưa mâu thuẫn lên cao trào, khiến nhân vật chính lâm vào thế bế tắc buộc phải thay đổi hay đưa ra quyết định nào đó mang đính chủ chốt. Hồi ba (kết thúc) là vòng xoắn cốt truyện (plot twist) để đẩy kịch tính lên đến đỉnh điểm, rồi cuối cùng là giải quyết các xung động, gỡ bỏ mọi nút thắt được giăng lên từ trước và tạo thành một kết cục mở hay đóng tuỳ thuộc vào tác giả. Ở Cảnh ngộ, ta thấy rõ ràng cấu trúc này nhất nên mình sẽ tóm tắt cốt truyện dựa theo từng hồi. Hồi một (Chương 1: Ruy băng xanh là mẹ), mở đầu bằng thông tin tác phẩm Ruy băng trên trời xanh đoạt giải “Gương mặt mới” của Giải thưởng sách tranh toàn quốc, tác giả là Takakura Yoko, phu nhân của một chính trị gia đang trong giai đoạn tranh cử. Sau đó là màn giới thiệu hai nhân vật chính, Yoko và Harumi, đôi bạn thân gắn bó với nhau sâu sắc do có cùng CẢNH NGỘ. Cả hai đều là những đứa trẻ bị đem gửi vào hai trại mồ côi khác nhau trong cùng một năm từ lúc mới chào đời, không hề biết mặt cha mẹ ruột cũng như là ngày sinh tháng đẻ của mình. Nếu Yoko may mắn được một cặp vợ chồng hiến muộn hiền lành nhận nuôi ngay trong năm đó, được trưởng thành trong vòng tay bao bọc của gia đình có cả cha và mẹ, phải đến khi làm hộ chiếu cô mới phát hiện được sự thật mình là đứa con được nhận nuôi. Ngược lại Harumi thì kém may mắn hơn, đã trải qua mười tám năm trong trại trẻ Asashi, cho đến tận lúc tốt nghiệp cấp ba thì cô mới có cơ hội rời khỏi nơi ấy. Nhưng chốn dung thân mới của Harumi không phải ở một gia đình nào cả, mà chỉ là trong một căn phòng trọ nhỏ bé và tối tăm để tiện cho việc đi học đại học. Harumi trở thành một nhà báo với hy vọng sẽ điều tra ra thân thế của chính bản thân mình, còn Yoko cũng không từ bỏ, cô vẫn giữ vững niềm tin rằng một ngày nào đó sẽ tìm thấy được cha mẹ ruột của mình bằng cách tham gia rất nhiều hoạt động thiện nguyện ở các trại trẻ mồ côi khác nhau. Tiếp sau đó xuất hiện một biến cố khởi đầu, đứa con trai năm tuổi của Yoko, người duy nhất trên đời chảy chung một dòng máu với mình mà cô biết, bị bắt cóc. Hồi hai (Chương 2: Nếu muốn con trai trở về bình an vô sự và Chương 3: Vụ án mạng ở Moninoki), sự kiện dẫn đến bước ngoặc đầu tiên là một tờ fax do thủ phạm gửi đến với nội dung yêu cầu Yoko hãy công khai sự thật cho mọi người biết. Sự thật gì thì thủ phạm không đề cặp đến, chỉ là đưa ra gợi ý rằng “hãy nhớ lại vụ án ở thung lũng Shirakawa”. Như vậy, mục đích chính của hung thủ thật ra là muốn nhắm đến bí mật về xuất thân của Yoko hay là về chuyện nghi ngờ nhận tiền quỹ tranh cử bất chính hồi năm ngoái ở văn phòng Masaki (chồng của Yoko). Phải chăng cảnh ngộ đã tôi dũa Yoko trở nên bình tĩnh, cứng rắn và mạnh mẽ hơn những người khác, làm cho cô không thể đặt trọn vẹn niềm tin vào bất kỳ ai, kể cả người chồng bao năm chung sống? Ngoại trừ duy nhất một người mà Yoko tin tưởng, kẻ có cùng cảnh ngộ với mình – Harumi. Vì bảo vệ an nguy của đứa con trai, Yoko quyết định không báo cảnh sát và cùng Harumi dấn thân vào con đường tự điều tra. Biến cố mới dẫn đến một bước ngoặc khác để đẩy cốt truyệt lên cao trào là bức thư thứ hai từ hung thủ, một gợi ý mới về sự thật, đó là “vụ án mạng ở Mominoki”. Sau đó Yoko cùng Harumi tra ra được chuyện ai là người đã tố cáo chồng cô năm xưa cũng như là cả thân thế của mình, rằng Yoko là đứa con của một kẻ giết người. Hồi ba (Chương 4: Công khai sự thật), cú plot twist được dựng lên nhưng có vẻ chưa đủ thuyết phục mình lắm. Thực chất người đọc hoàn toàn có thể suy luận ngay ra thủ phạm từ các twist mà tác giả đã ngầm cắm cài từ trước. Các xung đột được giải quyết, một cái kết đóng và có hậu cho tất cả mọi người. Đầu tiên, mình sẽ dành một lời khen cho tác giả Minato Kanae bởi yếu tố mở đầu của câu truyện rất thú vị và gợi sự liên tưởng. Cảnh mở màn cũng chính là biến cố dẫn đến bước ngoặc đầu tiên ở hồi một, cuốn sách tranh của Yoko sáng tác dựa trên một câu chuyện có thật bất ngờ được giải thưởng lớn tầm cỡ và trở thành cuốn sách bán chạy, đưa Yoko từ một kẻ tầm thường không ai biết thành một tác giả nổi tiếng. Chẳng phải đây cũng chính là bối cảnh ngoài đời thực của tác giả Minato Kanae, người đã ngay lập tức thành công và giành được nhiều giải thưởng chỉ bằng một cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Thú tội. Lời khen tiếp theo là dành cho việc lựa chọn đề tài quá thông minh của Minato Kanae, cô đã dũng cảm bốc trần nhiều thực trạng nóng trong xã hội Nhật Bản. Có ba yếu tố phản ánh hiện thực xã hội mà Minato Kanae đã khéo léo lồng ghép vào: – Thứ nhất là những cái nhìn xấu xí chứa đầy các định kiến đã thâm căn cố đế trong suy nghĩ của rất nhiều người về những đứa trẻ mồ côi. Bởi vì không rõ thân thế của họ nên không thể biết được dòng máu đang chảy trong con người họ được thừa hưởng từ những kẻ như thế nào. Trong Cảnh ngộ, cũng bởi vấn đề này mà dẫn đến cảnh tượng mẹ chồng – nàng dâu. Vì thân thế nên Yoko chưa bao giờ nhận được sự công nhận đến từ mẹ chồng, cô luôn nhẫn nhịn và chịu đựng mọi sự hành hạ về tin thần thông qua những lời nói mang tính ám chỉ cùng cách đối xử đầy tình yêu thương dành cho Aki (cô gái vốn là đứa con dâu theo kế hoạch của bà) thay vì là một cô con dâu chính thống như mình. Chuyện đã chung sống với nhau bốn năm nhưng chưa có con cũng khiến cho sự bất hoà cùng ánh nhìn đầy kinh thường của mọi người đối với Yoko được đẩy lên cao. “Hay là cô đã từng nạo phá thai? Hay gen di truyền có vấn đề? Tôi nghe nói những người cơ thể không bị sao nhưng dòng giống gia đình lại khó có con, nhưng với trường hợp của cô thậm chí còn không thể tìm hiểu được. Đổi lại, nếu là con bé Aki, nó có những ba người anh trai, không biết chừng có thể sinh cho Masaki một cậu quý tử nối dõi tông đường…” Một cái xã hội hào nhoáng bên ngoài nhưng lại rỗng ruột ở bên trong, nơi mà khi đi phỏng vấn tìm việc làm, cho dù Harumi có giỏi đến như thế nào thì những câu hỏi về gia đình như “Bố cô làm nghề gì? Mẹ cô làm nghề gì? Cô có anh chị em không? Anh chị của cô đang làm gì?” vẫn luôn là khắc nghiệt và không thể trả lời được. Lúc đó, Harumi đem chuyện của mình lớn lên ở trại trẻ mồ côi nói ra, cô bảo rằng cô đã được rất nhiều người giúp đỡ, cả những người hiện diện trước mắt lẫn những người chưa từng gặp mặt nâng đỡ nên mới có cô của bây giờ, vậy nên cả xã hội này đều là cha mẹ, là gia đình của cô. Khi ấy người phỏng vấn liền bày tỏ thái độ rất thương cảm, nhưng những ngày sau tuyệt nhiên chẳng có kết quả gì… Chưa dừng lại ở đó, góc nhìn của những bậc phụ huynh mới càng cay đắng làm sao. Theo số liệu mà mình tìm hiểu được trên internet thì “Hiện tại ở Nhật có đến 90% trẻ em sống trong những cơ sở phúc lợi, trong khi chỉ có 10% sống cùng cha mẹ nuôi tạm thời”, chính bởi vì cái lối suy nghĩ cổ hủ rằng bản tính của một đứa trẻ sẽ do dòng máu được truyền từ cha mẹ ruột không rõ lai lịch quyết định, nên họ liền áp đặt ngay sự tiêu cực lên các đứa trẻ tội nghiệp ấy. Đến cả những tầng lớp tri thức, tiến bộ cũng không ngoại lệ, như nhân vật Yoshii trong tác phẩm này, là một Phó giáo sư Kinh tế – Chính trị nhưng khi hay tin vợ mình có ý muốn nhận con nuôi, anh liền buông lời bình luận cay nghiệt: “ […] Nếu nhận con cái họ hàng làm con nuôi đã đành một nhẽ, đằng này lại đi nuôi một đứa trẻ không biết từ đâu ra, sao có thể làm một việc phát ớn như thế được nhỉ.” Nếu xã hội còn tồn tại những ý nghĩ tiêu cực như thế thì liệu có còn con đường nào dành cho những đứa trẻ tội nghiệp đã thua một cách triệt để trên đường đua của số phận ngay từ lúc chào đời như Yoko và Harumi? – Tiếp theo đó là tư tưởng môn đăng hộ đối, vợ chồng về căn bản phải có cùng hệ quy chiếu thì mới hoà hợp được lâu bền. Aki là người phụ nữ được ấn định sẽ là vợ của Masaki từ trước nên mẹ của Aki luôn ép buộc cô phải học những thứ như nội trợ, quán xuyến gia đình… những chuyện mà Aki rất ghét. Masaki và Aki vốn dĩ chẳng hề có tình cảm với nhau nhưng vì gia đình hai bên mà bắt họ phải trở nên thân cận. Cho đến khi Masaki gặp được Yoko, xuất phát từ tình yêu chân chính mà muốn cưới cô, những tưởng chiến thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng với gia đình hai bên và trở thành vợ chồng rồi thì hạnh phúc sẽ xuất hiện, ngờ đâu lại dẫn đến một nỗi phiền luỵ khác, đó là mối quan hệ giữa mẹ chồng – nàng dâu như mình đã có đề cặp ở trên. – Cuối cùng là một tư tưởng tiêu cực đã quá quen thuộc trong một số đầu sách trinh thám, tuy cũ nhưng nay được Minato Kanae khéo léo thổi vào một cách mới mẻ hơn: “con cái cũng phải gánh chịu tội lỗi của cha mẹ?” Với mình, tội lỗi mà cha mẹ gây ra chẳng liên quan gì đến con cái, và xét theo một khía cạnh nào đó thì con cái cũng chính là nạn nhân bị thiệt thòi nhất hay sao? Động cơ cấu thành cốt truyện của Cảnh ngộ rất sâu sắc là thế nhưng với mình thì đây vẫn là cuốn sách gây thất vọng. Tâm lý của tất cả các nhân vật được xây dựng vô cùng hời hợt, thật ra Cảnh ngộ sẽ rất hay nếu tác giả chịu đào sâu hơn vào tuyến nhân vật phụ, để họ có thể phát huy được hết giá trị của mình vào tác phẩm thay vì chỉ xoay quanh hai nhân vật chính. Cụ thể như nhân vật Yoshii được giới thiệu ở hồi một, mình thực sự nghĩ nhân vật này chắc chắn sẽ làm nên chuyện nhưng càng về sau thì càng bay màu, hầu như chẳng được xuất hiện ở hai hồi sau, ngoại trừ có mặt trong một câu nhắc chừng đến Yoko “gần đây hình như có một Phó giáo sư kinh tế nào đó đang đứng ra tranh cử”, thế là hết. Bên cạnh đó, tình bạn giữa Masaki và Iwasaki dù được đề cặp là rất sâu sắc, tựa như một phiên bản ngược giới với tình bạn của Yoko và Harumi nhưng lại không miêu tả rõ động cơ hình thành, khiến cho nguồn gốc của tình bạn ấy trở nên mơ mồ và kém thuyết phục. Tóm lại, Cảnh ngộ đối với cá nhân mình là một cuốn sách với điểm xuất phát ý tưởng tuyệt vời nhưng lại làm không tới, càng về sau càng đuối, khép lại bằng một cái kết đóng vô cùng nhạt nhoà, không bật lên giá trị nhân văn, vì vậy nó khiến mình cực kỳ hụt hẫng và thất vọng. – Kim Hân (IG: hanquilrish) Mời bạn đón đọc Cảnh Ngộ của tác giả Minato Kanae & Mai Khanh (dịch).
Con Quỷ Áo Xanh
Câu chuyện Con Quỷ Áo Xanh xảy ra tại thành phố Los Angeles, năm 1948. Người cựu chiến binh da đen Easy Rawlin, vừa bị sa thải khỏi xưởng sản xuất của một hãng quân sự. Easy đang ngồi uống rượu tại một quán bar do người bạn làm chủ, gã bồn chồn lo lắng không biết có trả được món tiền vay thế chấp, chợt một lão người da trắng bước vô quán, qua vài câu chuyện lão đề nghị chi món tiền khá lớn nếu Easy tìm ra được tung tích Daphne Monet, một nàng con gái xinh đẹp tóc vàng thường hãy lui tới mấy quán bar nhạc Jazz của người da đen... Bộ sách về Easy Rawlins gồm có:  Con Quỷ Áo Xanh Bướm Trắng Nàng Betty Đen ... *** Walter Mosley là nhà văn Mỹ da đen, tác giả nhiều tập truyện trinh thám huyền ảo. Ông là một tác giả được tổng thống Bill Clinton ưa chuộng nhất với lối viết trang nhã, lôi cuốn người đọc. Nhân vật chính trong những tập truyện trinh thám của ông là nhà thám tử Easy Rawlins. Ông đã từng được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn trinh thám Mỹ, thành viên Ban giám khảo giải sách hàng năm, sáng lập viên Hội sách Trung tâm văn bút Mỹ. Hiện ông là nhà văn trinh thám hàng đầu ở Mỹ, tác phẩm của ông được báo New York Times xếp hạng bestseller. Liền sau đó các tác phẩm nổi tiếng ra đời: Cái chết đỏ; Nàng Betty đen; Bướm trắng; Thủ lĩnh Jones v.v... *** Tôi ngạc nhiên nhìn thấy lão da trắng bước vô quán bar của Joppy. Cái chuyện lão là người da trắng không có gì đáng nói nhưng đằng này lão mặc một bộ vét vải lanh trắng ngà, bên trong là một chiếc áo sơ mi cùng thứ vải, đầu đội mũ rơm kiểu Panama, đi đôi giầy da màu be, mang bít tất hàng siu trắng. Nhìn nước da lão trơn nhẵn tái nhợt lốm đốm nét tàn nhang. Vành mũ rơm sút rời ra mấy cọng. Lão đang đứng ngoài thềm cửa, thân hình to con, đôi mắt nhợt nhạt đảo nhìn quanh một vòng bên trong gian phòng, tôi chưa từng thấy ai có mẫu mặt như lão. Chợt lão nhìn về phía tôi, một cảm giác rùng mình chạy khắp bên trong cơ thể, rồi nó vút tan biến nhanh bởi tôi đã quen chung sống với bọn da trắng từ dạo năm 1948 tới nay. Tôi đã từng chung sống với mấy ông bà da trắng suốt năm năm trời từ Châu Phi qua nước Ý, đi khắp nước Pháp trở về lại quê cha đất tổ. Tôi đã từng ăn ngủ chung với họ và tay tôi đã từng bắn chết mấy mạng còn non trẻ có cặp mắt xanh, bọn chúng nó cùng biết sợ chết như ai. Lão da trắng nhếch mép cười nhìn tôi, lão bước tới bên quầy bar, Joppy đang mắc tay lau chùi trên mặt quầy được lát bằng đá hoa. Lão chào hỏi rồi chìa tay ra bắt như thế họ là những người bạn cũ lâu ngày gặp lại nhau. Lại thêm một ngạc nhiên nữa là khi nhìn thấy lão, Joppy có vẻ lúng túng. Trước đây Joppy là tay võ sĩ quyển anh hạng nặng từng đấm đá ngoài đường phó, trên võ dài. Một thời oanh liệt như thế, vậy mà giờ đây gã lặng lẽ cúi đầu chào mỉm cười trước một lão da trắng với thái độ của kẻ biết thất cơ lỡ vận. Tôi quăng một đô la trên quầy định bỏ đi, vừa dặm chân bước xuống, Joppy khều tay chỉ về chỗ hai người đang nói chuyện: - Ồ, Easy lại đây. Tớ định giới thiệu cậu với ông khách này. - Tôi chạm phải ngay cặp mắt nhợt nhạt của lão. - Ồ, này Easy, đây là bạn của tôi, ông Albright. - Cứ gọi tôi là DeWitt được rồi, Easy! - lão cất tiếng. Cái bắt tay thật chặt nhưng trơn trợt y như là con rắn cuộn mình trên tay tôi. - Chào ông bạn. - Tôi mở lời. - Phải đấy, Easy - Joppy nói theo, đầu cúi xuống miệng cười - Ông Albright đây lâu ngày mới gặp lại. Cậu biết không đây là ông bạn cố tri từ lúc còn ở Los Angeles. Và bọn ta đang nhắc lại chuyện ngày xưa. - Chớ sao, - Albright nhếch mép cười. - Ta nhớ đâu chừng năm 1935 lúc quen biết Jop. Tính đến nay thì sao nhỉ? Đã mười ba năm rồi còn gì. Tính ra là trước thời kỳ chiến tranh, trước cái ngày từng đoàn nông dân và người chị dâu của hắn nối đuôi nhau qua Los Angeles làm ăn. Nghe kể Joppy cười khà! Tôi thủng thỉnh cười theo. Tôi chưa thể hình dung ra Joppy có quan hệ làm ăn gì với lão, ngay lúc này tôi cũng chưa thể đoán ra lão định hợp tác với tôi ra sao. - Này Easy, quê anh ở đâu? - Albright hỏi. - Ở Houston. - Houston à, thảo nào! Đó là một thành phố đẹp. Mấy lúc có việc ta mới ghé qua đó. - Lão ngồi đó cười vô tư. Lão từng đi khắp đây đó. - Anh làm ăn gì ở đây? Nhìn gần hơn cặp mắt lão như màu trứng chim cổ đỏ, mờ đục lờ đờ. - Hắn mới làm cho hãng Champion Aircraft được hai bữa. - Joppy nói xen vô - Hắn bị đuổi việc. Lão Albright trề môi ra tỏ vẻ tức giận. - Thật là một điều không may. Mấy công ty bề thế đó chẳng thêm ngó ngàng tới anh đâu. Tiền quý không cân đối bọn chúng cho nghỉ việc hết mười công nhân có gánh nặng gia đình. Anh có gia đình chưa, Easy? - Nghe giọng lão nói rên rên như dân nhà giàu miền Nam. - Chưa, tôi chỉ sống một mình, - Tôi đáp. - Bọn chúng chẳng thêm đếm xỉa đến chuyện đó. Bọn chúng không quan tâm chuyện đó. Dù cho anh có mười đứa con, còn một đứa sắp đẻ chúng cũng cho anh thôi việc luôn?" - Chứ còn gì nữa! Joppy nói lớn. Giọng gã vang rền rộn ràng như tiếng bước chân của toán lính bước trên đường sỏi đá. - Bọn chúng quản lý mấy công ty cỡ bự không hao tổn một giọt mồ hôi, tay nhấc điện thoại tính xem hôm nay được bao nhiêu tiền. Bọn chúng hoặc được nghe câu trả lời xuôi tai hoặc có ai bị phạt. Lão Albright phá ra cười vỗ vỗ tay Joppy. - Này Joppy rót rượu mới khách đi chứ? Cho tớ một ly Scotch. Easy uống gì? - Như mọi bữa chứ? Joppy hỏi lại. - Chứ còn gì nữa. Joppy quay đi, lão Albright đảo mắt nhìn quanh bên trong gian nhà. Lão ngồi nhìn một hồi, nhích người qua một bên xem có gì khác lạ. Chẳng có gì thay đổi. Quán rượu của Joppy ở trên tầng hai nhà kho của cửa hàng bàn thịt. Khách hàng phần đông là dân da đen bán thịt giờ này mới xế trưa ai này còn lo làm ăn buôn bán. Mùi thịt thối lần toả khắp mọi ngóc ngách bên trong ngôi nhà, lúc này chỉ có lèo tèo mấy khách hàng không phải là dân bán thịt còn ráng chịu ngồi lại quán bar của Joppy. Joppy mang rượu ra, một ly scotch cho lão Albright, còn tôi một ly bourbon bỏ đá. Vừa đặt hai ly rượu ra quầy, gã nói: "Ông Albright đây đang cần một người làm công việc dò tìm, Easy, tờ vừa nói cậu đang tìm việc làm để trả nợ món vay thế chấp. - Gay đấy, - lão Albright lại lắc đầu. - Mấy tay làm ăn lớn chẳng để ý hoặc chăm lo cho công nhân đang tự xoay xở để vượt qua khó khăn. - Ông biết không, Easy rất chịu khó. Hắn vừa nhận giấy tốt nghiệp trung học lớp buổi tối, rồi định xin theo học trường cao đẳng". Joppy tay cầm khăn lau sách mặt quầy lát đá hoa nói tiếp. - Hắn là anh hùng quân đội đấy, ông Albright. Hắn gia nhập đội quân Patton. Linh tình nguyện mà. - Đúng quá chứ, - Albright nói. Vẻ mặt lão vẫn lạnh như tiền - Ta kiếm thêm chiếc ghế đi, Easy! Đằng kia gần cho cửa sổ. * * * Cửa số nhà Joppy bám đầy bụi nhớp nhúa ngồi bên trong không nhìn thấy đường phố 108. Nếu bạn ngồi chỗ chiếc bàn nhỏ sát bên may ra còn được hưởng chút ánh nắng ban ngày. - Anh đang cần tiền trả nợ họ, Easy? Ngân hàng khó chịu hơn mấy công ty. Đúng hạn anh phải lo trả nếu trễ qua bữa sau cảnh sát sẽ đến gõ cửa nhà anh. - Chuyện đó liên can gì đến ông đâu, ông Albright? Tôi ngại nên không muốn nói ra lời khiếm nhã rằng mới vừa gặp ông được vài phút mà ông đã muốn hỏi chuyện làm ăn của tôi ra sao. - Phải đây, tôi nghe Joppy kể anh đang cần việc làm nếu không sẽ bị xiết nhà. - Bởi vậy nên ông muốn xen vô chuyện của tôi? - Tôi đang cần tìm một người tinh mắt thính tai, biết nghe ngóng để giúp việc cho tôi, Easy. - Ông định làm việc gì nào? - Tôi hỏi lại. Tôi muốn vứt chạy ra khỏi chỗ này nhưng nghĩ lại ông ta biết rõ chuyện tôi thiếu nợ. Ông ta cũng hiểu biết chuyện làm ăn ở ngân hàng. - Tôi đã từng làm luật sư lúc còn ở Georgia. Nay thì tôi chỉ muốn giúp đỡ bạn bè, vì tình nghĩa bè bạn với nhau. - Ông giúp như thế nào? - Tôi không nói ra được, Easy - Lão nhún vai - Tôi giúp ai bất kỳ việc gì. Cụ thể lúc anh cần nhắn tin cho người thân nhưng lại không thể tự mình làm lấy được phải nhờ đến tôi, tôi giúp ngay. Thấy chưa tôi chỉ giúp khi có yêu cầu, nên ai cùng biết, tôi có khối việc mà lắm. Có lúc phải cần người phụ mới xong. Anh đến vừa đúng lúc. - Vậy là thế nào? - chợt tôi hỏi lại. Ngồi nghe lão nói chuyện chợt tôi nhớ lại một người bạn cũ hồi còn ở Texas - Tên hắn là Raymond Alexander bọn tôi thường gọi hắn là Mouse. Nhắc tới Mouse tôi cảm thấy trong người khó chịu. - Tôi đang cần một người làm công việc dò tìm. - Ông muốn tìm ai... - Này Easy - lão cắt ngang. - Theo chỗ tôi biết, anh là người thông minh, biết đặt câu hỏi, tôi sẽ bàn với anh chuyện đó sau. Ở đây không tiện. - Nói xong lão rút túi lấy ra tấm danh thiếp, tay cầm bút máy. Lão viết hí hoáy mấy chữ xong đưa cho tôi. - Anh nhớ kể lại cho Joppy nghe và nếu muốn thử thời vận tối nay anh ghé qua văn phòng tôi làm việc sau bẩy giờ. Lão nốc cạn ly rượu nhìn về phía tôi, nhếch mép cười đứng ngay dậy. Kéo tay áo lại cho thẳng. Lão đưa tay sửa mũ lệch qua một bên gật đầu chào Joppy đang đứng sau quầy vẫy tay chào cười đáp lại. Lão DeWitt Albright thong thả bước ra khỏi quán bar của Joppy như một khách hàng quen mỗi buổi trưa ghé vô làm một ly. Tấm thiếp in tên chữ nổi. Địa chỉ ghi ngay ở phía dưới văn phòng đặt ở trung tâm thành phố, từ chỗ khu phố Watts đến đó cùng khá xa. * * * Tôi nhìn lại thấy lão DeWitt Albright không phải trả tiền rượu. Còn Joppy cũng không vội vàng hỏi lão có trả tiền hay chưa.   Mời các bạn đón đọc Con Quỷ Áo Xanh của tác giả Walter Mosley.
Nàng Betty Đen
Với những người Mỹ da đen, thời điểm lúc này là trông chờ một tín hiệu lạc quan. Thế nhưng chàng cựu thám tử Easy Rawlins lại nhìn thấy hiện tại đen tối, tương lai mù mịt. Bình thường gã phải ném quăng trả lại hai tờ trăm đô la vô mặt tên cớm nhếch nhác này, hắn là một tên cớm da trắng đang cần gã truy tìm tung tích nàng Betty đen kiều diễm nước da ngăm đen, quyến rũ như một phụ nữ đa tình mơ ước được giàu sang và chiếm đoạt bọn đàn ông. Nàng giã từ khu phố Fifth Ward ở Huston để đến đô thị sang trọng của giới thượng lưu ở Beverly Hills. Còn nhiều bí ẩn Easy chưa nghe kể, thế mà gã không thể từ bỏ ý định gặp lại nàng Betty cho dù phải liều mạng. *** Bộ sách về Easy Rawlins gồm có:  Con Quỷ Áo Xanh Bướm Trắng Nàng Betty Đen ... *** Walter Mosley là nhà văn Mỹ da đen, tác giả nhiều tập truyện trinh thám huyền ảo. Ông là một tác giả được tổng thống Bill Clinton ưa chuộng nhất với lối viết trang nhã, lôi cuốn người đọc. Nhân vật chính trong những tập truyện trinh thám của ông là nhà thám tử Easy Rawlins. Ông đã từng được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn trinh thám Mỹ, thành viên Ban giám khảo giải sách hàng năm, sáng lập viên Hội sách Trung tâm văn bút Mỹ. Hiện ông là nhà văn trinh thám hàng đầu ở Mỹ, tác phẩm của ông được báo New York Times xếp hạng bestseller. Liền sau đó các tác phẩm nổi tiếng ra đời: Cái chết đỏ; Nàng Betty đen; Bướm trắng; Thủ lĩnh Jones v.v... *** Bọn chúng đang đứng chờ dưới ánh đèn vàng trong ngõ hẻm phía sau quán rượu John. Gã Bruno Ingram, biệt danh Bàn Tay Lớn, thân hình vạm vỡ đang đứng im với vẻ mặt vênh váo. Gã mặc bộ đồ vét may bằng hàng mohair, phía trong không có áo sơ mi, đầu để trần. Tay đứng gần bên dáng người nhỏ con, trông bộ đồ bó sát người sáng như bạc, tôi đoán loại hàng nhập của Ý. Tôi đứng núp sau lối của ra vào lắng nghe bọn chúng trao đổi một lúc. “…Dodge thua cuộc” - Mouse - tên nhỏ con vừa nói. Trông hắn có vẻ hài lòng. - Cậu còn nợ mình hai lăm cent. “Đến đây, Sooky” - một giọng nói vô hình vẳng lên từ giữa đường phố. Giọng nói một chàng thanh niên. “Đâu có, Alfred” - một giọng nói của phụ nữ trả lời nghe rõ từng tiếng. Nhưng đoạn sau, tôi không nghe được nàng nói gì. Gã Bruno đổi giọng: - “Cút đi ngay, đồ âm binh”. Tôi quay lại, một cảm giác sợ hãi trỗi dậy trong người - Mẹ kiếp! Mi bú con… đen thui của tao đây nè. Tôi muốn la lên một tiếng, nhưng cổ họng như nghẹn lại. Mouse xô đẩy Bruno, hắn chỉ muốn giữ một khoảng cách vừa đủ để rút khẩu súng ngắn nòng 41 ra. Bruno nhếch mép cười chợt vẻ mặt gã biến sắc như đứa trẻ lên tám có tội. Phát súng vừa vang lên gã đã lùi lại phía sau cả thước, hai bàn tay chìa ra phía trước y như gã mộng du trong truyện tranh. Người gã muốn ngã nhào xuống đất, khẩu súng trên tay Mouse, tiếp tục nhả đạn đẩy lùi Bruno dạt về phía cửa sau nhà hàng. Chợt nghe một tiếng thét vang lên, tôi bước đi loạng choạng giật lùi về phía cửa ra vào. *** Tôi giật mình choàng dậy giữa đêm khuya. Tôi ngỡ ngàng không rõ mình đang ở đâu. Tôi đang nằm trên tấm nệm thật êm, giương tay tìm chiếc đồng hồ nhưng bàn để đầu giường đâu mất. Tôi té ngã từ trên chiếc ghế ở bên ngoài bãi cỏ xuống thềm nhà. Rồi tôi nhớ lại không khí bên trong nhà nóng nực. Bọn trẻ Jesus và Feather phải cho chạy chiếc quạt gió từ ngoài cửa sổ thổi vào buồng ngủ của Jesus. Tôi hay thức giấc lúc hai giờ sáng, và lúc nào người tôi cũng ướt nhem mồ hôi. Tôi ngồi ngay dậy cố xua đi cơn ác mộng. Chuyện đó đã qua năm năm, cứ mỗi tháng tôi nằm mơ thấy cái chết của Bruno một lần, nhưng dạo sau này lại thường hơn. Tôi không thể quên được hình ảnh thằng bạn thân nhất, không thể quên được giây phút khi súng dồn Bruno vào chân tường. Tôi muốn nghĩ đến những chuyện tốt đẹp hơn. Đó là hình ảnh ngài Tổng thống người Ai- len, chuyện ngài Mục sư Martin Luther King, tình hình thế giới đang đổi thay và chuyện một anh chàng da đen sống ở đất Mỹ được công nhận là một người công dân chân chính trải qua mấy trăm năm nay. Trong cái thế giới đó, đang rung chuyển mỗi ngày vì các vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất và chiến tranh chực chờ bùng nổ. Tôi đi ra phố, chợt thấy thằng bạn cũ Martin Smith nằm chết phơi thấy trên đường. Hắn là đứa học trò được thầy giáo quan tâm nhất. Tôi định đến thăm hắn từ lâu nhưng không hiểu vì sao tôi cứ tránh mãi. Tôi đang đứng giữa trời. Gió tháng chín càng thổi gắt. Gió mỗi lúc một nóng bức như đang thiêu đốt tâm hồn tôi. Tôi tưởng chừng như nghẹt thở hơn nhưng chẳng ai ngó ngàng tới - tất cả đều bỏ mặc tôi với cái xác chết vô tội kia nằm ngoài đường phố tối om. Nhìn về phía trên kia đường, vệt nắng sớm mai trải dài lấp lánh trên nóc, dãy nhà. Thật là một ngày tươi đẹp lại đến, nhưng không phải ai cũng được diễm phúc đón nhận. Gã Bruno đã yên phần dưới nấm mồ năm năm rồi, còn Mouse thì đang rên siết trong nhà tù ở Chino vì can tội ngộ sát. Tôi cũng là một tù nhân đây. Tù nhân của tội lỗi, tù nhân của vô thức. “Có phải ông Rawlins?” - giọng nói lạ vừa cất lên. Tôi lại giương tay tìm khẩu súng ngắn để trên bàn tại đầu giường. Nhìn lại tôi không còn ở trong phòng ngủ. Tôi đang trần truồng, không có chăn đắp, nằm một mình trong bóng đêm ngoài trời. Tay tôi nắm lấy cái gạt tàn bằng đất sét Jesus nắn nót làm ra trong những ngày đi trại hè. “Ai vậy kìa?” - tôi cố giữ vẻ bình thản. Tôi nhìn rõ bóng hình in trên tấm màn cửa là một gã đàn ông. Tôi giật lấy tấm drap dưới sàn quấn vào thắt lưng mình. “Saul Lynx đây! Thưa ông Rawlins” - Tôi biết hắn là một tên da trắng. - “Ông có thể nói chuyện một chút được chứ?”. “Hở? Sao?” - Tay tôi nắm chặt cái gạt tàn đất sét đến nỗi bể vụn nghe răng rắc. “Tôi biết giờ này còn sớm” - tên da trắng vừa nói “Nhưng tôi cần phải gặp ông. Tối qua mới biết được tên ông. Tôi đứng chờ bên ngoài lần theo địa chỉ từng nhà, lúc tìm ra được thì ông đã lên giường ngủ. Ông biết đó, cho đến bây giờ tôi mới nói cho ông nghe được”. “Vậy sao ông không cút đi sáng mai trở lại đây có được không?”. Tôi dồn tất cả sức mạnh vào cánh tay để ném cái gạt tàn qua tới chỗ màn cửa. Nếu thò tay đẩy then cửa thì chỉ có nước chết. Gã không tỏ vẻ giận dữ, gã lại nói “Tôi đến đây giới thiệu cho ông một chỗ làm. Nội bữa nay - sáng hôm nay. Ông có thể mở đèn cho sáng sủa được chứ?”. Tôi không muốn ai nhìn thấy mình đang trần truồng. Tôi rất dị ứng nếu có ai nhìn thấy được da thịt tôi. Tôi muốn nằm im một chỗ trong bóng tối tôi chợt hiểu ra tôi không thể im lặng một khi có ai đó đã biết mình đang ở đâu. Tôi quân tấm drap quanh người như chiếc áo choàng dân châu Phi rồi bước tới sau cánh cửa và bật đèn. Tôi nhìn thấy Lynx đứng núp dưới ánh đèn mờ nhạt phía ngoài tấm màn che. “Cho phép tôi vô nhà được chứ?” - Gã vừa cất tiếng. “Ông vô đây”. - Tôi gắt giọng Người gã nhỏ thó mặc bộ đồ vét màu nâu nhạt, thắt cà vạt nâu để hờ. Chiếc mũi to nổi bật trên khuôn mặt xấu xí, nhô lên một đống. Hắn đội mũ màu nâu, mặc bên trong chiếc áo sơ mi trắng tiệp với nước da nhợt nhạt. Đôi mắt hắn xanh sáng rỡ. Thấy tôi, Saul Lynx cười gật đầu, tôi không thèm bắt tay hắn. “Ông không cần phải bắt tay”. - Gã đứng nhìn theo chiếc gạt tàn. - “Tôi không ngạc nhiên khi ông ngủ ngoài trời. Hồi còn nhỏ, những ngày hè nóng bức tôi ngủ ngoài cầu thang thoát hiểm thích hơn là ở trong nhà”. “Ông cần việc gì đây?”. - Tôi gắt giọng vì tôi không còn kiên nhẫn để nói chuyện vớ vẫn. “Như tôi đã nói” - gã nhắc lại, giọng lạnh tanh. “Tôi đến đây giới thiệu ông một việc làm. Tôi có một thân chủ đang cần gấp người đi tìm một phụ nữ mất tích”. Ngoài đường phố Genesee, trời đã sáng tỏ. Tôi nhìn thấy rõ bóng cây minh quyết bên kia đường và bãi cỏ cắt xén gọn của nhà hàng xóm. “Ta ngồi xuống nói chuyện được không?” - Saul Lynx gợi ý với tôi. “Có việc gì quan trọng, ông nói cho hết rồi ra về. Tôi có con nhỏ nên không thích người lạ vào nhà như thế này”. Nhìn Saul Lynx cười tôi ngỡ đâu hắn là nhân viên mai táng thành tâm cười tiễn đưa người chết. “Ông có nghe nói tên một người phụ nữ là Elizabeth Eady bao giờ chưa?” - gã hỏi. Nghe qua, tôi chợt nhớ lại từ cõi vô thức. Nó trùng hợp với thời điểm tháng Chín mùa ẩm thấp cùng với những giấc mơ hàng đêm. “Bà sống ở L.A. hai mươi lăm năm nay, quê quán thì ở Houston”, gã kể lại. - “Hình như là hàng xóm với ông. Tôi còn giữ một tấm ảnh đây”. - Gã chìa ra một tấm ảnh cũ mèm. Tấm ảnh sẫm màu nâu nhạt thay vì ảnh đen trắng. Ảnh chụp theo kiểu lấy liền. Người phụ nữ trẻ đứng trước thềm cửa ngôi nhà nhỏ hẹp. Nàng cười đứng tựa lưng một bên cửa có vẻ ngượng nghịu. Thân hình nàng cao ráo, nước da ngăm ngăm, cho dù có tô một lớp phấn hồng cũng không che được màu da sạm của nàng Betty. Môi miệng nàng hé mở như muốn trêu ghẹo anh chàng phó nhòm. Black Betty không phải là mẫu người phụ nữ đảm đang, mà là mẫu người thích chơi bạo. Nhiều tay đã gục ngã dưới chân nàng. Nếu ai có một người bạn theo tán tỉnh nàng Betty thì hãy khóc giùm cho hắn, bởi nếu không chết thì cũng bị thương. Nàng có ma lực dìm đắm đàn ông và nàng không che giấu cái ma lực đó. Nếu gặp một tay chơi mời nàng đi ăn uống, nàng ít khi từ chối. Bất kỳ ngày nào, thứ Hai, Ba, Tư, Năm - chơi suốt đêm. Betty không thích ngồi lì một chỗ, nếu qua ngày thứ Sáu túi tiền hắn rỗng tuếch - y như rằng Betty bỏ đi ngay. Từ trước đến giờ ít có tay chơi người da màu nào dám bao nàng ăn chơi xả láng. Tại nhà nàng ong bướm dập dìu hàng đêm. Nàng có thể làm tình với bọn da đen một tuần ba đêm là chuyện thường. Tôi đã từng nhìn thấy nàng lê bước chệnh choạng trên hè phố lát gỗ ở khu Houston Fifth Ward. Thuở đó tôi là một thằng nhóc mười hai tuổi ăn mặc lôi thôi, còn nàng đã là một phụ nữ chững chạc. Nàng mặc áo viền đăng ten màu đen, mang găng tay áo choàng lông thú. Đứng gần bên nàng, ngửi thấy mùi hương thơm nồng nàn tôi quên mất mình là ai. Hôm đó tôi đang đứng bên ngoài quán bar Corcheran ở phố Blanford Street. Lúc đó tôi cảm thấy thật khó chịu, lỗ mũi nóng ran. “Mày nhìn gì đó, nhóc kia?” - nàng quay hỏi tôi. “Nhìn bà đó”. “Mày thích nhìn cái gì?” Tôi phải lấy giọng mới nói ra được “Ờ… ờ… phải. Có lẽ bà đẹp nhất trên đời này”. “Có lẽ?”. Tôi chới với. Đáng lý tôi phải khen nàng là người đẹp nhất trần gian. Chỉ có nàng đẹp nhất thôi. Tôi đã bỏ lỡ dịp may được nói chuyện với nàng một lần nữa. “Lại đây, cưng” - người tình nàng vừa cất tiếng. Thay vì nghe theo, nàng bước lại hôn tôi - quanh môi. Nàng thè lưỡi ra khi tôi chưa kịp há miệng. Nàng buông ra lùi lại, tôi té nhào xuống đất. Bọn chúng đứng cười nhìn theo tôi, chỉ riêng Betty không thèm cười. Nàng đắm đuối vì đã áp đảo được tôi. Có một lúc nào đó tôi sẽ té nhào vì nàng một phen nữa, hoặc có khi lọt ra ngoài cửa sổ vì được nàng hôn. “Ông biết nàng chứ, ông Rawlins” - Saul Lynx hỏi. Tôi đang ngắm bức ảnh thì Dawn vừa tới. Tôi nhìn thấy chiếc xe chạy ngang qua bỏ báo ngoài sân và nhà bên cạnh. Vừa lúc đó một người đàn bà da trắng nhanh chân bước ra nhặt tờ báo. Đó là bà Horn, bà thường mất ngủ nên tính hay bồn chồn nôn nóng. Có lẽ bà ngồi chờ xe đưa báo chạy ngang qua từ nãy giờ. “Tôi không nhớ ra nàng”, - tôi đáp. “Được rồi…” - Gã nói giọng dề dà như thể không tin. - “Thôi được, chẳng sao cả. Ông chỉ cần tìm quanh trong khu phố người da màu thôi. Chúng tôi chỉ cần có vậy”. “Chúng tôi là ai vậy?” “Ông chỉ cần biết tôi là đủ rồi”. “Nàng làm nghề gì?” “Chả có nghề gì cả. Theo tôi biết, nàng giúp việc cho một bà suốt thời gian còn ở đây. Nhưng rồi câu chuyện bắt đầu từ đấy. Nàng Eady xin nghỉ việc, nay người chủ cũ gọi về lại”. - Saul Lynx nhếch mép cười đưa tay sờ mũi theo thói quen. - “Nàng không để lại địa chỉ liên lạc và trong danh bạ điện thoại không có tên Elizabeth Eady”. “Nàng làm việc cho ai?” “Tôi không cho phép tự nói ra được”. “Ơ… ơ… Ông tính trả công tìm được nàng là bao nhiêu?” “Hai trăm đô la đưa trước, tìm được nàng lãnh thêm hai trăm nữa”. Gã chỉ tay về phía tôi “Ông phải tiến hành ngay”. Theo tôi biết, người phụ nữ đứng ra trả tiền đang nôn nóng tìm cho được nàng Eady”. “Lấy gì làm bằng chứng ông biết rõ chuyện đó?” “Đấy, ông thấy chưa”, gã nói như muốn được thông cảm. “Tôi chưa hề gặp bà ấy. Bà ấy không quan hệ với các nhà thám tử. Luật sư riêng của bà ấy đứng ra nhờ tôi”. - Nói xong gã rút ra một xấp bạc đưa qua tôi. Tay tôi đang giữ cái gạt tàn còn tay kia cầm tấm ảnh. “Hai trăm đô la ứng trước”, gã vừa nói. Số tiền lớn hơn cả tài khoản tôi gửi trong băng. Đã có lúc tôi mừng vì có được thu nhập từ việc cho thuê một căn hộ chung cư. Năm 1948 nhờ món tiền trời cho, tôi tậu được cơ ngơi. Nhưng do lao vào mua bán nhà đất nên bị phá sản. Tôi cho thuê căn nhà đang ở. Mỗi tuần lễ ăn uống kham khổ thắt lưng buộc bụng cũng vừa đủ sống. Tôi buông cái gạt tàn xuống đỡ lấy xấp tiền. Tôi sờ thấy hơi ẩm vì gã vừa rút trong túi quần ra. “Tôi sẽ lo cho”, - tôi nói cho có. - “Tôi phải đi gặp ông luật sư đó trước rồi sẽ báo cho ông hay sau. Tên ông ta là gì nhỉ?”. “Chờ khi nào ông làm được việc rồi mới nói chuyện đó sau. Tôi sẽ cho ông ta hay là ông cần gặp có chút việc”. - Gã chẳng cần quan tâm đến ý kiến tôi vừa nêu, gã nói tiếp - “Nếu luật sư đồng ý gặp thì liên lạc với ông bằng cách nào?”. Tôi đọc số máy điện thoại gã nghe xong gật đầu. “Làm sao ông tìm ra tôi, ông Lynx. Địa chỉ tôi không nằm trong sổ danh bạ?” “Tên tuổi ông ai mà không biết, thưa ông Rawlins”. Gã móc ở túi sau chiếc ví cũ mèm ra. Gã lôi ra một tấm danh thiếp nhăn nheo cáu bẩn. Chỉ nhìn thấy số điện thoại, địa chỉ bờ biển ở Venise in nét chữ đen lấm tấm dấu mốc meo. Còn tên tuổi không thấy đâu. “Tên chỉ có vậy L- Y- N- X”, gã nói. “Khi nào tìm được cho tôi hay. Càng sớm càng tốt”. “Ông sẽ nghĩ sao nếu tôi không nhận số tiền này? Và vì vậy nên ông còn nợ tôi một việc”. Saul Lynx nhìn thẳng vào mắt tôi, nụ cười điềm nhiên trên gương mặt gã vụt biến. - “Biết đâu tôi nghĩ sai, nhưng tôi dám cuộc ông là mẫu người nói là làm. Dù sao còn có thêm hai trăm đô la nữa kia mà”. “Thế được rồi, nhưng làm sao ông dám tin tôi có thể tìm ra được một người phụ nữ lẫn trong số hai triệu rưỡi người kia? Ông nên cho tôi biết đôi diều về đối tượng đang tìm kiếm chứ”. - Tuy nói vậy nhưng tôi đã biết mọi ngõ ngách tìm ra nàng Betty, tôi chỉ muốn dò la gã da trắng này đã biết được những gì. Gã biết ý tôi định nói gì. Nụ cười thoáng hiện trên gương mặt gã. Chợt gã lắc đầu. “Tiếc là, ông Rawlins, tôi chỉ biết nàng có bạn bè trong xóm dân Negro. Biết đâu có người sẽ nhận ra nàng qua tấm ảnh ông đưa ra”. Tôi định trả tiền lại, chợt tôi nghĩ biết đâu gã sẽ đoán được ý đồ rằng tôi cũng đang khao khát nhìn lại nàng Betty, khi đã là một chàng trai chững chạc. “Tôi sẽ nói chuyện đó sau” - tôi đáp. Lynx đưa tay sờ trán giả vờ thân mật đáp chào. “Nhờ đấy”, gã nói. - “Tôi mong được tin sớm”. Gã nhếch mép cười rồi bước ra. Tôi dưng nhìn theo cho đến lúc gã ngồi vào trong chiếc xe ô tô nhỏ xíu sơn màu nâu. Gã vừa phóng xe đi, bà Horn bước ra - mặt mũi có vẻ bàng hoàng. Lúc nhìn thấy tôi quàng tấm drap quanh mình đứng ngoài trời vẻ mặt bà chợt biến sắc. Tôi không biết bà nghĩ gì trong đầu. Tôi cười gọi với theo, bà không nghe vội vã chạy vào nhà. Tôi cúi xuống nhặt từ báo lên liếc qua mấy hàng tin trên đầu. Nước Nga vừa cho nổ vụ thứ hạt nhân lần thứ ba trong một tháng. Mời các bạn đón đọc Nàng Betty Đen của tác giả Walter Mosley.
Thiên Nga Bạc
Với Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học người Dublin từng xuất hiện trong tiểu thuyết Bạc Mệnh, thời thế đã thay đổi. Khi Billy Hunt, người quen từ hồi học đại học, tìm đến nhờ Quirke đừng khám nghiệm tử thi người vợ đã chết của gã, ông biết có điều bất ổn. Dần dà, ông dấn sâu vào một thế giới đen tối của tệ nạn ma túy, của ám ảnh tình dục, tống tiền và giết chóc, một thế giới mà ngay cả thanh tra Hackett đáng gờm cũng chỉ có thể cho ông một dúm manh mối. Theo sau cuốn tiểu thuyết Bạc Mệnh được giới phê bình hoan nghênh nhiệt liệt, cuốn Thiên Nga Bạc đầy cuốn hút này càng khẳng định Benjamin Black là một trong những cây viết vô cùng đặc sắc và hấp dẫn của làng tiểu thuyết trinh thám đương thời. *** Tác giả Benjamin Black là bút danh của John Banville, nhà văn nổi tiếng người Ailen. Các tác phẩm của ông đã giành được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Man Booker Prize 2005 cho cuốn Biển Cả (The Sea). Hiện ông sống ở Dublin. Bộ 3 tác phẩm: Bạc Mệnh, Thiên Nga Bạc, Vượn Cáo Bạc Mệnh Lần đầu sáng tác với bút danh Benjamin Black, John Banville - tác giả từng đoạt giải thưởng Man Booker Prize - giới thiệu với bạn đọc nhân vật Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học hay cáu kỉnh đồng thời là một thám tử khó quên của thế giới tiểu thuyết trinh thám. Khoa nghiên cứu bệnh học của Quirke nằm ở tầng hầm một bệnh viện giữa trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày, giữa đêm hôm khuya khoắt, ông tình cờ bắt gặp một xác chết lạ xuất hiện ngay trong khoa của mình. Hơn thế nữa, chính người anh "cột chèo" của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân... Thiên Nga Bạc Với Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học người Dublin từng xuất hiện trong tiểu thuyết Bạc Mệnh, thời thế đã thay đổi. Khi Billy Hunt, người quen từ hồi học đại học, tìm đến nhờ Quirke đừng mổ xác khám nghiệm tử thi người vợ đã chết của gã, ông biết có điều bất ổn. Cũng như mọi khi, ông nhất định phải tìm cho ra nguyên nhân bất ổn ấy. Dần dà, ông dấn sâu vào một thế giới đen tối của tệ nạn ma túy, của ám ảnh tình dục, của tống tiền vàichết chóc, một thế giới mà ngay cả thanh tra Hackett đáng gờm cũng chỉ có thể cho ông một dúm manh mối. Vượn cáo John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mulholland hay còn gọi là Bill Lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mulholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ quãng đời trước, nhưng nói chung Glass hài lòng với hiện tại. Để có được thông tin về người bố vợ, Glass đã thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là "Vượn Cáo". Từ lúc ấy, cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, "Vượn Cáo" bị sát hại, Glass quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Quirke mở mắt nhìn bình mình màu xám. Ông đang nằm giữa thiên nhiên, dưới tán cây xanh ngắt. Người ông lạnh cóng, còn da mặt ẩm ướt vì sương mai. Cảm giác đau đớn, buồn bã mơ hồ lan tỏa trong ông. Ông tự hỏi trước khi nằm đây, phải chăng ông bị tai nạn, té ngã hay bị đánh cho bất tỉnh nhân sự. Một người cao lớn đứng lù lù trước mặt ông đang nói câu gì đó. Ông không hiểu anh ta nói gì. Đầu ông hoàn toàn mít đặc. Ông đang nằm ỳ trên ghế băng bằng thép. Phải, ông nằm trên ghế công cộng ở bờ kênh đào. Ông nhận ra điều đó nhờ nhìn thấy cây cầu Huband cong vồng trên nền trời u ám. Anh chàng cao lớn giơ bàn tay to tướng chộp lấy vai ông mà lắc. Lập tức đầu ông nhức buốt như có cục sắt nằm trong hộp sọ lăn từ bên này qua bên kia. Người kia hỏi: - Ông làm sao thế? Hóa ra đó là viên cảnh sát có thân hình cao lớn, vạm vở và khuôn mặt tròn, trắng bệch. Thái độ anh ta cứng rắn như người làm ngành này phải có, hoàn toàn không giống Hackett. Thấy Quirke cố ngồi lên, anh ta lùi xuống rụt tay lại. - Ông có sao không? Miệng Quirke khô đắng, bỏng rát. Ông phải cử động hàm một chút để tiết ít nước bọt dưới lưỡi rồi mới trả lời được. Ông bảo mình không sao, có lẽ chỉ ngủ quên mà thôi. Viên cảnh sát cộc cằn: - Tôi lay mãi mà ông không tỉnh. Ai bảo tối qua nốc rượu cho lắm vào. Quirke tự hỏi tại sao cảnh sát hay khiến người ta khó chịu. Thậm chí chỉ cần nghe ai đó nhờ chỉ đường, họ cũng nhíu mày, dữ tợn lạ thường như thể bị lăng nhục vậy. Muốn anh ta đi cho rảnh nợ, Quirke vờ nhắm tịt mắt lại. Quả nhiên, khi ông mở mắt không còn ai đứng đó. Ánh sáng cũng thay đổi: ông thấy chói mắt hơn khi nãy. Ông vẫn nằm dài trên ghế. Chắc ông ngủ quên hoặc bị ngất. Ông ngồi dậy, lục túi tìm thuốc lá nhưng không thấy. Ông dần nhớ lại mọi chuyện. Hôm qua thứ ba, đáng lẽ tối ông phải đưa Phoebe đi ăn nhưng con bé đang ở nhà Mal, và ông không dám gọi điện cho nó. Ông đành một mình dùng bữa tại nhà hàng Russell và uống hết một chai rượu vang. Sau đó, ông sang quán rượu McGonagle’s mê mải uống whisky. Ông không nhớ là bao nhiêu ly nữa. Ông hoàn toàn không nhớ những gì xảy ra sau đó và không biết đã đến bờ kênh bằng cách nào. Ông ngất ngưởng đứng dậy, đầu nặng như chì. Có việc ông phải làm gấp. Nhưng đó là việc gì? Phoebe, phải rồi! Ông phải làm gì đó cho con. Dù không biết là việc gì, nhưng ông cứ phải làm cho bằng được. Phải cứu lấy con. Nó là máu thịt của ông. Nhất định ông phải tìm cách ổn định cuộc sống cho nó. Những từ ấy vang mãi trong đầu ông: phải che chở cho con, phải tạo dựng cuộc đời tốt đẹp cho con. Ông nhìn bao quát con đường trước mặt: tịnh không một bóng người. Nghĩ đến một ngày âm u dài lê thê đón đợi phía trước, ông thấy nản lòng. Ông cố nhúc nhích, lê chân bước, thoát ra khỏi chỗ này nhưng vô vọng: cơ thể bất tuân ý chí. Ông đứng chôn chân tại chỗ. Đi về đâu và làm gì lúc này là hai câu hỏi lớn lơ lửng trên đầu ông. Mời các bạn đón đọc Thiên Nga Bạc của tác giả Benjamin Black.