Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

13.67

Lần đầu tiên, trinh thám Hồng Kông đến Việt Nam! Hồng Kông Hồng Kông. Vùng đất nổi tiếng với Cửu Long Trại Thành, nơi từng có mật độ dân cư cao nhất thế giới, nhà cửa san sát đến mức nắng không len nổi xuống đất, có thể đuổi bắt cả ngày bên trên không cần xuống đường, nơi nhung nhúc cô hồn các đảng, nghiện hút, mại dâm, thịt chó trốn thuế và bác sĩ không giấy phép hành nghề… Hồng Kông, vùng đất nổi tiếng với nhũng nhiễu tham ô, có thời cứ vài chục cảnh sát lại lọt một người do xã hội đen bao nuôi, quá đông đảo đến mức không thể đưa ra tòa, chỉ còn cách đặc xá. Hồng Kông, vùng đất nổi tiếng vì phong trào tự phát, chút xích mích nhỏ cũng có thể bùng ra thành bạo động. Có những năm mìn tự làm cài cắm khắp nơi, và sẵn sàng gửi đến tận nhà cho bất cứ ai dám công khai phản đối. Kim Dung cũng là một trường hợp như vậy. Sau quả bom gửi đến tận nhà và phát nổ ngay ở sân, ông đành phải đưa cả gia đình sang Singapore lánh nạn… Hồng Kông, vùng đất chơ vơ ngoài khơi cùng lối sống bản năng chỉ cốt sinh tồn ấy, đã vun xới một thể loại trinh thám dị thường, mà ta sẽ thấy ở 13.67 này. Từ nền tảng trinh thám cổ điển đậm chất suy luận, Chan Ho Kei đã lồng vào quan điểm phá án riêng của anh: cách thức có thể đen, nhưng mục đích phải trắng. Cũng có nghĩa, miễn là lôi được tội phạm đích thực ra ánh sáng, còn thì dùng thủ đoạn ngóc ngách thậm chí lừa phỉnh thế nào cũng được. Quan điểm đó càng trở nên quái lạ và mạo hiểm, khi nhân vật thám tử ở đây lại là một cảnh sát, đại diện cho tinh thần thượng tôn chính nghĩa và pháp luật. Cả quá trình phá án, anh ta luôn đi trên một con đường rất mong manh giữa chính và tà, không cẩn thận thì chính bản thân lại biến thành kẻ phạm pháp. Cũng vì quái lạ và mạo hiểm, nên 13.67 chứa đựng sức hút riêng có ta chưa từng thấy ở trinh thám bất cứ nơi đâu. Kết hợp với lối kể đảo ngược, câu chuyện thành ra sâu hun hút với một sự thật bất ngờ giấu kín dưới đáy, khiến ta vừa đọc xong lại phải hộc tốc giở ngay về phần đầu. 13.67… *** Tác giả Chan Ho Kei:  Tốt nghiệp khoa Khoa học máy tính trường Đại học Trung văn Hồng Kông, thành viên Hiệp hội Trinh thám Đài Loan (MWT). Nhà văn trinh thám và khoa học viễn tưởng Hồng Kông, đã được vinh danh và đoạt rất nhiều giải thưởng chuyên môn trong thế giới Hoa ngữ. Năm 2008, lọt vào chung kết Viết văn lần 6 của MWT với truyện thiếu nhi Jack và hạt đậu thần. Năm 2009, giải nhất Viết văn lần 7 của MWT với truyện thiếu nhi Căn phòng bí mật của Lão Râu Xanh. Năm 2010, giải ba Comic Ritz Million Novel với Suy luận hợp lý. Giải ba Tiểu thuyết Khoa học Viễn tưởng Nghê Khuông với Thời gian là vàng bạc. Năm 2011, giải nhất Tiểu thuyết Trinh thám Soji Shimada với Hình cảnh mất trí. Năm 2014 Chan Ho Kei bắt đầu bước ra khỏi thế giới Hoa ngữ nhờ tác phẩm đỉnh cao 13.67, trước tiên đoạt giải tại Triển lãm Sách Quốc tế Đài Bắc 2014, lập tức được nhượng quyền xuất bản ở Hàn, Mỹ, Pháp, sau đó một cơn bùng nổ nho nhỏ về sức chiếm đóng trên bảng xếp hạng trinh thám bán chạy ở các nước này đã mau chóng đẩy 13.67 đến Thái, Nhật, Anh, Canada, Ý, Hà Lan, Việt Nam… Chan Ho Kei cũng khá sung sức trong mảng khoa học viễn tưởng. Đến giờ đã xuất bản: Mật sứ hắc ám (đồng sáng tác với Cao Phổ), Kẻ may mắn sống sót, Người bong bóng, Bọ ma và light novel Theo dấu pháp thuật. Năm 2015 anh hợp tác với Sủng Vật Tiên Sinh, người từng đoạt giải nhất Tiểu thuyết Trinh thám Soji Shimada 2001, để cùng viết nên tác phẩm mới có tên S.T.E.P. *** Tác phẩm kể về cuộc đời nghề nghiệp của một tranh tra cảnh sát Hồng Kông, đồng thời dắt chúng ta đi qua một giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước này. Nhân vật chính là Quan Chấn Đạc, được miêu tả như người hùng của cảnh sát Hồng Kông, với tỉ lệ phá án thành công lên tới 100%. Truyện gồm 6 chương, 6 vụ án, kể theo dòng thời gian ngược, từ năm 2013, khi Quan là một ông lão mất ý thức trên giường bệnh, lần về năm 1967, khi Quan còn là cảnh sát tuần tra quèn (tên truyện 13.67 là kết hợp của 2 mốc thời gian này).  Về nhân vật, Quan, nhân vật trung tâm được xây dựng rất tốt. Ấn tượng qua những lời giới thiệu ở chương đầu, thán phục qua những màn suy luận "đi trước cả 10 bước", và kính nể qua lý tưởng nghề nghiệp mà ông thể hiện xuyên suốt cuốn sách. Là một người làm công việc trị an, Quan tuy phải chịu áp lực rất lớn từ dư luận và cấp trên, nhưng ông không bao giờ quên lý tưởng "phải bảo vệ người dân vô tội" của mình. Dù xét từ góc độ quản lý, kết quả của đại cục mới là quan trọng nhất, dù phải hi sinh một vài dân thường, thì đó vẫn được coi như "thiệt hại ở mức chấp nhận được". Quan, là thanh tra cao cấp, tất nhiên, ông phải ưu tiên phá án lên hàng đầu, nhưng song song đó, ông vẫn luôn để mắt tới từng chi tiết nhỏ nhất để đảm bảo không một dân thường nào bị liên luỵ. Một anh hùng của cả chính phủ và nhân dân. Bên cạnh Quan là đệ tử Lạc Tiểu Minh. Tôi thấy hơi tiếc cho nhân vật này, khi anh chỉ toả sáng ở chương đầu tiên, mờ nhạt dần ở 3 chương tiếp theo và... mất hút ở 2 chương cuối. Cũng phải thôi, truyện kể theo hướng lùi dần về quá khứ, nên khi Quan mới vào nghề thì Lạc không có mặt là đương nhiên. Và vì thế, yếu tố kế thừa di sản và tư tưởng của người thầy trở nên kém nổi bật. Thời lượng cho Lạc khá ít, và chỉ tập trung ở 2 chương đầu, nên ta mới chỉ thấy được sự sắc xảo trong suy luận của anh, chứ chưa kịp hiểu rõ về lập trường và cá tính của anh lắm. Nếu coi đây là màn giới thiệu nhân vật, để anh thực sự bung lụa ở phần tiếp theo (nếu có) thì tôi hoàn toàn đồng ý, nhưng nếu chỉ xuất hiện kiểu đầu voi đuôi chuột, nửa thứ chính nửa phụ như vầy, tôi thấy hơi phí phạm.  Về chất trinh thám, thì đây là đúng là một đại tiệc. 6 vụ án độc lập, tính chất, thủ đoạn, động cơ, bối cảnh đều khác nhau. Giàu tình tiết, logic cao, lật mở liên tục. Hiếm có cuốn nào mà sự gay cấn lại đa dạng và được duy trì với mật độ cao như vậy. Nếu chỉ tính riêng chất trinh thám thôi thì tôi cho 4/5. Tuy hấp dẫn nhưng không thể cho cao hơn được vì vai phản diện không nổi bật. Phải gọi là "các" phản diện mới đúng. Cuốn sách 550 trang, chia cho 6 vụ án là mỗi cuốn khoảng 90 trang, chỉ vừa đủ để khắc hoạ vai chính diện và tình tiết vụ án, nên đã không thể đi quá sâu vào quá khứ hay nội tâm kẻ gây án được. Có động cơ rõ ràng đấy, nhưng để đồng cảm được thì cần nhiều thời gian xây dựng nhân vật hơn.  Về cách kể, thì đây là điểm yếu nhất. Việc chia thành các câu chuyện nhỏ và đi theo hướng kể ngược về quá khứ, thì dĩ nhiên, điều tôi mong muốn (và tôi tin mọi người cũng vậy) là một cái kết bất ngờ và có tính liên kết các câu chuyện lại làm một. Nhưng 13.67 đã không làm được.  Cái kết có bất ngờ không? Có. Nhưng có kết nối các phần trước thành mội câu chuyện lớn không? Thì không!  Điều duy nhất mà plot cuối truyện làm được là khiến tôi phải giở lại chương đầu một chút, còn thứ mà tôi mong chờ là lật lại TOÀN BỘ cuốn sách cơ. Có thể tôi tham lam hay kì vọng quá cao, nhưng sự hấp dẫn trong từng câu chuyện và cách kể đã gieo vào đầu tôi sự trông chờ cho một cái kết thuyết phục hơn vậy. Hoá ra 6 câu chuyện tưởng như độc lập lại... thật sự độc lập. Sợi dây duy nhất là nhân vật chính Quan, nhưng bản thân ông ở 6 giai đoạn cũng không có sự liên kết nào hết, không có 1 chuỗi nhân-quả hay biến chuyển nào hết, không có một câu chuyện lớn xuyên suốt khiến tôi hơi có cảm giác bị phản bội.  Về bối cảnh, tác giả chọn 2 mốc là 30 năm trước và 16 năm sau của năm 1997 - năm mà Anh Quốc trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc. Nói như vậy không có nghĩa truyện xoáy sâu vào vấn đề chính trị (ban đầu tôi cũng tưởng như vậy), mà truyện tập trung vào sự "kém ổn định" của an ninh, biến Hồng Kông giai đoạn này trở thành thiên đường của tội phạm. Qua đó nhấn mạnh chủ đề chính là lòng tin và kì vọng của nhân dân với lực lượng trị an và chính quyền. Các vấn đề xã hội khác như tranh giành quyền lực, báo thù, đạo nghĩa giang hồ, tham ô, hối lội, tình yêu, gia đình... cũng xuất hiện rất phong phú, tuy không đi quá sâu nhưng tô điểm được cho bức tranh xã hội phức tạp và đầy rẫy những vấn đề, tạo nên bối cảnh chất lượng cho các vụ án.  Tóm lại, so với mặt bằng chung thì đây là cuốn trinh thám HAY, (các) vụ án chất lượng, tính logic cao, duy trì được sự kịch tính, bối cảnh thú vị. Tuy không có phản diện ấn tượng và tính liên kết giữa các chương khá yếu, nhưng đó là do tôi kì vọng cao quá mà thôi. Sài Gòn , ngày 18 tháng 7, 2020 Phúc *** 13.67 là 6 truyện ngắn được kể theo trình tự ngược thời gian, từ thời điểm năm 2013 đến 1967, chính là nguồn gốc khai sinh ra cái tên 13.67, xoay quanh hai thầy trò cảnh sát Quan Chấn Đạc, Lạc Tiểu Minh và những sự kiện lịch sử có thật ở Hongkong trong chính giai đoạn này. Chỉ 6 câu chuyện mà án gì cũng đủ cả, giết người, bắt cóc, buôn ma tuý, vượt ngục, đánh bom, tưởng như rời rạc không liên quan, nhưng lại tạo thành một xâu chuỗi hoàn hảo tất cả các sự kiện, con người, ân oán của mấy mươi năm lịch sử. Mình sẽ không bao giờ nhấn mạnh đủ tầm quan trọng của một cái đầu lạnh tập trung cao độ khi đọc quyển sách này. Ngay từ vụ 1 tác giả đã cho độc giả vào những khúc cua khét lẹt đến sợ hãi, sợ là vụ đỉnh như thế này cho lên đầu rồi về sau không còn chiêu bài nào hay nữa. Nhưng mình vẫn bị tác giả lừa phút một. Chỉ cần mình vừa khinh thường nghĩ đã “bắt bài” được tác giả thì giây sau đã ngớ ra tác giả cầm ba đôi thông. Tóm lại, phải critical thinking đến dấu chấm câu cuối cùng, còn thở là còn gỡ.  Nếu 13.67 đơn giản là một cuốn trinh thám mình thích, thì mình thức xuyên đêm đọc một lèo là xong. Nhưng với 13.67, mình lại phải chia ra đọc chậm rãi từng vụ một, thậm chí dừng đọc ngay trước khoảnh khắc vạch trần hung thủ. Bởi giống như rượu ngon không ai tu cả chai, sách hay là phải nhâm nhi để thấm.  Chắc bạn đang đặt ra câu hỏi là “Mình sẽ học được gì từ mấy tay thanh tra hình sự già cỗi ở Hongkong?” nhỉ Mình cũng từng nghĩ thế đấy, ấy vậy mà tổ nghề đọc trinh thám quật cho không kịp trở tay, cứ phải đánh dấu trang lia lịa. Thú thực là nghiệp đọc trinh thám của mình chưa bao giờ phải highlight sách nhiều như thế.  Không chỉ về cách lập luận, tư duy logic (như thầy Quan hay mắng anh Lạc là cứ nhầm lẫn nguyên nhân với kết quả) mà mình còn được học về cách nhìn người, cách áp dụng những thứ tưởng chừng rất lý thuyết vào thực tế như “song đề tù nhân”.  Và quan trọng hơn tất thảy, quyển sách này đã củng cố niềm tin vào một trăn trở bấy lâu của mình: Tại sao ta cần đọc sách? Và quan trọng hơn nữa, tại sao ta cần đọc tiểu thuyết hư cấu? Ngoài những lý do sáo rỗng đã nghe mòn tai như đọc sách để sống nhiều hơn một cuộc đời, hay đơn giản là một thú vui, đọc 13.67 bắt mình phải đặt ra câu hỏi cho bản thân: nếu mình là Quan Chấn Đạc hay Lạc Tiểu Minh, trong tình huống éo le như thế, mình sẽ hành xử ra sao? Mình có dám theo đuổi công lý và nguyên tắc của bản thân đến cùng hay không? Chỉ có tiểu thuyết mới mang lại cho chúng ta những câu hỏi ta không biết mình đang tìm kiếm, cần ta phải thực sự soi chiếu chính mình để trả lời.  Gấp quyển sách lại,  mình lại về làm một cô sinh viên bình thường, không còn băng đảng lăm le, cảnh sát trắng đen lẫn lộn, chỉ còn niềm tin rằng “chính nghĩa thì không nói bằng lời”. an nhi 27/02/2021 *** Thanh tra Lạc căm ghét mùi bệnh viện, nhất là thứ mùi hăng hắc của nước khử trùng lẩn quất trong không khí. Chẳng phải vì có kí ức đau buồn gì ở đây, mà chỉ đơn giản là thứ mùi đó gợi nhớ đến nhà xác. Dù đã làm cảnh sát hai mươi bảy năm, nhìn thấy biết bao thi thể, anh vẫn khó lòng quen với mùi này. Nói chung, ngoài những kẻ biến thái đam mê tử thi ra, chắc không ai trông thấy người chết mà vui cho được. Lạc thở mạnh, nỗi bất an vẫn không vợi bớt, tâm trạng còn nặng nề hơn cả khi theo dõi khám nghiệm tử thi trong nhà xác. Anh mặc bộ vest màu lam chỉnh tề, buồn bã nhìn người đang nằm trên giường bệnh. Bệnh nhân trong căn phòng đơn này là một ông lão tóc pha sương, gương mặt đầy nếp nhăn lấp ló dưới mặt nạ thở oxy, hai mắt nhắm nghiền, làn da tái nhợt, cánh tay lấm tấm đồi mồi cắm những ống nhỏ nối với mấy cái máy trị liệu đang hoạt động. Màn hình 17 inch gắn trên đầu giường hiển thị các số liệu như mạch đập, huyết áp, lượng oxy trong máu... Đường đo nhịp tim chạy chầm chậm từ phải qua trái thỉnh thoảng nhấp nhô, nếu không thì chắc ai cũng nghĩ ông lão này chết rồi, và nằm trên giường chỉ là một thi thể được bảo quản tốt mà thôi. Ông lão là sư phụ của Lạc, ông đã dạy anh điều tra, thu thập chứng cứ, lập luận phá án bao nhiêu năm nay, nhưng chính ông lại thường không hành động theo một quy tắc cố định nào. “Tiểu Minh à, phá án không thể chỉ biết chăm chăm làm theo nguyên tắc. Ngành này đã có quá nhiều thành phần bảo thủ máy móc rồi. Mặc dù phục tùng mệnh lệnh cấp trên là lẽ đương nhiên, nhưng con phải nhớ, bảo vệ người dân mới là nhiệm vụ thực sự của cảnh sát. Nếu chế độ đẩy người vô tội vào hiểm nguy, chính nghĩa không rõ ràng, bấy giờ chúng ta có lý do chống lại chế độ trì trệ đó.” Nhớ lại câu cửa miệng của thầy, Lạc không khỏi gượng cười. Tên đầy đủ của anh là Lạc Tiểu Minh. Mười bốn năm nay, kể từ ngày lên chức quyền thanh tra, hầu như không còn đồng nghiệp nào gọi thẳng cái tên mộc mạc đó nữa. Chỉ có thầy vẫn kêu anh là “Tiểu Minh”. Đối với chỉ huy Quan Chấn Đạc, Lạc cũng như con đẻ của ông. Trước lúc nghỉ hưu, Quan là tổ trưởng tổ B Phòng Tình báo Hình sự tại Bộ chỉ huy. Phòng Tình báo hình sự, gọi tắt CIB, là cơ quan tình báo trung ương của ngành cảnh sát, phụ trách thu thập, phân tích và nghiên cứu tin tức tội phạm của các khu vực, rồi phối hợp với các phòng ban khác lập kế hoạch hành động. Nếu coi CIB là não bộ của ngành cảnh sát, thì tổ B chính là thùy trước trán, làm nhiệm vụ phân tích, tổng hợp và tìm ra sự thật từ muôn vàn manh mối rối như tơ vò. Quan bắt đầu dẫn dắt tổ hạt nhân này từ năm 1989 và trở thành linh hồn của CIB. Năm 1997 chuẩn bị về hưu, ông nhận Lạc Tiểu Minh, điều tra viên mới được thuyên chuyển về tổ B làm đệ tử cuối cùng. Chỉ huy Quan chính thức làm cấp trên của Lạc chỉ trong nửa năm, nhưng sau khi nghỉ hưu, ông làm cố vấn hợp đồng cho ngành cảnh sát nên vẫn có nhiều dịp chỉ bảo cậu hậu bối kém mình hai mươi hai tuổi này. Đối với người không có con cái như chỉ huy Quan, Lạc chẳng khác nào con đẻ. “Tiểu Minh à, đấu trí với nghi phạm giống như đánh bài, phải để đối thủ đoán sai át chủ bài của mình. Dù con cầm đôi át cũng phải khiến đối thủ nghĩ con chỉ có quân 2, quân 3 tép riu. Kể cả khi thấy mình không có cửa thắng, con vẫn phải giả bộ đặt cược thêm, lung lạc đối thủ. Như thế mới khiến nghi phạm để lộ sơ hở.” ... Mời các bạn đón đọc 13.67 của tác giả Chan Ho Kei & Minh Thu (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tên Trộm của Cảnh Sát Trưởng Maigret - Georges Simenon
Cảnh sát trưởng Jules Maigret là nhân vật thám tử mà những người hâm mộ sách trinh thám không thể không biết tới. Chuyện về cảnh sát trưởng Maigret được Simenon sáng tác khi ngòi bút của ông đạt đến độ trưởng thành và sung sức nhất. Khi đó, ông có khả năng viết 60-80 trang mỗi ngày. Ông từng đi du lịch nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Pháp, Thụy Sỹ, vùng Địa Trung Hải và liên tục sáng tác trong suốt thời gian đó. Qua những chuyến đi này, ông thu thập được nhiều dữ liệu về cuộc sống để viết nên những chuyến phiêu lưu điều tra ly kỳ của cảnh sát trưởng Maigret. 75 tiểu thuyết và 28 truyện ngắn về Maigret đã được xuất bản đều đặn trong khoảng thời gian từ năm 1931-1972. Tiểu thuyết cuối cùng về Maigret, Maigret và ngài Charles là tiểu thuyết trinh thám cuối cùng của ông. Những trang viết về các cuộc phá án của Maigret không sôi nổi, mạnh mẽ, “đao to búa lớn”, thậm chí có đôi chỗ còn khiến người ta... buồn ngủ vì văn phong chậm rãi cũng như những động thái từ tốn của viên thanh tra, nhưng kỳ lạ thay, mỗi khi đặt sách xuống, hình ảnh của cảnh sát trưởng Maigret hết lòng vì công việc cùng những số phận bi thảm của nhân vật luôn đeo đuổi người đọc. Và cứ thế, Maigret ghi đậm thêm dấu ấn của mình trong văn học trinh thám. Cảnh sát trưởng Maigret là con trai một người nông dân ở ngoại ô Moulins, đến Paris để học y khoa nhưng lại có duyên với nghề cảnh sát điều tra tội phạm. Trong loạt truyện về cảnh sát trưởng Maigret, người đọc luôn nhớ đến ông với hình ảnh một người đàn ông cao lớn, trên tay luôn cầm tẩu thuốc với chiếc áo bành tô dài. Thanh tra Maigret yêu thích rượu bia nhưng ông có thể kiểm soát bản thân để không lâm vào trạng thái say. Dựa vào trực giác vô cùng nhạy bén, sự hiểu biết sâu sắc ý nghĩa các hành vi của con người với thái độ điềm tĩnh và kiến thức sâu sắc về tội phạm học, sảnh sát trưởng Maigret có khả năng khám phá thành công những vụ án hóc búa nhất mà giới cảnh sát đã “chào thua”. Truyện về Maigret được Simenon viết với văn phong rất tự nhiên, không hoa mỹ. Simenon cho rằng chúng như những bức phác họa mà một người họa sĩ vẽ để giải khuây hay một bài tập của sinh viên nhập môn. Nhờ khả năng kể chuyện tài tình của Simenon, những câu chuyện về cảnh sát trưởng Maigret trở thành loạt truyện trinh thám lôi cuốn hàng triệu độc giả trên toàn thế giới. Dựa trên những tập truyện này, rất nhiều bộ phim về vị thanh tra thông minh và mẫn cán ấy được xây dựng ở nhiều nước trên thế giới như: Pháp, Anh, Ai-len, Úc, Hà Lan, Đức, Ý và Nhật Bản. Trong số đó, diễn viên Pháp nổi tiếng Jean Gabin được xem là người thể hiện nhân vật Maigret thành công nhất. Vào ngày 3-9-1966, tại nơi mà Georges Simenon viết tác phẩm đầu tiên về Maigret, bức tượng chân dung của Maigret, tạc bởi nhà điêu khắc Pieter d'Hont, đã chính thức được Simenon khánh thành. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Nhân vật Thanh tra cảnh sát Tư pháp Paris Maigret xuất hiện từ năm 1931, trong tác phẩm Con Chó Vàng. Hình ảnh người thanh tra ngậm tẩu thuốc, trầm ngâm ngồi dệt cái mạng nhện tư tưởng để tìm ra thủ phạm dần trở nên rất quen thuộc. Bằng trực giác bén nhạy, Maigret kín đáo thâm nhập, phát hiện ra những điều kẻ tội phạm che giấu. Lần theo từng dấu vết từng chi tiết nhỏ nhặt, Maigret xem xét tỉ mỉ tình huống, phân tích tâm trạng kẻ tình nghi. Có thể nói công việc điều tra của Maigret là tìm ra sự thật về một con người. Từ phân tích tâm lý, dựa vào chiều sâu trực giác, ông phát hiện ra các tác nhân thúc đẩy kẻ phạm tội. Ông còn lặn lội tới những nơi đầy kịch tính, thị xã tỉnh lẻ dưới mưa, cảng biển mù sương, quán rượu ồn ào ngập khói thuốc, những nhà trọ, khu ổ chuột phức tạp... để tìm ra hung thủ giữa đám đông. Và điều kỳ lạ là sự ngăn cách biên giới, ngăn cách không gian với những người đọc đã bị xóa nhòa. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu thêm với bạn đọc Việt Nam một tác phẩm nữa của ông: Tên Trộm Của Cảnh Sát Trưởng Maigret. Nhà xuất bản Công an Nhân dân Mời các bạn đón đọc Tên Trộm của Cảnh Sát Trưởng Maigret của tác giả Georges Simenon.
Bi Kịch Cuối Cùng - Ellery Queen
Như nhà ẩm thực mới tìm lại được vị giác, sau một thời gian dài gắng gượng nhai nuốt những món ăn tồi tệ, tôi bỗng được hưởng một hương vị độc đáo và thơm ngon vô cùng - mà tôi ghi lại dưới đây: Vụ án cuối cùng mà quý ông vĩ đại của sân khấu kịch Shakespeare, ngài Drury Lane đã cống hiến tất cả nỗ lực phi thường của mình. Đây là vinh hạnh dành cho tôi dưới danh nghĩa người ghi chép thầm lặng những khám phá của ngài Lane; và chắc chắn không ai có thể nghi ngờ - trừ khi có mâu thuẫn với cá nhân Lane - sự linh hoạt đáng ngưỡng mộ trong tư duy mà ông thể hiện trong những vụ điều tra mà tôi đặt tên là Tấn Bi Kịch X, Tấn Bi Kịch Y và Tấn Bi Kịch Z. Không chỉ là vinh dự mà đây cũng là trọng trách của tôi - ghi lại lại cuộc điều tra cuối cùng của con người phi thường này, trong cuốn sách mà tôi đã đặt tên là Bi Kịch 1599, bởi một lí do sẽ được làm sáng tỏ ngay sau đây. Tôi nói đây là một ‘trọng trách’, vì Lane không chỉ làm công chúng ở thời đại mình ngưỡng mộ nhờ sự cao ngạo trong cách tư duy suốt ba vụ án đã khám phá trước đó mà còn làm họ bất ngờ và thích thú bởi những khám phá đã khẳng định tên tuổi ông như một người bảo vệ công lý xuất sắc. Bởi vậy, nếu tôi ngăn cản độc giả - những người đã kiên nhẫn, hào hứng, đầy nhiệt huyết theo sát tất cả những cuộc phiêu lưu khác của Lane - tiếp cận với vụ án đỉnh cao này, đó sẽ là một tội lỗi không thể tha thứ. Đây chỉ là ý kiến của riêng tôi về một sự vụ kì lạ và đặc biệt bậc nhất không hề có tiền lệ trong lịch sử tội phạm học, sẽ xảy ra trong cuốn truyện này. ELLERY QUEEN   Bộ Râu Của Joseph Đó là một bộ râu kì cục, khác người, nhìn khá khôi hài. Được tạo hình giống một chiếc khiên cách điệu, nó được uốn cong phình ra từ phần cằm đã bị che phủ hoàn toàn xuống và phủ lên luôn cả phần cổ áo. Có nét gì đó vừa mềm mại vừa cao quý trong những lọn râu hoàn hảo đó, giống như chòm râu uy nghiêm của thần Zeus. Nhưng, vẻ đẹp thu hút mọi ánh nhìn lại không nằm ở cái phần cong phình ra hai bên ấy; mà điều kì diệu thực sự nằm ở màu sắc của bộ râu. Đó thực sự là bộ râu của Joseph*, được nhuộm sắc đen, xanh da trời và xanh lá cây theo từng vệt cũng giống chiếc áo của Joseph mà ta thường thấy trong tranh vẽ. Phải chăng nó đã phai màu dưới ánh mặt trời rực rỡ? Hay nó nhạt màu vì những lí do bí hiểm, giả như ông đã dành hàng giờ bên bàn thí nghiệm, chải chuốt bộ râu của mình trong một chậu hóa chất? Một bộ râu như của một vị thần như thế không thể có một xuất thân tầm thường. Bộ râu đó phải được ghi vào lịch sử; dứt khoát phải cho vào viện bảo tàng để gìn giữ đến muôn đời sau. Bây giờ thì thám tử Thumm, từng làm việc ở Sở cảnh sát New York, đã nghỉ hưu, nhưng vốn quen bận rộn, đang đắm chìm trong công việc tại phòng thám tử tư, sau bốn mươi năm quá quen thuộc với những điều bất ngờ trong xã hội loài người. Nhưng kể cả như vậy thì ông cũng phát hoảng lên, sau đó thực tâm thích thú với bộ râu phi thường trên cằm của vị khách đến vào một buổi sáng thứ Hai dịu nhẹ đầu tháng Năm. Ông chưa bao giờ nhìn thấy một bộ sưu tập gồm những sợi tơ sặc sỡ đến vậy. Thumm nhìn chằm chằm, rồi nhìn chằm chằm, như thể dù nhìn bao nhiêu lâu vẫn thấy không đủ. Cuối cùng ngài cũng nói: “Mời ngồi,” bằng giọng nhỏ nhẹ, liếc mắt qua lịch để bàn, hi vọng nhờ một điều kì diệu nào đó, hôm nay trở thành ngày Cá tháng Tư, để ngài có thể ngồi tụt sâu vào ghế, cào nhẹ lên bộ hàm rộng của mình và nhìn vị khách kia một cách sững sờ sửng sốt. Râu Cầu Vồng bình thản ngồi xuống, hoàn toàn thư thái. Ông ấy là một người cao gầy, thám tử Thumm quan sát - ngài không thu được thông tin gì khá khẩm hơn, bởi phần còn lại của ông ta, hệt như cái cằm, cũng được gói kỹ trong bộ trang phục cũng bí ẩn và kì quái. Ông ta vận rất nhiều lớp áo, cả cơ thể được phủ lên vài lớp vải dày cộp; nên đôi mắt tinh anh của vị thám tử chỉ phát hiện được đôi cổ tay mảnh dẻ dưới đôi tay mang găng và đôi chân lòng khòng - những dấu hiệu không che giấu được. Đôi kính mắt màu xanh biển che đi cặp mắt ông ta. Chiếc mũ phớt có vẻ bình thường, nhưng lại toát lên nét thờ ơ quyến rũ không giấu giếm khi ông bước chân vào văn phòng thám tử, che kín phần đầu và màu tóc của ông. Và ông ta ngồi đó, giống thần Zeus, im lặng hoàn toàn. Thumm húng hắng. “Vâng?” ông cố khích lệ. Bộ râu hơi lay động, như thể đang cười. “Vâng? Tôi có thể giúp gì ông?” Đột nhiên vị khách vắt chéo đôi chân mảnh khảnh, đặt bàn tay đeo găng lên đầu gối. “Hẳn ngài thực sự là thám tử Thumm, tôi đoán vậy?” một giọng nói nhừa nhựa vang lên. Thumm giật mình, như thể ông vừa nghe một bức tượng phát ra tiếng nói. “Là tôi đây.” Thumm uể oải nói. “Còn ông là…?” Ông ta phẩy tay. “Chuyện này không quan trọng, ngài thám tử à. vấn đề là… tôi phải nói sao nhỉ? Tôi muốn yêu cầu ngài một điều hết sức đặc biệt.” Hẳn đó là một yêu cầu đặc biệt, vị thám tử nghĩ thầm, nếu như ông không mang bộ dạng kì quặc kia! Thumm nhanh trí giấu đi ánh mắt kinh ngạc. Bàn tay ông nhẹ nhàng gạt một chốt nhỏ dưới ngăn bàn, có tiếng vo vo khe khẽ, mà chắc chắn quý ông với bộ râu sặc sỡ kia không thể nhận ra. “Những người ngồi trên chiếc ghế đó thường có các yêu cầu như vậy.” Thumm vui vẻ nói. Một mẩu đầu lưỡi của ông ta nhô ra nơi cánh rừng rậm rạp trên bờ môi, rồi như thể sợ hãi bởi màu sắc kì lạ nơi đó, đã vội vàng rụt lại. “Tôi có thể nói với ngài, ngài thám tử ạ. Rằng tôi đang tìm kiếm ngài. Điều làm tôi thấy lí thú là ngài có vẻ không… à, giống một thám tử tư bình thường.” “Chúng tôi đều cố làm khách hàng hài lòng.” “Thực vậy. Thực vậy… À, ngài thực sự giữ mọi chuyện riêng tư chứ? Ý tôi là, bây giờ ngài không còn liên quan đến cảnh sát, phải không ngài thám tử?” Thumm đăm đăm nhìn ông ta. “Ngài thấy đó, tôi cần phải chắc chắn. Chuyện tôi nhờ ngài cần được giữ bí mật tuyệt đối.” “Tôi cực kì kín tiếng,” Thumm làu bàu, “tôi sẽ không nói với ai, kể cả với bạn thân nhất của tôi. Nếu đó là điều khiến ông lo lắng. Trừ phi đó là một chuyện bẩn thỉu. Tôi căm ghét lũ chuột bọ, thưa ngài. Văn phòng của Thumm không chơi đùa với lũ lừa lọc.” “Ồ, không, không đâu,” Râu Cầu Vồng nói nhanh, “không phải những chuyện đó, tôi cam đoan. Chỉ là một chuyện nhỏ thôi… chỉ có điều hơi đặc biệt một chút, ngài thám tử ạ.” “Nếu về chuyện vợ ông và anh bạn giai,” vị thám tử quan sát khách hàng của mình, “thì thôi nhé. Văn phòng tôi cũng không nhận mấy vụ kiểu đó.” “Không, không đâu, ông bạn thám tử, không phải mấy vụ rắc rối gia đình đâu. Không phải mấy chuyện kiểu đó. Mọi chuyện, thực ra thì, gói gọn trong một từ thôi,” Râu Cầu Vồng nói, hơi thở nhè nhẹ lay động bụi cây nho nhỏ trên cằm mình, “tôi muốn ngài giữ một vật cho tôi.” ... Mời các bạn đón đọc Bi Kịch Cuối Cùng của tác giả Ellery Queen.
Tấn Bi Kịch Z - Ellery Queen
10 năm sau thành công rực rỡ của  Tấn bi kịch X  và  Tấn bi kịch Y ,  Tấn bi kịch Z  ra đời! Thanh tra Thumm đã trở lại với cô con gái thông minh, có khả năng quan sát và liên kết các sự việc. Thượng Nghị sĩ tham nhũng Joel Fawcett – một người có vô vàn kẻ thù, bị sát hại! Bác sĩ Ira Fawcett, cũng bị sát hại! Hung thủ là một! Aaron Dow – tên tù nhân mới phóng thích vô tình trở thành kẻ tình nghi. Với quyết tâm tìm kiếm bằng chứng để minh oan cho Aaron Dow, bố con thanh tra Thumm đã đạt mình vàomột cuộc chiến công lý với tia hy vọng chỉ bằng 1%. Một lần nữa, Thumm lại phải nhờ đến sự minh mẫn của người bạn già Drury Lane Câu hỏi cuối cùng sẽ được giải quyết ra sao mang tên Z? *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** Vì sự tham gia của riêng tôi vào các sự kiện lịch sử này chẳng khơi gợi được gì hơn sự quan tâm lịch thiệp và ngắn ngủi từ những ai theo dõi vận mệnh của ngài Drury Lane, nên tự tôi sẽ kể qua bằng một ghi chép, cũng ngắn ngủi như thói đỏng đảnh của phụ nữ. Tôi trẻ trung, điều này phần nhiều được những nhà phê bình nghiêm khắc nhất thừa nhận. Tôi được trời phú cho đôi mắt to, xanh và trong veo - mà nhiều quý ngài thích làm thơ từng bảo - trông như cả một vì tinh tú ngự trên chín tầng mây. Một nam sinh trẻ măng, tốt bụng tại Heidelberg có lần từng ví màu tóc tôi với mật ong. Một quý bà người Mỹ thích đả kích sâu cay tại Cap d’Antibes mà tôi từng gặp gỡ đã ví mái tóc ấy phần nào giống cọng rơm khô. Gần đây khi đứng trong tiệm làm đẹp Clarisse tại Paris bên cạnh bộ đầm béo* bà ta bồ kết nhất, tôi phát hiện ra phom người mình thực sự gần đạt được những số đo hình thể quyến rũ của mụ đàn bà hay khinh người ấy. Thực ra, ngoài đôi bàn tay, bàn chân tôi đạt chuẩn hình thể - điều này theo đánh giá cỡ chuyên gia của chính ngài Drury Lane - tôi còn sở hữu bộ não làm việc theo trật tự tuyệt hảo. Cũng có người nói rằng một trong những nét quyến rũ chết người của tôi nằm ở chỗ “thiếu khiêm tốn một cách tinh tế,” một lời chém gió mà tôi cảm thấy chắc chắn sẽ gây họa cho tôi trong quá trình viết bài này. Các chi tiết thô thiển nhiêu đó đã đủ. Phần còn lại tôi có thể tự đặt tên cho nó là Chuyến Du Ngoạn Bắc Âu. Tôi đã từng đi chu du, có thể nói như vậy, kể từ những tháng ngày tóc thắt bím và mặc đồ thủy thủ. Các chuyến du ngoạn của tôi xen kẽ những lần dừng chân dài hạn: Ví như chẳng hạn tôi mất hai năm tại một ngôi trường tư thục đáng sợ ở London, nán lại trên Bờ Trái* trong mười bốn tháng trước khi tự thuyết phục mình rằng cái tên Patience Thumm sẽ chẳng được nói đến một cách kính cẩn như những cái tên Ganguin và Matisse. Giống Marco Polo tiến về phương Đông, tôi đi khắp các dải đất phương Đông; như Hannibal tấn công những cánh cổng thành Rome, tôi khám phá nền văn hóa châu Âu. Hơn nữa, tôi là người có tâm hồn khoa học: Tôi đã thử tinh dầu ngải absinthe tại Tunis, vườn nho Clos Vougeot tại Lyon và rượu aguardiente tại Lisbon. Tôi bị bật móng chân khi trèo lên ngôi thành cổ Acropolis tại Athens, cảm thấy vui sướng đầy dâm đãng khi đắm mình trong bầu không khí mê hoặc của hòn đảo Sappho. Chẳng cần phải nói thêm, tất cả những chuyến đi này dựa vào khoản tiền trợ cấp hào phóng với cái đuôi là một sinh vật bất tử hiếm hoi bậc nhất - một bà vú tiện cái là mắc chứng loạn thị và có khiếu hài hước. Du ngoạn giống như món kem sữa béo, nó cứ lan rộng mãi ra; tuy nhiên, sẽ chẳng ai chịu nổi nếu cứ ăn hoài một món. Và người đi du ngoạn, cũng như kẻ háu ăn, sẽ quay về nhà và hài lòng với chế độ ăn có kiểm soát hơn. Thế nên, với sự kiên quyết dịu dàng như một trinh nữ, tôi bỏ mặc bà vú đáng yêu tội nghiệp tại Algiers và giong buồm về nhà. Món thịt bò nướng tuyệt hảo của bố chào mừng tôi vẫn đang nằm yên trong bụng. Nói thật là ông thấy khiếp đảm khi thấy tôi cố tuồn vào New York bản tiếng Pháp cuốn Người Tình Của Phu Nhân Chatterley đáng yêu, rách tơi tả, cuốn sách khiến tôi phải hy sinh bao nhiêu buổi tối tuyệt đẹp tự giam mình trong phòng riêng tại trường tư thục nữ sinh. Nhưng khi giải quyết xong vấn đề nhỏ này, trước sự vui sướng của tôi, ông nhanh chóng đẩy tôi len qua cửa hải quan. Sau đó, chúng tôi yên vị trong sự tĩnh lặng êm dịu ở căn hộ của ông tại thành phố, hai con bồ câu đưa thư hoàn toàn xa lạ. Lúc này, khi đọc Tấn Bi Kịch X và Tấn Bi Kịch Y, tôi nhận thấy rằng ông bố già xấu xí, to lớn, vụng về và vĩ đại của tôi, thanh tra Thumm, chưa một lần giới thiệu những trang sách sinh động, sôi nổi này cho cô con gái thích xê dịch. Không phải vì ông không yêu mến tôi: Tôi hiểu được điều ấy từ ánh mắt ngỡ ngàng, phần nào đó đến kinh ngạc của ông khi chúng tôi hôn tạm biệt nhau trên cầu tàu. Chúng tôi chỉ đơn giản là ngày càng xa nhau. Mẹ đã tống cổ tôi sang châu Âu cho bà vú chăm sóc khi tôi còn quá nhỏ, không thể phản kháng. Tôi nghi ngờ sự thay đổi trong tình cảm luôn là điều đáng quý, đến lượt bà cũng ham mê tìm hiểu những nét thanh lịch, tao nhã ướt át của cuộc sống Lục địa già qua các lá thư tôi viết. Trong khi đó, người bố tội nghiệp chẳng có cơ hội nào, việc chúng tôi dần xa cách không phải hoàn toàn do lỗi của mẹ. Tôi nhớ lại hồi mình là con bé yếu ớt bò lổm ngổm dưới chân bố, quấy rối ông với những chi tiết đẫm máu nhất của những tội ác ông đang điều tra, đọc hết tất cả các tin tức vụ án với sự thích thú và không ngừng tấn công ông trên Phố Centre với những gợi ý ngớ ngẩn. Ông chẳng bao giờ mắng tôi nhưng tôi chắc chắn ông thấy nhẹ nhõm khi tôi bị tống sang Châu Âu. Dẫu sao đi nữa, bố con tôi phải mất vài tuần để nuôi dưỡng tình cảm trở lại mối quan hệ bình thường. Ông chưa sẵn sàng về tâm lý trước những lần viếng thăm chớp nhoáng của tôi trong thời gian lang thang, nào là ăn trưa mỗi ngày với một thiếu nữ trẻ đẹp, những nụ hôn chúc ngủ ngon, và trải qua tất cả những vui vẻ khi ông đóng vai một ông bố gia trưởng. Một thời gian ông thực sự hốc hác, mệt mỏi. Ông thấy sợ tôi hơn vô số tội phạm liều lĩnh từng săn đuổi suốt cuộc đời thanh tra. •   •   • Tất cả những đoạn này là phần mở đầu cần thiết cho câu chuyện của tôi về ngài Drury Lane, và vụ án lớn về Aaron Dow, tù nhân trong nhà tù Algonquin. Vì điều này giải thích được làm sao kẻ lang thang như Patience Thumm lại có liên quan đến một vụ án mạng. Trong những năm tháng lang thang và thư từ với bố - đặc biệt sau khi mẹ qua đời - tôi thấy tò mò trước những bóng gió thường xuyên, tình cảm của ông với thiên tài già cả lạ lùng ấy, ngài Drury Lane, người đã xuất hiện một cách hoành tráng trong cuộc đời ông. Dĩ nhiên, tôi không xa lạ với tên tuổi quý ông già nua này, với lý do tôi là độc giả trung thành của các truyện trinh thám có thật lẫn hư cấu. Lý do nữa là vì quý ông hưu trí hấp dẫn này không ngừng được giới báo chí, tại cả Mỹ lẫn châu Âu, tung hô như một siêu nhân. Đâu đâu cũng nhắc đến những kỳ tích ông đạt được trong các vụ án với tư cách là điều tra viên. Sau tai nạn bất ngờ khiến ông bị điếc, sự nghiệp diễn viên kịch của ông cũng chấm dứt. Nhiều lần những dư âm của chúng vẫn còn vẳng đến tai tôi tận Châu Âu. Sau khi quay về nhà, tôi bất ngờ nhận ra mình chẳng còn mong muốn gì hơn được gặp gỡ con người phi thường, sống trong một lâu đài tuyệt đẹp nhưng đầy mê hoặc nhìn ra sông Hudson. Nhưng tôi lại thấy mình quan tâm hơn đến đôi tai của ông khi phá án. Sau khi nghỉ hưu ở phòng Thám tử New York, bố tôi bỏ lại sau lưng bao nhiêu năm tháng phá án là món ăn giấc ngủ, sự tồn tại kiểu này khiến ông buồn chán đến không chịu nổi. Thế nên, điều không tránh khỏi là ông mở văn phòng thám tử tư, danh tiếng của riêng ông mang lại thành công cho ông ngay từ đầu. Về phần tôi, vì chẳng có việc gì để làm và cảm thấy rằng cuộc đời mình cũng như những kinh nghiệm từ chuyến du học vừa đủ giúp tôi kiếm sống một cách nghiêm túc, có lẽ điều không tránh khỏi là tôi phải đứng dậy từ nơi tôi đã từ bỏ nhiều năm về trước. Tôi bắt đầu dành nhiều thời gian hơn tại văn phòng của bố, quấy rầy ông như ngày xưa và lắng nghe tiếng càu nhàu bực bội của ông. Dường như ông nghĩ rằng một đứa con gái thì phải có sức hấp dẫn giống như một bông hoa cài áo. Nhưng vì được thừa hưởng cái cằm bướng bỉnh của ông, sự kiên trì của tôi đã khiến ông nản lòng. Có vài dịp thậm chí ông còn cho phép tôi theo đuổi một cuộc điều tra khiêm tốn. Nhờ đó tôi học được nhiều thuật ngữ và môn tâm lý học của hình sự hiện đại - một khóa học thô sơ rất có ích giúp tôi thấu hiểu vụ án liên quan đến Dow. Nhưng có một chuyện dường như hữu ích hơn nhiều. Kinh ngạc không kém gì bố, tôi thấy rằng mình sở hữu một bản năng quan sát và suy luận phi thường. Tôi bất ngờ nhận ra mình có một tài năng rất đặc biệt, có lẽ được nuôi dưỡng bởi môi trường làm việc ban đầu, và sự quan tâm không thay đổi của tôi đối với tội phạm. Bố tôi rên rỉ, “Patty, con cứ như ả hầu bàn trơ trẽn trong bữa tiệc vậy. Con sẽ khiến quý ông già ngượng chết mất. Có Chúa mới biết, như những ngày xưa với Drury Lane ấy!” Và tôi đáp: “Ngài thanh tra đáng yêu ơi, đó là một lời khen tuyệt vời. Khi nào thì ngài định giới thiệu con với ông ấy đây?” Cơ hội đã đến một cách bất ngờ ba tháng sau khi tôi về nước. Giống như mọi cơ hội khác - nó bắt đầu hoàn toàn bình thường - sau đó biến thành một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Đúng như những gì trái tim một cô nàng luôn thèm khát và háo hức như tôi có thể mơ tới. Một hôm, một người đàn ông cao lớn, tóc xám ăn mặc trang nhã xuất hiện tại văn phòng của bố tôi. Sắc mặt ông ta lo lắng khiến tôi liên hệ với tất cả những ai từng tìm đến. Qua tấm thẻ rập nổi, tên ông ta là Elihu Clay. Dò xét tôi bằng đôi mắt sắc lạnh, ông ta ngồi xuống, hai bàn tay khum lại trên đầu gậy chống. Với thái độ khô khan, thận trọng của một chủ ngân hàng nguời Pháp, ông ta tự giới thiệu bản thân. Ông ta là chủ sở hữu Clay Marble Quarries - những mỏ đá chính tại hạt Tilden, vùng Thượng New York; văn phòng và nhà riêng ở thành phố Leeds, Anh quốc. Cuộc điều tra ông ta muốn nhờ bố tôi tiến hành có tính riêng tư và bảo mật. Đây là lý do chính của ông ta khi đến đây ngoài việc tìm kiếm một nhà điều tra. Ông ta một mực đòi phải thận trọng mọi nhẽ… “Tôi hiểu,” bố tôi cười toét. “Hút xì gà đi. Ai đó đang ăn cắp tiền mặt trong két à?” “Thực ra là không! Tôi có… à… một hội viên hùn vốn ẩn danh.” “Ha,” bố tôi nói. “Cho tôi biết đi.” Tên hùn vốn ẩn danh này - có vẻ giờ đây, sự ẩn danh này đã chuyển sang khía cạnh đáng lo ngại nhất - là Fawcett, bác sỹ Ira Fawcett. Người này là em trai của thượng nghị sĩ hạt Tilden, Joel Fawcett. Một ngài thượng nghị sĩ không ít thì nhiều cũng “chính trực”. Theo cái nhíu mày của bố, tôi nghĩ đây chắc chắn là một quý ông không trung thực và không có trái tim trong sáng. Là người không do dự tự phong mình là ‘thương nhân trung thực nhất của phái cựu trào’ giờ đây có vẻ Clay thấy hối hận khi hợp tác cùng bác sỹ Fawcett. Tôi đồ rằng bác sỹ Fawcett là một nhân vật khá đáng sợ. Ông ta khiến công ty dính líu đến các hợp đồng mà Clay nghi ngờ rằng có nguồn gốc bốc mùi. Ngành kinh doanh này rất thịnh vượng - quá thịnh vượng. Quá nhiều hợp đồng trong hạt và bang đều liên quan đến Clay Marble Quarries, cần thiết phải kiên quyết tiến hành một cuộc khảo sát tình hình. “Không có bằng chứng à?” bố tôi hỏi. “Chẳng có chút nào, thưa thanh tra. Rõ ràng hắn quá thông minh. Tất cả những gì tôi có chỉ là những nghi ngờ. Ông sẽ nhận vụ này chứ?” Nói rồi Elihu Clay đặt ba tờ giấy bạc giá trị cao nhất lên bàn. Bố liếc nhìn tôi. “Chúng ta nhận vụ này được không, Patty?” Nét mặt tôi băn khoăn. “Chúng ta bận lắm. Nếu thế phải hủy tất cả các vụ kia…” Elihu Clay nhìn tôi chằm chằm một lúc. “Tôi có ý kiến,” ông đột ngột nói. “Tôi không muốn Fawcett nghi ngờ ngài, ngài Thanh Tra. Cùng lúc đó ngài sẽ phải làm việc với tôi. Tại sao ngài không cùng cô Thumm đây đến các nhà khách của tôi tại Leeds? Cô Thumm đây có thể tới - chẳng phải tiện hay sao?” Tôi đoán rằng bác sỹ Ira Fawcett không phải là người trơ như gỗ đá trước sức quyến rũ nữ tính. Khỏi cần nói, ngay lập tức tôi cảm thấy thú vị. “Chúng ta xoay xở được mà bố,” tôi mạnh mẽ nói, và như thế mọi việc được thu xếp. •   •   • Chúng tôi mất hai ngày chuẩn bị mọi thứ, có thể nói như vậy. Đến tối Chủ nhật chúng tôi đã hoàn tất gói ghém đồ đạc cho chuyến đi tới Leeds. Elihu Clay đã đi trước chúng tôi, quay về vùng nông thôn cùng ngày ông đến thăm New York. Tôi còn nhớ mình đang duỗi dài chân trước đống lửa, nhấm nháp rượu brandy đào - chai rượu tôi đã trót lọt tuồn qua mặt anh sĩ quan hải quan trẻ tuổi tốt nhất - thì nhận được điện tín của thị trưởng Bruno - chính là ngài Walter Xavier đã từng làm công tố viên hạt New York khi bố tôi còn là một viên thanh tra tích cực. Còn bây giờ ông ta là một thống đốc nổi tiếng, hiếu chiến của bang New York. Bố tôi đập tay vào hông cười khúc khích, “vẫn là lão Bruno này! Chà, Patty, đây đúng là cơ hội con đang mong. Bố đoán rằng chúng ta có thể thực hiện được?” ... Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch Z của tác giả Ellery Queen.
Tấn Bi Kịch Y - Ellery Queen
Thám tử nghiệp dư Drury Lane - người nghệ sĩ già đã nghỉ hưu lại được mời tham dự vào một vụ án liên quan đến nhà Hatter Điên Loạn. Đầu tiên, thi thể của người chồng York Hatter được tìm thấy khi đang bị trôi dạt trên đại dương mênh mông. Nhưng ông ta không bị chết do đuối nước mà do trúng độc. Sau đó, hàng loạt những vụ hạ độc khác diễn ra trong ngôi biệt thự cũ của gia đình Hatter ở làng Greenwich của thành phố New York. Vụ hạ độc gần nhất có một nhân chứng, nhưng đó lại là một cô gái mù-câm-điếc, cái duy nhất cô có là cảm giác khi chạm tay vào mặt của hung thủ. Nhờ tài suy luận logic và là bậc thầy của ngụy trang, Drury Lane đã biết được hung thủ là ai, nhưng lần này ông lại không vạch trần hung thủ ngay trước mặt mọi người mà chỉ kể lại như một lời tâm sự với Công tố viên Bruno và Thanh tra Thumm. Có điều gì khiến Drury Lane phải làm điều đó? Ẩn số = Y!! Thi thể trôi dạt trên đại dương mênh mông nhưng không phải do đuối nước mà do bị đầu độc! Nhà hóa học York Hatter đã chết một cách bí ẩn. Sau đó, hàng loạt những vụ hạ độc khác diễn ra trong ngôi biệt thự cũ của gia đình Hatter ở làng Greenwich, thành phố New York. Một vụ hạ độc bất thành hay chỉ là mồi nhử cho vụ án cướp đi sinh mạng của bà Emily Hatter sau đó? Câu chuyện dường như đi vào bế tắc khi nhân chứng duy nhất của vụ án mạng lại là một cô gái mù - câm - điếc, khả năng duy nhất còn sót lại của cô là xúc giác. Nhưng đối với Drury Lane, manh mối duy nhất từ việc chạm vào khuôn mặt của hung thủ lại giúp ông tìm ra câu trả lời chính xác. Câu trả lời sẽ được tìm ra như thế nào trước ẩn số mang tên Y?   *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** Vào một buổi chiều tháng Hai đáng nhớ, chiếc Lavinia D, một con tàu đánh cá xa bờ ương ngạnh xấu xí, đang cưỡi những con sóng Đại Tây Dương trở về đất liền. Nó đã đi qua Sandy Hook, hiện ở gần cảng Hancock, và đang hướng về vịnh Lower. Những bọt sóng bao quanh mũi tàu và tạo thành một vệt dài phía đằng đuôi. Một tấm lưới cũ mèm giăng trên thành tàu, boong tàu thì như một lò mổ hổ lốn bẩn thỉu, những ngọn gió rét buốt Đại Tây Dương khiến thân tàu rúng động, và thủy thủ đoàn đang thầm nguyền rủa tay thuyền trưởng, biển cả, lũ cá, bầu trời xám xịt, và cả bờ biển cằn cỗi đảo Staten bên mạn trái tàu. Một chai rượu được truyền từ tay người này sang người khác. Đám thủy thủ đang run lên dưới những tấm áo mưa màu vàng bay phần phật. Vẻ chán chường, một thủy thủ tựa người trên thanh vịn ngắm những con sóng cồn vẩn màu xanh lục, rồi anh chợt sững người lại, cặp mắt như lồi hẳn ra khỏi khuôn mặt đỏ gay, sau đó là một tiếng thét vang trời. Thủy thủ đoàn liền nhìn theo hướng chỉ tay của anh ta. Cách họ khoảng trăm mét là thứ gì đó nho nhỏ màu đen, một thứ không thể nhầm lẫn đi đâu được, chính là một xác người chết trôi trên vịnh. Cả toán thủy thủ nhảy dựng lên. “Rẽ trái!” người đang giữ bánh lái nghiêng người và chửi thề. Chiếc Lavinia D bắt đầu lượn thành một vòng cung nguệch ngoạc về bên trái, khiến cả đám mối ghép vang lên tiếng kẽo kẹt. Nó vòng quanh cái thứ chết trôi kia như một con vật đầy cảnh giác, từ từ vòng lại gần trong dáng vẻ của một kẻ săn mồi. Với vẻ hào hứng và khấp khởi, thủy thủ đoàn vung vẩy những cái móc sắt trong không trung mặn mòi, sẵn sàng để tóm lấy con cá lạ lùng nhất trong mẻ đánh bắt hôm nay. Chỉ mười lăm phút sau, yên vị trong vũng nước tanh ngòm trên phần boong tàu ướt nhoẹt là một thứ mềm oặt, tả tơi chẳng ra hình thù gì, nhưng vẫn đủ thấy đó là một con người. Từ hiện trạng đã bị phân hủy của cái xác, thì người này hẳn đã bị ngâm trong nước biển suốt nhiều tuần rồi. Thủy thủ đoàn chỉ còn biết đứng ngây ra đó trong lặng im. Tay chống hông, chân giạng ra, chẳng ai dám chạm vào cái xác cả. Thế rồi, với mùi cá tanh và gió mặn trong hai lỗ mũi, cái xác mang tên York Hatter bắt đầu chuyến hành trình cuối cùng của mình. Quan tài của ông ta chính là con tàu bẩn thỉu này, người đưa tiễn là một đám thủy thủ bặm trợn thô lỗ, quần áo thì bám đầy vảy cá, còn kinh cầu siêu là những tiếng nguyền rủa của thủy thủ và tiếng gió rít qua eo biển. Cái mũi ướt nhoẹt của con tàu lướt qua làn bọt trắng và neo lại tại một bến tàu gần Battery. Tàu cập bến với một kiện hàng chẳng báo trước từ biển cả. Mọi người nhảy vội xuống tàu, thuyền trưởng la hét đến lạc cả giọng, đám nhân viên bến tàu thì gật gù và ngó qua cái sàn trơn trượt, điện thoại reo lên trong những cơ quan hữu trách nho nhỏ khu Battery. Và York Hatter thì nằm lặng yên dưới một tấm bạt. Cũng chẳng lâu lắm. Một chiếc xe cứu thương lao vội tới. Nhân viên y tế đưa cái xác sũng nước đi. Buổi tang lễ giã từ biển cả, và khúc truy điệu là những tiếng còi tàu rền vang. York Hatter được đưa từ mạn dưới Broadway về nhà xác. Số kiếp của ông ta khá kỳ lạ, và đến giờ vẫn còn là bí ẩn. Vào ngày 21 tháng Mười hai, bốn ngày trước lễ Giáng sinh năm ngoái, người vợ già Emily Hatter đã báo rằng chồng bà ta vừa biến mất khỏi căn nhà riêng tọa lạc trên đường Washington Square North của thành phố New York. Ông ta chỉ đơn thuần là bước ra khỏi cái tòa gạch đỏ nằm trong khối tài sản kếch sù của nhà Hatter mà chẳng có ai đi kèm, cũng chẳng để lại lời nào với ai, rồi cứ thế lặn mất tăm. ... Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch Y của tác giả Ellery Queen.