Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Du Ngoạn Vòng Quanh Châu Á Trên Lưng Ngựa

Du Ngoạn Vòng Quanh Châu Á Trên Lưng Ngựa ghi lại hành trình chuyến du ngoạn của công tước Konstantin Aleksandrivich Vyazemski đến Việt Nam năm 1892. Qua đó giúp độc giả thấu hiểu hơn về lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán của các dân tộc cũng như vẻ đẹp hoang sơ và kỳ thú của phong cảnh nước ta.   VTB Nhà tài trợ chính Cuốn sách này được ấn hành nhờ sự hỗ trợ của Tổ chức Liên bang về Hoạt động của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập, của đồng bào sống ở nước ngoài và về hợp tác nhân đạo quốc tế (Hợp tác Nga) Dịch từ nguyên bản tiếng Nga Князь К. А. Вяземский Путешествие вокруг Азии верхом. Вьетнамские дневники. 1892 год Москва: Институт востоковедния РАН, 2011 ISBN 978-5-904469-32-0 © Lokid Premium Ltd, bản tiếng Việt, 2014 © Nhà xuất bản Thế Giới, bản tiếng Việt, 2014 *** Lời những người dịch Chúng tôi đã học chuyên ngành Tiếng Nga và Văn học tại nước Nga từ thế kỷ trước. Thời sinh viên, chúng tôi có biết đến Konstantin Aleksandrovich Vyazemski như một nhà khoa học, nhà văn hóa chứ không phải nhà văn và cũng chưa được đọc tác phẩm nào của ông, tuy nhiên, tên tuổi của ông vẫn được chúng tôi ghi nhớ. Vào năm 2013, chúng tôi được tặng cuốn sách tiếng Nga của Công tước Konstantin Aleksandrovich Vyazemski, có tựa đề “Du ngoạn vòng quanh châu Á trên lưng ngựa. Nhật ký Việt Nam năm 1892”. Chúng tôi đọc thấy vô cùng thú vị. Được sự gợi ý và động viên của Phó giáo sư - Tiến sĩ Anatoly Alekseeich Sokolov (người sưu tầm, biên soạn và giới thiệu cuốn sách này) và nhà thơ - dịch giả Thúy Toàn, chúng tôi đã dịch cuốn sách này. Đây là một công việc đầy hào hứng vì cả hai chúng tôi đều rất thích nội dung cuốn sách, muốn nhiều bạn đọc Việt Nam cùng thưởng thức món quà tinh thần này để biết thêm về đất nước xinh đẹp của chúng ta trong quá khứ và cũng để mà suy ngẫm về hiện tại. Công tước Konstantin Aleksandrovich Vyazemski là một nhà quý tộc Nga, ông có khát vọng đi du ngoạn khắp nơi trên thế giới để tận mắt chiêm ngưỡng phong cảnh thiên nhiên và tìm hiểu lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán của các dân tộc. Konstantin Aleksandrovich Vyazemski là một người uyên bác trong nhiều lĩnh vực, nhưng không phải là chính khách nên cách nhìn nhận của ông rất khách quan, vì vậy “Nhật ký Việt Nam năm 1892” là một tài liệu lịch sử - văn hóa có giá trị lớn đối với Việt Nam. Những gì ông viết ở đây là do ông quan sát, nhìn thấy và suy nghĩ như vậy. Ở đây có những nhận xét thẳng thắn, tinh tế và sâu sắc. Ông thích thú vẻ đẹp thiên nhiên Việt Nam khi ấy bởi sự hoang sơ và kỳ thú, làng mạc sơ sài mà vẫn có những nét đặc trưng, và ta cũng có thể thấy được cảm tình của ông đối với con người Việt Nam. Văn ông toát lên sự nhẹ nhàng, hồn hậu của một tâm hồn đầy nhân văn và sự thâm thúy, sâu sắc của một người nhiều trải nghiệm, kiến thức phong phú. Khiếu hài hước của ông góp phần không nhỏ khiến người đọc thích thú. Khi dịch, chúng tôi cố gắng chuyển tải điều này, mặc dù tiếng Nga và tiếng Việt có sự khác biệt khá lớn. Vì cuốn sách do một du khách nước ngoài viết về Việt Nam từ hàng trăm năm trước nên một số từ ngữ, mô tả, nhất là những từ ngữ liên quan đến địa danh, cây cối, hoa trái... rất khó tra cứu chính xác. Dù chúng tôi đã rất cố gắng, nhưng có lẽ vẫn không tránh khỏi những sai sót khi chuyển ngữ. Chúng tôi rất mong bạn đọc gần xa góp ý để những lần xuất bản tiếp theo được tốt hơn. TS. Hồ Bất Khuất và TS. Nguyễn Thị Như Nguyện Hà Nội, 21 tháng Sáu năm 2014 *** Lời nói đầu Những thông tin đầu tiên về Việt Nam tại nước Nga bắt đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ XIX, đây là những bài viết trên báo chí định kỳ (cả ở thủ đô và cấp tỉnh), và như thường thấy, chúng là các bản dịch từ báo chí nước ngoài, trước hết là từ báo chí Pháp. Sau đó ra đời những cuốn sách kể về vị trí địa lý Việt Nam, sự phong phú, đa dạng của thiên nhiên, phong tục tập quán và văn hóa dân tộc. Trong những thập niên cuối của thế kỷ XIX, ngày càng có nhiều người châu Âu đi du lịch các nước khác nhau ở phương Đông. Sở dĩ có được điều này một phần không nhỏ là nhờ vào việc xây dựng đường sắt và mở những tuyến đường thủy, giúp dân cư của lục địa mới và cũ vươn tới những nơi mà trước đây được xem là không tới được. Chắc chắn, những yếu tố chính góp phần vào sự “bùng nổ Phương Đông” bắt nguồn từ lợi ích địa chính trị và sự gia tăng mâu thuẫn giữa các quốc gia đang tích cực khai thác sức hấp dẫn lớn trong kế hoạch phát triển kinh tế ở các thuộc địa phương Đông. Đông Dương bắt đầu thu hút sự chú ý của Nga vào những năm 80-90 của thế kỷ XIX (khi Pháp đã thực sự củng cố vững chắc vị thế trong khu vực), và điều này liên quan đến nhận thức về triển vọng của mối quan hệ Nga - Trung, về tầm quan trọng vị trí chiến lược - quân sự của Việt Nam và các nước láng giềng trong cuộc đấu tranh đang diễn ra, nhằm phân chia lại thế giới.[1] Vì vậy, các con tàu của quân đội Nga thực hiện khá thường xuyên những chuyến đi trên Thái Bình Dương, đến các cảng biển Việt Nam như Hải Phòng, Sài Gòn, Vịnh Cam Ranh. Kết quả của những chuyến đi đó là những ấn phẩm trong các tạp chí chuyên ngành (“Tạp chí về biển”, “Tạp chí quân sự”, “Khoa học tự nhiên và địa lý”, v.v.), cũng như trên các tờ báo và tạp chí phổ biến (“Ý tưởng Nga”, “Người thương binh Nga”, v.v.). Trong số các tác giả có các nhà văn nổi tiếng (К. M. Stanyukovich, V. V. Krestovski), các nhà khoa học (A. M. Bolshakov, E. Erickson), các Nhà ngoại giao (G. de Vollan), các nhà quân sự chuyên nghiệp và thậm chí cả người kế vị ngai vàng, nhà vua tương lai của nước Nga Nikolai II. Đây là những tác phẩm văn học và chính luận có giá trị của những người Nga đầu tiên đến Việt Nam. Họ mang lại cho chúng ta không chỉ thông tin liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp của mình, mà cả những ấn tượng trực tiếp về một đất nước xa xôi, lạ lẫm đối với chúng ta.[2] *** Trong số những người đầu tiên khám phá Đông Dương, nhiều người bị cái kỳ thú, mới lạ thu hút, còn số khác thì do cố gắng làm giàu khi đã mất hi vọng làm được điều đó ngay tại quê nhà. Nhưng cũng có những người muốn thử thách chính mình trong điều kiện thời tiết và địa hình khốc liệt, và rất khó nói trong ý định của họ thì sự lãng mạn hay tính mạo hiểm - cái gì nhiều hơn. Trong số những “người chinh phục” Đông Dương ấy, có người đồng hương của chúng ta - Công tước Konstantin Alexandrovich Vyazemski (1852-1904), người có số phận rất thú vị, đồng thời rất đáng học hỏi. Tính cách của ông đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học nước nhà, nhưng đáng tiếc là cho đến nay vẫn chưa xuất hiện một công trình riêng biệt, nghiêm túc mà, không còn nghi ngờ gì nữa, nhà du ngoạn Nga này xứng đáng được hưởng.[3] Konstantin Aleksandrovich Vyazemski sinh ra trong một dòng họ được phong tước hiệu Công tước từ lâu đời, thuộc nhánh liên quan đến tỉnh Tula và tỉnh Vladimir. Ông sinh ra ở Moskva vào năm 1852, trong một gia đình quý tộc tương đối giàu có, được giáo dục tốt và có lòng tự trọng cao. Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp trường thiếu sinh quân, Vyazemski không theo đuổi sự nghiệp quân sự. Ông bị cuốn hút bởi những vấn đề đạo đức - triết học; ông quan tâm đến cách sống, phong tục, tôn giáo của các quốc gia và các dân tộc. Bởi thế, ngay từ khi còn trẻ, ông đã thích đi du lịch, hơn nữa, theo một cách khá đặc biệt - trên lưng ngựa. Ông đặt ra nhiệm vụ “nghiên cứu trái đất ở nhiều nơi khác nhau với tất cả các đặc tính”, và “nhận biết cuộc sống thực thụ của các dân tộc không bị tha hóa bởi nền văn minh phù sa”.[4] Công tước Vyazemski giải thích niềm đam mê du lịch trên lưng ngựa như sau: “...Nếu bạn muốn vào sâu lục địa một đất nước, nơi có thể nhìn thấy một cái gì đó độc đáo và đặc biệt, thì làm gì có phương thức di chuyển nào khác, bởi ngoài đường núi thì không còn con đường nào cả”.[5] Trong vòng mười lăm năm, ông đã có mặt tại các hang cùng ngõ hẻm của nước Nga, Tây Âu, châu Phi và châu Á, vượt qua nhiều ngàn cây số. Công tước ghi nhật ký thường xuyên, chỉ mới có một phần rất ít được in ở Pháp (báo “Le Figaro”), và ở báo chí nước nhà (tạp chí “Bình luận Nga”). Ngoài ra, ông trở nên nổi tiếng khắp châu Âu với những phát biểu công khai trong Hội địa lý ở Paris. Trong những năm 1881-1882, ông đi khắp Marốc và là người Nga đầu tiên đến thăm đất nước này. Trong chuyến đi gần mười tháng, kéo dài từ tháng Chín năm 1883 đến tháng Sáu năm 1884, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski đã du ngoạn đến vùng Tiểu Á, Syria, Palestin, sa mạc Sinai, Ai Cập, Sudan, Lưỡng Hà, Kurdistan, Armenia và vùng Kavkaz. Sau chuyến đi thực sự thành công của ông đến châu Phi, Công tước Vyazemski quyết định thực hiện một dự án mới, còn lớn hơn nhiều; ông đã viết như sau: “Cuộc hành trình này (lớn hơn tất cả những cuộc mà tôi đã thực hiện), tôi đặt ra mục tiêu đến tất cả các nơi của châu Á và làm một vòng tròn trọn vẹn quanh lục địa này rồi trở về, nếu Chúa cho phép”.[6] Rõ ràng, không tin vào khả năng thành công của kế hoạch hoành tráng như vậy, Hội địa lý Nga đã từ chối giúp đỡ vật chất và bảo trợ cho công tước, do đó, tất cả chi phí, ông phải tự lo liệu. Trong chuyến đi vòng quanh châu Á, bắt đầu từ tháng Bảy năm 1891 và hoàn thành vào tháng Mười một năm 1893, ông vượt qua hơn 40 ngàn cây số, đi xuyên qua Sibir đến hồ Baikal, sau đó xuyên qua Mông Cổ, trên lưng ngựa, tới Bắc Kinh. Hơn nữa, ngoài Trung Quốc ra, ông đã đến Việt Nam (hồi đó là Đông Dương, thuộc địa của Pháp), Miến Điện, Lào, Xiêm, Campuchia, Ấn Độ, Tây Tạng. Ở Campuchia, ông di chuyển bằng chiếc xe trâu kéo; ở Ấn Độ, trên lưng voi; còn ở Himalaya, bằng bò rừng Tây Tạng. Công tước bị bọn cuồng tín bản địa gây thương tích, hai lần bị cướp, bị tấn công, bị đạn bắn trúng vai, bị lưỡi lê đâm vào chân, bị bọn cướp nhốt hai tuần và trở về quê hương với bệnh dịch sốt.[7] Trong suốt các tháng dài của cuộc hành trình, Vyazemski ghi nhật ký, được đặt tên là “Du ngoạn vòng quanh châu Á trên lưng ngựa”, bao gồm gần bốn chục cuốn vở chi chít chữ viết tay rất nhỏ. Trong những năm 1894-1895, một số đoạn trích từ nhật ký của ông đã được công bố trên tạp chí “Bình luận Nga”, kể về Sibir và Trung Quốc - giai đoạn đầu của cuộc hành trình. Tất cả những phần còn lại chưa hề được in.[8] Trong ghi chép của mình, Vyazemski mô tả chi tiết ấn tượng trên đường đi về các đất nước và các dân tộc mà ông nhìn thấy, luân thường, đạo lý, phong tục, tôn giáo của họ. Tuy nhiên, thiên nhiên rực rỡ và kỳ thú của những đất nước xa lạ, những di tích lịch sử, các cuộc gặp gỡ với những người khác nhau vẫn không giải thoát ông khỏi sự bất bình nội tâm: “Nếu hoạt động của tôi chỉ hạn chế bằng cuộc du ngoạn này, thì tôi sẽ phải buồn bã công nhận rằng, tôi đã sống cuộc đời của kẻ vô dụng”.[9] Lời thú nhận này, trong một chừng mực nhất định, đã phản ánh sự khủng hoảng tinh thần mà công tước phải trải qua trong cuối những năm 1880 - đầu những năm 1890. Đó chính là khi ông bắt đầu cảm thấy sự cần thiết phải “hoàn thiện đạo đức”, gắn liền với sự tìm tòi tôn giáo và mỹ học của ông. Trong giai đoạn này của cuộc đời, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski chịu ảnh hưởng của quan điểm triết học của Lev Nikolaevich Tolstoi và hoạt động truyền bá của giám mục Macary. Với Tolstoi, công tước kết nối bằng sự quen biết thân thiện và trao đổi thư từ bạn bè, ông đã hai lần tới Yasnaya Polyana. Cuộc gặp đầu tiên với nhà văn diễn ra vào ngày 11 tháng Bảy năm 1890, cuộc gặp thứ hai sau đó một năm, vào ngày 27 tháng Sáu năm 1891.[10] Chủ đề chính của việc trao đổi thư từ giữa Vyazemski và Tolstoi là thảo luận về các vấn đề tôn giáo và đạo đức[11]; thư từ bị gián đoạn do Tolstoi bị lâm bệnh, phải đến Crưm để điều trị. Trong chuyến đi dài đầu tiên của mình, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski làm quen với giám mục Macary, trụ trì tu viện Thánh Panteleimon trên núi Aphon.[12] Và chẳng bao lâu sau đó, Macary trở thành người cha tinh thần của công tước. Thư từ và giao tiếp với giám mục Macary đã ảnh hưởng đến thế giới quan của Konstantin Aleksandrovich Vyazemski và sau đó ấn định số phận cá nhân của ông. Năm 1895, ông xuống tóc và nhận tên thánh là Kiprian tại tu viện Thánh Panteleimon, và vào năm 1900, trở thành tu sĩ Ksenofont.[13] Lev Nikolaevich Tolstoi tán thành việc công tước rời bỏ đời sống trần tục và gửi cho ông một lá thư; về việc này Vyazemski có viết cho em gái mình vào ngày 8 tháng Tư năm 1901.[14] Từ năm 1895 đến khi qua đời, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski sống trong tu viện Thánh Panteleimon. Thư từ trao đổi của Vyazemski với N. M. Sologub[15] cho biết ông là thủ thư của tu viện. Làm việc trong một kho lưu trữ các bản thảo vô giá, chỉ có thể là người có học vấn cao. Trong những năm này, Vyazemski xử lý kết quả chuyến thám hiểm của mình và đăng bài trên các tạp chí khoa học Pháp. Chiến dịch tuyệt giao với Lev Nikolaevich Tolstoi và nhà thờ tác động nghiêm trọng đến Konstantin Aleksandrovich Vyazemski. Vào đầu những năm 1900, ông lâm bệnh và tạ thế ngày 4 tháng Bảy năm 1904, sau một cơn đau tim. * * * Thành quả chính của những chuyến du ngoạn dài ngày của Công tước Vyazemski là hai tập nhật ký: “Hành trình đến Marốc” (1881-1882, lưu trữ của Hội địa lý Nga, Peterburg) và “Du ngoạn vòng quanh châu Á trên lưng ngựa” (1891-1893, Phòng bản thảo của Thư viện Quốc gia Nga, Moskva). Ngoài ra, các tập nhật ký khác và các công trình khoa học của ông, thư từ trao đổi với Lev Nikolaevich Tolstoi - được lưu giữ ở các kho lưu trữ khác nhau của Nga - rõ ràng cũng rất thú vị. Mục đích của ấn phẩm này là kể về chuyến đi của Công tước Vyazemski đến Việt Nam, tại thời điểm đó bao gồm Bắc Bộ, An Nam và Nam Kỳ, tương ứng với miền Bắc, miền Trung và miền Nam đất nước, và là một phần của cái gọi là Đông Dương thuộc Pháp. Như đã nói ở trên, phần này của cuộc hành trình vòng quanh châu Á của ông được phản ánh trong văn đàn rất ít và rời rạc. Trước cuộc hành trình dài, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski đã gửi một bức thư cho P. V. Bykov - nhà văn, nhà thư tịch học và nhà xuất bản người Moskva: “Tôi thực hiện cuộc hành trình chưa từng có từ trước đến nay, mà tôi nghĩ, sẽ khiến giới trí thức quan tâm. Tôi dự định đi vòng quanh toàn bộ châu Á trên lưng ngựa. Cuộc hành trình sẽ kéo dài từ một đến hai năm. Tôi sẽ đi vào đầu tháng Bảy. Thông tin khoa học tôi thu được trong cuộc hành trình sẽ được gửi tới Hội địa lý. Tôi xin gửi cho ngài những mô tả chuyến đi từ những nơi tôi đi qua. Tôi sẽ mang theo máy ảnh, vì vậy tôi có thể gửi cho ngài hình ảnh <...> các loài thú vị và nói chung, những cảnh sinh hoạt dân gian của những đất nước mà tôi đi qua”.[16] Ngày 6 tháng Bảy năm 1891, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski cùng với đầu bếp, phiên dịch và người hầu[17] đi tàu hỏa đến Nizhni Novgorod, từ đây đi tàu thủy theo dòng Volga và dòng Kama đến Perm. Sau đó đi bằng xe bưu điện qua Tomsk, Irkutsk, và cuối cùng đã đến Kyakhta. Tại đây, ông được bố trí mấy người Côdắc hộ tống, một trong số đó có kinh nghiệm hành trình thám hiểm đường dài là Nikolai Mikhailovich Przhevalski.[18]Tiếp theo, đường đi của ông xuyên qua sa mạc Gobi. Bỏ qua miền trung Trung Quốc, vào sáng ngày 14 tháng Ba năm 1892, Công tước Vyazemski và những người đồng hành đến thị trấn biên giới Lạng Sơn.[19] Cuộc hành trình dọc Việt Nam, có đi đến Campuchia và Xiêm, kết thúc tại Sài Gòn, vào tháng Bảy năm đó. Ở khắp mọi nơi người ta đón tiếp vị khách du lịch người Nga rất trọng thị, đôi khi rất vồ vập. Có lẽ, lý do của thái độ này có liên quan đến sự việc đã xảy ra trước đó: 1891, chuyến thăm Sài Gòn của Thái tử Nikolai năm 1891 và quan hệ hữu nghị Pháp Nga. Ngoài ra, tên của Công tước Vyazemski cũng đã khá nổi tiếng ở châu Âu. Nhưng căn cứ vào những gì được ghi trong nhật ký, điều này nếu không gây khó chịu thì ở mức độ nào đó cũng cản trở việc du lịch tự do, ông không muốn được đối xử như một chính khách. Dẫu vậy, “yếu tố đồng minh” đã giúp ông rất nhiều ở Việt Nam. Lưu ý một sự việc thú vị: Ngay trước khi bắt đầu cuộc hành trình đến Việt Nam, Công tước Vyazemski biết được rằng, trong đội quân Lê dương của quân đội Pháp có cả những người Nga bỏ trốn khỏi đất nước.[20] Vyazemski ghi nhật ký hàng ngày. Những ghi chép liên quan đến nhiều thứ khác nhau: tập quán dân tộc, lối sống hàng ngày của người Việt Nam (ông gọi họ là người An Nam) và người Pháp, trang phục, hệ thực vật, động vật, cơ cấu tổ chức hành chính, v.v. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng, ông cho rằng khoảng cách giữa Thanh Hóa và Vinh là khoảng 150 versta[i1], không phải 185 như ghi trong bản đồ của Bộ Tổng tham mưu Pháp. Các ghi chú của Vyazemski có điều đặc biệt thế này: do có nhiều kinh nghiệm trong du ngoạn, ông luôn luôn so sánh các hiện tượng, sự kiện, đồ vật ở các nước khác nhau. Đúng là cũng có những nhận định gây tranh cãi, chẳng hạn như về pháo bông - đây là một “sáng chế của địa phương (sáng chế của người An Nam), chúng được sử dụng ở tất cả các trường hợp trang trọng, đặc biệt là trong các sự kiện có tính nghi lễ. Từ đây pháo bông được đưa đến Trung Quốc, và người châu Âu lại vay mượn từ người Trung Quốc”.[21] Những cuộc gặp gỡ với đại diện của các tầng lớp quý tộc địa phương, dù là với thống đốc người Việt Nam (quan đốc) hay là với chính Hoàng đế An Nam, cũng đều rất thú vị. Ông tập trung vào vẻ bề ngoài của người đối thoại: quần áo, thái độ trong lúc trò chuyện, v.v. Khá lạ kỳ là người Việt Nam, thậm chí cả những người giữ chức vụ cao cấp, hầu như không biết gì về nước Nga. Chẳng hạn, trong một cuộc trò chuyện, quan đốc thấy Công tước Vyazemski và công sứ người Pháp (quan chức) nói chuyện với nhau thoải mái; ông rất ngạc nhiên về sự phổ biến rộng rãi tiếng Pháp ở Nga. Về nước Nga, viên quan Việt Nam này biết rất mù mờ và chỉ nghe nói đây là đất nước lạnh nhất trong tất cả các quốc gia. Khi biết Nga không phụ thuộc vào Trung Quốc, Pháp và cả Anh, vị quan chức người Việt này “thấy điều này thật lạ lùng và hỏi: tại sao người ta lại không chiếm lấy nó?”[22] Công sứ người Pháp giải thích cho ông ta rằng, “vào thời điểm này không có khả năng để làm việc đó, rằng nước Nga rộng lớn và mạnh mẽ, rất khó đánh nhau với nước Nga”.[23] Có một bằng chứng cụ thể về tính cách của Công tước Vyazemski, về ý thích mạo hiểm, muốn thử thách của ông. Khi ông quyết định đi xuyên qua những khu rừng nguyên sinh để vào sâu nội địa, viên công sứ người Pháp đã can ngăn, khuyên từ bỏ cách đi này và dọa bằng những mối nguy hiểm. Vyazemski trả lời: “...chính những điều nguy hiểm cuốn hút tôi, tôi không xem mạng sống của mình là cái gì cả”[24] Cần phải thừa nhận rằng, những ghi chép liên quan đến việc đi xuyên rừng này có những cảm xúc đặc biệt trong cách miêu tả (vẻ đẹp của hệ thực vật xích đạo dường như không thể mô tả bằng lời), chúng chứa đựng vô số những chi tiết thú vị. Những dòng chữ tuyệt vời được ông dành cho voi, cho chim, cho bướm và các “cư dân” khác của rừng nhiệt đới. Ông viết về những cuộc gặp gỡ trong các làng Công giáo với các vị linh mục nói tiếng Latinh vô cùng cảm động, chân tình. Một trong những cảnh đáng nhớ nhất trên đường được thể hiện trong nhật ký là việc đến Cố đô Huế. Thực chất, đây là một bài bút ký riêng về thành phố phương Đông được miêu tả từ các khía cạnh khác nhau: hành chính, văn hóa, chính trị, lịch sử. Hơn nữa, Vyazemski thường xuyên so sánh với những gì tương tự ông từng thấy ở Trung Quốc. Vùng ngoại ô Huế đặc biệt làm ông thích thú; ở đây, giữa những cánh rừng mỹ miều là lăng tẩm của các vị Hoàng đế An Nam. Ông mô tả chi tiết các cụm công trình kiến trúc, chỉ ra rằng “các ngôi mộ... trong đống đổ nát và được bảo quản tồi, sân phủ đầy rác”.[25] Ở đây, Vyazemski gặp vua An Nam (thời Pháp thuộc được gọi là Trung Kỳ) Thành Thái, người đã mời vị khách du lịch Nga đến cung điện của mình. Đây là một đoạn trích từ nhật ký của ông: “Hoàng đế An Nam là một cậu bé 15 tuổi... sống gần như là tù nhân trong cung điện của mình. Danh tính của ông không được xác định rõ, ông được gọi là vua, là hoàng đế; trong các văn bản chính thức ông được gọi là quốc vương vĩ đại của phương Nam, là người trị vì chính, là người được Trời lựa chọn.[26] Ông tiếp nhận ngai vàng thay người anh trai “bị lưu đày đến An-giê-ri vì bất tuân lệnh”.[27] Vyazemski mô tả mọi chi tiết trong cung điện Thành Thái, những người thân của nhà vua, các loại nhạc cung đình, các vở tuồng được diễn (“người hóa trang thành những con thú, nhảy, lăn trên cỏ”). Để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, Hoàng đế Thành Thái tặng quà cho vị khách du lịch Nga, trong đó có hai huân chương (dân sự và quân sự) Với các quyết định kèm theo, một hộp với mười huy chương hạng thấp hơn, hai cái quạt lông công lớn có cán bằng ngà voi và một chiếc lọng sang trọng. Sau này, khi còn chưa khỏi hẳn bệnh, trong một bức thư gửi cho N. M. Sologub, công tước miêu tả giai đoạn này trong cuộc hành trình của mình: “Có Trời biết, tôi có trở lại nước Nga được hay không, có được nhìn thấy tất cả các bạn hay không, sức khỏe của tôi đang lung lay, sức lực suy yếu, tôi vẫn chưa khỏi hẳn bệnh thương hàn, nó suýt mang tôi xuống mồ, và bây giờ tôi đang ở thủ đô An Nam để nghỉ ngơi, nhưng vài ngày tới tôi sẽ vượt qua những ngọn núi chưa có dấu chân người để đến Vương quốc Xiêm; chính quyền Pháp cấp cho tôi một đoàn hộ tống, còn chính phủ An Nam đã tìm cho tôi những người dẫn đường từ các bộ lạc hoang dã sống ở giữa An Nam và Xiêm. Phải đi qua khu rừng nguyên sinh nhiệt đới đến sông Mekong, nơi vẫn chưa có bất kỳ dấu chân người châu Âu nào. Chỉ cần bệnh thương hàn tha cho tôi, còn lại tôi không sợ gì cả. Tất cả chúng tôi sẽ được vũ trang đầy đủ, còn nếu có bị lạc trong rừng, có la bàn, chúng tôi sẽ thoát ra ở chỗ nào đó. Hoàng đế An Nam tặng tôi huân chương vì đã đi ngựa tới đất nước của ông, vượt qua đất nước vốn không thể đi qua được là Trung Quốc (họ cho là như vậy). Tất cả mọi người ở đây đều ngạc nhiên về chuyến đi của tôi và rất khó khăn để tin rằng, tôi có thể đến đây từ Sibir, gần như không nghỉ ngơi ở đâu cả”.[28] Điểm dân cư tiếp theo Vyazemski đến là cảng biển Turan (Đà Nẵng hiện nay) - “nơi đầu tiên quân Pháp tiến vào Đông Dương”, ông đã chú ý đến tầm quan trọng kinh tế của cảng này, nơi xuất khẩu hàng hóa sang các nước khác (quế, gỗ mun, thảo quả, v.v.), ghi nhận số lượng lớn người châu Âu và quá trình Âu hóa đủ mạnh trong thành phố (“thậm chí vợ các quan chức An Nam còn tán gẫu bằng tiếng Pháp và mặc váy liền áo kiểu châu Âu”). Tiếp theo là thành phố Tây Ninh, vùng ngoại ô có ngọn núi làm công tước đặc biệt quan tâm: từ đỉnh núi đá có thể ngắm nhìn “toàn cảnh tuyệt đẹp của đất nước”.[29] Tại ngôi đền ở đó, Vyazemski đã tham dự các nghi lễ tôn giáo, vốn được ông tái hiện cụ thể trong nhật ký và gọi là “lễ hiến sinh hoặc cúng thần linh”.[30] Vào tháng Sáu, Vyazemski đến Sài Gòn - “điểm cuối cùng trong chuyến du lịch vòng quanh châu Á”. Trên thực tế, toàn bộ cuốn vở 29 của nhật ký được dành để mô tả chi tiết Sài Gòn và khu phố Tàu là Chợ Lớn. Để tôn vinh công tước Nga, chính quyền Pháp sở tại đã tổ chức buổi tiệc chiêu đãi và chúc mừng chuyến thám hiểm xuyên châu Á kết thúc thành công, đặc biệt, các nhà quân sự và nhà báo bày tỏ sự thán phục hơn ai hết. Có lẽ từ những thông tin được cung cấp trong phần này của cuốn nhật ký, đối với bạn đọc, và đặc biệt là đối với các nhà nghiên cứu tự nhiên, những thông tin về thảo cầm viên - “nổi tiếng khắp phương Đông và là niềm vui lớn lao cho công chúng” - sẽ vô cùng lý thú và bổ ích. Vyazemski đã miêu tả các loài thực vật khác nhau (cây dương xỉ, cây thông xích đạo và nhiều loài cây khác), nhiều loài thú, loài chim trong những cánh rừng của vùng này (hổ, vẹt xanh, chim bồ câu màu xanh, rắn chuối, v.v.). Trong ngày cuối cùng của ông trên đất Việt Nam, ông đã đến thăm Chợ Lớn, khu phố mà ông mô tả rất chính xác và súc tích: “Ở đây có sự pha trộn đầy đủ giữa các yếu tố châu Âu và châu Á; mọi người ở đây say mê buôn bán, và cũng thấy có xưởng sản xuất, nhà máy; dưới sông tấp nập tàu thuyền chở đầy gạo, có nhiều máy xay xát gạo”.[31] Ông bị chấn động khi thấy ở đây thuốc phiện được sản xuất công khai như một ngành công nghiệp: “Ngoài sự vô đạo đức hoàn toàn, tôi còn kinh ngạc về sự thiển cận của các quan chức chính phủ. Họ thừa biết thuốc phiện làm suy yếu con người, làm cho họ trở nên lười biếng, mê muội, không thể làm việc, trước khi giết chết họ. Các quan chức cũng hiểu rõ rằng, các thuộc địa chỉ phát triển được nhờ sức lao động của dân bản địa, và họ nhận thức được rằng, lao động đang thiếu, và đất Nam Kỳ chưa cần vì thế thì cũng đã chưa phát huy hết tiềm năng. Thế mà họ lại còn phổ biến thuốc phiện”.[32] Sau Sài Gòn, ông tiếp tục hành trình của mình ở Campuchia, Xiêm, Miến Điện; ông ở Calcutta và Ấn Độ trong ba tháng, từ tháng Hai đến tháng Năm 1893. Sau đó, ông vượt dãy Himalaya, Tây Tạng, Pamir, Bukhara, Ba Tư, vùng Kavkaz và trở về nhà vào cuối năm 1893. Năm 1895, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski đến sống tại tu viện Thánh Panteleimon ở núi Aphon, nơi ông sống trọn những năm cuối cuộc đời. Tên tuổi của Công tước Konstantin Aleksandrovich Vyazemski bị lãng quên một cách bất công mặc dù chuyến du lịch vòng quanh châu Á do ông tổ chức và thực hiện là có một không hai, có lẽ chẳng ai sánh được với ông trong lịch sử địa lý. Đó là “... một đóng góp quan trọng vào lịch sử của khoa học bởi ông đã sử dụng phương pháp so sánh, đặc tả chính xác đặc điểm của dân cư, điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử của thời đại mình”.[33] Nhật ký của ông thú vị bởi tính khoa học và văn chương. Ở trong đó chứa đựng rất nhiều sự so sánh những đặc điểm tự nhiên, văn hóa của nhiều nước châu Á, phong tục, tập quán, đạo đức của các dân tộc khác nhau, mối quan hệ qua lại giữa người dân bản địa và thực dân. Nhiều chuyên gia, đặc biệt là các nhà địa lý nhà thực vật học, động vật học, sử học, dân tộc học, và những người yêu thích du lịch sẽ tìm thấy trong ghi chép trên đường của Công tước Vyazemski nhiều điều bổ ích cho mình. *** Văn bản nhật ký (chín cuốn vở “Việt Nam”) được giữ nguyên vẹn tối đa như khi chúng được Konstantin Aleksandrovich Vyazemski viết ra, kể cả các địa danh, tên, thuật ngữ, v.v. Trong phần chú giải chúng tôi có đưa ra những giải thích cần thiết. Do nhật ký được viết hơn một trăm năm trước, nên trong một số trường hợp, chúng tôi không thể tìm được lời giải thích đầy đủ. Tiến sĩ Anatoly Sokolov, Viện nghiên cứu Phương Đông, Viện hàn lâm khoa học Nga   Mời các bạn đón đọc Du Ngoạn Vòng Quanh Châu Á Trên Lưng Ngựa của tác giả K. A. Vyazemski & Hồ Bất Khuất (dịch) & Nguyễn Thị Như Nguyện (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bút Ký Đường Tăng - Đại Đường Tây Vực Ký
Có lẽ hình ảnh Tam Tạng pháp sư Huyền Trang (600-664) đi thỉnh kinh là một trong những hình ảnh gây nhiều ấn tượng sâu sắc và in sâu vào tâm thức của đa số người Việt Nam chúng ta nhất. Con người ấy đã vì pháp quên mình, cô thân chích ảnh, trải bao hiểm nguy, băng ngàn vượt suối, đến tận đất Phật, trong thời buổi đường đi chỉ là những lối mòn hoang sơ đầy bấc trắc, để tìm thầy học đạo suốt 17 năm trời, rồi thỉnh về nước 657 bộ kinh Phật bằng tiếng Ấn Độ. Thế nhưng, ngoài công trình Tây hành cầu pháp, phiên dịch Kinh điển, Pháp sư còn để lại tập sử liệu rất đặc sắc, " Đại Đường Tây Vực Ký ". Trong tập bút ký này, Huyền Trang đã ghi chép về 138 nước, mà phần lớn Pháp sư đã từng đặt chân đến, rồi dùng ngòi bút của một sử gia chuyên nghiệp, ghi chép rất cẩn thận. Nội dung tổng hợp cả tính Lịch sử, Địa lý và đầy đủ các giá trị văn hoá của từng nước. Có thể nói đây là một tư liệu văn hiến rất trọng yếu dùng để nghiên cứu lịch sự Phật giáo, lịch sử giao lưu giữa các nước vùng Trung Á, Nam Á. ( Hoà thượng Thích Phước Sơn Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam )   Mục lục: Lời giới thiệu của hoà thượng Thích Phước Sơn Đôi nét về tác giả Trần Huyền Trang Nhà chú giải Nhuế Truyền Minh Giới thiệu những vấn đề xung quanh tác giả và tác phẩm " Đại Đường Tây Vực Ký " Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 1) Từ nước A Kỳ đến thuỷ thành Tô Diệp Nước A Kỳ Ni (AGNI) Nước Khuất Chi Nước Khuất Chi ( Tiếp 1) Nước Khuất Chi ( Tiếp 2) Nước Khuất Chi ( Tiếp 3) Nước Bạc Lộc Già Từ Lăng Sơn đến Đại Thanh Trì Thuỷ thành Tố Diệp Địa khu tốt lợi Tổng thuật Địa khu tốt lợi Thiên truyền Thánh Đát La Tư ............. Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 2) Tổng thuật nước Ấn Độ Danh xưng Ấn Độ Cương vực Đơn vị đo chiều dài Tuế thời Nhà ở, cung điện Y phục và trang sức Ăn uống Chữ viết Giáo dục ............ Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 3) Nước Điểu Trượng Na và nước Bát lộ la Nước Điểu Trượng Na Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 1) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 2) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 3) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 4) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 5) ................ Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 12) Nước Tào Cự Thác nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na Nước tảo Củ Thác Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na ( Tiếp) Nước Đổ Hóa La Cổ Địa Nước An Đát La Phược Hoạt Quốc Năm nước: Mông Kiện, A Lợi Ni, Hạt La Hồ, Cật Lật Sắc Ma, Bát Lợi Hạt ............. Từ Đại Lưu sa trên đường đi về nước *** Quý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp. Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch.   Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v..... Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng Quý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp. Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch. Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v..... Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng chúng tôi vẫn chưa đọc được một bản nào mô tả tỉ mĩ như thế. Gần đây chúng tôi có đọc được quyển “Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh” của nhà văn Võ Đình Cường tái bản lần thứ 3 năm 2000 thì mới biết ngày 7 tháng 5 năm 1960, ông đã cho xuất bản cuốn “Huyền Trang” , nhưng lúc ấy tại quê nhà tôi chưa có cơ duyên đọc đến. Căn cứ theo lời tựa lần thứ nhất xuất bản vào năm 1960, được biết rằng nhà văn Võ Đình Cường dùng tài liệu của Học giả Lương Khải Siêu người Trung Hoa soạn và nhờ Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ dịch tài liệu ấy ra tiếng Việt; nhưng phần mình, nhà văn không cho biết ông đã căn cứ vào tài liệu nào để viết. Dĩ nhiên phải có tài liệu chính trong tay, ông mới hoàn thành tác phẩm ấy được. Vì đây là một nhân vật lịch sử chứ không phải Dã sử hoặc Huyền sử, cho nên chúng ta phải làm sáng danh điều nầy. Nhân nghiên cứu để viết lời tựa cho quyển sách quan trọng nầy, chúng tôi mới thấy bài dịch của lời tựa Vua Đường Thái Tông đã viết vào năm 648 gồm 780 chữ mà Ngài Trí Thủ và Ngài Thiện Siêu đã dịch ra tiếng Việt thật tuyệt vời. Nay chúng tôi xin trích đăng lại cho đủ ba lời tựa cho phần đầu của dịch phẩm nầy. Trong chương 5, phần XVI về việc phiên dịch Kinh Điển, nhà văn Võ Đình Cường viết như sau: “Mùa thu năm sau, phụng mệnh Vua Thái Tông, Ngài thuật cho một đệ tử là Biện Cơ chép lại cuộc Tây Du của Ngài trong 17 năm trải qua 138 nước một cách tường tận.....” Ở đây có thể phân tích một vài việc như sau: Có một điều chúng tôi thắc mắc là: “Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch” quyển nầy. Tại sao Ngài phải dịch? Lẽ ra phải nói là Ngài soạn mới đúng. Khi viết lại chắc Ngài phải viết bằng chữ Hán, nghĩa là đi đến đâu ngài chép đến đó. Chứ sau 17 năm về lại Trung Quốc làm sao nhớ hết mà kể lại cho ngài Biện Cơ soạn lại? Và một điều khó hiểu nữa - Không lẽ Ngài viết bằng chữ Phạn? - Chắc chắn là không. Vì tiếng mẹ đẻ của Ngài là tiếng Trung Hoa, khi qua đó Ngài đã 33 tuổi, trong khi tiếng Phạn chưa giỏi thì phải lấy tiếng mẹ đẻ làm chuẩn vậy. Thứ nữa ở trong Đại Tạng Kinh, Phần tựa thứ nhất cho biết Ngài đã đi 110 nước; trong khi đó ông Võ Đình Cường bảo đi đến 138 nước và ngay cả trong lời tựa thứ 2 trong Đại Đường Tây Vức Ký của Thượng Thơ Tả Bộc Xạ Yến Quốc Công Trương Thuyết có ghi là: Lời tựa của Tam Tạng Thánh Giáo do Vua Đường Thái Tông viết chỉ có 780 chữ” mà ông Võ đã viết là 781 chữ. Điều đó cũng dễ hiểu thôi vì ông cũng có nhận định rằng: “Ông Lương Khải Siêu bảo rằng Ngài Huyền Trang sang Ấn Độ năm Trinh Quán nguyên niên là sai” và ông đã chứng minh là năm Trinh Quán thứ ba mới đúng. Điều chứng minh nầy của ông Võ đúng với Đại Tạng Kinh.   Mời các bạn đón đọc Bút Ký Đường Tăng - Đại Đường Tây Vực Ký của tác giả Trần Huyền Trang.
Nam Ông Mộng Lục
H ồ Nguyên Trừng (1374-1446) tự Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông, người Đại Lại [1], tỉnh Thanh Hóa. Tổ tiên ông ở hương Bào Đột đất Diễn Châu, đến đời Hồ Liêm mới dời đến Đại Lai. Vì Hồ Liêm làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn nên đổi họ là Lê. Hồ Nguyên Trừng do vậy còn được sử cũ chép là Lê Trừng. Ông là con trưởng của Hồ Quý Ly nhưng không kế cha làm vua, mà chỉ giữ chức Tư đồ Tả tướng quốc. Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, quân Minh đã bắt được ông vào năm 1407, đưa về Bắc Kinh cùng cha là Hồ Quý Ly, em là Hồ Hán Thương và cháu là Nhuế (con Hồ Hán Thương). Vì biết chế tạo súng “thần cơ”, một thứ vũ khí có sức sát thương lớn, vượt hẳn các loại súng đương thời, Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh tha không giết và sai trông coi việc chế tạo vũ khí [2]. Từ chức công bộ doanh thiện ty thanh lại ty Chủ sự, ông dần dần được thăng làm Lang trung, rồi Công bộ Hữu thị lang, Công bộ Tả thị Lang (1436), Công bộ Thượng thư (1445). Ông mất vào tháng 7 năm Chính thống (1446), thọ 73 tuổi. Nam Ông mộng lục được viết xong vào năm Mậu Ngọ (1438), là tác phẩm duy nhất hiện còn của Hồ Nguyên Trừng. Đầu sách có bài tựa của Hồ Huỳnh, một quan Thượng thư đồng triều với Hồ Nguyên Trừng, viết năm Chính Thống 5 (1440). Tiếp đến là bài tựa của chính Hồ Nguyên Trừng viết vào năm Chính Thống 3 (1438). Rồi đến phần chính của sách gồm 31 thiên truyện. Cuốn sách có bài Hậu tự của Tống Chương, người Việt Nam, làm quan triều Minh, viết năm Chính Thống 7 (1442). Các truyện trong Nam Ông mộng lục là: 1. Nghệ Vương thủy mạt; 2. Trúc Lâm thị tịch; 3. Tổ linh định mệnh; 4. Đức tất hữu vị; 5. Phụ đức trinh minh; 6. Văn tang khí tuyệt; 7. Văn Trinh ngạnh trực; 8. Y thiện dụng tâm; 9. Dũng lực thần dị; 10. Phu thê tử tiết; 11. Tăng đạo thần thông; 12. Tấu chương minh nghiệm; 13. Áp Lãng chân nhân; 14. Minh Không thần dị; 15. Nhập mộng liệu bệnh; 16. Ni sư đức hạnh; 17. Cảm khích đồ hành: 18. Điệp tự thi cách; 19. Thi ý thanh tân; 20. Trung trực thiện chung; 21. Thi phúng trung gián; 22. Thi dung tiền nhân cảnh cú: 23, Thi ngôn tự phụ; 24. Mệnh thông thi triệu; 25. Thi chí công danh: 26. Tiểu thi lệ cú; 27. Thi cửu kinh nhân; 28. Thi triệu dư khánh (khương); 29. Thi xứng tướng chức; 30. Thi thán trí quân; và 31. Quý khách tương hoan. Nhưng nay chỉ còn lại 28 thiên (mất các thiên 24, 25 và 26), hiện được in trong các bộ sưu tập cổ của Trung Quốc như Kỷ lục vựng biên; Thuyết phu tục quyển thập tứ; Ngũ triều tiểu thuyết đại quan; phần Hoàng Minh bách gia tiểu thuyết; Hàm phân lâu bí kíp đệ cửu tập; Tùng thư tập thành sơ biên, phần Sử địa loại v.v... [3] Theo lời tựa của Tác giả, Nam Ông mộng lục được biên soạn một là để “biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa”; hai là để “cung cấp điều mới lạ cho bậc quân tử” (Nam Ông mộng lục tự). Đối với chúng ta ngày nay, Nam Ông mộng lục là một nguồn tư liệu quý để nghiên cứu về văn học và sử học nước ta đời Lý Trần, một giai đoạn mà sách vở còn lại rất ít. Dưới đây, chúng tôi dịch và giới thiệu bài tựa của Hồ Huỳnh, bài tựa của Hồ Nguyên Trừng, bài hậu tự của Tống Chương, cùng 28 thiên hiện còn, theo bản chữ Hán chép ở bộ tùng thư Hàm phân lâu bí kíp; Thư viện Viện thông tin khoa học xã hội; ký hiệu P.521 (2). Bài tựa thứ nhất ở sách “Nam Ông Mộng Lục” Kìa mặt trời, sao tỏa sáng, mây ráng phô màu, đó là vẻ đẹp của trời: núi non bủa vây, cỏ cây hoa trái, đó là vẻ đẹp của đất; danh hiệu điển chương, lễ nhạc giáo hóa, đó là văn minh của người. Khắp trong trời đất biết bao nhiêu nước, không đâu là không có nền văn minh. Nay ông Lê Trừng, tự Mạnh Nguyên, người Giao Nam [4] đang giữ chức Tả thị lang ở Bộ Công là người tư chất thông minh, tài học xuất sắc, với tôi lại là bạn cùng triều, mới rồi có đem cuốn Nam Ông mộng lục đưa cho tôi xem và nhờ viết tựa. Tôi đọc khắp một lượt, biết “Nam Ông” là tên hiệu của Mạnh Nguyên; văn ông ngắn gọn mà nghiêm cẩn, cao nhã mà hòa hợp, theo tình cảm kể việc, theo ý nghĩa đặt lời, vừa thú vị, vừa thiết thực, không truyện nào là không nhằm trình bày thứ bậc giữa vua tôi, làm rõ cái lành mạnh của luân thường đạo lý, thuyết minh chỗ thẳm sâu của tính mệnh đạo thuật, ghi chép con đường dẫn tới sự hưng phế của nước nhà. Đến như ca ngợi tiết nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể lấy đó mà uốn nắn phong tục; biểu dương thuật tác thì siêu thoát thanh tân, có thể lấy đó mà nuôi dưỡng tính tình. Với câu nói sau đây của Mạnh Nguyên kể lại nguồn phúc trạch đã hun đúc nên ông: “Ra tự hang sâu, dời đến cây cao [5], (...) sống gập triều thánh [6] tắm gội nhân Nghiêu, mà có chuyện kỳ ngộ này” [7] tôi hiểu được tấm lòng của Mạnh Nguyên và cho rằng ông là dấu tích lạ của một phương trời, nay được phô trương ở Trung Hạ [8], nổi tiếng khắp quận ấp, hoặc giả còn để lại thanh danh tới đời sau. Giá không được thánh triều ban cho trọng nhiệm Á khanh thì những chuyện ghi chép trong sách sẽ mai một ở chốn hoang xa, không ai hay biết. Nay nhờ tri ngộ mà sách này sẽ được mãi mãi lưu truyền, há chẳng phải là dịp may lớn đã cứu vãn được một nguy cơ mất mát? Vì đánh giá cao việc biểu dương cái thiện, dốc lòng vào chuyện nhân hậu, nên tôi đã không từ chối, viết vài lời vào đầu thiên sách này. Ngày rằm tháng 10 năm Canh Thân niên hiệu Chính Thống [9] 5 (1440). Hồ Huỳnh, tên chữ là Côn Lăng, giữ các chức tước: Tư đức đại phu, Chính trị thượng khanh, Thượng thư Bộ Lễ. Bài tựa thứ hai ở sách “Nam Ông Mộng Lục” Sách Luận ngữ từng nói: “Trong cái xóm mười nhà, thế nào cũng có người trung tín như Khâu này vậy” [10], huống hồ nhân vật cõi Nam Giao [11] từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì ở nơi hẻo lánh mà vội cho là không có nhân tài! Trong lời nói việc làm, trong tài năng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sách vở bị cháy sạch, thành ra những điều đó đều bị mất mát cả, không còn ai được nghe, há chẳng đáng tiếc lắm sao? Nghĩ tới điểm này, tôi thường tìm ghi những việc cũ, nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai; bèn góp lại thành một tập sách, đặt tên là “Nam Ông mộng lục”, phòng khi có người đọc tới; một là để biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa, hai là để cung cấp điều mới lạ cho người quân tử, tuy đóng khung trong vòng tiểu thuyết, nhưng cũng là để góp vui những lúc chuyện trò. Có kẻ hỏi tôi rằng: “Những người ông ghi chép đều là người thiện, vậy thì trong các chuyện bình sinh ông nghe thấy, lại chẳng có chuyện nào bất thiện ư?” Tôi trả lời họ rằng: “Chuyện thiện tôi rất mê nghe, nên có thể nhớ được; còn chuyện bất thiện thì không phải không có, chẳng qua tôi không nhớ đấy thôi”. Họ lại hỏi: “Sách lấy tên là ‘mộng’ ý nghĩa ở chỗ nào?” Tôi trả lời: “Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì đời thay việc đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mình tôi biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải ‘mộng’ là gì? Các bậc đạt nhân quân tử có thấu cho chăng? Còn ‘Nam Ông’ là tiếng Trừng tôi tự gọi mình vậy!”. Ngày Trùng cửu [12] năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Thống 3 (1438). Lê Trừng tên chữ Mạnh Nguyên, người xứ Nam Giao, tước Chính Nghị đại phu, chức Tư trị doãn, Công bộ Tả thị lang đề tựa. ------------------- [1] Đại Lại: tên hương; nay ở phía bắc sông Lèn, huyện Vĩnh Lộc. Tỉnh Thanh Hóa còn có núi Kim Âu, tức núi Đại Lại cũ. Hương Đại Lại có lẽ nằm ở vùng này. [2] Nguyên văn chữ Hán là “chuyên đốc tạo binh tượng cục súng tiễn hỏa dược”, có thể hiểu là chuyên đôn đốc việc chế tạo các thứ tên lửa và thuốc súng ở Cục chế tạo vũ khí. [3] Theo sách Trung Quốc tùng thư tổng lục (dẫn theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng soạn. Série I, tập 6, Trần Khánh Hạo, Vương Tam Khánh chủ biên, Học viện Viễn Đông bác cổ Paris xuất bản; Học sinh thư cục Đài Loan ấn hành năm 1986). [4] Giao Nam: còn gọi là Nam Giao, tức Giao Chỉ, tên nước ta thời cổ. [5] Ra tự hang sâu, dời đến cây cao (xuất tự u cốc, thiện vu kiều mộc): hai câu thơ trong bài Phạt mộc ở phần Tiểu nhã trong Kinh Thi, từng được tác giảNam Ông mộng lục nhắc đến trong bài Thi triệu dư khương (Điểm thơ để phúc về sau). [6] Triều thánh (Thánh triều): chỉ triều nhà Minh. [7] Xem Thi triệu dư khương, truyện thứ 28 trong Nam Ông mộng lục. [8] Trung Hạ: chỉ Trung Quốc. [9] Chính Thống: niên hiệu của Minh Anh Tông. [10] Xem Luận ngữ; thiên Công Dã Tràng. “Khâu” là tên của Khổng Tử. [11] Nam Giao: tức đất Giao Chỉ. Có chỗ viết là “Giao Nam”. Từ đấy trở xuống đều dịch là thống nhất là “Nam Giao”. [12] Ngay Trùng cửu: tức ngày 9 tháng 9 Âm lịch. Mời các bạn đón đọc Nam Ông Mộng Lục của tác giả Hồ Nguyên Trừng.
999 Lá Thư Gửi Cho Chính Mình
“999 lá thư gửi cho chính mình” là một tác phẩm đặc biệt đầy cảm hứng đến từ tác giả văn học mạng nổi tiếng Miêu Công Tử, mang một màu sắc riêng biệt qua những lời thư nhỏ nhắn nhủ đến người đọc về giá trị cuộc sống, tình yêu, tuổi trẻ, tương lai… đã làm lay động trái tim của hàng vạn độc giả trẻ. Cầm trên tay cuốn sách “999 lá thư gửi cho chính mình” – bạn sẽ hiểu rằng: tuổi trẻ của chúng ta dù có mong manh đến đâu thì cũng sẽ thành công vượt qua mọi khó khăn một cách mạnh mẽ ngoài sức tưởng tượng. Một ngày nào đó, bạn sẽ cảm nhận được hạnh phúc, tự tin của chính bản thân và học được cách mỉm cười trước những nỗi đau của quá khứ. Bạn sẽ biết cách nói lời cảm ơn với những ai đã rời bỏ bạn, hiểu ra rằng họ không phải người thích hợp để cùng đồng hành với bạn trên đoạn đường chông gai đi tới tương lai. Đôi lúc bạn có thể yếu đuối mỏi mệt rơi nước mắt, thế nhưng khi bất chợt nhìn lại, bạn sẽ thấy thì ra mình đã rất mạnh mẽ, dũng cảm đi hết cả một quãng đường dài. “999 lá thư gửi cho chính mình” – Mong bạn trở thành phiên bản hoàn hảo nhất. Cái gọi là vẻ đẹp nội tâm luôn luôn tốt hơn vẻ bề ngoài hào nhoáng, hy vọng bạn sẽ mãi luôn kiên cường, dũng cảm đứng ở nơi ánh sáng chiếu rọi, sống tốt một cuộc sống mà mình hằng mong ước. *** Review Linh Naby: Có rất nhiều bạn trẻ hiện nay cảm thấy thất vọng với con người hiện tại của chính mình. Điều đáng sợ chính là, đám đông ấy không hề bé tẹo nào. Họ giắt trên mình đôi ba điều đẹp đẽ ngủ im trong quá khứ, để rồi chấp nhận cuộc sống tù túng, nhợt nhạt, vô vị, thậm chí hoang đường đến mức không tưởng tượng được. Thuở bé ai cũng nghĩ mình sẽ thực hiện nghĩ việc lớn lao, vĩ đại nhưng càng lớn lên chúng ta càng thu bé khả năng, tự thôi miên ngủ yên trong lớp vỏ bọc lớn xác, vô dụng. Chúng ta không biết rằng mình sẽ trở thành một người vô cùng tuyệt vời nếu chấp nhận thay đổi. Thưởng thức 999 Lá thư gửi cho chính mình của nhà văn học mạng Miêu Công Tử chính là cách để ta vạch ra lộ trình trở thành phiên bản tốt đẹp nhất của bản thân ngay từ hôm nay. Với lối văn tản mạn giản dị nhưng cực kì sâu sắc qua từng lá thư nhỏ bé đó, bạn có thể tìm thấy cho mình những quotes “chất như nước cất” mà lạ lùng thay lại thấm đẫm chất nhân văn vô cùng. Mỗi người sẽ chiêm nghiệm ra một giá trị sống, nhân sinh quan khác nhau nhưng tựu chung đều hướng đến một mục đích cuối cùng: đọc để tìm về chính mình ngày xưa, dũng cảm đối diện với nó và khám phá phiên bản tốt nhất của chính mình. Có nhiều người đánh giá, đây là một cuốn sách tản văn nhuốm màu self-help đáng đọc. Cũng có người phê phán nó có quá nhiều câu hoa mỹ, tựa như đứa bé tưởng mình đã lớn nhưng sâu thẳm tâm hồn vẫn ngây ngô về thế giới. Dù thế nào đi nữa, 999 Lá thư gửi cho chính mình thực sự là một cuốn sách gieo vào lòng tôi những cảm xúc rất lạ. Mỗi con chữ của từng bức thư đều khiến tôi nhớ rõ, thậm chí là tự động khắc ghi và học thuộc lòng. Cuốn sách 999 Lá thư gửi cho chính mình có hai tập. Tập 1 gồm 561 lá thư. Những lá thư còn lại ở bản kế tiếp. Điều đầu tiên tôi thắc mắc, đó chính là, vì sao lại là số 999 mà không phải 1000? Con số ấy nó đại diện cho điều gì? Khi người ta đọc, thường sẽ ít ai để tâm đến tựa đề tác phẩm. Nhưng điều kì lạ là đó mới là nơi tác giả cất chứa, gạn lọc tinh túy của tác phẩm. Khi nhắc đến con số 999 xin bạn hãy nhớ rằng “tam cửu” ấy chính là điềm lành. Không phải ngẫu nhiên mà vua Hùng đặt ra cho Sơn Tinh và Thủy Tinh lễ vật thách cưới là “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Mọi sự sắp đặt đều có ý nghĩa riêng của nó. Số 9 là con số may mắn nhất bởi nó tượng trưng cho sự tròn đầy, vẹn toàn của trời và đất. Nó gắn liền với sự trường cửu, quyền lực, sức mạnh của tự nhiên và sự cân bằng. Từ đó, ta có thể hiểu được dụng ý của Miêu Công Tử tức là truyền gửi một thông điệp rằng, hãy sống là chính mình hoàn hảo nhất, tốt đẹp nhất để mỗi  một trang đời mà bạn sống không phải là “bản nháp” nhàu nhĩ, đen xì với những vết đen của ân hận, tức tưởi do số phận tác động vào. Ngày nay, mỗi chúng ta đã quen với sự hiện diện của những tin nhắn công nghiệp nhanh chóng và mau lẹ. Chúng ta quên mất giá trị của những bức thư tay. Những bức thư luôn đong đầy cảm xúc và tràn đầy sự lãng mạn, ấm áp. Đừng cười cợt khi bất cứ ai làm một điều gì đó lãng mạn giữa cuộc sống khô khan, tẻ nhạt, lạnh lẽo này. Nếu bạn thấy điều ấy nực cười thì bạn phải, bạn nên, bạn cần đọc cuốn sách này lập tức và ngay bây giờ. Xin đừng chậm trễ việc gửi đến bản thân mình một phiên bản xinh đẹp hơn, sáng suốt hơn, trầm tĩnh, tốt đẹp hơn giữa thế gian này nếu có thể. Hãy xứng đáng với ước mơ của chính bản thân mình. Hãy nhớ “thay đổi chẳng bao giờ dễ dàng, nhưng điều đó luôn luôn khả thi”(Barack Obama). Lời nhắc nhở từ Những bức thư gửi chính mình – Mỗi ngày đều phải sống nghiêm cẩn Cuộc sống của ta như thế nào, đều do chính chúng ta quyết định mà nên. Hãy nghiêm cẩn sống cho xứng đáng với tuổi trẻ của mình. Hãy nhớ 999 lá thư và lắng nghe chút thơ ca lãng mạn nho nhỏ giữa cuộc đời chật chội:  Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó Sao ta không tròn ngay tự trong tâm   (Nguyễn Quang Hưng) *** Cuốn sách 999 lá thư gửi cho chính mình của Miêu Công Tử mang đến cho người đọc những bài học ý nghĩa. Trong lúc bạn bi quan, lạc hướng thì cuốn sách này sẽ tạo cho bạn động lực để vượt qua phong ba tuổi trẻ. Cuộc đời này luôn luôn tồn tại rất nhiều khó khăn, chông gai và thử thách. Lắm khi chúng sẽ làm cho bạn đau khổ, khiến bạn bất lực, khiến bạn nản lòng muốn buông xuôi mọi thứ. Nhưng hãy luôn nhớ rằng những đau khổ của bạn cũng chỉ như chiếc lá nhỏ giữa rừng thu đầy lá. Bạn nghĩ mình đau khổ nhưng người khác càng bất hạnh hơn. Đừng chỉ vì một thất bại nhỏ mà bi quan. Ngày tháng còn dài, tương lai vẫn còn ngay trước mắt, tuyệt nhiên không cần phải bi quan. Còn trẻ còn cơ hội, cần gì phải lãng phí tuổi trẻ cho những thất bại không thể vãn hồi? Hãy mỉm cười, lạc quan lên và luôn tin rằng mình làm được. Bắt đầu từ hôm nay, mỗi ngày hãy luôn nở nụ cười trên môi, trên đời này ngoài sinh tử ra mọi sự đều là chuyện nhỏ. Cho dù gặp phải chuyện phiền lòng cũng đừng tự làm khó mình, bất luận hôm nay xảy ra bao nhiêu chuyện đen đủi, đều không nên cảm thấy bi thương. Hôm nay là ngày bạn trẻ nhất trong những ngày tháng sau này, vì còn có ngày mai, hôm nay mãi chỉ là bước khởi đầu của con đường tương lai. Mỉm cười luôn là cánh cửa đầu tiên dẫn lối cho hạnh phúc. Hãy luôn mỉm cười và cho bản thân mình một cơ hội để sống tốt hơn, ý nghĩa hơn. Tác giả của cuốn 999 lá thư gửi cho chính mình Miêu Công Tử là một người luôn sống với nụ cười luôn ở trên môi. Miêu Công Tử quan niệm rằng bất luận bạn gặp phải nghịch cảnh ra sao thì cũng hãy luôn là một người lạc quan, vui vẻ. Mình sinh ra đâu phải để buồn, để đau vì những điều không đáng, những người không đáng. Sao phải khóc vì họ, buồn vì họ? Cho dù cuộc sống có hàng nghìn lý do khiến bạn khóc, bạn cũng phải tìm cho mình một lý do để cười, bởi lẽ đó chính là cuộc đời, những gì chúng ta có thể làm chỉ là khiến bản thân mạnh mẽ hơn mà thôi. Mất mát và nước mắt là một phần của cuộc đời, bạn không thể tránh khỏi nó được. Chúng ta chỉ có thể mỉm cười lạc quan để mạnh mẽ vượt qua đớn đau. Quá trình bạn trải qua đớn đau chính là quá trình khiến bạn mạnh mẽ hơn. Lạc quan để mạnh mẽ, vui cười để hạnh phúc, đó là bí kíp lớn để tuổi trẻ của chúng ta không trôi qua vô nghĩa. Đừng mãi "mua dây buộc mình" vào những đau khổ, thất bại vì "phiền muộn không giữ qua đêm mới là hạnh phúc".  Không cần phải cố lấy lòng tất cả mọi người Cho dù bản thân bạn tốt đến như thế nào đối xử tốt với họ ra sao thì họ cũng sẽ sẽ không bao giờ hoàn toàn hài lòng với bạn. Có những người bạn không tốt thì họ khinh mà bạn tốt thì họ ghét. Họ luôn nói xấu sau lưng bàn tán ra vào, cứ phán xét về mình theo cảm nhận chủ quan của họ một cách quá đáng. Cuốn sách "999 lá thư gửi cho chính mình" luôn khuyên chúng ta rằng không cần phải giữ phiền muộn trong lòng, càng không cần quan tâm thiên hạ phán xét mình ra sao, bình luận thế nào. Nói là quyền của họ, còn buồn hay vui khi nghe những lời ấy là chuyện của mình. Không cần để ý người khác để ý gì chỉ cần làm tốt việc của mình. Suy nghĩ quá nhiều về những lời nói ác ý, oán hận quá nhiều về những người không hiểu mình chỉ làm bản thân thêm mệt mỏi mà thôi. Đến tầm này rồi, chẳng còn muốn lấy lòng ai nữa. Dù là người yêu hay bạn bè, ai khiến mình thấy thoải mái thì mình ở bên người đó, mệt rồi thì tránh xa người đó. Lấy lòng người khác vĩnh viễn không thể sánh với tự tạo niềm vui cho mình. Thà cô đơn chứ không dối lòng, thà hối tiếc chứ không tạm bợ. Người có thể bước vào trái tim tôi, đối đãi như quân vương, còn không thì tôi chẳng cần nhắc đến. Cuộc đời này là của bạn, không cần phải cố hết sức lấy lòng cả thiên hạ, được lòng tất cả mọi. Sống cốt là để vui vẻ, để thoải mái chứ không phải để nhọc lòng khiến mọi người đều thích mình còn bản thân thì vô cùng mệt mỏi. Lấy lòng người khác để khiến họ thích mình vĩnh viễn không thể vui vẻ bằng việc tự tạo ra niềm vui cho chính mình. Vì thế nên bạn hãy biết yêu thương bản thân một chút, biết phấn đấu cho bản thân một chút. Chỉ cần mình tốt thì sẽ có người thích bạn mà không cần phải cố lấy lòng họ: "Nếu bạn nở hoa bươm bướm tự bay đến, nếu bạn xuất sắc trời tự an bài.". Còn người không thích bạn khi bạn thật sự tốt thì đó thật sự không phải là một người hợp với bạn, đã không hợp thì cũng không cần phải luyến tiếc.    Mời các bạn đón đọc 999 Lá Thư Gửi Cho Chính Mình của tác giả Miêu Công Tử.