Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông

Thị trấn nhỏ nép mình nơi miền rừng núi của tiểu bang Wisconsin không chỉ bị trận bão tuyết bất ngờ ập đến làm cho trấn động. Trong đêm bão, cả gia đình nhà Lacourt gồm 3 người bị sát hại hết sức dã man, ngôi nhà của họ bị thiêu rụi bởi một kẻ mang tên là Người Băng, chỉ vì hắn cần lấy một bức ảnh. Vụ việc xảy ra hết sức phức tạp, để truy tìm ra danh tính kẻ sát nhân, chàng thám tử đến từ thành phố  Minneapolis, tên là Lucas Davenport buộc phải dùng kì nghỉ đông dài ngày của mình khi được cảnh sát trưởng của thị trấn tin tưởng giao trọng trách điều tra vụ án bí ẩn này. Trong khi tham gia vào điều tra vụ án này Lucas Davenport đã quen với một nữ bác sĩ tên là Weather Karkinnen. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm và cùng nhau đi tìm lời giải đáp của vụ án này. Trong lúc lần mò tháo từng nút thắt, Lucas Davenport không biết rằng, tên sát nhân Người Băng – kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đang ẩn mình trong đêm tối như một con sói săn mồi, chực chờ thời cơ hòng hủy diệt mọi đầu mối dẫn đến những bí mật khủng khiếp hơn ẩn dưới lớp tuyết dày. “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một cuốn sách đầy lối cuốn với những tình tiết rùng rợn được đẩy lên cao trào, khiến người đọc như hòa vào dòng chảy của câu chuyện không thể dừng lại. Và khác so với nhiều cuốn tiểu thuyết khác, tác phẩm được xây dựng cốt truyện ngay từ khi được chắp bút của tác giả. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil.   *** Trong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn. Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này. Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy. Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc. (Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín). Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút. Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường… Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này. Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này. MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis. Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch. Yếu tố gió lạnh (windchill factor), chỉ tình trạng vào mùa đông khi có gió thổi, con người sẽ cảm thấy lạnh hơn nhiệt độ thực tế đo được. Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả. Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa. SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra. Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết… Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này. Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện. JOHN SANDFORD *** GIÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay. Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang. Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn. Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy. Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn… Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo. Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan. Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo. Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực. Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện. Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn. Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà. Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà. Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy. Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Dagueưe (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại. Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng. Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước. Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy. “Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu. “Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau. Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.” “Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt. “Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao. “Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?” “Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô “Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.” “Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper. “Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó. “Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.” “Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói. “Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?” “Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”. Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.” “Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.” Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút. “Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.” “Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô. Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão. Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu. Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ. Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra. Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn. Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy. Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank. Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi. Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây. Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành. Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà. Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp. “Claudia?” Frank lên tiếng. Cô hét lên. Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.” “Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?” “Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!” “Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên. “Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…” “Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.” “Tại sao chúng ta không gọi…” “Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.” Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày. Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ. Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh” “Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch. Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…” Mời bạn đón đọc Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông của tác giả John Sandford.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Truyện Đọc Đêm Khuya Tập 1: Vụ Án Mạng Hoàn Hảo - Vũ Quang Hùng
Truyện trinh thám luôn là một thể loại được các bạn đọc giả yêu thích. Tính chất hấp dẫn của thể loại truyện này không còn phải bàn cãi. Cốt truyện gay cấn, bố cục chặt chẽ, tiến triển nhanh, gọn, bất ngờ, cách xử lý thông minh, chính xác… là ưu điểm của thể loại truyện trinh thám. Tuy nhiên, không phải độc giả nào cũng có đủ thời gian và sự tập trung để theo dõi một cốt truyện điều tra gay cấn kéo dài. Chính vì vậy, NXB Trẻ sẽ mang đến cho bạn những trải nghiệm mới với bộ sách “Truyện đọc đêm khuya”. Không còn những câu chuyện căng thẳng kéo dài. Không tốn nhiều thời gian cho theo dõi cho một quá trình điều tra căng thẳng. Bộ sách này quy tụ những câu chuyện trinh thám ngắn gọn, súc tích, nhưng không kém phần gay cấn. Mỗi câu chuyện là một tình huống khác nhau, đầy bất ngờ và lôi cuốn. Với bộ “truyện đọc đêm khuya” do tác giả Vũ Quang Hùng dịch và phóng tác, NXB Trẻ hi vọng sẽ mang lại món ăn tinh thần tuyệt vời trước khi ngủ cho các fan của truyện trinh thám. Bộ Truyện Đọc Đêm Khuya gồm có: Vụ Án Mạng Hoàn Hảo Xưng Tội Trước Bình Minh Nụ Hôn Cuối Cùng *** Đúng 11 giờ sáng một ngày tháng Bảy đẹp trời, Karen Holden hít một hơi thật sâu, bước ra khỏi cổng nhà tù nữ tại phía Tây Orange. Cô tự nhủ ít ra đó cũng là một ngày tốt để cô khởi đầu cuộc sống mới. Có một trạm xe buýt cách cổng nhà tù không xa, cô đứng chờ khoảng mười phút thì xe đến. Cô lên xe cùng với một phụ nữ da đen mập mạp cũng vừa ra khỏi nhà tù. Chỉ còn hai ghế trống cạnh nhau và bà mập vừa ngồi xuống vừa hỏi Karen: — Cô cũng vừa ra tù? — Vâng. — Cô ở trỏng bao lâu? — Hai năm. — Sao bị dính vậy? — Lấy chút đỉnh tiền nơi tôi làm thủ quĩ. Toà xử hai năm tù, ba năm thử thách. — Thì ra cô còn phải thử thách. Cô đã tính làm gì chưa? — Chưa biết. — Trước hết phải kiếm một chỗ ở tạm, rồi tới trình diện nhân viên quản lý những người còn trong thời gian thử thách. Họ có thể giới thiệu việc làm cho cô đấy. Chúc cô may mắn. Tôi phải xuống ở trạm tới.   Mời các bạn đón đọc Truyện Đọc Đêm Khuya Tập 1: Vụ Án Mạng Hoàn Hảo của tác giả Vũ Quang Hùng.
Công Viên Trung Tâm - Guillaume Musso
Với “Central Park”, Guillaume Musso tạo nên một cuộc gặp giữa hai kẻ xa lạ. Ông đưa người đọc đến xúc cảm mãnh liệt nhất, mà chúng ta có thể cảm nhận được màn đấu trí căng thẳng. Một sớm mai thức dậy, Alice Schäfer- nữ cảnh sát thuộc đội hình sự Paris, bỗng phát hiện ra mình đang ở trong một khu rừng, tay bị còng vào tay người đàn ông lạ mặt. Cổ áo sơ mi cô đang mặc có một vết máu lạ, khẩu súng hiệu Sig Sauer quen thuộc biến mất, thay vào đó là một khẩu Glock 22. Sau khi Gabriel Keyne - người bị còng chung với cô, đồng thời là một nghệ sĩ dương cầm nhạc jazz tỉnh lại, Alice mới biết một sự thật đáng kinh ngạc: cô không ở Pháp, mà đang ở New York, cách Paris 8 giờ bay. Làm sao cả hai con người xa lạ ấy có mặt ở Central Park? Khi một người quả quyết rằng tối qua mình đã đến đại lộ Champs- Elysées để tiệc tùng cùng các cô bạn gái. Còn người kia chắc chắn rằng tối qua mình chơi nhạc tại một quán bar ở Dublin. Không tiền, không điện thoại di động, tất cả các giấy tờ tùy thân đều mất sạch; hai con người xa lạ ấy đang bị đặt vào một tình thế hết sức nguy hiểm và họ chỉ còn một cách duy nhất là bắt tay hợp tác với nhau. Manh mối mà họ có chỉ là một dãy số nguệch ngoạc được viết trên bàn tay của Alice và một dãy số được khắc trên cánh tay Gabriel. Họ cảm thấy nguy hiểm hơn khi phát hiện có ai đó đã bí mật gắn thiết bị định vị GPS trong giày và áo khoác của mình. Những manh mối dần dần được lật mở, tất cả chúng khiến Alice nghĩ đến một cái tên: Erik Vaughn. Hắn là một tên giết người nguy hiểm, kẻ đã gây ra hàng loạt vụ giết người ở Paris cách đây 3 năm. Nhưng kẻ gây ra tất cả mọi chuyện liệu có phải là tên Erik Vaughn? Và liệu anh chàng Gabriel kia có thực sự đáng tin? Dù sao Alice cũng phải hợp tác với anh ta vì đó là lựa chọn duy nhất của cô. Càng điều tra, những bí mật khủng khiếp nhất dần được hé lộ. Đâu mới thực sự là kẻ thù mà Alice phải chống lại? Central Park là sự kết hợp tài tình giữa một một cuốn tiểu thuyết trinh thám nghẹt thở và một câu chuyện lãng mạn. Việc sắp xếp các tình huống một cách hợp lý, có lớp lang đã giúp tác phẩm có những “nút thắt” bất ngờ, hấp dẫn người đọc. Tác giả khéo léo đan cài giữa quá khứ và hiện tại tạo nên một không gian đa chiều, giàu chất điện ảnh cho tác phẩm. Đọc tiểu thuyết của Guillaume Musso, khiến người đọc liên tưởng đến những bọ phim trinh thám kinh điển của đạo diễn thiên tài Alfred Hichcock như: Dial M for Murder, Rear Window hay Spycho. *** Guillaume Musso, sinh năm 1974 tại Antibes (miền Đông nước Pháp), hiện đang là giáo viên chuyên ngành kinh tế. Say mê văn học từ thuở nhỏ, anh bắt tay vào viết văn khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học. Văn chương của Guillaume Musso được ví như sự kết hợp hoàn hảo giữa Marc Levy và Stephen King, đậm màu sắc liêu trai, hấp dẫn, bất ngờ và lãng mạn mê đắm, tiệm cận chiều sâu tâm hồn mỗi con người.   Những tác phẩm tiêu biểu của Guillaume Musso là: Skidamarink, Rồi sau đó…, Hãy Cứu Em, Hẹn Em Ngày Đó, Bởi Vì Yêu. Bảy Năm Sau Ngày Mai Nếu Đời Anh Vắng Em Cô Gái Trong Trang Sách Trở Lại Tìm Nhau Cuộc Gọi Từ Thiên Thần Giây Phút Này Central Park ... Tác phẩm của Gaulliaume Musso đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, và một số đang được dựng phim. Guillaume Musso được xem là hiện tượng best-seller của văn chương Pháp hiện tại. *** -      Khốn kiếp! Gabriel kêu lên thảng thốt, trong khi gương mặt Alice lộ rõ vẻ kinh ngạc. Ngay cả khi sự thật khó mà chấp nhận nổi thì lúc này cũng không còn nghi ngờ gì nữa. Họ đã thức giấc ngay giữa "Chốn ngao du", địa điểm hoang dã nhất của Central Park. Một khu rừng đích thực rộng mười lăm héc ta trải rộng đến phía Bắc hồ. Tim họ hòa chung nhịp đập, nện thình thịch trong lồng ngực. Trong lúc tiến lại gần bờ hồ, họ bước trên một lối đi náo nhiệt, điển hình cho không khí sôi động của công viên vào đầu giờ sáng. Những tín đồ chạy bộ thể dục hòa hợp với những người đạp xe, những môn đồ của Thái Cực Quyền và những người dắt chó đi dạo. Thế giới âm thanh đặc trưng của thành phố dường như đột nhiên bùng nổ bên tai họ: tiếng xe cộ qua lại ồn ã, tiếng còi xe, tiếng còi hụ của xe cứu hỏa và xe cảnh sát. -      Điên thật rồi, Alice khẽ thốt lên. Cảm thấy bất ổn, cô cố gắng suy nghĩ. Cô muốn chấp nhận rằng tối qua cả Gabriel lẫn cô đều đã quá chén, đến mức quên mất đêm qua đã diễn ra những sự việc gì. Nhưng riêng chuyện người ta có thể cưỡng ép đưa họ lên máy bay thì thật khó hình dung. Alice thường tới New York nghỉ hè cùng Seymour, đồng nghiệp và cũng là bạn thân nhất của cô. Cô biết một chuyến bay Paris-New York kéo dài hơn tám tiếng một chút, nhưng vì chênh lệch múi giờ, nên hai nơi chỉ cách nhau hai tiếng. Khi họ bay cùng nhau, Seymour thường đặt chỗ trên chuyến bay 8 giờ 30 tại sân bay Charles-de-Gaulle, hạ cánh tại New York lúc 10 giờ 30. Cô cũng nhớ rằng chuyến bay đường dài muộn nhất thường rời Paris trước 20 giờ một lúc. Thế mà tối qua lúc 20 giờ, cô vẫn còn ở Paris. Vậy thì Gabriel và cô hẳn đã bay một chuyến bằng máy bay riêng. Cứ cho là người ta đã đưa cô lên một chiếc máy bay lúc 2 giờ sáng tại Paris, cô sẽ tới New York lúc 4 giờ, giờ địa phương. Đủ để thức dậy tại Central Park lúc 8 giờ. Xét về mặt giấy tờ, điều này không thể xảy ra. Trên thực tế lại là một chuyện khác. Ngay cả trên một chuyến bay riêng thì những thủ tục hành chính để nhập cảnh vào Mỹ cũng lâu và phức tạp. Toàn bộ chuyện này tuyệt nhiên không ăn khớp. -      Oups, sorry! Một nam thanh niên đi giày trượt pa tanh vừa xô phải họ. Vừa xin lỗi, anh chàng vừa liếc về phía cặp còng với ánh mắt sững sờ xen lẫn ngờ vực. Tâm trí Alice bùng lên một tín hiệu báo động. -      Chúng ta không thể ở lại đây, bất động trước mắt những kẻ hiếu kỳ được, cô cảnh báo. Chưa đầy một phút nữa cảnh sát sẽ xô tới bắt chúng ta. -      Cô có ý tưởng gì chăng? -      Cầm lấy tay tôi, nhanh nào! -      Hả? ... Mời các bạn đón đọc Công Viên Trung Tâm của tác giả Guillaume Musso.
Kẻ Giết Người Được Giải Goncourt - Pierre Gamarra
“Minh bạch - đó là sự lịch thiệp của nhà văn.” - Jules Renard "Kẻ giết người được giải Goncourt" của nhà thơ, nhà văn Pierre Gamarra là quyển sách lạ ở thể loại trinh thám, không anh hùng hiệp sĩ, không kinh điển hào nhoáng… nhẹ nhàng mà kịch tính. Một thành viên trong ban giám khảo giải thưởng văn học Goncourt đã nhận được 1 bản "Sự im lặng của Harpocrate" (Harpocrate - Thần Im Lặng). Tác phẩm được đánh máy và ký tên Paul Doubois ở dưới. Tác phẩm đoạt giải mà tác giả lại không xuất hiện tại buổi lễ. Ban giám khảo hàn lâm viện Pháp bị đưa vào tình thế khó xử, cánh báo chí thì bắt đầu giơ nanh vuốt ra. "Sự im lặng của Harpocrate" là một cuốn tiểu thuyết vượt hẳn tất cả những gì mà người ta có thể tưởng tượng được, ban giám khảo nói rằng đấy là một tuyệt tác và quyển sách đã gây cho họ một ấn tượng đặc biệt. Ở trên một trong những đường phố nhỏ mà thường là im ắng và vắng lặng có một người buôn sách cũ tên là Muet bị giết. Ông ta bị giết bởi ba phát súng lục. Tội ác do tác giả, nghĩa là kẻ đã kể lại chuyện này thực hiện. Nguyên nhân là sự căm ghét không thể giải thích được. Đó là nội dung cơ bản của cuốn tiểu thuyết. Gần 220 trang sách được dành cho việc giải thích rõ nguyên nhân thúc đẩy tác giả - kẻ giết người - gây tội lỗi. Tác giả đã giải thích rõ cái gì đã đẩy anh ta tới lòng thù hận như vậy. Nếu như một người đam mê đến mức mất cả lý trí và bản năng bảo tồn thì người đó có thể đi đến tội lỗi. Và tên giết người cũng xảy ra đúng như vậy. Hắn ta muốn đạt được vinh quang văn học, muốn cho tên mình xuất hiện trên tất cả các báo để tất cả phải ghen tỵ kêu lên khi gặp mình… Nhưng cho tới nay hắn ta hoàn toàn không gặp may. Cứ mỗi năm lại thêm một người đoạt giải còn hắn ta thì bị bỏ qua. Cuối cùng thì hắn ta phát điên lên và lập một kế hoạch thật kỹ lưỡng nhằm đoạt giải. Và kế hoạch đó suy tính một vụ giết người không tang chứng. Nguyên nhân thúc đẩy là giành cho được giải thưởng văn học Goncourt danh giá trong một hoàn cảnh thật không bình thường… trong sự huyên náo của báo chí… Ngoài ra còn là khát vọng không thể chối cãi được nhằm thách thức ban giám khảo và dư luận xã hội: Một khi các ngài không muốn trao vòng nguyệt quế mà tôi đã nhiều lần xứng đáng được hưởng, các ngài đã giành cho tôi cái vị trí xoàng xĩnh của một nhà văn không ai biết tới… Được rồi, tôi sẽ cho các ngài biết khả năng của tôi như thế nào, tôi sẽ chơi cho các ngài một vố đau… Tên giết người là một kẻ có đầu óc. Đầu tiên hắn ta phác thảo kế hoạch hành động chung: mô tả vụ giết người, trang điểm chuyện đó bằng những lý luận bên ngoài về văn chương, về tâm lý và phản triết học rồi sau đó thì thực hiện nó, thực hiện chính cái vụ giết người đã được vạch ra từ trước theo đúng nghĩa của từ đó. Một tội ác chỉ vì vinh quang văn học. Về bản chất, nó khá tiêu biểu cho thời đại của chúng ta… *** Pierre Gamarra (1919-2009) Nhà giáo ,nhà văn, nhà thơ kiêm phê bình văn học Pháp sinh tại Toulouse , gốc Basque. Ông từng làm chủ nhiệm tờ tạp chí Châu Âu ( Europe ). Ông đặc biệt nổi tiếng với thơ và truyện viết cho trẻ em. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông có như: “Sát nhân” (L’assasin) – 1963 đoạt giải Goncourt; “Những bí mật ở Toulouse” (Les mistères de Toulouse ) – 1967; “Hoa tử đinh hương ở Saint-Lazare” (Les lilas de Saint-Lazare) – 1951 v.v… *** Và thấy trời hửng sáng, nàng Shêhêrêdađa ngừng câu chuyện của mình... Nghìn lẻ một đêm Mấy bức tường trong phòng làm việc khá chật hẹp của Simonie xếp dày sách. Giống như Montaigne, Gaston Simonie gọi phòng làm việc của mình là cửa hàng sách. Một sự bừa bãi kinh khủng trên các giá sách. Như chính ông chủ nói, chỉ mình ông ta mới có thể biết rõ chúng. Những cuốn sách cực kỳ sang trọng đặt xen lẫn với những cuốn sách nhỏ, những cuốn sách đóng bìa đắt tiền phô trương cạnh những cái gáy sờn rách mà các trang sách thì đã cuộn xoắn tít bẩn thỉu. Trên mặt lò sưởi cũng để mấy chồng sách. Bàn làm việc chất đầy tạp chí, hàng chồng giấy viết chi chít và hàng núi sách khác. Khắp nơi đầy những đồ vặt vãnh: mấy con thú bé xíu bằng thủy tinh, bằng sành sứ, bằng thiếc. Đó là một thú vui của Simonie. Mỗi tuần một lần, và đôi khi còn thường xuyên hơn, mà mọi người đều biết rõ chuyện ấy, ông ta sục sao khắp các cửa hiệu buôn đồ cổ để tìm những đồ mới lạ khác. Đó là những con khỉ hẳng ngà voi, mấy ông Phật mấy pho tượng người hút thuốc nhỏ xíu hay là lại một cục chặn giấy khác nữa. Vào tối hôm đó có rất nhiều khách có mặt ở phòng làm việc của Simonie. Đó là một hiện tượng cực kỳ đặc biệt. Thường thường Simonie không cho phép ai vào phòng làm việc của mình, thậm chí cả bà quét dọn nữa và không bao giờ ông ta tiếp ai ở đây cả. Hiện giờ trong phòng làm việc có mặt Joseph Robenne, dĩ nhiên cả Max Bary, Tổng biên tập "Paris-Nouvelles", Rosie Sauvage, d’Arjean, Simonie, nhà văn Vollar, một chàng trai nhỏ con, đậm người với vẻ mặt chua chát và thêm hai viên thanh tra cảnh sát đã đến đây vì lý do đặc biệt. Joseph quay về phía Tên giết người. Hắn ta ngồi đó đầu gục xuống. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Giết Người Được Giải Goncourt của tác giả Pierre Gamarra.
Giai Điệu Dưới Tầng Hầm - John Trinian
Giai Điệu Dưới Tầng Hầm mô tả một vụ tổ chức cướp sòng bạc được thực hiện ly kỳ và đầy nhân tính. Hai vai chính trong truyện là hai con người gần như hoàn toàn trái ngược nhau: Karl Heisler, người chủ mưu vụ cướp, gần suốt cả một đời vào tù ra khám và khi mãn hạn lần cuối thì đã năm mươi lăm tuổi với đôi bàn tay trắng. Yêu người vợ chung thủy già hơn tuổi vì quá nghèo khổ, thương đứa con trai độc nhất bị suy dinh dưỡng vì không đủ ăn, ông chỉ còn mơ ước thực hiện một vố thật lớn rồi giải nghệ để làm lại cuộc đời. Leeon Bertuzzi, chủ nhân sòng bạc, suốt hai mươi lăm năm phục vụ đắc lực cho "Nghiệp đoàn" không một lần sai sót để rồi bị cấp trên dùng một tay phụ tá trẻ loại trừ dần, tên này ngang nhiên cướp đoạt cả người vợ mà ông ta yêu hơn bất cứ gì trên đời, khiến ông ta chỉ còn cách âm mưu hạ sát kẻ thù, dù sau đó phải trả giá bằng cái chết... John Trinian sẽ dẫn dắt người đọc một cách say sưa từ khởi đầu cho đến kết thúc bằng một câu chuyện với những tình tiết đột biến, những cảnh tượng kỳ lạ, những cảm thương bàng bạc gần như không thấy rõ nhưng vẫn khiến cho ta xúc động. Xúc động cho những kiếp người khốn cùng trong một xã hội mà đồng tiền quyết định tất cả, do đó ngay cả những kẻ xấu cũng có vài nét đáng yêu, cũng vẫn là "người *** Mặc dù bị lên án, tệ nạn cờ bạc vẫn còn hoành hành nhiều nơi trên thế giới. Thậm chí, trong nhiều quốc gia phương Tây, tệ nạn này được đưa lên ngang hàng với nhiều ngành kinh tế khác: các sòng bạc được phép hoạt động công khai; và lẽ tất nhiên tất cả đều gian lận trong việc khai nạp thuế cho nhà nước. Do đó, ngoài tác hại khủng khiếp là khiến cho nhiều kẻ tán gia bại sản, nhiều con người đáng kính phải thân bại danh liệt, chúng còn làm băng hoại xã hội về nhiều mặt khác ở mức độ nghiêm trọng hơn. Để thỏa mãn lòng tham vô đáy và bảo vệ đồng tiền phi pháp đó, những tên chủ sòng bạc đã mua chuộc đủ các cấp của chính quyền địa phương và thành lập “Nghiệp đoàn” có uy lực bao trùm toàn quốc. “Tổng hành dinh” đặt tại các đô thị lớn như Las Vegas, một cái tên trên nước Mỹ mà có lẽ không một người nào không biết. Bất cứ một thành viên nào chống lại “Nghiệp đoàn” đều bị thanh toán một cách tàn nhẫn. Từ đó nảy sinh những tên côn đồ bảo vệ cho tổ chức này và nhiều tổ chức khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp như cho vay tiền lấy lãi thật nặng, hành nghề mãi dâm, v.v ... Về mặt nghiệp vụ cụ thể, các vần đề cất giữ tiền, vận chuyển tiền đã có nhiều phương pháp tinh vi, tài tình, tưởng chừng như tuyệt đối an toàn. So với các vấn đề tương tự trong ngành ngân hàng, ở đây còn khó khăn gấp bội vì tất cả đều phải tự thực hiện, mà không thể nhờ cơ quan cảnh sát giúp đỡ. Tuy nhiên, trên cõi đời này, đã có “vỏ quýt dày” tất có “móng tay nhọn”. Những con người thông minh, khi gặp những khó khăn “dường như” không thể vượt qua được, lại nổi máu phiêu lưu, quyết tâm thử trò chơi “trứng chọi đá”. GIAI ĐIỆU DƯỚI TẦNG HẦM mô tả một vụ tổ chức cướp sòng bạc được thực hiện ly kỳ và đầy nhân tính. Hai vai chính trong truyện là hai con người gần như hoàn toàn trái ngược nhau: Karl Heisler, người chủ mưu vụ cướp, gần suốt cả một đời vào tù ra khám và khi mãn hạn lần cuối thì đã năm mươi lăm tuổi với đôi bàn tay trắng. Yêu người vợ chung thủy già hơn tuổi vì quá nghèo khổ, thương đứa con độc nhất bị suy dinh dưỡng vì không đủ ăn, ông chỉ còn mơ ước thực hiện một vố thật lớn rồi giải nghệ để làm lại cuộc đời. Léon Bertuzzi, chủ nhân sòng bạc, suốt hai mươi lăm năm phục vụ đắc lực cho “Nghiệp đoàn” không một lần sai sót để rồi bị cấp trên dùng một tay phụ tá trẻ loại trừ dần, tên này ngang nhiên cướp đoạt cả người vợ mà ông ta yêu hơn bất cứ gì trên đời, khiến ông ta chỉ còn cách âm mưu hạ sát kẻ thù, dù sau đó phải trả giá bằng cái chết ... JOHN TRINIAN sẽ dẫn dắt người đọc một cách say sưa từ khởi đầu cho đến kết thúc bằng một câu chuyện với những tình tiết đột biến, những cảnh tượng kỳ lạ, những cảm thương bàng bạc gần như không thấy rõ nhưng vẫn khiến cho ta xúc động. Xúc động cho những kiếp người khốn cùng trong một xã hội mà đồng tiền quyết định tất cả, do đó ngay cả những kẻ xấu cũng có vài nét đáng yêu, cũng vẫn là “người”. Có lẽ chính vì vậy, một hãng phim liên doanh Pháp – Ý đã “phóng tác” câu chuyện này để quay thành một phim đặc sắc với hai bàn tài tử điện ảnh lừng danh thế giới của Pháp là JEAN GABIN và ALAN DELON với tựa đề khác với nguyên tác, mà người dịch đã lấy làm tên cho cuốn tiểu thuyết này. Cuốn phim đã được giới thiệu rộng rãi ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Saigon, v.v ... Trong “Những Ngày Phim Các Nước Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu (EEC)”. Trng quý 4 năm 1988. Chúng tôi đã dùng từ “phóng tác” bởi lẽ, vì một lý do nào đó, nhà làm phim đã hầu như thay đổi toàn bộ các đặc điểm chủ yếu của câu chuyện, thậm chí thay đổi hẳn cách kết thúc. Nhưng chính nhờ vậy, bạn đọc nào đã từng xem cuốn phim nói trên vẫn hoàn toàn thích thú khi được đọc cuốn sách này, nhất là được thưởng thức một niềm vui mới lạ: so sánh giá trị của điện ảnh và văn học trong cùng một tác phẩm. Ngày 09 - 05 - 2003. BỒ GIANG N.N.T Mời các bạn đón đọc Giai Điệu Dưới Tầng Hầm của tác giả John Trinian.