Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhật Ký Mang Thai - Yoko Ogawa

Một cô gái âm thầm sử dụng những quả bưởi có chất bảo quản, nấu thành mứt cho chị ăn trong suốt thời gian thai kỳ (Nhật ký mang thai). Một thầy giáo mất hai tay và một chân với những dẻ xương sườn biến dạng xiết chặt khu vực của tim và phổi, đang ẩn dật trong khu ký túc xá vắng lặng (Ký túc xá). Một người đàn ông có thể đứng hàng giờ mỗi ngày ngắm nhìn nhà ăn để chìm đắm trong mớ ký ức giằng xé (Nhà ăn buổi chiều tà và bể bơi dưới mưa)… Bản thân các nhân vật trong cuốn truyện đã hé mở những điều bất an ngay từ đầu, và tác giả không chút ngại ngần dẫn dắt độc giả bám theo những điều nghi hoặc sắp xảy đến. Với giọng văn dịu dàng mà sắc sảo, Yoko Ogawa đã thể hiện những chuyển động tâm lý tinh tế trong các nhân vật, dẫn dắt người đọc băng qua những cảm nhận về bề mặt tới sự thật hiện hữu của thế giới thực. Các nhân vật đều như tiềm ẩn thứ mầm ác được che khuất, giống như chúng ta vẫn thường bỏ qua những suy nghĩ bất chợt lóe lên bên trong. Yoko Ogawa theo đuổi những gì “không nhìn thấy được” ấy bằng thứ văn xuôi chậm rãi, khung cảnh tĩnh lặng cùng linh cảm sầu muộn về nỗi bất an sâu xa. Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp ám ảnh của Nhật ký mang thai. *** — “Yoko Ogawa là một nhà văn có thể diễn tả một ách uyển chuyển và sắc sảo những nét tâm lý khó nắm bắt nhất của con người” – Kenzaburo Oe — “Sự hư cấu của Yoko Ogawa tựa như một liều thuốc gây ảo giác nhẹ. Rất lâu sau khi đọc, câu chuyện vẫn sẽ còn đọng lại, làm thay đổi quang cảnh trước mắt bạn, khiến sự điềm nhiên của bạn lung lay, gieo vào đầu óc bạn sự nghi hoặc đối với ngay cả những người bạn thường hay gặp. Tài năng của bà vừa hé lộ vừa lưu giữ sự bí ẩn về bản chất con người” – Kathryn Harrison, tác giả của The Kiss — “Giống như tiểu thuyết gia Nhật Bản Kenzaburo Oe, những mẩu đối thoại rời rạc của Yoko Ogawa đã chạm tới niềm bất an sâu thẳm nhất trong tiềm thức cùng với sự tỉnh tại tuyệt đối” – the Pedestal Magazine. ***     Sinh năm 1962 tại tỉnh Okayama, thuở nhỏ, Ogawa say mê văn học thiếu nhi thế giới. Trong một cuộc phỏng vấn, bà từng nhắc tới các tác phẩm Không gia đình, Pippi tất dài, Ann ở Green Gables v.v. như những trước tác mà bà yêu thích nhất. Lên trung học, cuộc gặp gỡ tình cờ với Nhật ký Ann Frank đã mang lại cho Yoko một nhận thức hoàn toàn mới lạ đối với văn chương: biểu đạt thành lời nội tâm của bản thân chính là một dạng thức tự do mà con người có được. Đây có lẽ là tác phẩm có ảnh hưởng sâu nặng nhất đối với lối viết đi sâu vào những diễn biến tâm lý tinh tế của con người mà Ogawa không ngừng theo đuổi sau này. “Tôi đưa ra hết, tôi viết hết,” nhà văn đã từng nói. “Khi cuốn sách kết thúc thì không còn gì nữa, không còn gì hết”. Năm 1986, Ogawa bắt đầu viết tiểu thuyết, sau khi thôi công việc thư ký để kết hôn với một kỹ sư của một hãng luyện thép. Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của bà gồm: Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien), Nhật ký mang thai (giải Akutagawa), Giáo sư và công thức toán (giải Yomiuri), Mai táng Brahman (giải Izumi), Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki), Tình yêu bên lề, Quán trọ Hoa Diên Vỹ...Trong số các tác phẩm của Yoko Ogawa, Giáo sư và công thức toán hẳn là tiểu thuyết nồng hậu và gây xúc động nhất.  Sau đó, tiểu thuyết được chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi vào năm 2006.      Thông Tin Giải Thưởng   * 1988: Giải Kaien cho tác phẩm đầu tay, Sự phân hủy của bướm (Disintegration of the butterfly, Agehacho ga kowareru toki, 揚羽蝶が壊れる時) * 1990 Giải Akutagawa cho Nhật ký mang thai (Pregnancy Calendar, Ninshin karendaa, 妊娠 カレンダー) * 2004 Giải Yomiuri cho Giáo sư và công thức toán (The Professor and his Beloved Equation, Hakase no aishita sushiki, 博士の愛した数式; dịch sang tiếng Anh với tên The Gift of Numbers) * 2004 Giải Izumi Prize cho Tang lễ của Brahman (Burafuman no maisō, ブラフマンの埋葬) * 2006 Giải Tanizaki cho Cuộc diễu hành của Meena (Meena's March, Mīna no kōshin, ミーナの行進) Những tác phẩm của Yoko Ogawa  - Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki) - Giáo sư và công thức toán - xuất bản 2009 (giải Yomiuri) - Quán trọ hoa diên vỹ - Mai táng Brahman (giải Izumi) - Nhật ký mang thai (giải Akutagawa) - Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien) *** Đ i làm về, tôi thấy trên bàn ăn mẩu giấy anh rể nhắn lại. “Chị trở dạ. Anh đưa chị vào viện"? Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ ngắn ngủi ấy. Chiếc thìa còn dính mứt nằm chỏng chơ bên cạnh. Tôi ném nó vào trong bồn rửa bát, suy nghĩ giây lát phải làm gì tiếp theo. Tôi đọc lại mẩu giấy lần nữa rồi đi ra ngoài.Quang cảnh trước mắt toàn là nắng. Những tấm kính trước của xe ô tô và những cột nước phun lên từ đài phun nước trong công viên làm tôi lóa mắt. Tôi nhìn xuống dưới, vừa quệt mồ hôi vừa bước đi. Hai đứa trẻ đội mũ cói chạy vụt lên phía trước tôi. Cổng chính của trường tiểu học đóng kín, sân trường vắng vẻ trải rộng. Đi qua khỏi cổng trường là tới một hàng hoa nhỏ. Cả người bán lẫn người khách hàng đều chẳng thấy đâu. Trong tủ kính, mấy bó thạch thảo rung lên khe khẽ. Rẽ khỏi góc phố, cuối đường là viện M. Đúng như những gì chị nói, chỉ có thời gian ở đây là dừng lại. Hình ảnh về một bệnh viện bị gói kín trong kí ức bấy lâu hiện ra nguyên vẹn ngay trước mắt. Bên cạnh cổng là cây long não đại thụ, cửa kính mờ đục, chữ trên bảng hiệu bong gần hết. Không một bóng người, chỉ có bóng nắng của tôi in đậm trên đường. Từ đây men theo tường rào phía sau, chắc chắn có cánh cổng phụ sắp hỏng. “Hẳn là cánh cửa ấy vẫn sắp hỏng như ngày xưa", không hiểu sao tôi lại có thể hình dung rõ ràng đến thế. Chẳng sai tẹo nào, vẫn là cánh cửa bị bung mất một bên bản lề. Tôi vừa tránh để mắc áo vào đinh vừa lách mình qua khe cửa, trước mắt là khoảng sân có bãi cỏ. Khẽ đưa chân dẫm lên đám cỏ xanh được cắt tỉa gọn gàng, cảm giác xốn xang trong lồng ngực sống dậy. Tôi lấy tay ngăn mồ hôi trên trán và nhìn lên. Tất cả dãy cửa sổ bằng kính đều sáng đến lóa mắt. Tôi từ từ lại gần tòa nhà, mùi sơn từ khung cửa sổ bay thoang thoảng. Không một bóng người, không một ngọn gió, ngoài tôi ra chẳng có gì chuyển động. Không cần những thùng các tông tôi cũng có thể ngó được vào trong phòng khám. Không có cả bác sĩ lẫn y tá. Bên trong mờ tỏ như lớp học nấu ăn sau giờ tan trường. Tôi nheo mắt lần lượt xác định từng thứ một: Lọ đựng thuốc, máy đo huyết áp, bức hình hướng dẫn dẫn tư thế sửa ngôi thai, máy siêu âm. Tấm kính áp vào mặt âm ấm.Tôi mơ hồ nghe thấy tiếng trẻ sơ sinh khóc. Tiếng khóc bé nhỏ run rẩy và nghèn nghẹn vọng lại từ phía bên kia ánh mặt lấp loáng. Lắng tai nghe, tiếng khóc ấy xoáy thẳng vào màng nhĩ. Đáy tai đau nhói. Tôi đưa mắt về phía tầng ba. Một người đàn bà trong bộ đồ sản phụ đang nhìn ra xa. Những đường cong của bờ vai hắt trên tấm kính. Mái tóc xõa xượi rủ xuống trán, để lại những khoảng tối trên gương mặt xanh xao, thành ra tôi không chắc có phải là chị hay không. Người đàn bà khẽ mấp máy đôi môi thâm xám, chớp mắt. cái chớp mắt yếu đuối như lúc khóc. Khi tôi cố nheo mắt nhìn thì bị tia nắng hắt ra từ ô của kính chắn mất tầm nhìn. Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Mang Thai của tác giả Yoko Ogawa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khúc Bi Tráng Cuối Cùng
Khúc Bi Tráng Cuối Cùng là một cuốn tiểu thuyết viết về chiến dịch Tây Nguyên tháng 3 năm 1975, một sự kiện có tính bước ngoạt cho sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân đội nhân dân Việt Nam. Xuyên suốt câu chuyện là số phận và cuộc đối đầu giữa hai người từng là bạn. Giờ đây, họ cùng mang trên mình sắc áo của người lính nhưng lại chiến đấu ở hai đầu chiến tuyêtns đối nghịch nhau. Tái hiện thời khác cuộc chiến tranh diễn ra khốc liệt nhưng giọng văn vẫn cứ bình thản...nghẹt thở. Những hồi ức và thực tại được đan xen làm cho câu chuyện được gợi mở dần dần và tứ đó những mối quan hệ bạn bè, cha - con, nam - nữ đã tự bộ lộ nhiều điều nhân văn ý nghĩa. Có lẽ chính điều này đã làm cho người đọc bị lôi cuốn và ấn tượng mạnh mẽ hơn. Khúc bi tráng cuối cùng đậm chất lính nhưng không hào sảng, ngợi mà đặt cạnh niềm vui ngày chiến thắng là những đau thương mất mát đề người đọc chúng ta thấy được một góc cạnh chân thực của chiến tranh. Và chính vì có cái nhìn toàn diện và chân thực đến vậy cho nên tác phẩm của Chu Kai bao giờ cũng để lại nỗi ám ảnh day dứt trong từng câu chữ. *** Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Cũng mùa này, xuôi về phương nam chừng hai ngàn cây số đất trời lại oi nồng quá thể! Sài Gòn. Mấy tuần nay không hiểu sao cái thành phố vốn đã ngột ngạt như cái nồi hơi này lại càng trở nên nóng bức bởi những tin tức chính thức và cả không chính thức từ đâu đó dội về bởi một điều gì đó như sắp có giông có bão, sắp có sự đánh lớn của hai bên, rất lớn, lớn nhất từ trước đến nay. Rồi bởi cả những sắc lính đủ loại võ phục đen đỏ trắng vàng chẳng rõ từ đâu trảy về đen kín, những đoàn xe quân sự hùng hổ với súng ống hườm hườm phóng qua phóng lại, làm cuốn bụi ban ngày, làm rách nát bóng đêm rồi tất tưởi cắn đuôi nhau lao về các vùng chiến thuật. Ngay cả tiếng rao mằn thắn bán rong của ông già người ba Tàu vốn đã trở thành quen thuộc dưới đường kia mà sao đêm nay cũng bỗng trở nên day dứt, buồn buồn như thể có điều gì bất ổn mơ hồ ở đâu đây sắp xảy ra. Giữa cảnh sắc ấy, vẻ u trầm, tĩnh mịch của một ngôi nhà được kiến trúc khá đẹp nằm sâu trong một ngõ nhỏ nhưng lại nằm khá sát dòng sông Sài Gòn với vòm hoa giấy hai màu đỏ trắng phủ kín mái cổng đã nổi lên như một nét lạ, độc đáo. Càng lạ và độc đáo hơn khi lấp ló trong màu hoa tươi rói đó là tấm bảng đồng với bốn chữ khắc sâu hiện lên vừa kiêu hãnh vừa duyên dáng khiến không ít ai qua lại không ngước mắt lên nhìn để rồi đành đánh rơi một chút bâng quơ trên miệng cười: “ Biệt thự Huyền Trang”. Ngôi biệt thự lúc này vắng tanh. Vắng đến nỗi nó dường như tách hẳn ra khỏi cái khung cảnh của một thành phố ăn chơi và có nhịp sống cuồng nộ vào loại bậc nhất Đông nam á này. Ngoài sân sỏi chỉ có một chú chó không biết giống gì mà to cao, kềnh càng qúa cỡ đang ngồi thè lưỡi ghầm ghừ vào hư vô. Trên gác, trong một căn phòng nhỏ được trang trí thanh nhã, bất cứ vật dụng gì cũng chứa chất cái hương vị đàn bà thoang thoảng, một thiếu phụ trên bốn mươi tuổi, đẹp sang trọng và uẩn buồn đang ngồi thầm lặng thả cái nhìn xa vắng qua khung cửa sổ ra khoảnh vườn xum xuê cây lá. Giữa lúc đó ở dưới đường, một chiếc Zeep lặng lẽ bon đến với tốc độ vừa phải rồi dừng nhẹ trước cổng. Một viên sĩ quan bước xuống, ráng chiều soi tỏ đôi quân hàm đại tá ba bông mai vàng gắn ngay ngắn trên ve áo. Đó là một người đàn ông trung niên, bộ võ phục không làm mất đi được vẻ nho nhã, trí thức, và bằng vào thái độ tự nhiên khi mở cánh cổng, khoan thai đi qua sân, gật đầu chào thân mật một ông già vận đồ bà ba nâu đang cầm cây kéo tỉa lá từ mảnh vườn sau đi ra, âu yếm vuốt ve chú chó đang mừng rỡ ngoáy tít đuôi, anh có vẻ là người thân thiết trong gia đình. Thiếu phụ nhìn xuống, mắt chợt ấm sáng. Đại tá theo cầu thang gỗ đi lên, đến trước thiếu phụ, anh khẽ nghiêng người, mỉm cười bỏ mũ, dáng khiêm nhường, kiểu cách của một sĩ quan cổ điển: - Tôi có việc phải ra Trung, tiện ghé thăm chị. ... Mời các bạn đón đọc Khúc Bi Tráng Cuối Cùng của tác giả Chu Lai.
Hãy Đi Đặt Người Canh Gác
Xuất bản sau "Giết con chim nhại" nhiều năm nhưng thực chất "Hãy đi đặt người canh gác" mới là tác phẩm đầu tay của Harper Lee. Tháng 2/2015, Haper Lee chia sẻ với độc giả: “Vào giữa thập kỷ 1950, tôi hoàn thành một cuốn tiểu thuyết có tên Hãy đi đặt người canh gác. Trong đó xuất hiện nhân vật vẫn được biết đến dưới tên Scout, nay đã là một phụ nữ trưởng thành, và tôi nghĩ đó cũng là một sản phẩm khá tử tế. Biên tập viên của tôi thích thú với những đoạn hồi tưởng về thời ấu thơ của Scout, đã thuyết phục tôi viết một cuốn tiểu thuyết từ điểm nhìn của Scout hồi nhỏ. Tôi mới là một nhà văn tập sự, nên đã làm theo lời chỉ bảo. Tôi không hề biết cuốn sách ấy vẫn còn đến nay, và vừa ngạc nhiên vừa vui sướng khi bạn thân, luật sư của tôi là Tonja Carter phát hiện ra nó. Sau nhiều đắn đo suy nghĩ tôi đã đưa vài người tin cậy xem cuốn sách, và rất vui lòng được biết họ coi cuốn sách này đủ tư cách xuất bản. Tôi vừa hân hạnh, vừa kinh ngạc rằng cuốn sách này sắp được xuất bản sau bấy nhiêu năm." Với những nhân vật và bối cảnh quen thuộc, Hãy đi đặt người canh gác được kể từ góc nhìn của Jean Louise đã trưởng thành. Bên cạnh những bài học về thấu cảm và khoan dung như trong Giết con chim nhại, cuốn sách còn là hành trình phân định trắng – đen, tìm đường đi giữa những đúng sai trong một xã hội của những giá trị đối đầu.   Jean Louise Finch, một cô gái 26 tuổi sinh sống và làm việc tại New York, về thăm nhà tại Maycomb, một thị trấn nhỏ miền Nam nước Mỹ. Chờ đợi cô ở nhà là những người thân thuộc: Atticus, người bố luật sư đã về già hiện đang mắc bệnh, bác gái Alexandra với những quan điểm cổ hủ về đạo đức, và Henry Clinton, phụ tá cho Atticus, cũng là người bạn ấu thơ và người theo đuổi cô bấy lâu nay. Nhưng điều cô không ngờ đến là mâu thuẫn của thập kỷ ấy – phong trào đòi quyền công dân, bình đẳng cho người da đen – đã ngóc đầu dậy trong chính gia đình mình và khiến những người thân chợt trở nên xa lạ. Khi những tấm gương anh hùng thơ ấu của cô vai kề vai với những kẻ thù ghét “mọi đen”, cổ xúy phân biệt chủng tộc, Jean Louise sẽ phải nghĩ và làm gì? Hoàn thiện bản thảo vào năm 1957, cuốn sách là sự phản ứng trực diện trước những sự kiện đã gây sóng gió trong xã hội Mỹ thời bấy giờ: phán quyết của Tòa án tối cao Mỹ trong vụ Oliver Brown cùng các phụ huynh kiện Hội đồng giáo dục của thành phố Topeka, Kansas, kết luận luật các bang cho phép phân cách màu da ở các trường công là vi hiến (17/5/1954). Phán quyết này được coi là một bước ngoặt trong phong trào đấu tranh của người da đen, nhưng trái lại, khiến một bộ phận lớn người da trắng, đặc biệt là ở các bang cực Nam, phản ứng mãnh liệt. Sự ra đời các Hội đồng Công dân bảo vệ “quyền của người da trắng”, mà mô hình đầu tiên thành lập vào 11/7/1954, là một nội dung quan trọng trong tác phẩm đã khắc họa rất xác thực tư tưởng và ngôn ngữ kỳ thị người da màu. Hãy đi đặt người canh gác là bản thảo tiểu thuyết đầu tay mà Harper Lee gửi đi các nhà xuất bản vào năm 1957. Biên tập viên Tay Hohoff ở J. B. Lippincott & Co. đã nhìn thấy tiềm năng của bản thảo, nhất là trong một đoạn hồi ức thơ ấu của Jean Louise, và đã làm việc sát sao với Harper Lee để phát triển đoạn hồi ức này thành hẳn một câu chuyện mới. Sau ba năm, cuốn sách mới với cái tên Giết con chim nhại được xuất bản (1960) và nhanh chóng thành công vang dội, trở thành tác phẩm kinh điển của văn học Mỹ hiện đại, nhưng tiểu thuyết ban đầu bị coi là đã mất. Khi bản thảo của bà được tìm lại vào năm 2014, thông tin ấy đã gây xôn xao làng xuất bản thế giới. Phát hành ngày 14/7/2015, Hãy đi đặt người canh gác đã đứng đầu các bảng xếp hạng sách bán chạy suốt 3 tháng trước đó. Trong vòng một tuần, sách bán được 1,1 triệu bản ở Mỹ và Canada (cả sách in, sách điện tử và sách tiếng). Hình tượng mới về Atticus và Jean Louise cùng tranh cãi xung quanh việc phát hiện bản thảo tiểu thuyết đã làm dấy lên những bàn luận sôi nổi về sự chủ động của tác giả, về quá trình biên tập, và về cách hiểu nhân vật cũng như các tình tiết trong cuốn sách.   Trong Hãy đi đặt người canh gác, bạn đọc vẫn dễ dàng nhận thấy văn phong sắc sảo và sự đôn hậu đặc thù của Harper Lee. Lối kể chuyện hấp dẫn cùng tài nắm bắt đặc trưng của nhân vật hay cảnh vật chỉ qua một vài chi tiết chọn lọc của bà cũng được phát huy trong cuốn sách này. Tuy nhiên, ở Giết con chim nhại, người đọc được tiếp nhận một bài học đạo đức tương đối thuần khiết và trực tiếp. Còn trong Hãy đi đặt người canh gác, tác giả đã chuyển sang cuộc hành trình tìm kiếm bản thân của Jean Louise đang trưởng thành, khi trí óc phê phán của cô không chỉ nhằm vào xã hội mà vào cả bản thân mình, trên đường đi tìm một “người canh gác” cho bản thân. Trên tất thảy, cuốn tiểu thuyết mới là một cơ hội tuyệt vời cho người đọc làm quen và đánh giá lại Harper Lee, vượt ra ngoài hình dung về một “nhà văn viết cho thiếu nhi” tài năng như chúng ta từng được biết. *** “Một tác phẩm mới, một khoái cảm cho người đọc, một cuộc thiên khải, một sự kiện văn học thực sự” • THE GUARDIAN “Tiểu thuyết thứ hai của Harper Lee còn rọi sáng những vấn đề của thế giới chúng ta hơn nhiều cuốn trước.” • TIME “Như Faulkner thường nói, những câu chuyện hay duy nhất là những câu chuyện kể về trái tim con người mâu thuẫn với chính nó. Và đấy chính là lời miêu tả đích đáng cho Hãy đi đặt người canh gác.” • DAILY BEAST “Một trong những điểm chính mà mọi nhà phê bình đều đồng thuận, đó là cả người viết và người đọc đều có rất nhiều điều để học từ cuốn sách này.” • YULTURE *** Hiếm có tác giả nào như Harper Lee sống kín đáo và gần suốt cuộc đời chỉ xuất bản duy nhất một tác phẩm, nhưng đã đứng vào hàng tác phẩm được yêu mến nhất. Với Giết Con Chim Nhại, Harper Lee không chỉ có được giải Pulitzer và Huy chương tự do mà còn danh tiếng và lòng ngưỡng mộ của bạn đọc toàn cầu. Năm 2015, người đọc vui mừng được biết tới sự tồn tại của bản thảo Hãy Đi Đặt Người Canh Gác, tiền thân của Giết Con Chim Nhại. Đây không chỉ là dịp cho chúng ta lần nữa thưởng thức văn phong sắc sảo ý nhị đặc trưng và mãnh lực đạo đức của bà, mà còn là cơ hội hiếm có để hiểu về sự hình thành tác phẩm và công việc nhà văn. “Nước mỹ những năm 1950, làn sóng đòi quyền bình đẳng cho người da đen đang dâng trào cả nước. Trong vài tiểu bang miền Nam, người da trắng tập hợp để bảo vệ cái mà họ coi là bản sắc bị tước đoạt của mình… Trở về thăm nhà như lệ thường, Jean Louise Finch không ngờ mình sắp bước chân vào giữa cuộc chiến tư tưởng của thập kỷ. Cô sẽ ngỡ ngàng thấy người cha Atticus, vị anh hùng vì lẽ công bình của cô thuở bé, dường như đã đổi màu niềm tin; người thân, bạn bè lâu năm bỗng dưng trở nên xa lạ; thị trấn Maycomb quê hương và chính cô không còn nhận ra nhau. Công lý ở đâu, đúng sai là gì? Khi thành trì lương tâm tuổi thơ cô đã vụn vỡ từng viên đá một, Jean Louise bắt đầu đi tìm một sự thật của riêng mình.” Câu chuyện cổ tích trong Giết Con Chim Nhại đã nhuốm một màu sắc khác khi nhân vật đột ngột thức tỉnh trong “thế giới nơi ta là người lớn.” Trưởng thành hơn, day dứt hơn, tuy vẫn với chất uy mua[1] hồn hậu ấy, Hãy Đi Đặt Người Canh Gác càng thêm sắc bén với những người đọc thế kỷ 21, khi đang khẩn thiết đặt ra hơn bao giờ hết câu hỏi về khác biệt và khoan dung giữa người với người. Nhã Nam Mời các bạn đón đọc Hãy Đi Đặt Người Canh Gác của tác giả Harper Lee.
Đừng Để Chim Sẻ Non Gục Ngã
Từ lúc 16 tuổi Mary Bridget đã bỏ nhà ra đi cùng với Jonah làm nghề sản xuất và bán thuốc phiện. Nhưng, cuộc sống luôn bị cảnh sát truy đuổi, không ổn định, lại thêm mặc cảm tội lỗi với bà ngoại, với mẹ đã khiến Bridget quyết định tìm cơ hội ra đi. Những tưởng cuộc sống của cô sẽ tốt đẹp hơn ở một xứ sở khác, nào ngờ số tiền lấy được của Jonah đã bị đánh cắp. Cô trở nên trắng tay. Sau đó, cô đón chuyến xe tới thành phố Alexandria. Cô xin vào làm ở một cửa hàng thực phẩm với vị trí thu ngân. Rồi mọi chuyện thay đổi, khi một lần đi lễ trong nhà thờ Knox Presbyterian, cô bắt gặp những mẩu giấy cầu nguyện đức Chúa trời một cách khẩn thiết của một cô bé có gương mặt sầu não, đáng thương. Cô bé ấy chính là Samantha, nhà ở gần nhà thờ Knox Presbyterian. Cô bé có 3 người cô - hai người thì hay cáu gắt, bảo thủ; người còn lại thì hiền hậu, nhân từ. Cả 3 người đều là khách hàng thân thiết ở cửa hàng Bridget bán. Và một người cha - Alasdair Mac Pherson - là một người thuyết giảng trong nhà thờ. Alasdair có một diễn biến tâm lý bất thường từ sau khi vợ ông chết để lại cho ông 3 đứa con dại. Vì lẽ đó mà Samantha bị ảnh hưởng những sự cố ấy. Sự có mặt của Bridget trong vai trò là một cô giữ trẻ nhưng đã dần dần làm gia đình Mac Pherson có nhiều thay đổi, từ cách trang trí nhà cửa, các món ăn nhất định từ trước đến cách nhìn và suy nghĩ của cả những con người, trong đó có Samantha và nhất là Alasdair. Ông đã tìm thấy ở cô gái này một sự chia sẻ, cảm thông. Để rồi chính Bridget cũng không ngờ, cuộc đời nàng giờ đây có nhiều niềm vui và hạnh phúc trong một gia đình ấm cúng... *** Bà Hattie không biết chính xác bà đang cầu nguyện cho cái gì hoặc cho ai. Bà chỉ biết có cái gì đó đánh thức bà dậy, nó tựa như một cơn đau quặn thắt trong lồng ngực. Nếu là trước đây, chắc có lẽ bà sẽ bỏ qua và đi ngủ tiếp. Bà sẽ nghĩ chắc mình ăn phải cái gì đó làm cho bụng lộn xộn, hoặc giả bà đã có kinh nghiệm hơn rồi. Sau hơn 80 năm lắng nghe lời phán truyền của Chúa Trời, cuối cùng bà cũng quen với cách thức Chúa Trời phán bảo: Bà thì thầm: - Lạy chúa, có ai đó đang gặp rắc rối. Ngài biết đó là ai mà, Ngài biết họ cần gì mà. Bà tiếp tục cầu nguyện mãi cho đến khi bà cảm thấy tâm hồn mình thanh thản hơn thì cũng là lúc những ánh nắng yếu ớt của mùa đông xuyên qua những khe cửa và nằm vắt ngang trên giường của bà. Bà nghe tiếng loảng xoảng ở hướng nhà bếp rồi có tiếng kẹt cửa mở và tiếng cánh cửa đóng lại. - Bà Hattie là cháu đây. - Xin chào Martha - Bà Hattie đáp lời. Bà nghe những tấm gỗ lát sàn kêu két kẹt và bà thầm dõi theo những cử động của Martha trong tâm trí. Bà nghe tiếng Martha treo áo khoác, rồi nghe tiếng kim loại va vào nhau, đó là tiếng mở nắp bếp ga, sau đó là tiếng mấy tờ báo theo gió bay loạt xoạt và tiếng nồi kim loại đặt lên bếp khi Martha vừa bật bếp xong. Rồi sau đó nhiều hình ảnh tưởng tượng nữa, khuôn mặt Martha tươi cười hiện ra. Gò má của Martha cao như được tạc từ một tảng đá màu sậm. Khóe môi cô cong lên trong một nụ cười rạng rỡ. Cô gái xinh tươi và thông minh đủ để kiếm được một vị trí xứng đáng trong thế giới rộng lớn ngoài kia, và rất có thể làm nên chuyện thay vì cứ phải chăm sóc một bà lão già yếu. Bà Hattie tự hỏi liệu Martha có hài lòng khi đến nhà bà làm nhiệm vụ chăm sóc người ốm. Bà không bao giờ hỏi cô vì bà sợ mình sẽ là kẻ vẽ đường cho hươu chạy, để rồi một buổi sáng nào đó, một cô hộ lý đúng nghĩa sẽ suất hiện ở cửa thay vì Martha một người bạn tâm tình. Martha giúp bà Hattie mặc quần áo, đỡ bà lên xe lăn và đẩy bà ra ngoài nhà bếp và để cho xe ngay ngắn ngay trước bàn ăn. Bà Hattie nhìn Martha đi lại trong nhà bếp chuẩn bị bữa điểm tâm cho cả hai người. Cô gái đang hát, cũng như mọi khi thôi, bài hát hôm nay có tên Chúa Trời Luôn Dõi Mắt Đến Những Sinh Linh Nhỏ Bé Nhất. Cô gái chiên xúc xích rồi xúc mấy lon bột mỳ bỏ vào cái tô chuẩn bị nhào bột. - Ngày hôm nay chúng ta sẽ ăn bánh bột ngô thay vì ăn bánh biscuit như mọi khi, bà Hattie ạ. Tất nhiên là nếu bà cũng thích món này. - Thế thì ngon lắm. Bà Hattie trả lời, nhưng chỉ có một nửa tâm trí của bà là nghĩ tới nên ăn món gì. Còn nửa kia bà nghĩ tới những linh cảm đã đánh thức bà trong đêm tối. Bà nhắm mắt lại, những lời cầu xin từ tận đáy lòng thốt ra theo làn môi của bà. - Thưa Đức Chúa cha, kẻ thù muốn tiêu diệt một trong những đứa con của Người. Sinh linh nhỏ bé và tội nghiệp ấy đang đau khổ. Không ai có thể cứu giúp nó ngoài sự giúp đỡ của người! Bà nghe tiếng vỏ trứng đập vào cạnh chảo rồi nghe tiếng xèo xèo của trứng chiên trong mỡ nóng. Đứng cạnh bếp ga, Martha cũng kêu lên: - Xin hãy cho chúng con thấy quyền năng thiêng liêng của Người. Xin hãy cứu sinh linh nhỏ bé đang gặp nạn của Người. Bà Hattie mở bừng mắt. Martha lật trứng bỏ vào đĩa, mở lò nướng và mang bánh bột ngô đặt ra bàn. Hai người phụ nữ ngồi vào bàn cùng với cà phê nóng và bữa điểm tâm trước mặt họ. Mời các bạn đón đọc Đừng Để Chim Sẻ Non Gục Ngã của tác giả Linda Nichols.
Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân
Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh đã cho ấn hành một trong những tác phẩm nổi tiếng của Pearl Buck đã được trao giải Nobel Văn Chương năm 1938 với tựa đề: Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Đã qua nửa đêm... Lương phu nhân hạ bút và gấp sổ thu chi lại. Ngôi nhà hoàn toàn im vắng. Tại tầng dưới, trong nhà hàng chỉ còn thưa thớt một vài thực khách đang ngồi nán lại. Ba xô ghế đứng dậy, chiếc ghế bành lớn bằng gỗ gụ, cùng bộ với cái bàn viết kiểu Trung Hoa nặng nề mà bà đã thừa hưởng của thân phụ, và mang từ quê nhà, tại một tỉnh xa đến đây. Bà đến bên cửa sổ, nhưng không vén mơ cánh rèm xa tanh màu đỏ. Mặc dầu được sống yên ổn, với tư cách là chủ nhân một nhà hàng đẹp nhất trong các khu tân tiến ở thành phố Thượng Hải, bà cũng không dại gì để bóng dáng mình in lên khuôn kính một căn phòng sáng trưng ánh đèn. Nào ai biết được kẻ thù đang ẩn nấp nơi đâu. Thiếu gì kẻ thấy bà nổi tiếng rồi ghen ghét. Chẳng ai biết bà đã xoay sở cách nào, để hàng ngày vẫn cung cấp được những món ăn thật đặc biệt, cho khách hàng là các nhân vật quan trọng trong chính giới, các đại thương gia tỷ phú, và các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Hầu hết họ là bạn thân của bà. Bà ung dung đi đi lại lại trong nhà hàng, bề ngoài xem như chẳng quan tâm gì đến các sự lộn xộn chính trị. Chắc có nhiều kẻ ghen ghét, hậm hực với bà. Vì thế bà không vén rèm, mà chỉ luồn người ra ngoài để hé mở cửa sổ. Trong bầu không khí ấm áp của một buổi tối đầu hè, hương hoa nhài bay lên thoang thoảng. Ngôi nhà của bà trước kia là của một gia đình người Mỹ giàu có, bạn thân của bà. Sau khi có cuộc sung công các nghiệp vụ xuất nhập cảng tại Trung Hoa, gia đình này đã phải trở về nước. Lương phu nhân đã mua lại ngôi nhà này, cùng các khu vườn trong tô giới Anh cũ. Có rất nhiều người Mỹ cư ngụ trong tô giới Pháp và Anh, vì họ không có tô giới riêng. Trước khi Hồng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Lương phu nhân có nhiều bạn hữu trong đám người Mỹ này, vì vậy bà đã gởi ba ái nữ sang Hoa Kỳ du học. Giờ đây, dĩ nhiên là không còn một người Mỹ nào tại Trung quốc, nên cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa, lớn lên mà chẳng biết mặt một người Mỹ nào, cũng như chẳng được nghe đến một tiếng Anh nào. Họ chỉ được nghe tiếng nói của hận thù đối với một dân tộc, mà riêng bà lại thấy là ít đáng hận thù hơn các người Tây phương khác. Người Mỹ là những người da trắng duy nhất không tàn ác, không cướp đất của người Trung Hoa. Bà thở dài nghĩ đến cái gia đình đầm ấm xưa kia đã cư ngụ dưới mái nhà này: Ông bà Brandon và năm người con. Họ yêu quí nước Trung Hoa biết dường nào. Họ yêu quí nước này đến nỗi đồ đạc trong nhà hoàn toàn theo kiểu Trung Quốc, với những bức tranh thủy mặc treo trên tường. Họ đã phải hấp tấp lìa bỏ tất cả, và Lương phu nhân đã lén bước sang nhà họ để tiễn chào vĩnh biệt. Bà Brandon đã tựa vào vai bà, khóc nức nở: - Ba Lương ơi: Sau này họ có cho chúng tôi trở lại nữa không? Bà xiết chặt người đàn bà Mỹ trong vòng tay mà chẳng trả lời. Làm sao ba có thể trả lời được rằng: “Bà sẽ không bao giờ được trở lại nữa”. Bởi vậy, tốt hơn là bà lặng thinh, và năm tháng cứ trôi qua trong khi đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng bà đã gởi mấy cô con gái của bà sang Hoa Kỳ sống với gia đình Brandon, và thỉnh thoảng... Mời các bạn đón đọc Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân của tác giả Pearl S. Buck.