Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khói Lửa

Henri Bacbuyxơ (Henri Barbusse, 1873 – 1935) là một nhà văn cách mạng lớn đã đặt nền móng cho phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Pháp. Ông là một chiến sĩ cộng sản kiên quyết bênh vực những kẻ bị áp bức bóc lột, dũng cảm đấu tranh cho tự do và tiến bộ. Hội nhà văn quốc tế đánh giá ông là “người chiến sĩ phản đối chiến tranh đế quốc đầu tiên và lớn nhất trong văn học thế giới”. Và G. Đimitrôp viết: “Tên tuổi của H. Bacbuyxơ sẽ chói lòa trên những lá cờ của hàng triệu người đấu tranh chống lại thế giới cũ, thế giới của sự bóc lột, của sự nô lệ và của những cuộc chiến tranh ăn cướp”.[1]   Henri Bacbuyxơ sinh ngày 17 tháng 5 năm 1873 tại Axnierơ (quận Xen) nước Pháp. Cha ông, Anđriên Bacbuyxơ, là một nhà viết báo và viết kịch. Mẹ, Eni Benxơ, là con một chủ trại ấp người Anh. Bà mẹ chết lúc Bacbuyxơ mới lên ba tuổi.   Lúc còn là học sinh, Bacbuyxơ đã tỏ ra có biệt tài về văn thơ. Năm 1895, sau khi tốt nghiệp đại học, ông chính thức bước vào nghề viết văn, làm báo. Cũng chính năm đó, ông cho xuất bản tập thơ đầu tay, một tập thơ được Catuylơ Mendet (một nhà thơ Pháp nổi tiếng đương thời) hết sức ca ngợi.   Năm 1903, Bacbuyxơ viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Những người van xin (Les suppliants) và năm 1908 viết cuốn Địa ngục (L’Enfer). Hai cuốn này được các nhà văn Mateclink và Anatôn Franxơ coi là những tác phẩm lớn của một nhà văn có thiên tài.   Trong giai đoạn sáng tác này, Bacbuyxơ đã bắt đầu đi theo phương hướng hiện thực chủ nghĩa, nhưng mãi đến những năm chiến tranh 1914 – 1918, ông mới thực sự bước vào con đường sự nghiệp của một nhà văn và nhà chiến sĩ cách mạng.   Ngày 19 tháng 7 năm 1914, cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Nguyên nhân chủ yếu của cuộc chiến tranh này là những mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt là mâu thuẫn giữa bọn đế quốc Anh và đế quốc Đức. Với mục đích đòi chia lại thị trường thế giới, ngay trong những năm 1879 – 1882 Đức đã liên minh với Áo, Hung và Ý nhằm chống lại Nga, Pháp và Anh. Và từ đầu thế kỷ XX, ở châu Âu đã dần dần thành hình hai phe đối địch. Cuộc chiến tranh thế giới năm 1914 đã lôi cuốn 28 nước với số dân trên một tỷ rưỡi, và có đến 74 triệu người bị động viên.   Lúc đó, Henri Bacbuyxơ đã ngoài bốn mươi, đã quá tuổi tòng quân. Nhưng dù tuổi cao, sức yếu, ông vẫn tình nguyện gia nhập quân đội. Ông vào quân đội không phải để phiêu lưu, mạo hiểm mà là để làm bổn phận đối với tổ quốc và nhìn cho rõ thực chất ghê tởm của chiến tranh đế quốc, đặng vạch trần nó, góp phần tiêu diệt nó. Tháng chạp năm 1914, ông được điều ra mặt trận với trung đoàn bộ binh 231, sống với một tiểu đội mà ông đã mô tả sâu sắc trong tác phẩm Khói lửa (Le Feu) bất hủ.   Sau những ngày lăn lộn ở chiến hào, sát cạnh những người lính bình thường, hàng ngày đụng đầu với gian khổ, khủng khiếp và chết chóc, Bacbuyxơ mang về hậu phương một quyển sổ ghi chép bết bùn. Từ quyển sổ tầm thường ấy, bắt đầu từ cuối năm 1915 và sau 6 tháng, Khói lửa ra đời.   Từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1916, Khói lửa được đăng dần trên báo Sự nghiệp, (Œuvre), bị kiểm duyệt cắt mất nhiều chỗ, và năm 1917, được xuất bản thành sách. Ngay từ lúc đầu, độc giả đã nhiệt liệt hoan nghênh, mặc dầu những công kích của bọn sô vanh chủ nghĩa. Tác phẩm đoạt giải thưởng Gôncua (Goncourt) và đến nay đã được dịch ra trên sáu mươi thứ tiếng.   Sau Khói lửa, cuốn Ánh sáng (Clarté), ra đời năm 1919, là một tác phẩm khác nổi tiếng của Bacbuyxơ. Ánh sáng có thể được coi là tiếng lòng của tác giả và của cả một lớp người trẻ tuổi đáp lại tiếng vọng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga. Viết Ánh sáng, H. Bacbuyxơ đã gửi vào đấy một mối hy vọng: Từ cảnh chết chóc của chiến tranh, do sức mạnh của quần chúng, một thế giới mới sẽ ra đời, trong đó con người được nảy nở toàn diện và cuộc sống thật là tốt đẹp.   Từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, Bacbuyxơ càng ra sức hoạt động chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Ông đã thành lập Hội cựu binh và thương binh ở Pháp (năm 1919) và Tổ chức cứu tế của Cựu binh sĩ (năm 1920). Cũng năm 1920, cùng với Raymôn Lơfevrơ (Raymond Lefevre) và Pôn Vayăng Cutuyriê (Paul Vaillant Couturier), ông sáng lập tạp chí Ánh sáng, cơ quan của nhóm Ánh sáng, một nhóm còn có tên là Tổ chức quốc tế của tri thức. Trong những năm đầu, tạp chí Ánh sáng đã có ảnh hưởng khá lớn, được sự cộng tác của các nhà trí thức tiến bộ toàn thế giới.   Từ năm 1917, trong những bài báo và diễn văn của mình, Bacbuyxơ luôn luôn lên tiếng ca ngợi Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa cộng sản. Đến năm 1923, giữa lúc chính phủ phản động Pháp ráo riết đàn áp phong trào của giai cấp công nhân, lùng bắt các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản, Henri Bacbuyxơ đã chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Ông tuyên bố: “Tôi đã lấy tư tưởng của họ làm tư tưởng của tôi thì ngày nay tôi phải chịu đựng những gian nguy mà họ phải chịu”.   Dưới lá cờ của Đảng, H. Bacbuyxơ càng có thêm nhiệt tình và phương hướng đúng đắn đấu tranh cho chân lý, cho sự nghiệp giải phóng những người bị áp bức bóc lột. Tiếng nói chính nghĩa của ông đã không ngớt vang lên tố cáo mọi bất công và tàn bạo. Năm 1925, ông đã kêu gọi chống chiến tranh xâm lược Marôc. Khi bọn thống trị ở Bancăng tiến hành khủng bố trắng đối với nhân dân vùng này, ông đã sang tận nơi điều tra, đã thành lập những ủy ban bảo vệ nhân dân của cuộc khủng bố và lúc về nước Pháp, đã viết bản tố cáo đanh thép Những tên đao phủ (Les bourreaux) (1925).   Cạnh những hoạt động chính trị có ý nghĩa lớn đó, Bacbuyxơ vẫn hăng say tiếp tục sự nghiệp văn học của mình, một sự nghiệp văn học tích cực phục vụ hoạt động chính trị chân chính. Năm 1925, ông cho xuất bản cuốn Những sự trói buộc (Enchainements) một cuốn sách vạch trần nguyên nhân đầu tiên của mọi tội lỗi: nạn người bóc lột người.   Năm 1926, cuốn Sức mạnh (Force), tập truyện ngắn, và năm 1927, cuốn Jêdu (Jésus) của ông ra đời. Cũng trong năm 1927, Bacbuyxơ đã đi thăm Liên-xô, và ở Mạc-tư-khoa, ông đã tham dự vào việc thành lập Tổ chức quốc tế của các nhà văn cách mạng, mà sau này ông là một trong những người lãnh đạo. Khi trở về Pháp, ông đã viết cuốn Đây, người ta đã làm gì cho xứ Georgi (Voici ce qu’on a fait de la Géorgie) (1927). Năm 1928, Bacbuyxơ sáng lập tờ tuần báo Thế giới (Le monde). Tờ báo được coi như là một công cụ để giải phóng trí thức và là cơ quan liên lạc của những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa.   Năm 1932, Bacbuyxơ viết tác phẩm Đời Zôla (La vie de Zola). Trong công trình lịch sử và phê bình văn học này ông đã vạch rõ tác dụng tích cực và những hạn chế của Zôla và của chủ nghĩa tự nhiên trong văn học. Ông cũng đã trình bày tính chất và nhiệm vụ của văn học là phải thật sự hiện thực và phải phục vụ cho sự nghiệp giải phóng con người.   Trong những năm cuối cùng của đời mình, Bacbuyxơ đã ra sức chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh đang đe dọa thế giới, mặc dầu sức khỏe của ông ngày càng giảm sút. Ông đã tham dự và lãnh đạo nhiều cuộc hội nghị quốc tế chống chiến tranh và chủ nghĩa phát xít. Năm 1933, ông đã sang tận nước Mỹ nói chuyện trước nhiều cuộc mít-tinh và thành lập Liên đoàn chống chiến tranh và chủ nghĩa phát xít ở châu Mỹ.   Xtalin một thế giới mới nhìn qua một con người (Staline, un monde nouveau vu à travers un homme) ra đời năm 1935, là tác phẩm cuối cùng của đời ông. Trong cuốn sách này, ông đã hết lòng ca ngợi ý chí, tài năng của Xtalin, người đồng chí, người bạn và người kế nghiệp của Lênin.   Tháng 7 năm 1935, nhận lời mời của các nhà văn Xô-viết, ông lại sang thăm Liên-xô và đã tham dự Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế cộng sản. Lúc này, thân thể ông đã suy nhược, lại bị bệnh sưng phổi, nên ngày 30 tháng 8 năm 1935, ông đã từ trần tại Mạc-tư-khoa.   Nhân dân Pháp, nhân dân Liên-xô và nhân dân thế giới hết sức thương tiếc Henri Bacbuyxơ. Suốt trong ba ngày, nhân dân thành phố Mạc-tư-khoa liên tục diễu qua trước linh cữu ông. Sau đó, linh cữu ông được đưa về Pháp và ngày 7 tháng 9 tang lễ đã được cử hành trọng thể ở Pa-ri.   Đối với Việt Nam chúng ta, thân thế và sự nghiệp văn học của Henri Bacbuyxơ đã có ảnh hưởng lớn đến các nhà văn và các nhà hoạt động cách mạng ngay trong những năm trước Cách mạng tháng Tám. Bacbuyxơ đã nghiêm khắc lên án chế độ thuộc địa vô cùng tàn bạo của thực dân Pháp. Đã từ lâu, báo chí Việt Nam đã có những bài giới thiệu H. Bacbuyxơ như một nhà văn dùng nghệ thuật của mình để phục vụ nhân dân, phục vụ chân lý, phục vụ chủ nghĩa xã hội.[2]   Khói lửa mà Henri Bacbuyxơ gọi là “Nhật ký của một tiểu đội” và đề tặng hương hồn những bạn đồng đội đã hy sinh bên cạnh mình ở Cruy và trên sườn đồi 119, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng không những trong sự nghiệp sáng tác của Bacbuyxơ mà cả trong nền văn học hiện đại Pháp.   Có thể khẳng định rằng giá trị chủ yếu của Khói lửa là ở chỗ đã chống đối mãnh liệt chiến tranh đế quốc. Annet Viđan (Annette Vidal), nữ thư ký của H. Bacbuyxơ, đã từng phân tích Khói lửa, coi đó là cuốn tiểu thuyết của chiến tranh, của chiến hào, của người lính, của sự thật và là cuốn tiểu thuyết viết cho nhân dân. Ý nghĩa phản đối chiến tranh đế quốc của tác phẩm biểu lộ trước hết ở chỗ vạch trần sự thật khủng khiếp và cái vô lý của chiến tranh.   Trong Khói lửa, những người phải trực tiếp ra mặt trần phần lớn là công nhân, nông dân và dân nghèo. Lấy tiểu đội của tác giả làm ví dụ: hầu như không có ai là nghệ sĩ, tri thức hoặc tư sản. Dưới bề ngoài bình thường và phức tạp, họ chứa chất những tình cảm dịu hiền, lành mạnh. Họ hết sức thương yêu bố mẹ, vợ con, làng mạc, quê hương, trân trọng giữ từng lá thư nhà để sưởi ấm lòng. Blerơ đã từng chăm chú mài giũa làm chiếc nhẫn tặng vợ, Fuiat những lúc rảnh rỗi đã từng mơ tưởng về quê hương yêu dấu. Pôteclô vì mong thấy mặt vợ mà quên hết mọi gian nguy và trước hoàn cảnh éo le, những ý nghĩ ghen tuông của anh đã pha trộn nhiều niềm tha thứ. Lamuydơ coi trọng tình đồng đội, nhiều lúc quên mình để cứu bạn. “Họ không phải là lính tráng, họ là những con người…”. Nhưng chiến tranh đã bắt buộc người lính làm những điều trái ý muốn và tâm tư của họ. Ở trận địa có khi họ đánh đổi một mạng người lấy một bao diêm, một cặp ống chân lấy một đôi bốt. Họ phải trở thành ích kỷ, phải xoay sở, giành giật lẫn nhau. Có người đã phải kêu lên: “Tiến đến đây, thì ai cũng như thú dữ. Sống mãi như súc vật rồi đến thành súc vật cả nút”… Chiến tranh còn là chia ly, tan tác. Một lá thư của Bikê gửi an ủi mẹ, một bà mẹ suốt đời chỉ sống vì con bị trả về tiểu đội anh khi anh đã vĩnh viễn lìa đời: chiến tranh đã đẩy mẹ anh phiêu bạt không biết đi đâu. Lamuydơ bị đạn đại bác cướp mất Ođôxi và, khi anh được tự do gần nàng, ôm nàng thì nàng đã thành một trong những cái xác rữa nát, hôi thối dưới cái hầm bị sập. Và Pôteclô lìa đời trong lúc hình ảnh vợ anh cười nụ bên cạnh mấy thằng sĩ quan Đức trong căn buồng đầy ánh sáng, ở miền bị Đức chiếm, chưa làm anh hết băn khoăn. Cả một tiểu đội gồm 17 người, đến cuối tác phẩm bị tiêu hao gần hết. Cảm động nhất là cái chết của Mexin Anđrê. “Hắn có sáu anh em… Bốn đứa đã ngoẻo rồi, hai đứa nghoẻo ở Anđat, một ở Sampanhơ và một ở Acgôn…” Và Mexin cũng đã hy sinh.   Trong lúc ấy, bọn giàu sang ở thành thị coi chiến tranh chỉ là một việc bình thường, và cho rằng mỗi người một nghề, chúng ở hậu phương buôn bán, bóc lột làm giàu, công lao cũng không kém những người ra trận!   Bên cạnh việc mô tả đầy tính chất hiện thực cuộc chiến tranh đế quốc với những thảm trạng và bất công của nó; Khói lửa còn phản ánh được quá trình giác ngộ của những người lính. Lúc đầu, họ hục hặc với tất cả, họ phá phách và đôi khi độc ác. Dần dần sự phản ứng ấy đã hướng được vào đúng chỗ. Từ thái độ đối với bọn nhà báo bồi bút, đến sự phản kháng có ý nghĩa trước cái chết của Caja, và cơn phẫn nộ đối với bọn phục hậu, dần dần, người lính đã thấy rằng “một sự khác biệt bắt đầu hình thành giữa những con người, một sự khác biệt thật sâu xa, không thể dung hòa được… sự khác biệt giữa những kẻ bóc lột và những người phải làm quần quật, phải hy sinh tất cả… còn những kẻ khác thì giẫm đạp lên họ, tiến lên, mỉm cười và toại nguyện…”. Bước đầu giác ngộ giai cấp đã khiến họ có những suy nghĩ đúng đắn về chiến tranh: “… từng đoàn quân chui vào lò sát sinh là để cho một giai cấp đeo lon vàng có thể ghi tên tuổi quí phái của chúng vào lịch sử, để cho những kẻ cũng đeo đầy vàng, cũng thuộc vào một đẳng cấp như bọn kia có thể ôm đồm kinh doanh nhiều hơn để phục vụ cá nhân chúng…” Họ biết mình sinh ra là để làm những người chồng, người cha, làm những con người đúng với nghĩa của nó, chứ không phải để làm những con thú dữ cắn xé nhau, gieo khổ cho nhau. Cái băn khoăn của Mactơrô về bọn lính Đức không thích xung phong mà sao vẫn cứ phải ra trận, câu chuyện của anh lính phi cơ ở trạm cấp cứu về những lời cầu nguyện giống nhau trong một buổi sáng chủ nhật của lính Đức và lính Pháp, càng khẳng định thêm tội ác gây chiến của bọn thống trị bóc lột. Họ đã tự đặt nhiệm vụ phải tiêu diệt chủ nghĩa quân phiệt ở Đức và ở tất cả các nước một khi nó bành trướng đến và phải trừ khử chiến tranh ngay trong lòng tất cả các nước. Mục tiêu chiến đấu của họ là rồi đây phải chống những điều tội lỗi chứ không phải chống riêng một nước nào. Xã hội cần có một sự đổi thay và họ “hé thấy một cuộc Cách mạng nào đó lớn lao hơn cuộc cách mạng kia[3]”.   Khi nắm được thực chất của chiến tranh đế quốc, họ đã xác định được lòng tin, tin ở sức mạnh của mình, tin ở ngày mai tươi đẹp, tin rằng xã hội xấu xa sẽ mất, chiến tranh sẽ bị tiêu diệt và tương lai sẽ rực rỡ, vì mặt trời vẫn tồn tại.   Vạch trần được nguyên nhân của chiến tranh, nêu được những mâu thuẫn xã hội, Khói lửa còn đề cao được mối tình quốc tế mới nhóm trong lòng những người lính bị đưa ra mặt trận. Trong bao nhiêu đau khổ và mất mát chung, lính Đức và lính Pháp dần dần hiểu nhau hơn, bước đầu thấy sự phân biệt chủng tộc là một điều vô lý và bịp bợm. Những người lính Pháp coi việc giết được nhiều lính Đức là một điều tội lỗi hơn là một vinh quang. Và lính Đức cũng thế, cũng chửi rủa chiến tranh, chửi rủa cấp chỉ huy của họ. Ở phần cuối của tác phẩm, những bọn dân tộc hẹp hòi được coi là quân dòi bọ và viên cai Bectrăng đã lớn tiếng ca ngợi Lepnick, một lãnh tụ của nhân dân Đức là “nhân vật đã vươn cao mình lên trên cuộc chiến tranh và sẽ luôn luôn sáng ngời vì lòng gan dạ đẹp đẽ và lớn lao…”   Khói lửa đã nghiêm khắc lên án chiến tranh đế quốc giữa lúc đa số đảng trong Đệ nhị quốc tế phản bội quyền lợi của giai cấp công nhân, chạy theo ủng hộ chiến tranh, giữa lúc bọn Trôtxky đề ra luận điệu lừa bịp “không thắng, không bại” nhằm lợi dụng chiến tranh chống lại bước tiến của Cách mạng. Khói lửa là tiếng nói của sự thật vọng lên từ những chiến hào bùn lầy, tuyết đọng, đầy thiếu thốn, và chết chóc. Khói lửa động viên và tập hợp những lực lượng trước kia còn phân tán để chống chiến tranh một cách tích cực hơn.   Không những về mặt nội dung, mà cả về phương pháp nghệ thuật, Khói lửa là một hiện tượng rất mới, rất đặc biệt, rất có ý nghĩa trong văn học Pháp đương thời. Giữa lúc văn học Pháp và văn học các nước phương Tây nói chung vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đang ngày càng sa vào những khuynh hướng đồi trụy, không lối thoát, giữa lúc chủ nghĩa tự nhiên còn ảnh hưởng khá sâu sắc đến các nhà văn có khuynh hướng tiến bộ, Khói lửa đã mang nhiều yếu tố của chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ngòi bút của Bacbuyxơ vừa phê phán sâu sắc, vừa gợi lên ý niệm về tương lai, bước đầu gây lòng tin tưởng ở cái mới rồi đây sẽ thắng cái cũ.   Điều chủ yếu là trong Khói lửa, Bacbuyxơ đã sử dụng một ngòi bút hiện thực thật sinh động. Chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi phải xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Khói lửa, như tác giả đã gọi, chỉ là một tập nhật ký, một tập ghi chép, không phải là một cuốn tiểu thuyết, không tập trung vào một nhân vật nhất định nào cả. Nhân vật ở đây là cả một tiểu đội binh sĩ, mỗi người một khía cạnh, một sắc thái đúc lại làm thành điển hình người lính Pháp trong đại chiến thế giới lần thứ nhất. Cảnh trong Khói lửa cũng thường thay đổi: khi là những chiến hào lầy bùn, âm u và ghê rợn, khi là chặng đường hành quân dài dằng dặc, khi là chỗ trú quân nơi sơn cước, khi là mặt trận khói đạn mù trời, khi là nơi hậu phương lúc nhúc những bọn phục hậu hèn nhát, khi là một làng đã hoàn toàn bị chiến tranh san phẳng v.v… Những cảnh đó, cộng lại, tiếp nhau, đã khiến người đọc hình dung được phần nào hình ảnh nước Pháp điêu đứng trong chiến tranh và làm thành môi trường hoạt động của nhân vật người lính.   Đối với nhà văn hiện thực, những chi tiết của cuộc sống có tầm quan trọng đặc biệt. Chi tiết đưa vào đúng lúc, đúng chỗ, sẽ phản ánh được cụ thể bản chất của sự vật, nâng cao thêm tác dụng phê phán. Bacbuyxơ đã thành công nhiều ở điểm này. Ông đã mô tả sự thật đúng như sự thật, nhưng đã mô tả có khuynh hướng. Không bỏ sót một tí gì tai nghe mắt thấy, ông đã để cho sự vật tự nói lên kết luận, làm cho người đọc với lương tâm và lý trí của họ, thấy hết những đen tối, xấu xa của chiến tranh đế quốc. A. Ivasenkô, tiến sĩ ngữ văn Liên-xô đã nhận xét: “Bacbuyxơ liên miên bất tận trong những mô tả tàn khốc, vì bản thân thực tại cũng tàn khốc. Ở nhà tự nhiên chủ nghĩa, sự thể hiện tự nó là mục đích; ở nhà hiện thực xã hội chủ nghĩa Bacbuyxơ, mô tả cái gì là đứng trên lập trường của một lý tưởng xã hội nhất định và nhằm phục tùng nhiệm vụ tác động đến thực tại về mặt tư tưởng…”[4]   Quan điểm tôn trọng sự thật vì hiểu được ý nghĩa của sự thật đã được Bacbuyxơ biểu hiện khá rõ rệt trong chương “Những lời văng tục”.   Tính chất hiện thực sâu sắc của Khói lửa thực tế đã tác động mạnh mẽ đến người đọc. Một nữ độc giả bình thường đã viết cho Bacbuyxơ: “Đọc xong tác phẩm của ông, tôi như vừa chui ở chiến hào ra…”[5] Có những lá thư khác, gửi từ mặt trận về đã viết: “Ông đã thét lên tiếng thét của chân lý… Tác phẩm của ông là bức tranh của cuộc đời tối tăm như địa ngục của chúng tôi. Chúng tôi cảm ơn ông đã trả thù cho chúng tôi, đã tố cáo chiến tranh, đã vạch cho chúng tôi một tương lai vô cùng vinh quang…”[6]   Cho đến nay (1962) Khói lửa ra đời đã gần năm mươi năm, nhưng vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong văn học thế giới. Chủ nghĩa đế quốc vẫn còn, nghĩa là vẫn còn âm mưu gây chiến. Các nước đế quốc, cầm đầu là đế quốc Mỹ đang ra sức chạy đua vũ trang, gây tình hình căng thẳng trên thế giới. Các khối quân sự Bắc Đại Tây Dương, trung tâm, Đông nam Á và các khối quân sự khác đang đe dọa nghiêm trọng hòa bình và an ninh chung. Và ngay trên đất nước ta, đế quốc Mỹ đang tiến hành một cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc đối với nhân dân miền Nam Việt Nam.   Đọc Khói lửa, càng ghê tởm những thảm trạng của chiến tranh, càng căm thù bọn đế quốc gây chiến, nhân dân thế giới càng nâng cao thêm ý chí đấu tranh cho hòa bình. Cái quyết định là lòng người. Khói lửa nhen thêm trong lòng mọi người sự căm ghét chiến tranh, nhất định sẽ góp phần xứng đáng vào việc chặn đứng mọi âm mưu gây chiến. Đối với bạn đọc Việt Nam, Khói lửa sẽ góp phần nung nấu thêm chí căm thù bọn Mỹ – Diệm khát máu, nâng cao thêm quyết tâm đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.   NGUYỄN TRỌNG THỤ – LÊ VĂN TỤNG   Mời các bạn đón đọc Khói Lửa của tác giả Henri Barbusse.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Khúc Chiều Thu
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tình Khúc Chiều Thu của tác giả Quỳnh Dao. Năm giờ chiều tan sở, Đồng Chi Quyên vội vã rời khỏi văn phòng làm việc ở cao ốc Giao Tân. Nàng đi thẳng sang cửa hàng thực phẩm tận bên kia đường. Buổi sáng khi đi làm, bước ngang qua đây, Chi Quyên đã thấy nó được đựng trong những chiếc hộp xinh xắn. Vy mà thấy được hẳn vui lắm. Chi Quyên nghĩ điều đó chợt thấy lâng lâng niềm vui. Cách đây không lâu, Vy còn nói với nàng. - Chị Ơi, hôm nào mình đi đào củ năng nhé? Hôm nào? Chi Quyên không thể nói cho Vy biết là không bao giờ có cái ngày đó nữa. đào củ năng? đó là chuyện xảy ra đã lâu... Lâu lắm rồi. đến độ Chi Quyên cũng quên bẵng đi. Vậy mà Vy vẫn nhớ. Lúc đó, gia đình của Chi Quyên ở ngoại ô thành phố Đài Bắc. Chung quanh nhà toàn là những cánh đồng cỏ lau. Mỗi sáng, cha mẹ, Chi Quyên và Vy đều ra ngoài, chạy nhảy trên đồng cỏ, hái hoa, đào củ năng... Lúc đó Chi Quyên và Vy thường đua nhau xem ai đào được củ to.  Bấy giờ Chi Quyên 17 và Vy mới 16 tuổi, cha mẹ còn đầy đủ. Thế còn bây giờ, cha mẹ Ở đâu? Lúc đó ngoại ô Đài Bắc chỉ có cỏ dại, ruộng vườn. Còn bây giờ, ở những nơi đấy đã mọc đầy những ngôi nhà cao tầng. Thời gian trôi nhanh, mọi vật dời đổi... Vy có biết những điều đó không? Có cần cho nó biết không? Đến trước cửa hàng thực phẩm, Chi Quyên thấy rõ ràng hàng củ năng mới dược chào hàng. Từng hộp từng hộp xinh xắn bọc trong giấy nhựa, có cả băng vải cột bên ngoài trông thật dễ thương.  Chi Quyên cầm một hộp lên rồi xem giá tiền, 40 đồng! Chi Quyên giật mình. Số tiền to quá, phải 40 đồng mới mua được hộp củ năng nhỏ. Với 40 đồng đó. Chi Quyên có thể làm được biết bao việc. Có thể mua áo mới cho Vỵ à, đôi giày cũng đã thủng đế... Mà Chi Quyên cũng không biết tại sao Vy lại mặc áo hao như vậy, giày cũng mau mòn như vậy? Nhưng mà... Chi Quyên lại phân vân với hộp củ năng trên taỵ 40 đồng, mắc quá. Lương tháng cả tháng của Chi Quyên lại chỉ có 4000 đồng... Thế này... Chi Quyên lại lưỡng lự. Ông Chủ tiệm bước ra.  - Cô muốn mua mấy hộp hở cô? Mấy hộp à? Chi Quyên mở to mắt. một hộp còn không có tiền mua ở đó mà mấy hộp. Chi Quyên lắc đầu vừa định rời khỏi tiệm, thì sau lưng có tiếng kèn xe. Chi Quyên quay người lại chiếc Datsun quen thuộc đang ngừng trước cửa tiệm. Một người đàn ông trung niên bước xuống xe.  - Mua trái cây hở Chi Quyên? Chi Quyên giật mình, đó là ông Phùng Tính Lân và là ông chủ của nàng. Không hiểu sao mỗi lần đứng trước ông Lân là Chi Quyên bối rối. Cái thái độ từ tốn, chậm rãi mà chỉ có những người đàn ông từng trải mới có, dễ làm cho người đối diện lúng túng. Mỗi lần ông Lân nhìn Chi Quyên như vậy là nàng bối rối. Ngay trong tiềm thức, nàng đã thấy sợ Ông Lân. Tại sao lại sợ? Dư luận ư? Không biết. Chỉ biết một điều là... Công việc làm đối với nàng rất quan trọng. Sự quan trọng đó làm nàng rụt rè. Vâng, Chi Quyên sợ những lời đàm tiếu không đâu, có thể khiến nàng bị mất việc.. Nàng sợ cấp trên không hài lòng... Mà cũng sợ cấp trên "quá hài lòng" nữa. Tóm lại nàng sợ đủ thứ. Làm người quả khó khăn.  - Dạ, không... Tôi chỉ mua một hộp củ năng thôi.  Chi Quyên trả lời lí nhí rồi vội vã móc 40 đồng ra trả. Ông Lân hỏi. - Mua có một hộp thôi à? Thế có đủ ăn không? Chi Quyên lúng túng. nàng không biết phải giải thích làm sao, chỉ cúi đầu nói. - Dạ, không phải để ăn! Tại tôi thích củ năng.  ông Tính Lân nhìn Chi Quyên cười, không hỏi tiếp. con gái thường hay vậy. Mua một hộp củ năng, không phải để ăn, để làm gì? Thích thôi à? ông nhìn xuống những hộp năng đang trưng bầy. Những chiếc hộp nhỏ thắt nơ xinh xắn trông thật mộng mợ Ông Lân chăm chú nhìn Chi Quyên. Hàng lông mi dài cong vút, cái khuôn mặt sáng sủa, cái miệng nhỏ xinh xinh và cái cằm nhọn. Nhưng mà không hiểu sao tuổi thanh xuân kia lại như lúc nào cũng có nét buồn u uẩn nào đó... Ông Lân lắc đầu. Nguyên tắc làm việc bấy lâu nay của ông là không dính dáng gì đến chuyện riêng tư của nữ nhân viên. Duy chỉ có Chi Quyên là ngoại lệ cái cô bé mới vào làm có một năm, với thái độ rụt rè cố hữu, lúc nào cũng chăm chỉ với công việc. Không có nụ cười. Khoảng cách chủ tớ khá rõ ràng... Chi Quyên là một cái dấu hỏi. Nhưng dấu hỏi kia lại làm cho ông tò mò để ý. Cái đó ông Lân cũng không biết tại sao, ông chỉ cảm thấy nhiều lúc mình hay thắc mắc một cách kỳ cục. Tại sao vậy?  - Nhà cô ở đâu Chi Quyên? Tôi lái xe đưa cô về nhé?  Chi Quyên vội vã đáp với một chút ngại ngùng.  - Dạ khỏi tôi thích đáp xe buýt hơn.  Nói xong, nàng ôm hộp củ năng bỏ đi như chạy trốn. Mãi đến lúc tiếng xe của ông Lân xa dần, nàng mới thở phào, nàng đi chậm lại. Hướng về phía trạm xe buýt. Ôm chiếc hộp giấy trước ngực, Chi Quyên chợt bâng khuâng. Không biết ban nãy mình có làm gì cho ông Lân buồn không? chuyện đó có ảnh hưởng gì đến công việc làm của mình không? Tất cả những bứt rứt đó chỉ ngừng lại khi chiếc xe buýt trờ tói. Người sao đông thế? giành giật chen lấn lên xe, Chi Quyên bước lên mà lo lắng. Không biết hộp củ năng rồi có bị bẹp đi không? Nàng căng thẳng. 40 đồng đấy! mà chỉ có 20 củ. Bị đè nhẹp là đau vô cùng. Chi Quyên ôm cứng chiếc hộp trước ngực, cẩn thận bước lên xe.  Xe chạy chậm quá. Thật lâu mới đến được trạm gần nhà, Chi Quyên xuống xe, mình đẫm ướt mồ hôi. Nhìn chiếc hộp đựng củ năng còn nguyên vẹn, nàng thở phào nhẹ nhõm. Hoàng hôn của mùa hè. Mặt trời đỏ chói. Một buổi hoàng hôn đẹp. Có niềm vui thoảng nhẹ khi nàng nghĩ đến chuyện Vy sẽ mừng ra sao khi trông thấy chiếc hộp củ năng này. Chi Quyên bước nhanh hơn, đi về phía con hẻm dẫn vào nhà. Nhưng vừa đến đầu hẻm, nàng đã chựng lại nhìn chiếc hộp củ năng trên tay suy nghĩ. Thế này không được, ta không thể đưa cho Vy thế này. Những củ năng nhặt ở ngoài đồng không nằm trong hộp đẹp, Chi Quyên nhớ lại ngày trước, khi cùng gia đình đi đào xới. Nhiều khi còn có cả rễ... Nàng ngẫm nghĩ, rồi cắn răng xé bọc giấy kiếng bên ngoài ra, tháo cả băng vải và hộp carton ném vào sọt rác. Nàng dùng tay bụm lấy 20 củ năng, bước nhanh về hướng nhà. Chưa lách qua cái ngõ hẻm hẹp hơn, Chi Quyên đã nghe thấy tiếng ồn ào. Không cần nghĩ, nàng đã hiểu chuyện gì đang xảy ra. Nàng buồn bực bước nhanh hơn. Trước mắt nàng là Vỵ Dáng dấp cao lớn của Vy đứng giữa lòng hẻm. Mặt mày lem luốc. áo tả tơi với cây chổi trên taỵ Vy đứng chống nạnh như một vị thần giữ cửa, đám trẻ con thì vây quanh vừa cười vừa hét. Chi Quyên thấy cảnh đó, vừa giận vừa buồn. Nàng gọi lớn. - Vy! Vy nghe tiếng chị kêu. Nhưng vẫn đứng bất động, nhìn nàng cười. - Ồ, chị! Chị xem này, em là Trương Phi, em bận giữ thành, không thể đi đâu được hết. Chi Quyên giận dữ. - Vy! Em đã hứa với chị là không ra ngoài. em lại để rách hết áo thế này? Em đã làm sai, em biết không.  Vy tròn mắt nói. - Đâu có chị? Em là Trương Phi mà? Em mới đánh thắng một trận. Chị biết em đánh với ai không? Tào... Tào...  Thằng nhỏ đứng bên cạnh lên tiếng.  - Tào Tháo! Vy kiêu hãnh nói.  - Đúng rồi, Tào Tháo! Em đã đánh thắng trận.  Chi Quyên đau khổ nói.  - Túy Vy Em về nhà ngay cho chị.  Vy lắc dầu.  - Không được. Em là Trương Phi mà.  Chi Quyên nói và bước tới.  - Em tầm bậy quá, em nào phải là Trương Phi, em là Đồng Túy Vy! Túy Vy thấy chị định ngăn nên quay lưng bỏ chạy, vừa chạy vừa nói.  - Chị bắt không được em đâu, chị sẽ không bắt được em đâu.  Chi Quyên giậm chân.  - Túy Vy.  Nàng biết là sẽ gặp rắc rối. Nhưng nhớ sực lại những củ năng, nàng đưa lên: - Túy vy, em lại đây. Chị vừa mới hái củ năng về cho em nè. Quả nhiên vừa nghe nàng nói, Túy Vy đã dừng chân lại, nhưng nó có vẻ nghi ngờ. - Củ năng à? - Ờ. Đây nè. Túy Vy nghiêng nghiêng đầu.  - Chị không gạt em chứ? - Em nhìn thử xem cái này là cái gì? Chi Quyên xoè tay ra. Mắt Túy Vy chợt sáng. Đúng rồi củ năng. Vy hét lên mừng rỡ. Rồi chạy vù về phía Chi Quyên.  - Củ năng, ồ củ năng. Chị mới đi đào đấy à? Chúng ta cùng đi đi.  Ngay lúc đó một chiếc xe gắn máy chạy vụt đến, Chi Quyên sợ quá hét lên.  - Túy Vy, cẩn thận! Nhưng không còn kịp. Diễn biến xảy ra quá nhanh. đầu tiên cây chổi trên tay của Vy đã quơ về phía xe. Làm chiếc xe lách nhanh, đâm sầm vào người Túy Vỵ Chi Quyên sợ hãi, buông hết những củ năng trên taỵ Bổ nhào về phía Túy Vỵ Chiếc xe cũng vừa kịp thắng gấp, đầu xe bị quay đi. Túy Vy và Chi Quyên thì không sao, nhưng chiếc xe đã đổ kềnh. Người lái xe bị té văng mấy vòng. Hình như đã bị thương. Chi Quyên vội chạy đến, tái mặt hỏi: - Trời ơi, anh có sao không? Có bị thương chỗ nào không? Người lái xe nằm dài trên đường. Chiếc nón an toàn ụp xuống mặt. Anh ta chậm rãi ngồi dậy kéo chiếc mũ ra. Một khuôn mặt rất trẻ, rám nắng. Một đôi mắt đầy nghị lực đang trừng trừng nhìn Chi Quyên.  - Mấy người làm gì thế? đang diễn kịch "đánh cướp" ngoài đường ư? Còn nói chuyện được! Thế này hẳn vết thương không nặng lắm. Chi Quyên thở ra nhưng vẫn lo lắng.  - Anh bị thương ở đâu vậy? Gã Thanh niên đứng dậy dựng xe lên, lấy tay gõ gõ lên đầu gối nói. - Chưa biết. Chân và người còn dính liền nhau, tay chưa gãy vậy chắc không sao đâu.  Chi Quyên bứt rứt.  - Nhưng mà... Tay anh đang chảy máu kìa.  Đúng rồi, tay bị lát một miếng da khá lớn, đang chảy máu. Ngoài vết thương đó hình như không còn vết thương nào khác. Chi Quyên còn đang phân vân chợt thấy đám đông bu lại. Túy Vy lại chen vào, nắm lấy tay anh chàng thanh niên khóc.  - Không biết đâu, anh làm vỡ hết những củ năng của tôi, anh phải đền đi. Đền đi! Chi Quyên vừa giật mình vừa tức. Nàng chụp lấy em tức giận la lên...  - Túy Vy... Em đã gây chuyện thế này còn quậy gì nữa chứ? Em muốn chị phải làm sao đây? Túy Vy buông tay thanh niên ra, quay lại nhìn thấy chị khóc, nó có vẻ sợ hãi, lúng túng.  - Chị Quyên, chị đừng khóc, em biết em sai rồi, em sẽ không dám nữa đâu.  Chi Quyên ra lệnh.  - Vậy thì em về nhà tắm rửa cho sạch sẽ đi.  Túy Vy vội bỏ đi, vừa đi vừa nói. - Vâng em đi, em đi ngay đây.  Chi Quyên nhìn theo bóng Túy Vy đi khuất mới quay lại. Anh chàng lái xe mục kích sự việc xảy ra, anh có vẻ ngạc nhiên nhìn đám đông, rồi nhìn Chi Quyên đang khóc, anh ta có vẻ thương hại.  - Không sao đâu, tôi không sao đâu. Nhưng mà sao cô lại khóc? Chi Quyên không đáp chỉ nói.  - Anh đến nhà tôi nhé? Nhà tôi có thuốc, tôi sẽ giúp anh rửa vết thương.  Chợt có một thằng bé nói.  - Đừng có đi, em của chị ấy là thằng điên đấy. Gã thanh niên nghe nói hơi do dự, nhưng Chi Quyên lắc dầu.  - Anh đừng nghe lời chúng nó, em tôi không có điên đâu.  ánh mắt của nàng đen nháy, đôi mắt hơi buồn nhưng thành thật. Gã thanh niên nhìn Chi Quyên rồi quyết định: mặc, điên hay không thì chẳng phải vấn đề. Không lẽ chỉ nghe dọa là rút lui? Thế là vừa đẩy xe anh vừa nói với Chi Quyên.  - Được rồi, tôi sẽ theo cô.  Đám đông đứng qua một bên. Chi Quyên dẫn đường về nhà. Gọi là "nhà" chứ đấy giống như một chòi nhỏ không sân, mặt hướng ra hẻm, đa số những ngôi nhà ở khu này đều như nhau, những ngôi nhà gỗ cũ kỹ không lầu, chật hẹp. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, một hoặc hai năm. Rồi tất cả sẽ bị thay bằng những nhà cao tầng. Lúc đó số người sống ở đây sẽ dọn đi đâu? Anh thanh niên trẻ nghĩ ngợi và nhìn quanh một cách hiếu kỳ. Dựng xe ngoài cửa, anh theo chân Chi Quyên bước vào nhà, vừa vào trong đã thấy Vy ngồi đàng hoàng trên ghế. Người đã được lau chùi sạch sẽ. Anh ta đang cắn móng tay, thái độ của kẻ phạm tội đang hối lỗi. Thấy chị và khách bước vào, Vy có vẻ sợ sệt. Quyên nhìn thấy em như vậy, không nỡ giận nữa, nàng thở ra bảo. - Đi tắm rồi thay áo quần đi, xong hãy vào phòng, bao giờ tới giờ cơm chị kêu thì mới được ra nhé. Chi Quyên nói với cậu ta như nói với một đứa bé mới lớn. Túy Vy cũng ngoan ngoãn đứng dậy làm theo, đến cửa, Vy quay lại nhìn chị với ánh mắt rụt rè. - Nhưng mà... Chị không giận em chứ? - Nếu em nghe lời chị, thì chị không giận.  Túy Vy cười rạng rỡ.  - Vâng, em sẽ vâng lời. mai chị sẽ đưa em đi nhặt củ năng nhé? Củ năng? Thàng bé không quên chuyện củ năng. Chi Quyên bứt rứt nhìn em gịuc.  - Ờ, chuyện ngày mai để mai tính. Bây giờ em vào đi.  Túy Vy vẫn rạng rỡ nụ cười, bước nhanh vào trong. Đợi Vy đi khuất, Quyên mới quay lại. Gã thanh niên xa lạ vẫn nhìn Quyên với ánh mắt tò mò. Anh chàng có vẻ không hiểu. Quyên thấy tức cười và nhìn kỹ. Anh ta cao lớn. Chiếc nón an toàn đã được cởi xuống cho thấy mái tóc đen dài. Một khuôn mặt có góc cạnh. Trán cao, mũi cao, mắt to đen, cằm nhọn. Cái "đẹp" của đàn ông hình như có nhiều loại. Chi Quyên thấy Túy Vy đẹp trai, nhưng cái đẹp của Vy là cái đẹp "sữa". Còn anh chàng này đây đẹp trai như một thanh niên thực thụ.  Chi Quyên chỉ chiếc ghế mây rồi do dự hỏi. - Mời anh ngồi. Anh có thể cho biết quý danh không? Gã thanh niên trẻ nói. Tôi họ âu. Tên Dương Phẩm. Còn cô? - Dạ. Tôi là Đồng Chi Quyên! Chi Quyên nói rồi bước tới xem xét vết thương trên tay Phẩm. Nàng giật mình, vết thương nặng hơn nàng tưởng. Ngoài một mảng da bị mất, còn có một vết toét dài và sâu. Vậy mà không hiểu sao anh chàng lại có vẻ bình thản, không trách móc, cự nự gì cả. Có lẽ chưa kịp chăng? Chi Quyên nói nhanh: - Anh ngồi đây nhé, để tôi đi lấy thuốc.  Bước vào phòng ngủ, Chi Quyên mang thùng thuốc ra. Ở nhà này, thuốc men gần như không thể thiếu vắng. bởi vì cứ cách mấy hôm là Vy bị thương... Băng bó vết thương là một việc làm thường xuyên của Chi Quyên.  Mở thùng thuốc, Chi Quyên lấy bông băng, nước oxy già. Đỡ lấy cánh tay của Phẩm lên, nàng tỉ mỉ chùi lấy vết thương.  - Có đau một chút thì... ráng chịu nhé.  Dương Phẩm có vẻ lạ lùng, chàng nhìn thùng thuốc, trong đó có đủ tất cả. Bông băng, kéo, thuốc rửa, thuốc sát trùng...  Phẩm buộc miệng.  - Thì ra cô là một y tá? Chi Quyên thành thật nói.  - Không phải, tôi tốt nghiệp ở cao đẳng thương nghiệp. Biết đánh máy và kế toán. Hiện đang làm việc ở một công ty trong thành phố. Còn cái thùng thuốc này đây... được chuẩn bị là vì cậu. em của tôi... nó cứ bị thương thường xuyên.  Lợi dụng lúc Phẩm phân tâm, Chi Quyên lấy bông nhúng vào oxy già, quét mạnh lên vết thương. Phẩm rát quá nhảy nhỏm lên. Chi Quyên ngưng lại một chút, rồi tiếp tục xức thuốc, vừa xức vừa nói để Phẩm quên đau, Giọng Chi Quyên như nghẹn lại.  - Anh biết không, đám trẻ con ở đây chúng cứ ức hiếp em trai tôi. Có một lần chúng đốt lửa, suýt tí đã thiêu sống thằng bé... Thật là tàn nhẫn... Cái số của mỗi người hình như đều có sướng có khổ, nhưng người ta chỉ biết cái khổ của mình, lại bình thản với cái khổ của người khác. Chi Quyên nói và bắt đầu băng lại vết thương cho Phẩm. Phẩm ngập ngừng rồi nói. - Nêú cô không cho là tò mò... Thì cô có thể cho tôi biết...  Chi Quyên nhìn lên, chớp chớp mắt. ánh mắt của nàng buồn buồn. Quyên nói. - Không có gì đâu. Anh cũng xui thật, anh đi ngang qua, rồi tay bay họa gởi. à anh thấy đấy Vy nó đâu có điên đâu? Có điều... trí óc của nó hơi kém phát triển một chút. bác sĩ nói chỉ số thông minh của nó chỉ ngang với một đứa bé năm tuổi. Và anh biết không, khi ba mẹ tôi còn... Có bao nhiêu tiền người đổ hết tìm thuốc men chữa chạy. Nhưng tất cả đều vô nghĩa. Dương Phẩm nhìn ánh mắt trước mặt.  - Cậu ấy bị thế sau một con kích động hay một bệnh nặng? - Không phải. Bác sĩ nói nó bị bẩm sinh... Mà cái chứng này thì như anh biết, có thể có nhiều nguyên dọ Chẳng hạn như lúc mang thai, mẹ tôi đã uống lầm một thứ thuốc nào đó làm ảnh hưởng đến bộ não nó... Hoặc cũng có thể do di truyền... Tóm lại dù bất cứ nguyên nhân gì, bịnh của nó cũng thuộc loại bất trị.  Chi Quyên vẫn tiếp tục công việc.  - Anh biết không, đám trẻ ở đây cứ ức hiếp, cứ mang nó ra làm trò cười. chế giễu, nhưng mà anh thấy đấy... Vy nó chỉ hơi khờ khạo, chứ tính nó khá lành. Nó không hề có ác ý với một ai. Thỉnh thoảng sự khờ khạo của nó gây ra chuyện không hay như hôm nay... thì cũng không phải là một sự cố ý. Chúng ta làm sao đòi hỏi một đứa có trí khôn 4, 5 tuổi làm như người lớn được phải không anh? - Năm nay cậu ấy bao nhiêu tuổi? Chi Quyên thu xếp cồn lọ bông băng vào thùng thuốc, rồi đứng dậy nói.  - 18 tuổi. Anh Phẩm này, tôi thấy để cẩn thận hơn, anh nên đến bệnh viện xem lại... cái vết thương này hơi sâu, tôi chỉ có khả năng tẩy trùng nhẹ thôi... sợ thế này... có thể gây biến chứng.  Dương Phẩm không quan tâm lắm đến cái vết thương. Chàng ngắm cô gái trước mặt, cái nét mặt hiền hòa, chịu đựng kia như thu hút lấy chàng. - Thế bây giờ cha mẹ cô đâu rồi? Chi Quyên lặng lẽ nói.  - Đều qua đời, định mệnh dường như lúc nào cũng cay nghiệt với những kẻ bất hạnh. Mẹ tôi qua đời khi tôi lên 12, Còn cha tôi thì mới cách đây ba năm. Người đã vì Túy Vy mà khá mệt mỏi.  Nàng nói tới đó, chợt như nhớ ra nên ngưng lại, nàng đẩy mái tóc ra sau, rồi cười nói.  - Xin lỗi nhé, anh Phẩm. Khi không rồi đem những chuyện đâu đâu ra kể cho anh nghe... Ồ mà áo quần anh cũng lấm lem rồi kià. Chiếc áo màu xanh, quần jean trắng của Phẩm gìơ lấm lem cả. Bùn có, mà máu cũng có. Nơi lại bị rách. Chi Quyên xuýt xoa.  - Thật là có lỗi với anh.  Phẩm không quan tâm lắm đến quần áo. Chàng mải bận quan sát ngôi nhà. Những dụng cụ gia đình thật đơn giản. Mấy chiếc ghế, một bàn học, một bàn dùng cơm, một bóng đèn tròn. Trên vách một bức tranh thủy mạc cho thấy chủ nhân cũng thuộc hạng người biết chữ nghĩa. Ngôi nhà khá nhỏ có lẽ chỉ có hai phòng sinh họat và một nhà vệ sinh. Một ngôi nhà với hai chị em nương tựa. Chợt nhiên Phẩm thấy có cảm tình. Xưa đến giờ Phẩm chưa hề tưởng tượng ra có một gia đình như thế...  Bóng tối từ bên ngoài đang lùa vào. trời sắp tối, Phẩm yên lặng và Chi Quyên cũng yên lặng.  Cửa phòng trong chợt mở. Túy Vy Y thò đầu ra.  - Chi ơi chị, em đói rồi.  Đói à? Chi Quyên chợt nhớ ra, chưa nấu cơm, nàng lúng túng nhìn Phẩm.  - Xin lỗi anh Phẩm. Tôi phải vào trong nấu cơm. Tôi xin phép và mong là vết thương của anh mau lành, cũng như xe anh không hư nhiều lắm.  Dương Phẩm chợt đưa tay ngăn lại, chàng cũng không hiểu tại sao mới quen mà chàng lại tự nhiên thế.  - Khoan đã nào? Ban nãy cô đã giúp tôi băng bó vết thương, tôi không biết lấy gì cảm ơn... Hay là thế này... Tôi xin phép được mời chị em cô đi ăn ngoài một bữa, được chứ?  Chi Quyên tròn mắt nhìn Phẩm.  - Ồ không được, không được. Chính chị em tôi làm anh ngã xe. Chuyện đó đã làm tôi áy náy lắm rồi... Làm sao, làm sao lại có thể... bắt anh mời cơm nữa chứ? Dương Phẩm cắt ngang.  - Có gì phải quan trọng vậy? Cũng bởi vì... Tôi cũng thấy đói... Tôi cũng định đi ăn cơm. Mà tánh tôi lại không thích ăn cơm một mình. Nếu mời được hai chị em cô là... tôi vui lắm. Từ xưa đến giờ chàng chưa hề bị ai từ chối, nên chàng nói mà hơi phân vân. Ngay lúc đó Phẩm quay lại bắt gặp ánh mắt trẻ thơ của Vy, chàng nói ngay.  - Túy Vy, đói rồi phải không? Thích ăn gì nào? Bánh xép nước? Há cảo, mì bò khỏ hay là thức ăn ngọt? Túy Vy nghe sáng hẳn mắt, quay sang chị.  - Mình có bánh xép nước ăn nữa hả chị? Dương Phẩm chợt nhớ đến những củ năng, bồi thêm.  - Còn có củ năng nữa.  - Củ năng nữa à?  Vy reo lên, Chi Quyên thở dài. - Anh thắng rồi đấy. Chúng tôi thật phiền anh.  Thế là cả ba ra khỏi nhà. Đèn đường đã bật sáng. Bầu trời chỉ có vài ánh sao. Chi Quyên quay sang Phẩm. Chợt thấy ngày tháng như không còn đơn điệu nữa. Gió đem mát lạnh mùa thu đã đến. Mời các bạn mượn đọc sách Tình Khúc Chiều Thu của tác giả Quỳnh Dao.
Thầy Thông Ngôn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn của tác giả Hồ Biểu Chánh. Ông Hương sư Trần Văn Sắc, ở Tầm vu, có một đứa con trai tên là Trần Văn Phong, cho lên Sài Gòn học, tuổi vừa mới hai mươi mà đã thi đậu Đíp lom và được cử về Bạc Liêu làm thơ ký học tập. Cả gia đình ông Hương sư kể cả Trần văn Phong hy vọng qua đó sẽ là bức thang danh vọng cho gia đình; Phong sẽ lấy được con gái nhà giàu có. Cũng vì vậy mà Phong đã bội ước với cô Hai Liền, người mà Phong hứa sẽ cưới sau khi học thành tài. Về Bạc Liêu làm việc, ngoài dự tính của Phong, thầy thơ ký mới tập sự gặp nhiều khó khăn trong công việc. Trên tình trường, Phong xém bị lừa gạt và bị làm nhục. Thời may đưa đến, Phong quen với Hội đồng Quản hạt ở Long Xuyên vừa mới đắc cử. Phong được Hội đồng Quản hạt giới thiệu cho cưới cô Như Hoa là con gái của một nhà cực giàu trong tỉnh Châu Ðốc. Do liên hệ của Hội đồng Quản hạt, Phong được chuyển về Châu Ðốc làm thông ngôn cho chủ tỉnh. Trong khi danh vọng được lên cao thì cuộc tình duyên của Phong đưa đến đổ vở vì Như Hoa hách dịch và ngoại tình. Cuối cùng xảy ra cuộc án mạng. Như Hoa bị chết để lại một đứa con cho Phong nuôi. Buồn chán Phong trở về Tầm vu và hy vọng lập lại cuộc tình duyên với cô Hai Liền, nhưng nhiều chuyện lại xảy ra ngoài sự dự tính của Phong... *** Tóm tắt Tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn kể về câu chuyện của Trần Văn Phong, một chàng trai trẻ tuổi, học giỏi, được gia đình gửi lên Sài Gòn học. Sau khi thi đỗ Đíp lom, Phong được cử về Bạc Liêu làm thơ ký học tập. Về Bạc Liêu, Phong gặp nhiều khó khăn trong công việc và tình trường. Phong xém bị lừa gạt và bị làm nhục. May mắn thay, Phong quen với Hội đồng Quản hạt ở Long Xuyên và được giới thiệu cho cưới cô Như Hoa, con gái của một nhà giàu có ở Châu Đốc. Phong được chuyển về Châu Đốc làm thông ngôn cho chủ tỉnh. Cuộc sống của Phong trở nên sung túc và danh vọng. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân của Phong với Như Hoa không hạnh phúc. Như Hoa là người hách dịch, ngoại tình và cuối cùng đã bị giết chết. Phong trở về Tầm vu và hy vọng lập lại cuộc tình duyên với cô Hai Liền, người mà Phong từng hứa sẽ cưới. Tuy nhiên, cô Hai Liền đã lấy chồng khác. Phong đau khổ và quyết định đi tu. Đánh giá Tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Thứ nhất, tác phẩm đã thể hiện được sự giao thoa của văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong tác phẩm, ta vẫn thấy được những yếu tố của văn học trung đại như lối kể chuyện truyền thống, những lời bình luận của tác giả,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác phẩm cũng có những yếu tố của văn học hiện đại như việc khắc họa tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện,... Thứ hai, tác phẩm đã phản ánh được những vấn đề của xã hội Nam bộ giai đoạn giao thời. Đó là những vấn đề như vấn đề người trí thức, vấn đề hôn nhân gia đình,... Thứ ba, tác phẩm đã thể hiện được tài năng của Hồ Biểu Chánh trong việc xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật Trần Văn Phong là một nhân vật tiêu biểu cho thế hệ trí thức trẻ của Nam bộ giai đoạn giao thời. Phong là một người học giỏi, có chí cầu tiến nhưng lại thiếu bản lĩnh, dễ bị tha hóa bởi danh vọng và tiền bạc. Nhìn chung, tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn là một tác phẩm đáng đọc. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam. Đánh giá chi tiết Cốt truyện: Cốt truyện của tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn được xây dựng theo lối truyền thống, theo mô-típ "từ thiện đến ác, từ thiện đến khổ". Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo lồng ghép những yếu tố hiện đại vào tác phẩm, khiến cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Nhân vật: Các nhân vật trong tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật Trần Văn Phong là một nhân vật tiêu biểu cho thế hệ trí thức trẻ của Nam bộ giai đoạn giao thời. Phong là một người học giỏi, có chí cầu tiến nhưng lại thiếu bản lĩnh, dễ bị tha hóa bởi danh vọng và tiền bạc. Nhân vật Như Hoa là một nhân vật phản diện, là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Phong. Tình huống truyện: Tình huống truyện trong tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn được xây dựng một cách hợp lý, logic. Tình huống truyện đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giúp cho nhân vật phát triển tính cách, thể hiện được quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, nhân vật. Ngôn ngữ của tác phẩm cũng được sử dụng một cách uyển chuyển, giàu hình ảnh, giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Kết luận Tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời. Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Thông Ngôn của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Thầy Chung Trúng Số
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số của tác giả Hồ Biểu Chánh. Năm 1944, đầu tháng 5, trời tối một lát thì có tiếng còi báo động thổi rang tất cả vùng Sài-Gòn, Chợ-Lớn, Gia-Định. Tuân theo luật phòng-thủ thụ-động, ai cũng lo đóng cửa tắt đèn đặng xuống hầm. Tiếng còi dứt rồi thì quang cảnh im-lìm, châu thành vắng hoe chẳng khác nào bãi sa-mạc. Cách chẳng bao lâu, mấy đoàn phi-cơ tiếp nhau bay ù-ù trên không-phận Sài-Gòn thả bom xuống nổ tưng-bừng từ Xóm-Chiếu qua phía chợ Bến-Thành làm cho nhơn-dân đều kinh hồn khiếp vía. Đến sáng người ta đồn vang có nhiều nhà tang hoang, có nhiều người vong mạng. Tôi tò-mò đi xem. Ôi thôi ! Tôi rất đau đớn mà nhận thấy tai-nạn chiến-tranh tàn khốc của thiên-hạ gây ra cho lương-dân Việt-Nam phải gánh chịu. Vừa đau lòng, vừa tức trí, tôi thả bước đi cho giải khuây, không cần tính đi đâu. Tình-cờ vô tới khúc đường Frère Louis, tôi chợt thấy một dãy phố cũ-kỹ, thấp thỏi, tôi dừng bước và ngó vào. Đây là chỗ tôi ở một thời gian, cách 34 năm về trước. Những kỷ-niệm xưa phát hiện rõ-ràng trước mắt tôi. Dãy phố 10 căn tuy cũ song vẫn còn nguyên như xưa. Căn bìa đây là căn nhà của bà Phán Lý ở. Bà là một sương phụ tuổi lối 50, bà ở với cô Thiên-Hương, con gái của bà chừng 20 tuổi, tuấn-tú dung-nhan, đoan-trang hạnh-kiểm. Bà Phán Lý luôn luôn mặc y-phục trắng bằng lụa trắng. Bà ít khi ra đường, lại cũng ít tới nhà ai mà chơi. Còn cô Thiên-Hương thì ngày như đêm cô cứ cặm-cụi thêu khăn lụa và thêu mặt giầy để gởi cho mấy tiệm bán. Căn kế đó là căn của thầy Chung ở. Thầy trẻ tuổi, đẹp trai, học đã có bằng Thành-chung mà chưa có vợ, lại mồ-côi cha mẹ, cũng không có anh em. Thầy ở đây một mình, thầy làm việc trong một nhà in lớn ở đường Kinh-Lấp, lương mỗi tháng 25 đồng. Thầy nói thầy ăn cơm tháng tại quán dì hai ở đường hẻm d’Ormay, không ai biết dì tên chi, thấy dì mập-mạp nên gọi tên dì là «Dì Hai phì lủ». Ăn cơm hai bữa, trưa được nghỉ trên lầu, phải trả cho dì mỗi tháng 10 đồng. Căn kế nữa thì vợ chồng chú thợ Tư ở. Chú làm thợ mộc trong một nhà thuốc tây ngoài đường Catinat, chú chuyên đóng thùng để gởi thuốc xuống lục tỉnh. Tôi ở căn khít với chú thợ Tư đây, ở gần hai năm êm ấm vô cùng. Còn 6 căn kế thì thầy giáo, thầy ký, thầy thông thuộc các sở ở, ai cũng có vợ như tôi, có thầy lại được mụn con nhỏ ban đêm khóc chói-lói. Hồi đó số lương của mấy thầy chỉ có vài ba chục, mỗi tháng phải trả tiền phố hết 5 đồng. May nhờ giá sanh-hoạt rẻ, lại cũng nhờ biết tiện-tặn. không coi hát bóng, không ngồi nhà hàng, nên ai cũng sống được. Lần bước về nhà, những cảnh trông thấy hôm nay, với những tưởng nhớ ngày xưa cứ trạo-trực trong trí tôi hoài, làm cho tôi ngẩn-ngơ lơ-lửng. Tối lại, ngoài sân nước mưa hè rỉ-rả không dứt. Trên án thắp đèn dầu phộng bủa yến sáng tuy không tỏ, song cũng đủ đọc sách viết văn được. Ngồi bên bóng đèn leo-lét, tôi hồi tưởng đến mấy người quen năm xưa cùng tôi chung sống trong dãy phố đường Frère Louis. Tôi nhớ chuyện thầy Chung với mẹ con bà Phán Lý, tôi bắt tức cười. Tôi cười là vì ba người nầy mường-tượng như nhơn-vật trong chuyện «La Cure de Misère“ của nhà văn-hào Pháp là François Coppé. Tôi liền lấy giấy ra viết chuyện thầy Chung, viết đặng quên thảm-họa của lương-dân vô tội mà bị sát hại rất đau, rất ức. *** Tóm tắt Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số kể về câu chuyện của thầy Chung, một thanh niên trẻ tuổi, đẹp trai, học giỏi nhưng mồ côi cha mẹ, sống một mình. Thầy Chung làm việc trong một nhà in với mức lương 25 đồng/tháng. Hàng ngày, thầy ăn cơm trưa tại quán của dì Hai phì lủ. Một ngày nọ, thầy Chung đi mua sắm ở chợ thì gặp bà Phán Lý, một góa phụ có con gái xinh đẹp là Thiên Hương. Bà Phán Lý bị thu hút bởi vẻ ngoài lịch lãm của thầy Chung nên đã ngỏ ý muốn gả Thiên Hương cho thầy. Ban đầu, thầy Chung không đồng ý vì nghĩ rằng mình không xứng đáng với Thiên Hương. Tuy nhiên, sau khi nghe bà Phán Lý kể về hoàn cảnh của Thiên Hương, thầy Chung đã đồng ý. Hai người kết hôn và sống hạnh phúc bên nhau. Thầy Chung tiếp tục làm việc trong nhà in, còn Thiên Hương ở nhà chăm lo cho gia đình. Một ngày nọ, thầy Chung trúng số độc đắc với số tiền 100.000 đồng. Thầy Chung quyết định dùng số tiền này để giúp đỡ những người nghèo khó. Thầy Chung mở một trường học miễn phí cho những trẻ em nghèo. Thầy cũng quyên góp tiền để xây dựng cầu cống, đường xá, giúp đỡ những người gặp khó khăn. Sự tốt bụng của thầy Chung đã khiến cho mọi người yêu mến. Thầy được mệnh danh là “Thầy Chung trúng số”. Đánh giá Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Thứ nhất, tác phẩm đã thể hiện được sự giao thoa của văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong tác phẩm, ta vẫn thấy được những yếu tố của văn học trung đại như lối kể chuyện truyền thống, những lời bình luận của tác giả,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác phẩm cũng có những yếu tố của văn học hiện đại như việc khắc họa tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện,... Thứ hai, tác phẩm đã phản ánh được những vấn đề của xã hội Nam bộ giai đoạn giao thời. Đó là những vấn đề như vấn đề nghèo đói, vấn đề hôn nhân gia đình, vấn đề người phụ nữ,... Thứ ba, tác phẩm đã thể hiện được tài năng của Hồ Biểu Chánh trong việc xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhìn chung, tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm đáng đọc. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam. Đánh giá chi tiết Cốt truyện: Cốt truyện của tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được xây dựng theo lối truyền thống, theo mô-típ "tình yêu - sóng gió - hạnh phúc". Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo lồng ghép những yếu tố hiện đại vào tác phẩm, khiến cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Nhân vật: Các nhân vật trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật thầy Chung là một người tốt bụng, hào phóng, luôn muốn giúp đỡ những người nghèo khó. Nhân vật Thiên Hương là một người phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng, biết lo toan cho gia đình. Tình huống truyện: Tình huống truyện trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được xây dựng một cách hợp lý, logic. Tình huống truyện đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giúp cho nhân vật phát triển tính cách, thể hiện được quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, nhân vật. Ngôn ngữ của tác phẩm cũng được sử dụng một cách uyển chuyển, giàu hình ảnh, giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Kết luận Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam.   Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Chung Trúng Số của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Sống Thác Với Tình
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Sống Thác Với Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh. Sống Thác Với Tình là tiểu thuyết thứ 63 của nhà văn Hồ Biểu Chánh, sáng tác vào năm 1957. Mời thưởng thức tác phẩm. Tóm tắt Tiểu thuyết Sống Thác Với Tình kể về câu chuyện tình yêu đầy éo le giữa hai nhân vật chính là Thanh và Mẫn. Thanh là một cô gái xinh đẹp, tài năng và có học thức. Mẫn là một chàng trai nghèo nhưng có chí cầu tiến. Hai người yêu nhau say đắm nhưng lại gặp phải nhiều trắc trở. Thanh là con gái của một gia đình giàu có. Mẹ cô là một người phụ nữ độc đoán, luôn muốn gả Thanh cho một người giàu có, có địa vị. Mẫn là con trai của một gia đình nông dân nghèo. Anh phải đi làm thuê để kiếm sống. Hai người yêu nhau nhưng không dám công khai vì sợ bị gia đình Thanh ngăn cản. Họ chỉ có thể gặp nhau trong bí mật. Một ngày, Mẫn quyết định bỏ đi để tự lập. Anh muốn có một cuộc sống ổn định để có thể cưới Thanh. Thanh đau khổ khi biết Mẫn bỏ đi. Cô tìm mọi cách để tìm gặp anh nhưng không được. Mẹ Thanh vì muốn ép Thanh lấy chồng giàu nên đã bắt cô uống thuốc độc. Thanh may mắn được cứu sống nhưng cô bị câm. Mẫn sau khi tự lập đã trở thành một người giàu có. Anh tìm gặp Thanh nhưng Thanh không nhận ra anh. Mẫn đau khổ nhưng vẫn không bỏ cuộc. Anh tiếp tục tìm cách giúp Thanh lấy lại giọng nói. Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của một thầy lang, Thanh đã lấy lại được giọng nói. Cô nhận ra Mẫn và hai người đã đoàn tụ. Đánh giá Tiểu thuyết Sống Thác Với Tình là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Thứ nhất, tác phẩm đã thể hiện được sự giao thoa của văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong tác phẩm, ta vẫn thấy được những yếu tố của văn học trung đại như lối kể chuyện truyền thống, những lời bình luận của tác giả,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác phẩm cũng có những yếu tố của văn học hiện đại như việc khắc họa tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện,... Thứ hai, tác phẩm đã phản ánh được những vấn đề của xã hội Nam bộ giai đoạn giao thời. Đó là những vấn đề như vấn đề hôn nhân gia đình, vấn đề người phụ nữ,... Thứ ba, tác phẩm đã thể hiện được tài năng của Hồ Biểu Chánh trong việc xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhìn chung, tiểu thuyết Sống Thác Với Tình là một tác phẩm đáng đọc. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam. Đánh giá chi tiết Cốt truyện: Cốt truyện của tiểu thuyết Sống Thác Với Tình được xây dựng theo lối truyền thống, theo mô-típ "tình yêu - sóng gió - hạnh phúc". Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo lồng ghép những yếu tố hiện đại vào tác phẩm, khiến cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Nhân vật: Các nhân vật trong tiểu thuyết Sống Thác Với Tình đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật Thanh là một cô gái xinh đẹp, tài năng và có học thức. Cô là hiện thân cho những người phụ nữ Việt Nam thời xưa, luôn khao khát được yêu thương và hạnh phúc. Nhân vật Mẫn là một chàng trai nghèo nhưng có chí cầu tiến. Anh là hiện thân cho những người đàn ông Việt Nam thời xưa, luôn kiên trì, nỗ lực để đạt được ước mơ của mình. Tình huống truyện: Tình huống truyện trong tiểu thuyết Sống Thác Với Tình được xây dựng một cách hợp lý, logic. Tình huống truyện đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giúp cho nhân vật phát triển tính cách, thể hiện được quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Sống Thác Với Tình được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, nhân vật. Ngôn ngữ của tác phẩm cũng được sử dụng một cách uyển chuyển, giàu hình ảnh, giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Kết luận Tiểu thuyết Sống Thác Với Tình là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn hóa Nam Bộ.   Mời các bạn mượn đọc sách Sống Thác Với Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.