Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ký Sự Phục Dịch Ở An Nam

Vào giữa thế kỷ XVII, sau khi người Mãn Thanh lên nắm quyền ở Trung Quốc, nhiều trung thần của nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh bỏ trốn sang Nhật Bản, Việt Nam cùng các nước Đông Nam Á khác nhằm mưu tìm cơ hội khôi phục nhà Minh. Trong số những Minh thần này, có một trưng sĩ tên là Chu Thuấn Thủy rất đáng được chú ý. I. Đôi nét về thân thế của Chu Thuấn Thủy Chu người Dư Diêu (cùng quê với Vương Dương Minh) tỉnh Chiết Giang, sinh năm 1600, vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Tên thật của Chu là Chi Du, hiệu là Thuấn Thủy, tổ tiên hình như có liên hệ với Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Trong 5 lần đến Đàng Trong, thời gian Chu lưu trú lâu nhất là khoảng 4 năm từ năm 1654 cho đến năm 1658. An Nam cung dịch kỷ sự là “hồi ký” của Chu viết về những sự việc xảy ra vào năm 1657 trong khoảng thời gian hai tháng rưỡi kể từ khi Chu bị quản thúc ở Hội cho đến khi được cho về lại Hội An. Vị “Quốc vương” mà Chu thường nhắc đến trong An Nam cung dịch kỷ sự là chúa Nguyễn, hay nói rõ hơn là chúa Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền), người cai quản Đàng Trong từ năm 1648 đến năm 1687. Về học vấn và tư tưởng, Chu đặc biệt chú trọng lối học thực hành (thực học) theo truyền thống Nho học của miền Giang-Chiết (Giang Tô và Chiết Giang). Chu xem những lối học không mang lại lợi ích cho đời, cho dầu hào nhoáng đến đâu chăng nữa, cũng không khác gì đồ bỏ. Trong bức thư trả lời câu hỏi của Andô Shuyaku về “phương pháp đọc sách và viết văn”, Chu đáp: “Điều đáng quý trong học vấn là thực hành. Nhan Hồi tuy học một biết mười, nhưng điều quan trọng là ông đứng đầu về đức hạnh”. Cái thực học của Chu so với cái học để thi cử rỗng tuếch ở Trung Quốc và Việt Nam lúc bấy giờ thì phải nói là cách xa nhau một trời một vực. 2. Nội dung An Nam cung dịch kỷ sự Chu nhận được hịch chiêu mộ người “biết chữ” của “Quốc vương” và ra trình diện ngày 3 tháng 2 năm 1657, Chu bị tống giam và bị đối đãi như “tù giặc nước ngoài bị bắt sống” (khấu lỗ). Sau đó, khi được dẫn đến nha môn, quan ra lệnh cho Chu làm một bài thơ khẩu hứng rồi viết lên giấy. Chu khăng khăng không chịu làm thơ, dùng bút giải thích là vì “cảnh nước mất nhà tan” và “không cam bím tóc” theo nhà Thanh nên Chu mới trốn sang Nước ta, “ruột gan nóng như lửa đốt, làm thơ sao đặng”. Khi biết Chu là “cống sĩ” (giống như “trưng sĩ”, nhưng trưng sĩ là cách gọi tổng quát), quan có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình. Lúc ở Hội An, Chu thuê nhà chung với ba người Nhật. Chủ nhà là Gombê (Quyền binh vệ), cũng là người Nhật. Sáng sớm trước khi bị dẫn ra Dinh Cát, Chu tắm gội sạch sẽ, rồi căn dặn cặn kẽ người nhà phải làm gì khi trong trường hợp bị giết mà không về lại Hội An. Khi từ Dinh Cát về lại Hội An thì đồ đạc trong phòng Chu bị kẻ trộm vào lấy sạch, không còn gì cả. Trong khi hàng xóm láng giềng ai cũng đinh ninh chủ nhà là thủ phạm, Chu vẫn một mực không chút tỏ ý nghi kỵ Gombê. Sau khi điều tra biết Gombê là người vô tội, lúc bấy giờ hàng xóm mới khen Chu không phải là người tầm thường. Sau đó đến ngày 19 tháng 2, Chu được thư của Chúa mời Chu ra giúp, Nhưng đối với Chu, lúc này thì đã cạn tàu ráo máng nên Chu đã từ chối lời mời của chúa Nguyễn. An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo trên nhiều mặt. Thêm vào đó, Chu đã từng cư ngụ ở đất Thuận-Quảng nhiều lần trong khoảng 12 năm từ năm 1646 cho đến năm 1658. Bởi thế, lối quan sát và nhận định của Chu về tình hình học thuật, xã hội và chính trị của Đàng Trong, cũng như những điều Chu nhận xét về một số nhân vật mà Chu đã từng tiếp xúc trong thời gian bị câu lưu mang nét sống động của một người có óc quan sát chứ không phải là những lời bình phẩm chung chung của một khách bàng quan. Người đọc không nhất thiết sẽ đồng ý với tất cả những nhận xét của Chu. Thậm chí, một vài nhận xét của Chu có thể làm độc giả người Việt không mấy hài lòng. Chu là một nhà trí thức tuy khá am tường về Việt Nam nhưng ưu tiên của Chu là “bài Thanh phục Minh”, khác với hoài bão với những người Việt trên bước đường Nam tiến. Tuy nhiên, ý nghĩa của An Nam cung dịch kỷ sự là tập ký sự này cho ta một bức tranh về tình hình Đàng Trong vào thế kỷ XVII với một số nét chấm phá mới mẻ. Chính vì thế, việc phân tích và đánh giá An Nam cung dịch kỷ sự không phải đơn giản, đòi hỏi người đọc có thái độ muốn bình tâm tìm hiểu một cách khách quan về những nhận xét của Chu trong thời gian bị quản thúc ở Hội An và Thuận Hóa. Ngoài ra, qua tập ký sự của Chu Thuấn Thủy, chúng ta có thể tìm thấy những thông tin bổ ích khác về tình hình Đàng Trong giữa thế kỷ XVII. Chẳng hạn về ngôn ngữ, về cộng đồng người Hoa và người Nhật ở Hội An, tình hình học thuật, thư mục những sách chữ Hán ở Đàng Trong lúc bấy giờ, tình trạng thích bói toán, khuynh hướng chuộng bằng cấp hư danh, đánh giá người theo khả năng làm thơ phú chứ không chú trọng đến thực học. Nhìn trên quan điểm về nghi thức ngoại giao, những khác biệt về nhãn quan và ngộ nhận về lập trường giữa Chu và các quan sai trong phủ chúa Nguyễn là một trường hợp độc đáo cần được nghiên cứu và thảo luận kỹ càng hơn. Về điểm này, trong phần kết luận của bài giới thiệu về Chu Thuấn Thủy khoảng hơn nửa thế kỷ trước, học giả Quán Chi Đào Trinh Nhất đã đưa ra nhận xét chí lý như sau: “[... Người nước ta] tiếc một ông thầy chân nho đến ở nhà mình 12 năm ròng rã, mà nhà nho mình thuở ấy không ai biết lợi dụng khải phát được điều gì, để cho ông thầy đâm chán, đem theo cái đạo học cao xa đi xứ khác mất. Cứ xem bọn nhà nho nước Nhật ở thế kỷ XVII tôn sùng họ Chu rồi sau mới biết Khổng học một cách khác hơn”. Khuynh hướng kỳ thị trong việc sử dụng nhân tài nước ngoài - không những của chúa Nguyễn mà của các triều đại Việt Nam nói chung - đều biểu hiện một thái độ đa nghi co mình lại. Bài học lịch sử này vẫn còn đáng được cho chúng ta ngày nay suy ngẫm. Người dịch đã được xem 3 ấn bản An Nam cung dịch kỷ sự. (1) ấn bản trong Chu Thuấn Thủy toàn tập (tập Thượng) do Chu Khiêm Chi chỉnh lý (Trung Hoa Thư cục, Bắc Kinh, 1981); (2) ấn bản trong Chu Thuấn Thủy toàn tập (quyển 1) do Dương Gia Lạc chủ biên (Thế giới Thư cục, Đài Bắc, 1956); (3) ấn bản do Trần Kinh Hòa hiệu đính và in lại trong bài “Chu Thuấn Thủy ‘An Nam cung dịch kỷ sự’ tiên chú” đăng trong tập san Hương Cảng Trung văn Đại học Trung Quốc Văn hóa Nghiên cứu sở Học báo (1968). An Nam cung dịch kỷ sự khi dịch đã chủ yếu dựa trên ấn bản (1), đồng thời tham khảo các ấn bản (2) và (3). Khoảng hơn 90% những chú thích trong bản dịch quốc ngữ là do sự tra khảo của người dịch. *** Sử liệu Trung Quốc và Nhật Bản cho biết trước khi sang Nhật định cư vào năm 1658, Chu Thuấn Thủy đã nhiều lần theo tàu buôn đến Việt Nam. Trong khoảng thời gian ở nước ta, không những sở học của Chu chẳng có ai nhận chân được giá trị, thậm chí có lúc Chu còn bị quản thúc và suýt mất mạng. Chắc hắn vì thế nên Chu đã từ giã Việt Nam để sang định cư ở Nhật với tư cách là một học giả về Nho học. Trước khi rời Việt Nam, Chu có viết một ký sự về khoảng thời gian bị câu lưu và phục dịch cho phủ chúa Nguyễn ở đất Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam). Tập ký sự này được viết vào năm 1657 và mang tên An Nam cung dịch kỷ sự (Ký sự phục dịch ở An Nam). Sau khi sang Nhật, Chu được nhiều người mến mộ tài năng nên đã có dịp thi thổ sở học của mình và đóng góp lớn vào việc nghiên cứu, phát triển Nho học trong nước Nhật lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, ở Trung Quốc và Nhật Bản, tên tuổi của Chu còn được nhắc nhở đến khá nhiều, trong lúc đó ở Việt Nam không mấy ai biết đến. Trên thực tế, cùng với tập Hải ngoại kỷ sự của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán và cuốn Xứ Đàng Trong năm 1621 của Christoforo Borri, An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo cung cấp cho ta nhiều thông tin bổ ích về tình hình ở đất Thuận Quảng nói riêng cũng như Đàng Trong nói chung vào thế kỷ XVII. dtBOOKS CÔNG TY TNHH SÁCH DÂN TRÍ ĐC: 11C Nguyễn Kiệm, P.3, Q. Gò Vấp, TP. HCM VPGD: 65 Hồ Văn Huê. P. 9, Q. Phú Nhuận, TP. HCM ĐT: (028) 62751674-62784851 Ký sự phục dịch ở An Nam ISBN: 978-604-956-373-7 9786049 563737 8 935207 001449 Giá: 74.000₫ www.dtbooks.com.vn *** Vài nhận xét về An Nam cung dịch kỷ sự An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo trên nhiều mặt. Tác giả Chu Thuấn Thủy là một học giả có tầm cỡ, lại có nhãn quan của một người có chí kinh luân hằng ấp ủ mộng “bài Thanh phục Minh”. Thêm vào đó, Chu đã từng cư ngụ ở đất Thuận - Quảng nhiều lần trong khoảng 12 năm từ năm 1646 cho đến năm 1658. Bởi thế, lối quan sát và nhận định của Chu về tình hình học thuật, xã hội và chính trị của Đàng Trong, cũng như những điều Chu nhận xét về một số nhân vật mà Chu đã từng tiếp xúc trong thời gian bị câu lưu mang nét sống động của một người có óc quan sát chứ không phải là những lời bình phẩm chung chung của một khách bàng quan. Người đọc không nhất thiết sẽ đồng ý với tất cả những nhận xét của Chu. Thậm chí, một vài nhận xét của Chu có thể làm độc giả người Việt không mấy hài lòng. Chu là một nhà trí thức tuy khá am tường về Việt Nam nhưng ưu tiên của Chu là “bài Thanh phục Minh”, khác với hoài bão với những người Việt trên bước đường Nam tiến. Tuy nhiên, ý nghĩa của An Nam cung dịch kỷ sự là tập ký sự này cho ta một bức tranh về tình hình Đàng Trong vào thế kỷ XVII với một số nét chấm phá mới mẻ. Chính vì thế, việc phân tích và đánh giá An Nam cung dịch kỷ sự không phải đơn giản, đòi hỏi người đọc có thái độ muốn bình tâm tìm hiểu một cách khách quan về những nhận xét của Chu trong thời gian bị quản thúc ở Hội An và Thuận Hóa. Với tư cách là “trưng sĩ”, Chu trên thực tế là một trí thức hàng đầu của nhà Minh. Tuy sang Việt Nam lánh nạn, Chu không những là một di thần của nhà Minh mà còn là một trí thức tiêu biểu trong vận động “bài Thanh phục Minh” ở Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản. Theo trật tự Đông Á trước thời cận đại với Trung Quốc là trung tâm, chỉ có người trị vì ở Trung Quốc mới được xưng là “hoàng đế”, còn vua của các nước trên vòng ngoại vi của Trung Quốc như Việt Nam, Triều Tiên chỉ được xưng hay gọi là “vương” (trên nguyên tắc phải được hoàng đế Trung Quốc sắc phong) trong các quan hệ chính thức với Trung Quốc. Chu xem mình nếu đã là “trưng sĩ”, là “tôi” của “hoàng đế” Trung Quốc, thì không thể lạy vua An Nam - một nước mà theo “trật tự thế giới của Trung Quốc” chỉ là một phiên quốc. Chu cho rằng việc bắt Chu lạy là trái với “lễ nghi” trong quan hệ sắc phong và triều cống giữa Trung Quốc với các nước “phên giậu” láng giềng. Trong tập ký sự, Chu nhắc đi nhắc lại chữ “lễ” nhiều lần chính vì Chu muốn nhấn mạnh điểm này. Trong khi đó, các quan sai của phủ chúa Nguyễn khi thấy Chu không chịu lạy vị chúa của mình đã cho rằng Chu đã “cậy thế Trung Quốc là nước lớn” nên không chịu lạy. Ngày trước, khi những sứ thần của Trung Quốc chính thức sang thăm viếng Việt Nam, vì các nghi lễ tiếp đón đã quy định sẵn nên có lẽ không mấy khi xảy ra những trường hợp phức tạp như thế này. Tuy nhiên, khi Chu trình diện với chúa Nguyễn, vấn đề nghi lễ trở nên gay cấn đến cực độ, bởi lẽ trong khi phủ chúa Nguyễn chỉ xem Chu như một người “biết chữ” (thức tự) có thể tuyển mộ để giúp về việc thảo văn thư chữ Hán, Chu lại tự coi mình như là một trí thức đại diện của phong trào phục Minh. Vì đứng trên lập trường đó nên Chu đã xem nhiệm vụ hàng đầu của chúa Nguyễn là phải giúp Chu trong nỗ lực khôi phục nhà Minh, trong khi mối quan tâm trước mắt của chúa Nguyễn - như chúng ta đã biết - là một mặt tiếp tục cuộc tranh hùng dai dẳng với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, một mặt mở mang bờ cõi ở phương Nam. Nhìn trên quan điểm về nghi thức ngoại giao, những khác biệt về nhãn quan và ngộ nhận về lập trường giữa Chu và các quan sai trong phủ chúa Nguyễn là một trường hợp độc đáo cần được nghiên cứu và thảo luận kỹ càng hơn. Có điều khá rõ ràng là khi sang Nhật, không những Chu đã không bị bắt lạy mà còn được trọng vọng, Mitsukuni đã tiếp Chu như một quốc sư. Trong một bức thư gửi về Trung Quốc, Chu đã viết về Mitsukuni như sau: “Ông đầy đức độ và lòng dũng cảm, thông minh, và có văn hóa cao. Ông không ngần ngại theo lời khuyên của kẻ dưới… Giá có một vị chúa như vậy ở Trung Quốc, với sự giúp đỡ của những người có tài năng, ông ta có thể xây dựng một xã hội hòa hợp và thanh bình không mấy khó khăn”[13]. Tìm được đất dụng võ, Chu quyết định ở lại Nhật suốt hơn hai mươi năm cho đến lúc tạ thế để truyền bá Nho học. Về điểm này, trong phần kết luận của bài giới thiệu về Chu Thuấn Thủy khoảng hơn nửa thế kỷ trước, học giả Quán Chi Đào Trinh Nhất đã đưa ra nhận xét chí lý như sau: “[… Người nước ta] tiếc một ông thầy chân nho đến ở nhà mình 12 năm ròng rã, mà nhà nho mình thuở ấy không ai biết lợi dụng khải phát được điều gì, để cho ông thầy đâm chán, đem theo cái đạo học cao xa đi xứ khác mất. Cứ xem bọn nhà nho nước Nhật ở thế kỷ XVII tôn sùng họ Chu rồi sau mới biết Khổng học một cách khác hơn”[14]. Ngoài ra, qua tập ký sự của Chu Thuấn Thủy, chúng ta có thể tìm thấy những thông tin bổ ích khác về tình hình Đàng Trong giữa thế kỷ XVII. Chẳng hạn về ngôn ngữ, Chu cho biết một số cách xưng hô trong phủ Chúa mà từ trước đến nay không thấy ghi lại trong các tư liệu Việt Nam. Dựa theo các chú thích về cả hai mặt nghĩa và âm của tác giả, ta biết chúa Nguyễn tự xưng là tau (tức là tao) khi nói chuyện với quần thần; hoặc giả chữ mi (tức là mày) cũng là cách gọi phổ biến của người trên với người dưới, không những trong dân gian mà cả trong phủ Chúa. Chu còn cho chúng ta thấy đôi nét về cộng đồng người Hoa và người Nhật ở Hội An, tình hình học thuật, thư mục những sách chữ Hán ở Đàng Trong lúc bấy giờ. Tập ký sự của Chu còn đề cập đến tình trạng thích bói toán, khuynh hướng chuộng bằng cấp hư danh, đánh giá người theo khả năng làm thơ phú chứ không chú trọng đến thực học trong phủ Chúa lúc bấy giờ[15]. Điều này khác hẳn thái độ của chúa Sãi khi thu dụng Đào Duy Từ chỉ mới cách đấy có hai đời chúa. Khuynh hướng kỳ thị trong việc sử dụng nhân tài nước ngoài - không những của chúa Nguyễn mà của các triều đại Việt Nam nói chung - đều biểu hiện một thái độ đa nghi co mình lại. Chính vì thiếu ý thức tuyển dụng và nung đúc nhân tài nhằm xây dựng một nền thịnh trị lâu dài cho đất nước, nên một nhân vật có tầm cỡ như Chu Thuấn Thủy vẫn không tìm được đất dụng võ ở Việt Nam, phải đợi cho đến khi họ Chu sang Nhật mới có thể phát huy được sở học và tài năng của mình. Bài học lịch sử này vẫn còn đáng được cho chúng ta ngày nay suy ngẫm. Mời các bạn đón đọc Ký Sự Phục Dịch Ở An Nam của tác giả Chu Thuấn Thủy & Vĩnh Sính (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Viết Lên Hy Vọng (Erin Gruwell)
Người Pháp có câu "Vouloir, c'est pouvoir" - "Muốn là sẽ được". Câu nói này dường như rất gần với "Never give up!" - "Đừng từ bỏ". Nếu mong muốn đủ lớn, mục tiêu đủ cao cả và nghị lực đủ nhiều, có lẽ mọi nghịch cảnh sẽ đều nằm dưới sức mạnh chinh phục của con người. Cuốn nhật kí được dựng thành phim "Nhật kí những nhà văn tự do" với Hilary Swank - nữ diễn viên từng đoạt 2 giải Oscar - vào vai chính (2007). Năm 1994, Erin Gruwel - một giáo viên ngữ văn mới 23 tuổi và tràn đầy lý tưởng - về dạy tại trường trung học Wilson, Long Beach, bang California. Cô phải đương đầu với một lớp toàn học sinh cá biệt, những thành phần "hết thuốc chữa" và vô cùng nguy hiểm. Những đứa trẻ (hầu hết là da màu) lớn lên tại một thị trấn của nạn phân biệt chủng tộc, của những tay găngxtơ sẵn sàng xả súng chỉ vì sự khác biệt, của những ông bố bà mẹ thất học khốn khổ vì nhập cư trái phép. Không một ai trong số họ đã từng tốt nghiệp trung học, chứ đừng nói đến học đại học. Và mỗi ngày trôi qua, lại có những đứa trẻ trong vùng ngã xuống vì những vụ bạo động và nổ súng. Học sinh của cô giáo Erin Gruwel trẻ tuổi thủ sẵn súng trong người khi bước ra ngoài đường phố. Có những em trốn học để hút chích, lang thang, có những em đánh vật với gia đình thiếu thốn và thậm chí phải ngủ ngoài đường. Những em còn lại thì thất vọng cùng cực. Tìm mua: Viết Lên Hy Vọng TiKi Lazada Shopee Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Viết Lên Hy Vọng PDF của tác giả Erin Gruwell nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tự Truyện Wanbi Tuấn Anh - Bắt Đầu Từ Một Kết Thúc (Lý Minh Tùng)
Câu chuyện của Bi trong đợt điều trị thứ hai ở Singapore, phải cắt bỏ dây thần kinh một bên mắt đã cho tôi một cảm xúc rất mạnh. Tôi rất khâm phục bản lĩnh và tâm hồn của Bi, tôn trọng tình bạn, tình anh em giữa Bi và Tùng. Tôi mong quyển sách này sẽ đến tay thật nhiều bạn trẻ, không phải vì Bi mà là vì chính họ, những con người luôn cần được truyền cảm hứng sống tích cực. - NGUYỄN QUANG HUY- Nhạc sĩ, Đạo diễn. Đây là cuốn sách nhiều nước mắt, chắc chắn bạn sẽ khóc từ nhỏ nhẹ đến bù lu bù loa khi xuôi theo những câu chữ. Nhiều nước mắt nhưng không nặng nề, vì WanBi đã sống rất mạnh mẽ và chân thật. Bạn sẽ trải qua nhiều nấc lên xuống của cảm xúc, tốt có, xấu có. Rồi mỗi người sẽ hiểu thêm về thời gian, về ước mơ, về sự dũng cảm và lòng yêu thương. Đây là cuốn sách khó viết và có những đoạn hơi rắc rối khi một sự việc được kể theo những nhân xưng “tôi” khác nhau. Cách duy nhất giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan và khách quan nhất về một phần cuộc đời của WanBi Tuấn Anh, về giai đoạn cậu chống chọi với bệnh nặng. Có nhiều điều WanBi không nói và không muốn nói, chúng ta chỉ có thể hiểu thêm nhờ trí nhớ và nhật ký của người thân và bạn bè cậu, những người đã cùng WanBi vượt qua chuỗi ngày khó khăn. Là một ca sĩ, nhưng WanBi đã để lại cho cuộc sống nhiều nhiều hơn là những bài hát. Chúc cậu một hành trình mới bình an!” PLOY NGỌC BÍCH- Nhà văn***Cậu em tôi- Wanbi Tuấn Anh, nhìn bề ngoài có vẻ không giống mấy một người sâu sắc và có nhiều tâm sự. Cùng với nụ cười lúc nào cũng rạng rỡ, tươi tắn, người ngoài dễ nhận xét em là một cậu nhóc vô ưu, vô lo và hời hợt. Tôi cũng có suy nghĩ như vậy khi lần đầu tiên gặp WanBi ở studio Phạm Hoài Nam, khi một em stylist chọn Bi làm người mẫu trang bìa cho số mới nhất của tờ báo học trò mà tôi làm thư ký toà soạn. Đó là năm 2004, Bi đang là cậu người mẫu học trò nổi bật nhất trong số bạn bè đồng trang lứa, là hotboy được chú ý nhất trong lứa đầu tiên khi “danh xưng” này bắt đầu được sử dụng. Một cậu bé hiền lành, lễ phép, hay cười (nhưng cười chưa đẹp). Ấn tượng chỉ có vậy. Tìm mua: Tự Truyện Wanbi Tuấn Anh - Bắt Đầu Từ Một Kết Thúc TiKi Lazada Shopee Bẵng đi một thời gian, run rủi sao một người bạn của tôi lại chơi thân với Bi. Vậy là hai anh em có nhiều cơ hội gặp nhau hơn, nhưng cũng chẳng thân thiết gì. Tuy vậy, càng tiếp xúc nhiều với Bi, tôi bắt đầu cảm nhận cậu bé này biết cách xử sự hơn những gì người khác nói về, và hơn hết cậu rất đam mê ca hát mà loay hoay chưa biết thực hiện ước mơ của mình thế nào. Những tâm sự về việc muốn thay đổi cách nhìn của người khác về mình khiến tôi thấy đồng cảm. Và tin cậu thanh niên này sẽ làm nên chuyện nếu được đặt đúng vị trí. Lần đầu tiên tôi chấp nhận giúp đỡ một ai đó chỉ với lòng tin mơ hồ như vậy. Tôi dành 6 tháng để thử thách Bi trước khi chính thức trở thành quản lý của cậu. Tôi cũng ngạc nhiên về chính mình, chưa bao giờ một con người thích sự an toàn như tôi lại có một quyết định mạo hiểm là đầu tư và đào tạo Bi trở thành ca sĩ, dù tôi cũng chưa có bất kỳ kinh nghiệm gì với công việc này. Như một định mệnh… Trên cuộc đời này có những mối thân tình không thể đặt tên, và cũng chẳng thể có nổi một lý do. Bản thân tôi cũng không hiểu tại sao mình có thể hết lòng với Bi đến vậy. Và cũng không hiểu tại sao Bi lại tin tưởng tôi tuyệt đối và luôn nghe lời tôi như thế. Giữa chúng tôi không chỉ là tình nghĩa quản lý- ca sĩ, là tình anh em, mà còn có một sự ràng buộc duyên nợ tình-thân-gia-đình- không-máu-mủ không giải thích được. Gắn bó với em từ lúc chỉ là cậu học trò lớp 11 cho đến giai đoạn đỉnh cao của sự nghiệp, từ lúc còn là chàng trai khỏe mạnh đến những tháng ngày chiến đấu dai dẳng với bệnh tật, và mãi mãi trở về với cát bụi, tôi tin mình là người hiểu rõ em nhất, cảm nhận được rõ ràng nhất những gì em đã trải qua trong những giai đoạn thăng trầm của cuộc đời. Tôi biết, suốt mấy năm qua, trong lòng Bi luôn cảm thấy mang nợ về những gì tôi (và bạn bè) đã làm cho em, dù tôi luôn an ủi Bi bằng một câu không thể vụng về hơn: “Kệ đi, coi như kiếp trước anh và mọi người nợ em thì kiếp này phải trả!”. Nhưng thật tình chính tôi cũng nợ em nhiều thứ. Đến lúc em ra đi, tôi vẫn còn nợ em một lời khen. Từ khi bắt đầu làm việc với nhau, mặc cho Bi nỗ lực thế nào, câu khen “rộng rãi” nhất của tôi cũng chỉ là: “Được!”. Vì tôi sợ em tự mãn. Vì tôi muốn em luôn hiểu rõ mình cần phải cố gắng hơn nữa. Tôi cũng nợ em một lời cảm ơn, vì nhờ có em, tôi phát hiện ra mình có thể làm được những điều mà bản thân luôn lo sợ mình không làm được, và có những trải nghiệm không phải ai cũng có được trong cuộc đời. Tôi còn nợ em những lời hứa, trong đó có một quyển sách kể lại những gì em đã trải qua để mọi người hiểu rõ ẩn sau nụ cười vô tư kia, em đã từng mạnh mẽ đến thế nào. Cuộc đời ai cũng từng có những nỗi đau, nhưng nỗi đau mất đi một phần máu thịt có lẽ là kinh khủng nhất. Đã dặn lòng thôi đừng khóc, nhưng có những nỗi buồn rất oái oăm, cứ tẩm ngẩm tầm ngầm bào mòn người ta bằng những hồi ức rực rỡ, những kỷ niệm chẳng thể nào phai, dù 5 năm, 10 năm hay đi trọn vẹn hết một đời người. Đã dặn lòng thôi nhớ, nhưng nhìn cảnh đó, vật đó là nỗi nhớ lại tự líu ríu dắt nhau tìm về. Những nỗi nhớ mà nước mắt cũng bất lực vì chẳng thể nào khỏa lấp được. Tôi không dám gọi những dòng ghi chép chắp vá này là tự truyện, vì lúc còn rạng rỡ giữa cuộc đời, Bi cũng nhiều lần băn khoăn: “Em có là gì đâu mà viết tự truyện?”. Những ghi chép này có cả những đoạn tôi viết lại theo lời kể của Bi, có khi lại là cảm xúc của chính tôi khi cùng san sẻ mọi biến cố trong cuộc đời em suốt mấy năm qua. Hãy xem đây là những cảm xúc mà tôi dành cho cậu- em-luôn-mỉm-cười của mình, để làm tròn lời hứa chưa kịp thực hiện. Tôi muốn dành những trang viết này cho những ai yêu quý đứa em tôi, để phần nào giải tỏa những uẩn ức của em suốt thời gian qua, và cũng để gói ghém nỗi buồn của chính mình vào từng con chữ. Để lại an nhiên bước tới… Tôi cũng muốn thay mặt WanBi và gia đình cảm ơn tất cả những ân tình mà đồng nghiệp, bạn bè và khán giả đã dành cho em suốt những năm qua. Và thành thật xin lỗi nếu những chia sẻ này vô tình khiến ai đó được nhắc đến trong hành trình cuộc đời của Bi cảm thấy phiền lòng. Dù chuyện gì đã xảy ra, thì tất cả những hỉ-nộ-ái-ố ấy cũng đã theo em đi về cát bụi… Lời cảm ơn cuối cùng, tôi muốn dành cho WanBi, cậu-em-trai-không-máu- mủ của tôi. Vì những gì em đã mang lại cho cuộc sống của tôi và mọi người. Cảm ơn nụ cười của em đã giúp tôi nhận ra rằng, ngay trong những giây phút sinh tử của cuộc đời, người ta vẫn có thể mỉm cười thanh thản để vượt qua. Và trước những nỗi đau, nụ cười còn có giá trị gấp vạn lần nước mắt…Nhà báo LÝ MINH TÙNG Quản lý Ca sĩ WanBi Tuấn AnhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tự Truyện Wanbi Tuấn Anh - Bắt Đầu Từ Một Kết Thúc PDF của tác giả Lý Minh Tùng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Sự Nghiệp Cả Cuộc Đời (A. M. Vasilevskiy)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sự Nghiệp Cả Cuộc Đời PDF của tác giả A. M. Vasilevskiy nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố - Tập 3 (Phạm Công Luận)
Sài Gòn Chuyện Đời Của Phố (Tập 3) là ấn phẩm cuối trong series Sài Gòn chuyện đời của phố, cũng là những câu chuyện về Sài Gòn với phong cách điềm đạm, nhẹ nhàng, cẩn trọng như hai tập sách trước, nhưng với mỗi câu chuyện trong Sài Gòn chuyện đời của phố 3, tác giả Phạm Công Luận vẫn mang lại sự mới mẻ và cảm giác hứng thú riêng cho người đọc bằng những tư liệu quý, sinh động, cách thể hiện mềm mại, có tính hệ thống, suốt hơn 330 trang sách. Mạch ngầm xuyên suốt mà người đọc dễ dàng nhận ra thông qua Sài Gòn Chuyện Đời Của Phố (Tập 3) vẫn là một Sài Gòn phồn hoa, rộng mở đón nhận thành phần, không phân biệt xuất thân, gốc gác. Những đặc điểm đó khúc xạ qua lăng kính và sự nhìn nhận riêng của những nhân chứng từng là người ở các tỉnh lân cận đến thành phố này. Theo tác giả: "Những người di dân đến Sài Gòn luôn phát hiện những điều thú vị mà những người sống ở đô thị này từ nhỏ đến lớn cũng không nhận ra được". Những câu chuyện trong Sài Gòn Chuyện Đời Của Phố (Tập 3), nói như cách của tác giả Phạm Công Luận là "những câu chuyện "trên bờ"của dòng lịch sử", nhưng chúng giúp cho người đọc hình dung rõ và sinh động hơn một dòng chảy lịch sử một Sài Gòn đã trôi qua. Ký ức đô thị này may mắn được truyền giữ theo cách riêng cùng với sự ra đời của cuốn sách này. Nếu đô thị không có ký ức, theo tác giả “cũng như một con người không nhớ gì về nơi mình sinh ra, lớn lên và cách mình trưởng thành ra sao. Nếu vậy, sẽ không biết cách đánh giá đúng các giá trị để chọn lọc, giữ gìn và truyền lưu". *** Phạm Công Luận sinh năm 1961 tại Sài Gòn. Tìm mua: Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố - Tập 3 TiKi Lazada Shopee Hiện làm việc tại báo Sinh Viên Việt Nam - Hoa Học Trò, cơ quan đại diện tại TP.HCM. Anh là tác giả của nhiều tựa sách best-seller, những trang viết của anh tìm được mối giao cảm với bạn đọc bằng chất suy tư của một người từng trải, và sự tinh tế, u hoài, tao nhã trong mỗi lời văn. Ông còn sử dụng bút danh khác là Phạm Lữ Ân. Tác phẩm tiêu biểu: - Những sắc màu Nhật Bản, 1998 (viết chung với Asako Kato) - Nếu biết trăm năm là hữu hạn, 2011 (bút danh Phạm Lữ Ân, đồng tác giả với Đặng Nguyễn Đông Vy) - Những lối về ấu thơ, 2011 (bút danh Phạm Lữ Ân, đồng tác giả với Đặng Nguyễn Đông Vy) - Sài Gòn - Chuyện đời của phố, 2014 (NXB Hội Nhà Văn) - Trên đường rong ruổi, 2014 (NXB Hội Nhà Văn) *** Ngôi nhà ở Lái Thiêu của Lý Thân lúc nào cũng đông khách. Từ sáng tới tối, khách ngủ lại hoặc ghé ăn cơm rồi đi. Có người ăn dầm nằm dề hàng tháng trời. Người trong xóm gọi ông Hai Vững, cha của Thân, là ông Mạnh Thường Quân, theo tích trong truyện Tàu. Ai cũng kính nể ông vì tính hào sảng, mà sống kiểu hào sảng như vậy thì tốn kém lắm, dù ai cũng biết ông Hai Vững là con của bang trưởng Triều Châu ở Lái Thiêu, giàu có và uy tín nhất vùng đất nhiều cây trái này. Lý Thân không để tâm nhiều đến vị thế gia đình, chỉ biết mình có rất nhiều ông chú không phải ruột thịt, ông nào cũng thương chú bé nhỏ nhắn con chủ nhà. Thân thường được đi chơi với mấy chú, những chuyến đi để mở mắt nhìn đời. Đáng nhớ nhất vẫn là những chuyến thăm Sài Gòn. Đó là câu chuyện trước năm 1954. Những năm đó, Lý Thân đã lang thang bao lần ở cái thành phố phồn hoa này. Người ta nói “Sài Gòn hoa lệ”. Hoa cho người giàu và nước mắt cho người nghèo. Dù sao, Thân cùng mấy chú chỉ là khách nhàn cư vãng lai nên chẳng bận tâm chi mấy chuyện đó. Tới Sài Gòn, cậu thanh niên mới lớn choáng ngợp với cảnh nhà xe nhộn nhịp, rồi dần quen và thích cuộc sống ở đây. Sài Gòn lúc đó còn thông thoáng lắm so với bây giờ, nhưng đã quá vui với chàng nhà quê. Xe cộ qua lại như mắc cửi. Xe kéo tay có người phu đội nón lá chạy chân đất thình thịch giữa trời trưa nắng. Xe ngựa kéo, bò kéo đi lóc cóc ngoài đường phố trung tâm gần chợ Bến Thành, bên chiếc xe hơi bóng loáng của mấy ông Tây. Có loại xe ngựa chuyên chở hàng, không mui, ngoài xe ngựa chở khách thanh mảnh, dáng đẹp có mui kín mít. Có cả xe kéo tay chở hàng với thùng xe rất to, vừa có càng phía trước để kéo vừa có chỗ để mấy người phía sau đẩy đi, loại xe tải bằng sức người của mấy ông Tàu đội nón cời-lối rộng vành chóp nhọn. Có những chiếc xe đẩy bán nước ngọt đóng chai. Hai bức tượng cô đầm trước Nhà hát Tây nhìn cao ráo thanh mảnh hơn tượng phục chế hiện nay. Đàn ông lịch sự bận bộ đồ bà ba trắng may bằng lụa lèo, đầu đội mũ phớt và chân mang guốc, ít thấy người bận áo dài khăn đóng trừ chỗ đám tang. Phụ nữ thời đó hay bận áo dài đen. Nhiều người thích trùm khăn trên đầu khi trời nóng, cả nam lẫn nữ, nhất là ở ngoài chợ. Hầu như không thấy mặc quần ngắn, trừ các ông Tây với quần soọc lửng.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố - Tập 3 PDF của tác giả Phạm Công Luận nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.