Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt

ROBERT DALEY BÀN TAY KẺ LẠ MẶT Người dịch: Nguyễn Đắc Lộ NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KHÁNH HÒA - 1990 Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Hands of a Stranger (Robert Daley) NXB New American Library (Signet Book) 1986, Nguồn sách: @quang3456 Chụp ảnh, pdf, OCR: 4DHN Cuộc đấu tranh để ngăn chặn, chống những tệ nạn xã hội là một trong những trận tuyến thầm lặng nhung không kém phân gay go, quyết liệt và nhiều khi trở thành nóng bỏng đối với nhiều nước trên thế giới hiện nay, đặc biệt là ở những nước tư bản phát triển, khi lối sống thực dụng lan trần, con nguôi chỉ biết chạy theo đồng tiền và những dục vọng thấp hèn, bất chấp mọi luật pháp và những nên tảng dạo đức xã hội. Thống qua tắn bi kịch của một gia dinh, tiểu thuyết “Bàn tay kè lạ mặt” của Robert Daley tuy chỉ đề cập dến một trong những loại hình tội phạm dang làm nhức nhối trong lòng xã hội Mỹ đương đại: tội hiếp dâm, nhung với lối viết chân thực, rất tỉ mi, cụ thể mà có tầm khái quát cao của mình, ngòi bút của ông đã vẽ nên một bối cảnh xã hội rộng lớn của xã hội Mỹ hiện nay: con người được sống với những diều kiện vật chất cao hơn, nhung khi nền tảng đạo đức xã hội bị phá vỡ, con người càng có nguy cơ trở nên tàn ác, tha hóa, thú vật với nhau hơn và tội ác càng cố sức công phá lớn, khó ngăn chặn hơn khi nó tận dụng được những phương tiện khoa học hiện đại phục vụ cho nó. Với một đề tài hấp dẫn nhung thật khó viết vì rất dễ có nguy cơ roi vào dung tục, khiêu dâm, chạy theo những thị hiếu tầm thường, Robert Daley dã thành công và tỏ ra là một cây bút có bản lĩnh. Cuốn sách của ông được đánh giá cao, trờ thành một hiện tượng văn học trong thập niên 80 ở Mỹ. Nhiều nhà phè bình nôi tiếng khẳng định giá trị nghệ thuật, tính chân thực và bức thống điệp nóng bỏng mà ông gửi dến cho mọi người về những mối de dọa của tội ác với cuộc sống và hạnh phúc của con người Trân trọng giới thiệu “Bàn tay kẻ lạ mặt”với bạn đọc. *** Nạn nhân bị xâm phạm đầu tiên sáng hôm ấy là một cô gái da đen mười chín tuổi. Người thứ nhì là một bà nội trợ da trắng ba mươi tám tuổi. Phụ tá chưởng lý quận Judith Adler không làm được gì đáng kể cho bất kỳ vụ nào. Cô gái da đen được một nữ thám tử đưa vào và được chỉ vào một chiếc ghế đối diện với bàn giấy. Viên thám tử trao tập hồ sơ vụ án của cô gái rồi ngồi dựa vào tường, một tập giấy vàng trên váy cô, chiếc ví tay nặng của cô đặt trên sàn nhà ngay bên cạnh. Judith Adler, sau khi nhìn lướt qua tập hồ sơ, thấy rằng nạn nhân tên là Bianca, người đã bị sáu người đàn ông “bề hội đồng” hôm qua, cô ta không hề biết mặt những tên hãm hiếp trước đó. Chẳng tên nào được gọi đích danh và cô ta chỉ có thể mô tả chúng là sáu “anh chàng da đen” thôi. Sự mô tả không làm Judith mỉm cười được. “Bianca, sáng nay cô thế nào?” Nàng ngẩng đầu lên hỏi: “Cô không sao chứ?” Nàng cố hết sức thật ôn tồn và thông cảm vì, xét theo tập hồ sơ, sự thông cảm hoàn toàn là sự công bình mà nạn nhân này hình như muốn có được. Bianca cám ơn, nói rằng cô ta khỏe và hình như sự thật là như thế. Ở vào trường hợp của cô thì một nữ sinh viên khác ở Park Avenue - Judith đã đối phó với nhiều người như thế - chắc sẽ cứng đờ người ra. Bianca mặc quần Jeans và giầy cổ cao, mấy chiếc móng chân màu đỏ tươi ló ra ngoài. Khuôn mặt rất trẻ, nước da rất đen. Cô tô son đỏ tươi và mặc một chiếc áo cánh cũng đỏ tươi. Với tiêu chuẩn trong thế giới riêng của cô, có lẽ ăn mặc như thế là thanh lịch. Judith định nói ai nhỉ? Bản thân nàng mặc một bộ đồ xanh lục bên ngoài một chiếc áo cánh lụa. Nạn nhân bị hãm hiếp kiên nhẫn chờ đợi. Theo tập hồ sơ sự vụ, hiện trường là một khách sạn phúc lợi tại Harlem. Địa điểm này quen thuộc đối với Judith. Công việc của nàng là phải biết những điều như thế. “Đấy chẳng phải là một khách sạn tốt” - nàng chê trách như thể chính khách sạn phải chịu trách nhiệm vì nếu không thì tội ác đối với Bianca không thể nào hiểu được. - “Rất nhiều gái điếm ở đây”. Bianca không có công việc làm, không có địa chỉ nhất định nào cả. Tuần qua cô ta đã di chuyển từ một căn nhà công cộng đến khách sạn phúc lợi và nàng biết rõ phải ngủ với quần áo đầy đủ kể cả đôi giầy vì sợ rằng sáng ra mọi thứ nàng có đều bị ăn cắp. Một người đàn bà tên Maria - không có họ - cũng sống ở đấy và trở thành bạn gái của cô ta. Nhưng Maria có chồng, dù theo luật lệ chung hoặc là chồng thật sự -cũng không thành vấn đề và một buổi sáng anh chồng này khoác lác rằng đã làm tình với Bianca ở phòng bên trong đêm. “Hắn bảo Maria rằng cô đã mút “của” hắn. Và cô có làm thế không Bianca?” Vai trò của nàng cho phép nàng có quyền nêu lên những câu hỏi như thế. Tuy nhiên một số những câu hỏi mà nàng sẽ hỏi sau đây sẽ còn có tính cách riêng tư hơn nữa. “Tôi chẳng thèm làm tình với bất kỳ ai mà tôi vừa gặp mặt cả”. Bianca phản đối. “Tôi nghĩ rằng tôi không chịu nói về việc ấy”. Câu này được nói lên thật trịnh trọng đến nỗi Judith, dù nàng chỉ gật đầu thôi, muốn hoan hô cô. Đối với Judith, sự tự trọng và lòng can đảm đều như nhau. Cả hai đều hiếm, đáng ca ngợi, và trong trường hợp một người mà viễn ảnh của cuộc sống thật tàn nhẫn như cuộc sống của Bianca, nó hoàn toàn bất ngờ. Maria đã ra đường phố thu thập một số đàn ông. Ả đã tìm thấy họ nằm uể oải nơi hiên trước và thơ thẩn ở các góc đường dưới ánh đèn. Ả đã thu thập được sáu kẻ thơ thẩn và đưa họ lên lầu. Tuổi họ từ vị thành niên cho đến năm mươi! “Tao sẽ làm mày tổn thương vì điều mày đã làm với chồng tao”. Ả đã bảo Bianca như thế và cho họ tấn công cô ta. Như mọi tội ác khác, hiếp dâm được phân hạng. Trường hợp hiếp dâm này, Judith Adler thấy, là một sự hiếp dâm để trả thù. Hiếp dâm để gỡ hòa. Hiếp dâm để trừng phạt. Tất cả sáu người đàn ông đều đã hãm hiếp Bianca. Chúng đã thực hiện nhiều lần và kéo dài theo khả năng của chúng. Chúng đã hãm hiếp cô ta cả phía trước lẫn phía sau và khi khả năng hoặc sự hăng hái của chúng hoặc bất kỳ thứ gì đã duy trì được hành động của chúng cuối cùng cạn đi, chúng bắt đầu hãm hiếp cô ta bằng các đồ vật. Thực là may, Judith suy nghĩ, vì chúng không chủ tâm giết cô ta. Nhiều cô gái trong các trường hợp tương tự đã xuất huyết đến chết. Công tác đầu tiên của nàng là đưa ra một sự mô tả chính xác của chính các hành động - cái gì và do ai. Những câu hỏi của nàng minh bạch và nàng đòi hỏi các câu trả lời cũng minh bạch. Nhưng giọng nói của nàng vẫn đều đều vì công tác của nàng không cho phép nàng bày tỏ cảm xúc và đôi khi nàng còn tự hỏi xem nàng có còn cảm thấy sự xúc động nào không nữa. Nàng đã không muốn trở thành chai đá. Mình là một người đàn bà, thỉnh thoảng nàng đã tự nhắc nhở lại như thế. Mình không phải là đàn ông. Nếu so sánh những sự xúc phạm mà người nghèo khổ gây ra cho nhau, đôi khi sẽ làm cho người giàu có có vẻ thánh thiện. Cộng thêm vào việc Maria đã hành động với tư cách giám sát và bản thân những kẻ hãm hiếp, rõ ràng là căn phòng đã đầy dẫy các quan sát viên, và Judith bắt đầu cố gắng thu thập những cái tên mà Bianca biết, không may những cái tên này đều không có họ. Dĩ nhiên, có Maria và chồng ả, Willis. “Willis có hãm hiếp cô không?” “Willis à, hắn là trọng tài đấy”. Silvia, không có họ, được mô tả là “có giọng thanh hơn tôi” đôi ba lần, khóc lóc thảm hại như Bianca và van xin các tên cưỡng hiếp buông Bianca ra. Tiny, được Bianca mô tả là “một người đàn ông mập với một mùi mồ hôi rất nồng”, đã quan sát với ngón tay cái đưa lên miệng. Judith ý thức rằng sự mô tả này có vẻ buồn cười trong lúc kể lại. Có lẽ điều ấy còn có vẻ buồn cười ngay cả trong một phòng xử án nữa. Nhưng đối với nàng nó chẳng có vẻ gì là buồn cười cả. “Cô phải tránh xa khách sạn ấy ra”, Judith ngẩng lên từ những điều ghi chú của nàng và khuyên cô gái. “Vì nếu họ hiểu được cô đã đến với tôi, họ có thể tìm cách hãm hại cô đấy”. Hãm hại cô ta à? Có lẽ họ sẽ giết cô ta đấy. Judith ghi số điện thoại và đẩy nó qua bàn giấy. “Đây là nhà và số văn phòng của tôi” - nàng giải thích. “Nếu cô đánh mất, tôi vẫn còn trong sổ sách. Nếu cô trông thấy bất kỳ ai trong số những người này, nếu có ai quấy rầy cô, tôi muốn cô gọi tôi ngay. Cô hiểu không? Hãy gọi tôi bất kỳ giờ nào bất luận ngày hoặc đêm”. Khi nữ thám tử đưa Bianca ra khỏi văn phòng, phụ tá chưởng lý quận Adler gấp tập hồ sơ, nhưng không bỏ vụ án lại. Dù rằng chẳng có gì nhiều để tiếp tục, nàng quyết định dù sao cũng phải theo đuổi nó. Nàng định đưa hai thám tử da đen đến khách sạn. Nếu Maria, Tiny hoặc Silvia vẫn còn đấy có thể bị nhận diện, và nếu Bianca tìm được địa chỉ và nhớ gọi đến, lúc ấy, có lẽ có thể sắp xếp được một hồ sơ, các sự bắt giữ sẽ được thực hiện. Maria và Willis, khi bị bắt có thể khai ra tên tuổi các tên hãm hiếp. Có lẽ thế mới có thể mong xét xử được. Có quá nhiều chữ “nếu”. Và nàng sẽ lấy đâu ra các thám tử nhỉ? Các chỉ huy trưởng cảnh sát không muốn đưa người ra cho những vụ án ưu tiên thấp như vụ này. Nàng sẽ tán tỉnh nhiều đấy. Vụ án tiếp theo hơi khá hơn. Bà nội trợ người da trắng ba mươi tám tuổi cũng ngồi vào cùng chiếc ghế như Bianca. Có một vết xây xát phía trên gò má bà ta và những vết khâu đen nơi khóe miệng. Bà cố gắng nở một nụ cười thê lương, dường như lúng túng vì đã gây ra nhiều sự phiền nhiễu, và nụ cười này có vẻ rộng một phân về một bên khuôn mặt bà ta hơn phía bên kia. Bà ta trông không xấu quá, Judith nghĩ như thế. Không như một số người mình đã gặp. Những người mà chỉ có những kẻ điên rồ thực sự mới tấn công. Bà nội trợ đã bị ve vãn trong lúc đang thả bộ tại Công viên Trung ương. Bà ta đã bị lôi vào bụi và bị hãm hiếp. Bà ta đã la hét nhưng chẳng ai đến cả. Bà ta đã được xem các quyển album của những kẻ thường hay tấn công về tình dục, nhưng chẳng thể nào chỉ ra được kẻ nào đã tấn công mình. “Bọn hiếp dâm là những tên tái phạm”. Judith Adler bảo bà ta. Lần sau hắn có thể bị bắt và chúng tôi sẽ mời bà xuống và bà cố gắng chỉ ra hắn. Hình như chẳng có gì nhiều cho người đàn bà để đổi lại những gì bà ta phải chịu. Khi viên nữ thám tử đã dẫn bà ta ra, ông Katz bước vào với một tờ giấy ghi lại các cú điện thoại. Ông Katz là thư ký của nàng, một người đàn ông trạc lục tuần đội một chòm tóc giả không thích hợp. Ông ta đã đến làm việc đầu tiên tại văn phòng luật sư quận từ hơn ba mươi năm trước. Trong những ngày ấy, mọi người kể cả các thư ký, đều phải là đàn ông. Vào lúc Judith Adler tốt nghiệp trường luật - chỉ độ một chục năm trước thôi - vẫn chỉ có sáu người phụ nữ trong một ban nhân viên gồm trên hai trăm công tố viên, nhưng họ không được giao vụ nào để khởi tố cả. Dĩ nhiên bây giờ không phải kiểu như thế. Khi xin việc tại đây, Judith còn trẻ, mặt non choẹt và nhiệt tình, và viên chưởng lý quận lúc ấy, một ông già tao nhã, không muốn thu nhận nàng. Nàng vẫn còn nhớ rõ chiếc áo nàng đã mặc ngày ấy, nàng đã cố gắng thật đẹp để làm cho nàng trông được mắt ông già. “Công việc của chúng tôi quá hào nhoáng đối với một phụ nữ trẻ”, ông đã bảo nàng như thế. Nàng đã tranh luận, thuyết phục và nài nỉ. Cuối cùng, hình như trái với lương tri của ông, ông đã nhận nàng. Ông già có lý, bây giờ Judith nghĩ lại. Nó hào nhoáng - còn hào nhoáng hơn cả bất kỳ ai bên ngoài có thể đoán được. Một trong những câu nhắn trên điện thoại, ông Katz bảo, có vẻ đặc biệt, và ông trao nó cho nàng: một đại úy thuộc cảnh sát tiểu bang New Jersey đã gọi: “Ông ta chỉ muốn đích thân nói chuyện với bà thôi. Ông ta bảo rằng có việc khẩn cấp”. Phụ tá chưởng lý quận Adler, với một đầu óc nặng trĩu vì những người đàn bà bị bạo hành, muốn có một sự thay đổi, bất kỳ sự thay đổi nào, dù chỉ là thoảng qua, nên nàng lật qua bức điện khẩn và tò mò. “New Jersey à?” “Hãy gọi điện thoại cho ông ấy”, nàng bảo Katz. Ông ta gật đầu và đi ra. Khi nút trên điện thoại của nàng bật sáng, nàng đập vào nó. “A lô”, nàng gọi. Nghe giọng phụ nữ ở đầu dây, người đàn ông ở đầu kia không chấp nhận. Ông ta chỉ nói chuyện với chính phụ tá chưởng lý quận hiện tại, ông ta nhấn mạnh. “Đây là người ấy đấy”, Judith bực mình nghĩ. Rõ ràng là viên cảnh sát đã mong được nói chuyện với một người đàn ông. Ít năm trước, có lẽ ông ta cũng nói như thế; giờ đây, Judith ghi nhận một lần nữa, những người như thế, chỉ đối xử với nàng bằng một sự im lặng hơi kéo dài thôi. “Tôi là đại úy Sample”, giọng đàn ông cuối cùng lên tiếng. “Bà có thể ra khỏi chỗ đấy không? Chúng tôi có điều quan trọng để thảo luận với bà”. Và ông ta đợi. “Tốt hơn ông nên tường trình cho tôi đi”, Judith nói. Sau khi đã mất hứng thú nơi đại úy Sample, nàng bắt đầu lật qua các bức điện khác. Các luật sư cho các bị cáo, ủy viên công tố trừng phạt rắc rối với một tù nhân, có lẽ thế. Văn phòng thị trưởng. Chánh án hành pháp. “Tôi không muốn nêu vấn đề ấy ra trên điện thoại”, đại úy Sample nói. Câu này cũng làm Judith bực mình. Các cảnh sát viên về một vụ án thích cho là mọi đường dây điện thoại của họ đều bị nghe lén cả. “Tôi hơi bận,” nàng đáp cộc lốc. “Nếu ông muốn đến đây, tôi có thể cho ông một cuộc hẹn vào ngày mai hoặc ngày kia”. Sample cố gắng buông một tiếng cười trấn an. “Tôi không nghĩ rằng tôi có thể tìm ra văn phòng của bà. Bà sẽ phải đưa một chiếc xe cảnh sát đến đầu đường hầm để đưa tôi vào đấy.” Judith quả quyết “Nếu không…” Có một sự im lặng khác trong lúc lời đe dọa của nàng về đến đích. Cuối cùng Sample thở dài. “Hai người đàn ông định buộc cô gái trẻ này vào một chiếc xe” ông ta nói. Ông ta có một giọng nói khàn khàn và một âm điệu cứng. “Và một người của tôi ngẫu nhiên lái xe ngang qua, thế đấy. Chúng tôi bắt hai thủ phạm, và trong cốp xe của họ, bà biết chúng tôi đã tìm ra thứ gì không?” Judith đã quyết định sẽ gọi chánh án hành pháp ngay sau đó. Một vấn đề thuộc thời khóa biểu, nàng đoán như thế. Điều ấy có thể thương lượng trên điện thoại. “Tôi không biết”, nàng nói với đại úy Sample, “ông đã tìm ra điều gì thế?” “10 kilo hasit”, ông ta nói với vẻ đắc thắng. “Hay đấy”, Judith nói. Kế đấy nàng phải dự hai buổi thuyết trình pháp đình, buổi đầu tiên còn năm phút nữa - và trên tầng mười lăm. Sample, như hầu hết các cảnh sát viên của các thành phố nhỏ, bị hăm dọa một cách dễ dàng. “Tôi biết điều ấy không có vẻ gì là nhiều tại New York đâu”. “Ma túy không phải phần hành của tôi”, Judith nói. Nàng không muốn làm tổn thương cảm tình của Sample nhưng tốt nhất nàng nên cắt gọn vấn đề này. “Và New Jersey ngoài quyền xử lý của tôi.” “Chúng tôi có một tờ lệnh xét nhà họ”, Sample vội nói, “và bà nghĩ chúng tôi đã tìm được thứ gì nhỉ?” Lần này ông ta không chờ câu trả lời. “Độ hơn hai mươi cuộn video cassette về các cuộc hiếp dâm hiện nay. Các cô gái trẻ. Các cô người mẫu. Các cô thỏ Playboy. Các cô gái trẻ đẹp”. Giọng ông ta nghe như một cô quảng cáo trình diễn thoát y. “Nhưng các cuộc hiếp dâm đều xảy ra tại New York. Tôi muốn bà ra khỏi đây và nhìn qua các cuộn băng. Bà có định đến không?” Judith thôi lật các tờ giấy ghi lại những cú điện thoại của nàng. “Vụ án ma túy cũng có thể đưa về lại đây nữa”, Sample nói, ông ta cố gắng làm cho ngọt miếng mồi. Ông ta là một viên cảnh sát của một thành phố nhỏ đang có trong tay một vụ án hiếp dâm lớn, Judith nghĩ, ông ta không biết phải đối phó như thế nào với nó, ông ta đang cầu xin sự giúp đỡ. Rồi nàng nghĩ: ông ta chỉ hứng thú vì các nạn nhân đều hấp dẫn. Điều này làm phật ý nàng. Trong lúc các nguyên nhân lướt qua, điều ấy gây khó chịu. Giả sử các nạn nhân đều là các bà già thì sao? Các bà già cũng bị hãm hiếp nữa, nàng muốn bảo Sample như thế. Các bà nội thường đến đấy, nàng nghĩ thế. Họ không còn tự xem mình là đối tượng tình dục, đã nhiều năm rồi và sự xúc động chính của họ trong lúc họ kể lại câu chuyện của họ, trong lúc mô tả điều bọn đàn ông đã làm với họ là sự sợ hãi rằng mình sẽ cười. “Vậy bà định đến không?” Sample bảo. Giọng ông ta có vẻ nài nỉ. Điều ấy rất yếu vì những người mạnh bạo, những viên cảnh sát mạnh bạo, bất kỳ giá nào đều không nài nỉ - hoặc Judith cho rằng như thế. Nhưng điều ấy vẫn có và nàng hiểu được. Mình nên suy nghĩ điều này ít phút trước khi chối từ. Nàng tự nhủ. Mình nợ ông ta nhiều như thế đấy. “Để tôi xem người ta có gì cho tôi ở đây đã”, nàng nói. “Tôi sẽ trở lại với ông sau”. Trong lúc nàng đi vội lên tầng 15, chuyện ấy vẫn bám theo nàng. Buổi đầu tiên trong hai buổi nghe thuyết trình của nàng liên quan đến một tay thanh niên làm việc lặt vặt rất mập, đầu óc chậm chạp ngụ trong một tòa nhà ở phía tây. Ba tuần trước, vì một lý do chẳng ai xác định được là gì, hắn đã hiếp dâm một bà chủ nhà với một con dao để uy hiếp. Khi hắn không duy trì được tình trạng cương cứng, hắn bắt đầu đâm bà ta. Sau đấy tên thanh niên đi đến chỗ mẹ hắn và đưa cho bà mớ quần áo vấy máu của hắn để giặt. Bà đã gọi cảnh sát. Bây giờ luật sư của hắn cố gắng giữ hắn trong phòng bệnh tâm thần, cách ly các tù nhân thông thường với lý do rằng hắn tròn trĩnh và mềm như bất kỳ phụ nữ nào và đúng là không tự bảo vệ được về phương diện thể chất. Mỉa mai trên cả các sự mỉa mai: trong tù hắn sẽ bị hiếp dâm. Judith khăng khăng đòi các điều luật thích hợp. Nếu không nàng không phản đối gì cả. Buổi thuyết trình thứ nhì trong một phòng xử án bên cạnh, liên quan đến một người đàn ông da đen trung niên, lực lưỡng, vừa mới ra tù chỉ có ba tuần lễ. Không có tiền bạc và nghề nghiệp gì cả, duy nhất chỉ có bộ quần áo mà hắn vẫn còn mặc ở tòa án ngày hôm nay, cộng với nhiều cái đói khác nhau của hắn, hắn được thả lỏng trên xã hội. Trong hai tuần lễ tự do, hắn đã hãm hiếp hai người lạ trong hành lang của các tòa nhà. Cả hai đều giống những cuộc hiếp dâm trong tù - những cuộc đương đầu nhanh, tàn bạo rõ ràng là loại tình dục duy nhất mà người này biết hoặc có thể cảm thấy thoải mái. Bây giờ bị cáo lơ đễnh nhìn lên mặt bàn trong lúc luật sư của hắn nói với thẩm phán rằng quyền công dân của thân chủ ông ta đã bị xâm phạm, bắt giữ hắn là trái luật. Viên sĩ quan bắt giữ đã thiếu lý do có thể có được và hồ sơ mà cả hai nạn nhân đã tố giác thân chủ của ông đã được sắp xếp một cách không thích đáng. Đây là một trong nhiều vụ hãm hiếp chưa giải quyết mà chi tiết Judith còn đang mang trong đầu. Trước tòa nàng tranh luận rằng, trái lại, vụ án này tiêu biểu cho công việc có tính nguyên tắc cao nhất của cảnh sát và nàng giải thích rõ tại sao. Rồi nàng đưa chàng sĩ quan hình sự trẻ lên bục. Đầu tiên nàng chất vấn anh ta, rồi viên luật sư thẩm vấn chàng thật gắt gao. Hầu như đây là một cuộc xét xử đại qui mô, chỉ thiếu có bồi thẩm và tuyên án thôi. “Thưa quí tòa”, viên luật sư kết luận, “thân chủ của tôi bị bắt chỉ vì ông ấy là một người da đen trong một vùng phụ cận da trắng. Việc ông ấy bị bắt nặng mùi ngất trời. Tôi muốn nôn ra đây”. Chánh án giữ lại quyết định, điều đó ngầm bảo rằng ông ta có thể có quyết định cuối cùng là ra lệnh phóng thích bị cáo. Điều này xảy ra quá thường. Judith có lẽ cũng phải sốt ruột vì vụ án này và nàng đã thường sốt ruột chờ đợi rất nhiều rồi. Trong lúc ấy, bị cáo lại bị còng tay chỉ đứng cách nàng không đầy mười foot. Nếu một người là một tên hiếp dâm, nàng nghĩ trong lúc quan sát hắn, điều ấy phải được rõ ràng. Người ta có thể đoán ra được bằng cách nhìn hắn. Nhưng chẳng có gì lộ ra cả. Các tên hiếp dâm trông cũng chẳng khác gì người khác. Các tên sát nhân cũng thế. Điều ác không thể nhận ra bằng một cái liếc mắt được. Đây là lý do khiến chúng ta có hai phòng xử. Đấy là một cách tốt nhất mà chúng ra có thể làm được. Chàng cảnh sát trẻ đứng bên cạnh nàng. “Viên luật sư ấy”, viên cảnh sát cố ý nói, “ông ta cừ đấy, đúng không?” Chính những luật sư như thế đã đầu độc hầu hết các cảnh sát viên chống lại nghề nghiệp của nàng, và Judith biết điều này. Nhưng nàng không có ý định nào để phỉ báng các luật sư - bất kỳ luật sư nào - trước mặt các cảnh sát viên, nên nàng mỉm cười với viên cảnh sát, bắt tay anh ta và anh ta bỏ đi. Nàng còn một công việc nữa để làm trên tầng này nên nàng bước qua hai cánh cửa, đi dọc theo hành lang và bước vào một phòng xử ở đó một cuộc xử án đang tiến hành. Mặc dầu chỗ ngồi đều chật ních - bồi thẩm, chánh án, ban bào chữa, công tố, tốc ký, một số lính canh phòng xử có vũ trang - khu vực dành riêng cho người dự thính hầu như trống rỗng. Bao nhiêu là ghế mà chỉ có nàng và ba người khác. Có lẽ là một cuộc xử giả hiệu. Trong những căn phòng như thế này trên khắp đất nước, nền dân chủ được bênh vực từ ngày này sang ngày khác. Báo chí và các công dân, trừ trong một số ít vụ án nổi bật, chẳng chú ý gì cả. Chẳng lạ gì, nàng nghĩ, vì sao hệ thống làm việc không khá hơn mấy. Nàng chiếm một chiếc ghế gần cánh cửa nàng vừa bước vào và đặt hai tập hồ sơ nặng trên chiếc ghế bên cạnh. Công tố viên là chàng thanh niên Benjamin Goldberg. Chàng đang thẩm vấn một nữ nhân chứng trên bục, nhưng khi chàng nhìn lên và trông thấy Judith, chàng tặng nàng một nụ cười ngắn. Chàng trông có vẻ hài lòng vì nàng đã lên. Benjy vừa tốt nghiệp trường luật và mới hai mươi bốn tuổi. Chàng là công tố viên trẻ nhất ở ban của nàng. Nhưng họ đều còn trẻ cả - người lớn tuổi nhất trẻ hơn Judith nhiều. Họ hưởng lương kém, nhiệt tình, siêng năng và so với các luật sư bào chữa mà họ đương đầu, họ thiếu kinh nghiệm một cách thảm hại. Trong những phòng xử trống rỗng như thế này, sự có mặt của Judith chứng tỏ cho Benjy và những người khác thấy rằng lãnh đạo quan tâm đến - rằng có ai đấy quan tâm đến là điều quan trọng. Vụ án ở đây liên quan đến chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một cậu bé năm tuổi do một tên đốn mạt năm mươi hai tuổi ở vùng phụ cận, một người đàn ông có một tiền án hai mươi hai năm về tội tình dục. Người đàn bà trên bục chắc là người mẹ. Benjy xử sự với nàng gần như mỗi ngày một khá hơn. Không như nhiều công tố viên trẻ, chàng là một người có năng khiếu tự nhiên. Chàng sẽ trở thành một luật sư tòa án thành công. Chẳng còn gì nhiều để nàng có thể góp ý cho chàng, vấn đề duy nhất của chàng sẽ là chính bản thân đứa bé. Đứa bé năm tuổi có còn nhớ điều đã xảy ra với nó không? Judith đã đưa ra xử càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, vấn đề ấy phải mất sáu tháng, đứa bé có chỉ được kẻ tấn công nó không, hay tên đốn mạt sẽ lại tự do. Và sẽ tấn công một cậu bé nào đấy vào ngày mai hoặc tuần sau? Trong lúc đứng trong thang máy xuống văn phòng của nàng, Judith cảm thấy bực dọc. Nàng thấy luật chỉ là điều không hoàn hảo, vô hiệu và hầu như lúc nào cũng hoàn toàn không có hiệu quả dù rằng đấy là tất cả những gì nền văn minh có được. Yêu luật, và nàng quả tình yêu nó, như yêu một người không yêu mình. Cuộc đời nàng chỉ qua được một nửa thôi. Cuộc đời của nàng có lẽ mới một nửa - nàng ba mươi bảy tuổi - và nàng đã hoàn thành được gì? Điều nàng cần thật sự, nàng tự nhủ, là một lúc nào đó được rời bỏ văn phòng và ngay cả rời bỏ thành phố, không bận bịu những việc ở đây. Một buổi chiều một mình ở vùng quê bắt đầu làm cho nàng cảm thấy là một thú vui hiếm hoi nhất của cuộc đời. Khi nàng bước vào phòng trước của nàng, ông Katz đưa thêm cho nàng một số lời nhắn trên điện thoại. Chẳng có cái nào khẩn cấp cả, ông bảo. Judith, với hai hồ sơ vụ án kẹp dưới cánh tay, lật qua các bức điện, nhưng trí óc nàng để ở nơi khác. Nàng đang nghĩ đến cú điện thoại của cảnh sát tiểu bang New Jersey. Tại sao nàng không đến đấy trong một giờ và giúp đại úy Sample về những vụ án hiếp dâm mà ông ta nắm được nhỉ? Đấy là một chuyến đi có lý. Có một loạt cửa hàng mua sắm trên đường số 17. Ngoài ấy sẽ có ao hồ, rừng và không khí trong lành để thở. Nàng bỗng bảo ông Katz điện thoại cho Sample xin hướng dẫn. Hôm nay là thứ ba. Ông ta hẹn nàng vào chiều thứ năm. Nàng có nên đi một mình không, nàng tự hỏi, hoặc nên nhờ một cảnh sát trưởng cùng đi với nàng? Nếu thế thì ai đây? Về chiều, các cuộc xét xử đình lại. Tòa án đã kết thúc ngày làm việc. Các bồi thẩm đi phố. Các luật sư biện hộ đang bám vào những chiếc Cadillac của họ. Các thẩm phán đang treo áo trong phòng mình. Chỉ có những luật sư phụ thẩm quận trẻ, lương ít vẫn còn làm việc. Họ đã xuống lại văn phòng nơi họ sẽ làm việc thêm về các vụ án, một số người trong bọn họ còn làm việc đến khuya nữa. Các cuộc thẩm vấn phải được chuẩn bị, các bản tóm tắt phải được tu sửa lại. Họ như những diễn viên thiếu kinh nghiệm tập dợt lại giữa các màn trình diễn. Các nhân chứng cho ngày mai phải được tiếp xúc và phỏng vấn lại. Trong một số vụ, phải đưa thám tử ra truy lùng một nhân chứng thiếu hoặc một bằng chứng cuối cùng. Trời về chiều đã lâu, bỗng một số công tố viên trẻ được bổ nhiệm đến cho Judith cùng bước vào văn phòng nàng. Mỗi đêm trước khi về nhà, nàng muốn biết mỗi vụ án của họ đang diễn tiến thế nào, và lúc này họ có năm vụ, cộng với một vụ thứ sáu mà bồi thẩm vẫn còn vắng mặt. Tất cả những vụ này đều thuộc trách nhiệm của nàng. Nếu có vấn đề nào xuất hiện trong ngày, nàng muốn biết đây là những vấn đề gì. Do kinh nghiệm vượt trội của nàng, có lẽ nàng có thể ngăn chặn được một vụ án khỏi bị thua. Ít nhất nàng có thể đưa ra lời khuyến khích cho các chàng trai hoặc các cô gái đang khởi tố nó. Judith ngồi ở bàn giấy và họ vây lấy nàng và nàng hài lòng vì có họ ở đấy. Nàng mong muốn có những cuộc họp này hằng đêm. Đây là con cái của mình, nàng tự nhủ. Ông Katz đã mang vào một khay cà phê bằng các tông với những chiếc tách styrofoam. Các tách cà phê được chia ra và khuấy lên, đồng thời cuộc thảo luận bắt đầu. Đèn được bật lên. Bầu không khí trong phòng thân thiện, nhưng cũng căng thẳng. Các cuộc xử đều xúc động. Cuộc sống và nghề nghiệp của dân chúng đang bị đe dọa. Những biến cố kinh khủng đang được xét xử. Đa số các cuộc xét xử có vẻ đang diễn tiến tốt đẹp. Chỉ có Brian Crawford đã gặp phải một vấn đề nghiêm trọng; Chàng đứng tựa lưng vào tường, trông buồn bực. “Nhân chứng chính của tôi, nạn nhân, con bé tóc hoe bẽn lẽn ấy,” chàng thốt lên, “cô ta vừa gây trở ngại cho vụ án của tôi đấy.” Đối với các công tố viên này các cuộc xét xử giống như cuộc đời, hoàn toàn không tiên đoán được. Thủ tục tòa án theo đúng cách, nhưng tư cách các nhân chứng thì không. Phản ứng của các bồi thẩm cũng không. Các điều gây ngạc nhiên đều phổ biến. Các nhân chứng quên các câu của họ và ứng khẩu ra những câu mới. Một số đâm sợ hãi và thay đổi câu chuyện của họ. Một số cứng miệng. Các bồi thẩm tin một số và không tin số khác thì vì những lý do thách đố lương tri. Kết quả các vụ không bao giờ có thể tính trước được. Cuộc phiêu lưu hằng ngày của công việc xét xử đối với các luật sư trẻ này là một sự mê hoặc vô tận, và các đồng nghiệp của Crawford đang chờ để nghe bất kỳ điều kinh khủng nào ở pháp đình mà chàng sắp mô tả ra. “Tôi đã bảo cô ta”, Crawford nói, “chỉ ra người đàn ông đã hãm hiếp cô ta”. Có một sự im lặng bi thảm. “Cô bé tóc hoe e lệ này”, Crawford bảo, “chỉ hắn và la hét om sòm, “thằng chó ấy đấy”. Có một sự im lặng trong văn phòng Judith. Rồi mọi người bắt đầu cười. “Tôi không thể nào tin được tai mình,” Crawford bảo. Tiếng cười chấm dứt. Sự thông cảm của bồi thẩm đoàn là một chuyện mỏng manh. Nhưng không có nó các luật sư bảo là bạn thua vụ án. “Và hãy đợi”, Crawford bảo, “cho đến lúc bạn nghe điều cô ta nói tắt ngang.” Tất cả bọn họ đều biết các vụ án của nhau và bây giờ trong tâm trí họ, họ dừng lại để xem lại vụ án của Crawford. Bị cáo gõ cửa với lý do hắn là người trừ chuột. Cô bé e lệ cho hắn vào. Hắn chộp lấy một con dao ở tủ búp phê và hãm hiếp cô ta. Đấy là câu chuyện của cô ta suốt trong các cuộc phỏng vấn trước khi xét xử. “Không may,” Crawford bảo, “điều mà người trừ chuột làm là hắn đặt con dao xuống và bảo với cô ta là, tôi có thể đặt tay lên ngực cô không? Cô ta nói, cái gì đây, hiếp dâm à? Vì nếu như thế, chúng ta khắc phục nó.” Thế rồi cô ta bắt đầu cởi quần áo mình ra.” Một trận cười, sau đó im lặng. “Ngày mai anh thử thẩm vấn lại cô ta một lần nữa xem sao”. Judith xoa dịu anh ta. “Vâng, nhưng tôi phải nói gì?” Các công tố viên khác bắt đầu khuyên bảo. Câu chuyện được luật sư đoàn gợi ra ngày hôm sau hoàn toàn không tương xứng với điều kinh hoàng. Crawford có thể đưa lên bục một bác sĩ tâm thần để xác nhận điều ấy. Nhiều cái tên được đề nghị với chàng. “Nhưng cô ta đã gọi bị cáo là một tên “đít lừa”, Crawford bảo. “Bồi thẩm đoàn không còn xem cô ta là một cô bé tóc hoe e lệ nữa.” “Người đàn ông đã hãm hiếp cô ta đang đứng cách cô ta chỉ có ba thước,” Judith Adler vỗ về. “Cô ta vẫn còn bị hắn làm hoảng sợ. Trong sự kinh hoàng, cô ta gọi hắn bằng một từ thô lỗ.” Mọi người bắt đầu cười lại. “Đấy không phải là một cô bé tóc hoe đoan trang dùng một từ thô lỗ.” Judith bảo, “đấy là một nạn nhân hãm hiếp bị hoảng sợ.” Nàng nhìn quanh đến những người kia. “Marcy?” nàng bảo. Marcy Miller, người phụ nữ thứ hai duy nhất ngoài nàng hiện diện, đang xét xử một nha sĩ đã gạ gẫm nữ bệnh nhân bằng thuốc mê. Vụ án này diễn tiến tốt đẹp, nàng nói. Và trong vụ xử chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một tội nhân tình dục do thói quen, Benjy Goldberg đã đưa cậu bé năm tuổi lên bục chiều hôm nay và đã bắt đầu thẩm vấn trực tiếp. Đứa bé có được một lúc chú ý độ 60 giây. Nó đã ngồi vào ghế nhân chứng, hớp coca-cola và cười với mẹ nó cuối phòng xử. Các câu hỏi phải được lặp lại đôi ba lần nó mới có thể hiểu được và trả lời. Ngày mai Goldberg định bảo nó nhận diện bị cáo ở phòng xử công khai và chàng lo lắng. “Hãy cho nó đứng xa chiếc ghế nhân chứng,” Judith đề nghị. “Hãy bảo nó diễn lại vụ án - bị cáo đã đưa nó vào hẻm bằng cách nào, và hắn đã làm gì. Hãy bảo nó diễn lại. Tôi đã thử điều ấy trước kia với các em nhỏ. Điều ấy có vẻ hợp với chúng đấy.” Cánh cửa mở ra và ông Katz thò đầu vào phòng. “Vụ Ligouri đã có quyết định rồi,” ông thông báo. Tất cả bọn họ đều biết vụ án này nữa. Bồi thẩm đoàn của vụ Ligouri, đã thảo luận kỹ trong hai ngày. Katz bỗng nở một nụ cười thoải mái. Và hắn đã có bản án của hắn. “Trong vòng ít phút nữa,” Crawford bảo, “hắn sẽ vào đây và khoác lác rằng bản tóm tắt của hắn lớn lao như thế nào đấy.” Mọi người đều mỉm cười. “Tôi không hiểu tại sao bồi thẩm đoàn để lâu thế,” Judith trầm ngâm nói. Ngay lúc ấy cánh cửa bị giật ra sau và Anthony Ligouri, hai mươi bảy tuổi, đứng với vẻ đắc thắng trên ngưỡng cửa, đấm ngực, như Tarzan trong một bộ đồ ba mảnh. Những người kia cổ vũ chàng. “Tôi nghe bồi thẩm đoàn đã muốn kết tội anh thế nào đấy,” Benjy Golberg bảo. “Đấy là kết luận của anh”, Crawford nói. “Theo như tôi nhớ,” Benjy Goldberg bảo, “bị cáo hãm hiếp cô ta đứng dựa vào thành sau của một chiếc thang máy, lúc cửa mở và có hai cảnh sát viên đang đợi vào thang máy. Hiếp dâm có nhân chứng. Vậy tại sao bồi thẩm đoàn phải mất hai ngày nhỉ?” Ligouri, ngồi trên bệ cửa sổ của Judith, lau mồ hôi tưởng tượng trên trán. “Tôi đã nói chuyện với một người trong bồi thẩm đoàn sau đấy. Tôi đã suýt thua vụ án. Nạn nhân xác minh, chuyên viên phòng thí nghiệm và bác sĩ thực tập nội trú xác minh. Âm hộ của cô ta hoàn toàn bị trầy trụa. Còn cả tinh dịch nữa. Chúa ơi. Nhưng bồi thẩm số chín không tin rằng sự hãm hiếp xảy ra ở tư thế đứng như mô tả. Ông ta chống lại trong hai ngày. Không thể được, ông ta bảo. Ông ta là một công nhân bưu điện về hưu. Theo ông ta, sự giao hợp ở tư thế đứng không thể thực hiện được.” “Và anh hỏi tại sao thư từ chuyển quá chậm,” Crawford lên tiếng. Mọi người cười vang. “Các bồi thẩm kia tranh luận với ông ta hai ngày,” Ligouri bảo. Có bốn phụ nữ trong bồi thẩm đoàn ấy, tất cả đều có tuổi cả. Cuối cùng một trong số người ấy đứng dậy và bảo ông nhân viên bưu điện rằng ông ta sai, giao hợp ở tư thế đứng vẫn có thể thực hiện được. “Bà biết cách nào không?”, ông ta tra gạn. Và bà già tóc xám này bảo rằng: “Vì tôi đã đích thân làm như thế ở tư thế đứng.” “Điều ấy chắc gây thương tổn cho bà ta,” Judith lẩm bầm. “Ông nhân viên bưu điện vẫn không chịu,” Ligouri nói, “Nên các bà kia lần lượt đứng dậy và nhận rằng họ cũng đã làm điều ấy ở tư thế đứng. Cuối cùng, ông nhân viên bưu điện chịu thua và tôi có lời buộc tội.” Tất cả bọn họ đều cười vang, nhưng Judith thấy rằng họ cũng không được thoải mái. Dù rằng họ còn trẻ, tất cả đều đã lập gia đình. Ngay cả Marcy cũng có gia đình, còn Judith thì không, nên chuyện đùa cợt về tình dục trước sự hiện diện của nàng làm cho họ không được thoải mái như thể nàng là mẹ của họ. Đấy là con cái của nàng và nàng hãnh diện về tất cả bọn họ. Tuy vậy, đôi khi họ làm nàng có cảm giác nàng là gái già. Khi về nhà, nàng đi tắm ngay. Nàng sống trong một căn hộ phía tây công viên trung ương và đêm nay, như mọi đêm, đi tắm là một hành động hết phiên trực đầu tiên của nàng. Nàng kỳ cọ người kỹ lưỡng. Nàng tẩy rửa bụi bặm trong ngày và mồ hôi ở thân thể hay cố gắng rửa sạch bụi bặm trong tâm hồn nàng đây? Điện thoại reo. Sau khi bước ra nhà tắm, nàng lấy chiếc khăn lớn quạt nhanh lên người ít cái rồi bước vào phòng ngủ và trả lời. Da thịt của nàng vẫn còn bốc hơi yếu ớt, và nàng nắm chặt chiếc khăn ở một tay. “Alô?” Vẫn là một người khác trong số các công tố viên trẻ của nàng. David Reidy. Văn phòng nàng có người, 24/24. David trực đêm nay và một vụ án vừa đến - một nữ luật sư làm việc khuya bị hãm hiếp ngay trên bàn giấy của cô, do người thợ chữa điện của tòa nhà. David muốn được nàng khuyên bảo và nàng cho ý kiến. Rồi nàng đi tắm lại. Nàng đứng dưới vòi nước. Judith mặc pyjama và một chiếc áo khoác ngoài và tự đi sửa soạn bữa tối. Sau đấy nàng xem TV một lúc, rồi lên giường nằm, với tờ New York Times gấp lại ở phần đố ô chữ và đầu một cây bút chì cắn ở răng. Khoảng nửa đêm, nàng tắt đèn.   Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt Tập 1 của tác giả Robert Daley.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Gái Trong Chiếc Thùng Gỗ
7 năm trước, Flora Dane – một sinh viên đại học vô tư vô lo – bị bắt cóc khi đang đi uống với bạn tại một quán bar trong kỳ nghỉ xuân. Cô bị trong một chiếc thùng gỗ rẻ tiền có kích cỡ như một cỗ quan tài, dưới căn hầm ở một nơi biệt lập với khu dân cư và nhiều ngày không được ăn uống. Trong suốt 472 ngày, Flora đã nhận ra được giới hạn chịu đựng của một con người.  May mắn được cứu thoát nhưng Flora trở về là thành một người hoàn toàn khác. Cô đã dành 5 năm để học về tâm lý tội phạm, tự vệ. Sau nhiều lần cô biến mất dài ngày và trở về, người ta tự hỏi chuyện gì xảy ra với Flora, một nữ anh hùng hay một tên tội phạm ám ảnh với quá khứ? Trích dẫn:  ĐÂY LÀ ĐIỀU TÔI BIẾT: Không có gì nhiều để làm ngày qua ngày trong cái thùng gỗ có kích cỡ như một cỗ quan tài ấy. Trên thực tế, chỉ có duy nhất một điều đáng để ám ảnh, tưởng tượng, trù tính trong từng phút kinh hoàng, từng giờ hãi hùng. Một lý do duy nhất khiến bạn tiếp tục. Một ý nghĩ duy nhất đem lại cho bạn sức mạnh. Bạn sẽ tìm thấy nó. Bạn sẽ hun đúc nó. Và nếu bạn giống tôi, bạn sẽ không bao giờ để nó biến mất. Trả thù. Nhưng hãy cẩn thận với điều ước của bạn, đặc biệt khi bạn chỉ là một con bé ngốc nghếch bị giam cầm trong cái thùng gỗ có kích cỡ như chiếc quan tài. --- “Lisa Gardner là bậc thầy trong dòng truyện tâm lý ly kỳ… Thế giới về FBI, nỗi kinh hoàng của những vụ bắt cóc và tiếng nói ủng hộ các nạn nhân được hòa quyện trong tác phẩm trinh thám đầy kịch tính này.” _Thông tấn xã Hoa Kỳ_ -- LISA GARDNER là nữ nhà văn người Mỹ, có những sáng tác nổi bật thuộc các series như loạt sách Đặc vụ FBI Quincy và chuỗi vụ án của Thanh tra D.D. Warren. Bà cũng viết nhiều tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Alicia Scott. Gần đây, bà nhận giải thưởng Silver Bullet với những đóng góp cho trẻ em nhiều nguy cơ và động vật vô gia cư. Hiện nay, Lisa sống cùng gia đình ở New England. Một số tác phẩm cùng tác giả đã được Đinh Tị Books mua bản quyền: - Cô gái trong thùng gỗ - Vỏ bọc hoàn hảo - Di sản kinh hoàng - Săn đuổi đến cùng *** ~ CÔ GÁI TRONG CHIẾC THÙNG GỖ ~ Tác giả: Lisa Gardner. Dịch giả: Phạm Hoa Phượng Thể loại: Trinh thám. Mức độ ưa thích: 7/10 . . Sau 472 ngày bị giam trong chiếc thùng gỗ hình quan tài, cô gái trẻ Flora Dane được giải thoát, trở về với gia đình, nhưng cô không còn là con người mà mọi người xung quanh yêu thương và mong chờ. Flora tự biến bản thân thành một dạng nữ hiệp chuyên đi tìm kiếm + giải cứu những nạn nhân bị bắt cóc khác, đồng thời nếu có cơ hội thì trừng trị thủ phạm luôn. Điều này khiến cô vướng vào những vụ rắc rối với bên cảnh sát. Thượng sĩ Thanh tra D.D. Warren là người chịu trách nhiệm điều tra vụ án nghiêm trọng mới nhất mà Flora gây ra. Ngay khi vụ án còn chưa được giải quyết thì một sự kiện tồi tệ khác lại xảy ra. Sau ấn tượng tốt với “Săn đuổi đến cùng” thì Biển không ngần ngại mua thêm hai quyển nữa của Lisa Gardner, nhưng phải công nhận “Cô gái trong chiếc thùng gỗ” không được hay. Cốt truyện mang tính sáng tạo và ly kỳ, văn phong không nhanh nhưng đủ để cuốn hút độc giả. Tuy nhiên, có lẽ vì không hiểu nổi / không đồng tình với cách hành xử của nhân vật chính nên Biển cho rằng cốt truyện hơi vô lý. Những điều ác mà đầu óc con người có thể nghĩ ra quả thật không có giới hạn, nhưng cách mà các nạn nhân phản ứng lại với những điều ác đó đôi khi cũng nằm ngoài tầm hiểu biết + xử lý của cảnh sát. Thanh tra D.D. Warren trong truyện là một phụ nữ tương đối chính trực, khá dũng cảm, có tư chất thích hợp để làm việc trong ngành hành pháp, cụ thể là lĩnh vực thực chiến khi truy bắt tội phạm. Vì một tai nạn mà cô bị gãy tay, không thể cầm súng, tạm thời làm một “sĩ quan giám sát bị hạn chế nhiệm vụ” (tức là công việc bàn giấy, viết và nộp báo cáo các vụ án) nhưng D.D. vẫn năng nổ đến các hiện trường vụ án hoặc tham gia truy tìm chứng cứ. Tuy vậy, theo Biển thì hình tượng và vai trò của D.D. Warren trong truyện này hơi mờ nhạt, chưa khiến độc giả ấn tượng sâu được như Tracy Crosswhite trong loạt truyện của Robert Dugoni. Sau khi đọc cuốn “Kẻ giấu mặt” của Nicholas Sparks thì Biển có cái nhìn lạc quan hơn về chuyện làm quen với các anh chàng pha chế đẹp trai trong quán bar, nhưng cuốn “Cô gái trong chiếc thùng gỗ” sẽ gieo vào lòng người đọc yếu bóng vía nỗi sợ hãi đối với việc đi bar. Cá nhân Biển KHÔNG thích đi bar vì vừa tốn tiền vừa hại màng nhĩ, nếu cần giải trí thì Biển sẽ tự mở bài Star Sky và uống trà xanh gạo rang nóng :3 Hình bìa không vẽ thùng gỗ nhưng Biển nghĩ minh họa trên bìa sách cũng diễn đạt khá chính xác ý tưởng trong truyện. Sách to dày nhưng đọc không có cảm giác thỏa mãn mà chỉ thấy hơi lê thê. Phần dịch thuật và trình bày ổn, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Hy vọng cuốn “Vỏ bọc hoàn hảo” sẽ có cốt truyện lý thú hơn để tình cảm của Biển đối với truyện trinh thám của Lisa Gardner chưa bị hao mòn đi. (Sea, 18-12-2019) Camellia Phoenix *** [Review] Cô gái trong chiếc thùng gỗ Tác giả: Lisa Gardner Dịch giả: Phạm Hoa Phượng Thể loại: Trinh thám tâm lý —————————————————————————— Đã bao giờ bạn tưởng tượng mình thức dậy và phát hiện mình bị nhốt trong một chiếc thùng gỗ chưa? Tối tăm. Tù túng. Kích thước chính xác bằng kích cỡ của bạn. Không đủ chỗ để co đầu gối. Không đủ chỗ để lăn người qua. Như thể nó là cỗ quan tài của riêng bạn. 7 năm trước, Flora Dane – sinh viên đại học, bị bắt cóc bởi Jacob Ness. Hắn nhốt cô trong một chiếc thùng gỗ. Không đồ ăn, không nước uống trong nhiều ngày liền. Sau 472 ngày bị giam cầm, may mắn đã đưa Flora trở về. Cô dành 5 năm để học về tâm lý học tội phạm và tự vệ, trở lên mạnh mẽ hơn nhưng cũng trở thành một con người hoàn toàn khác. Tác giả mở đầu truyện bằng vụ bắt cóc Flora lần thứ hai. Bằng kỹ năng tự vệ đã được học, Flora đã thiêu cháy tên bắt cóc với gói thuốc dưỡng hoa và dung dịch làm mát. Cô trở về căn nhà với ba lớp bảo vệ an toàn của cô. Nhưng một lần nữa, Flora lại trở thành nạn nhân bị bắt cóc. Lisa Gardner viết cuốn truyện này gồm 2 phần xen kẽ lẫn nhau. Giữa 472 ngày bị giam cầm trong chiếc thùng gỗ và vụ bắt cóc Flora do Thượng sĩ Thanh tra D.D. Warren điều tra. Xen giữa những ngày tháng sống khổ sở, bị giam cầm, bị ép làm nô lệ tình dục là những tình tiết gay cấn hồi hộp của vụ án. Flora Dane là cô gái sống sót hay là kẻ sát nhân bị ám ảnh bởi chuỗi ngày đen tối trong cuộc đời mình? “Cô gái trong chiếc thùng gỗ” bắt đầu bằng vụ án mạng giống như cuốn “Săn đuổi đến cùng”. Tuy nhiên nhịp độ câu chuyện lại khác nhau do tính chất của cốt truyện. Nếu như “Săn đuổi đến cùng” sự kịch tính được đẩy lên cao ngay từ chương đầu thì “Cô gái trong chiếc thùng gỗ” lại khá chậm rãi. Cá nhân mình thấy khoảng 20 chương đầu tiên đọc rất dễ nản bởi Lisa Gardner viết về chuỗi 472 ngày bị bắt cóc của Flora khá nhàm chán, còn vụ án thì có quá nhiều manh mối rời rạc, làm mất đi sự tò mò của độc giả. Bắt đầu từ chương 25 thì cuốn sách này trở nên thú vị hơn. Căng thẳng đẩy lên cao hơn, sự hồi hộp nghẹt thở trong cuộc chạy đua với thời gian của cảnh sát xen với những chi tiết mới trong vụ bắt cóc Flora khiến độc giả không thể rời mắt khỏi truyện. Điểm trừ cho cuốn sách này là chi tiết về tâm lý nhân vật được viết khá nhiều, làm giảm nhịp độ câu truyện cũng như tốc độ đọc của các mọt. Ngoài ra cũng có một vài lỗi chính tả nho nhỏ, có thể bỏ qua. Đánh giá: 8/10 Đặng Minh Đức *** “Thật buồn cười, kẻ tổn thương lại muốn làm tổn thương người khác” Vậy có khi nào một người sống sót từ tay của một kẻ sát nhân lại muốn trở thành một kẻ sát nhân? Cuốn sách này có lẽ là phần tiếp theo của cuốn “ Di sản kinh hoàng”, sau khi thanh tra D.D giải quyết xong vụ án sát thủ hoa hồng. Nhân vật chính là Flora Dane – một nạn nhân đồng thời là một người sống sót. Câu hỏi thực sự là … cô ta liệu có phải một kẻ tự coi mình là người thực thi pháp luật, săn đuổi những kẻ sát nhân để trả thù cho 472 ngày cô bị giam giữ? Cuốn sách gồm 2 phần song song là 472 ngày bị giam giữ của Flora bởi Jacob Ness và cuộc sống hiện tại sau 5 năm. Flora bị bắt cóc và giam giữ như một thứ súc vật trong một chiếc quan tài thông, không gian hẹp hòi đến mức cô không thể làm gì ngoài việc ngủ để đánh mất đi ý thức về hiện tại, bị Jacob Ness lạm dụng tình dục và bỏ đói trong kế hoạch hủy hoại ý thức, nhân cách và làm lại cô dưới cái tên Molly, một người phụ nữ phụ thuộc hoàn toàn vào hắn ta. Chuỗi ngày kinh khủng đó đã được chấm dứt sau 472 ngày và cô ấy vẫn sống sót. Sau khi trở về, Flora trở nên mạnh mẽ và khác hoàn toàn với cô của 5 năm trước. Cô tự đưa bản thân mình vào tầm ngắm của những kẻ săn mồi và hủy diệt chúng với tư cách là một nạn nhân. Hãy tưởng tượng, một cô nàng tóc vàng bị trói hai tay đã đốt cháy một gã trai lực lưỡng bằng một loại bột có trong những bó hoa. Một việc tưởng chừng như vô lý nhưng lại rất hợp lý. Sau khi dính dáng vào vụ việc đó, cô ấy đột nhiên bị bắt cóc trong chính ngôi nhà với 3 lớp bảo vệ của mình và một cuộc chạy đua khác lại bắt đầu. Liệu đây chỉ là một sự tình cờ hay có liên quan gì đến quá khứ của cô? Câu chuyện cuốn hút mình ngay từ những chi tiết mở đầu với nhịp điệu khá nhanh, gấp gáp và đầy sự tò mò. Những tháng ngày bị giam giữ của Flora thực sự là những điều mình không thể tin được, gây ám ảnh, kinh tởm và cũng thật đáng thương. Những điều con người có thể đối xử với nhau thật ngoài sức tưởng tượng của một người có cuộc sống bình yên như mình. Cuốn sách đã chứng minh một điều rằng sức sống của con người thật là mãnh liệt, làm sao một cô gái bé bỏng như vậy lại có thể chịu được những điều không tưởng đó và sống sót trở về. P/S: Cuốn sách khá dày, một câu chuyện dài nên cũng không thể tránh được có những sự việc thừa thãi, lê thê bởi vậy mọi người cũng nên cân nhắc trước khi tìm đọc. Anh SoShi *** Đây là những điều tôi đã không biết: Khi thức giấc lần đầu tiên trong một chiếc thùng gỗ tối tăm, bạn sẽ tự nhủ, điều này không thể xảy ra. Bạn sẽ đẩy nắp thùng, tất nhiên là như vậy. Không được. Bạn đấm mạnh các cạnh bằng nắm tay mình, đạp gót chân xuống phần đáy. Bạn sẽ đập đầu mình liên tục vào thành thùng, lần nữa rồi lần nữa, mặc dù từng cú đập đều khiến bạn đau nhói. Và bạn sẽ hét lên. Bạn gào lên, bạn la hét, và tiếp tục như vậy. Dòng nước sền sệt từ mũi bạn chảy ra. Nước mắt cũng không ngừng tuôn rơi trên má. Tiếng gào trở nên khản đặc, giật cục. Rồi bạn nghe thấy những âm thanh lạ lùng, buồn bã, thê lương. Và bạn hình dung ra được cái thùng gỗ. Này, mình đang bị nhốt trong một cái thùng gỗ tối tăm. Bạn nhận ra những âm thanh đó xuất phát từ chính mình. Những cái thùng gỗ thông dạng này không có bề mặt trơn nhẵn toàn bộ. Những lỗ thông khí được khoan một cách sơ sài. Khi miết tay chạy tròn theo cạnh của chúng, khi chọc ngón tay vào kiếm tìm một cái gì đó trong tuyệt vọng… bạn sẽ chỉ thấy được những mẩu vụn gỗ mà thôi. Bạn sẽ nhai những mảnh gỗ cứng. Bạn sẽ mút những ngón tay trầy xước của mình, liếm những chỗ máu ứa ra, miệng phát ra những âm thanh ư ử như chó con bị đau. Bạn chỉ có một mình trong chiếc thùng. Thật đáng sợ. Kinh hãi. Khủng khiếp. Phần lớn là bởi bạn chưa biết mình sẽ còn phải sợ hãi đến mức nào nữa. Dần dần, bạn biết rõ chiếc thùng hơn, nơi đã trở thành nhà bạn, xa thật xa ngôi nhà thân quen của mình. Bạn lắc lư đôi vai để xác định bề rộng. Bạn đo chiều dài bằng đôi tay. Bạn nâng chân mình lên. Không đủ chỗ để co đầu gối. Không đủ chỗ để lăn người qua. Chiếc thùng chính xác bằng kích cỡ của bạn. Như thể nó được làm cho riêng bạn. Một cỗ quan tài gỗ thông của riêng bạn, đang làm căng cứng phần thắt lưng, bầm giập hai vai, đau nhói phía sau đầu bạn. Tiện nghi duy nhất: giấy báo lót dưới đáy thùng. Thoạt đầu bạn không để ý đến chi tiết này. Khi nhận ra sự tồn tại của chúng, bạn không hiểu chúng để làm gì. Cho đến khi bạn đi tiểu lần đầu tiên. Rồi ngày qua ngày, nằm trên đống bẩn thỉu của mình. Như một con vật, bạn sẽ thầm nghĩ như vậy. Ngoại trừ phần lớn các con vật đều được đối xử tử tế hơn thế. Miệng bạn sẽ trở nên khô khốc, đôi môi nứt nẻ. Bạn sẽ bắt đầu miết ngón tay vào những lỗ thông khí sẽ cào mạnh da mình, chỉ để có chút gì đó cho vào miệng, để nuốt, để mút. Bạn sẽ biết được bản thân mình ở một khía cạnh bạn chưa từng biết đến trước đó. Suy sụp. Mãnh liệt. Mùi khai nồng của nước tiểu. Vị mặn của máu. Nhưng bạn vẫn chưa biết gì cả. Khi nghe tiếng bước chân bạn sẽ không tin được. Mình hoang tưởng thôi, bạn tự nhủ. Mình mơ thôi. Bạn chỉ là một mớ rác thảm hại trong tấm da người. Một con bé ngốc nghếch lẽ ra đã biết nhiều hơn và giờ nhìn lại mình xem. Thế nhưng, âm thanh của chiếc khóa kim loại vang lên ở bên ngoài thành thùng, chỉ cách tai bạn một chút… Có thể bạn lại khóc. Và lại khóc, nếu vẫn còn chút nước sót lại trong người. Khi bạn nhìn thấy khuôn mặt hắn, người đã làm điều này với bạn, bạn cảm thấy nhẹ nhõm. Thậm chí vui mừng. Bạn nhìn chăm chăm vào đôi má béo phị của hắn, đôi mắt tròn, cái miệng đang mở ra, để lộ hàm răng ố vàng, và bạn nghĩ tạ ơn Chúa. Tạ ơn Chúa, tạ ơn Chúa, tạ ơn Chúa. Hắn để cho bạn ra khỏi thùng. Hắn nhấc bạn lên, thực tế là như vậy, bởi đôi chân bạn không thể đứng được nữa, các bắp cơ của bạn mất tất cả sức mạnh vốn có của nó, và đầu bạn ngắc ngoẻo. Ngắc ngoẻo. Từ này khiến bạn buồn cười. Một trong những từ bạn chưa bao giờ hiểu được ý nghĩa. Nhưng giờ thì bạn đã rõ. Ngắc ngoẻo. Đầu bạn ngắc ngoẻo. Chúa ơi, mùi gì thật kinh khiếp. Mùi tỏi, mùi cơ thể, mùi quần áo chưa giặt và mùi tóc bẩn thỉu. Thứ mùi đó là từ người bạn sao? Hay từ hắn? Bạn nôn ọe, không cưỡng lại được. Và điều đó khiến hắn cười thành tiếng. Khi hắn cầm chai nước lên. Khi hắn nói chính xác điều bạn phải làm để có được chai nước ấy. Hắn trông ục ịch. Già nua. Gớm guốc. Kinh tởm. Bộ râu rối bù, mái tóc bết dính, mấy vệt tương cà lốm đốm trước ngực chiếc sơ mi ca rô rẻ tiền. Bạn quá cao sang so với hắn. Trẻ trung, tươi tắn, xinh đẹp. Kiểu những cô gái được xếp vào hạng top trong buổi tiệc trường. Bạn có tất cả. Hay từng có tất cả? Bạn khóc khi nghĩ đến mẹ. Bạn van nài hắn thả bạn, khi bạn nằm phủ phục dưới chân hắn. Và rồi cuối cùng, sau rốt, với chút sức lực còn sót lại, bạn cởi bỏ bộ đồ đang mặc trên người. Bạn để hắn làm cái điều mà hắn muốn. Bạn hét lên, nhưng cổ họng bạn khô khốc không thể cất thành lời. Bạn nôn ọe, nhưng bụng bạn trống rỗng không còn chút gì trong đó. Bạn sống sót. Và sau đó, khi hắn ta cuối cùng cũng đưa cho bạn chai nước đó, bằng cách đổ thẳng lên đầu bạn. Bạn không chút hổ thẹn nâng tay mình lên hứng càng nhiều càng tốt dòng chất lỏng quý giá ấy. Bạn liếm lòng bàn tay mình. Bạn mút những lọn tóc bết dính, bẩn thỉu của mình. Và đợi lúc hắn không để ý, bạn liếm đốm tương cà từ chiếc sơ mi cởi ra của hắn. Trở về lại cái thùng. Cái thùng. Cái thùng. Nắp thùng đóng lại. Khóa bấm lại. Gã đàn ông kinh tởm ấy đi khỏi. Để lại bạn một lần nữa, chỉ một mình. Trần truồng. Bầm tím. Rớm máu. Biết những điều bạn không bao giờ muốn biết. “Mẹ ơi!” Bạn thì thầm. Nhưng con quái vật ấy là có thật. Không ai có thể làm bất cứ điều gì để cứu bạn nữa. Đây là điều tôi biết: Không có gì nhiều để làm ngày qua ngày trong cái thùng gỗ có kích cỡ như một cỗ quan tài ấy. Trên thực tế chỉ có duy nhất một điều đáng để ám ảnh, tưởng tượng, trù tính trong từng phút kinh hoàng, từng giờ hãi hùng. Một lý do duy nhất khiến bạn tiếp tục. Một ý nghĩ duy nhất đem lại cho bạn sức mạnh. Bạn sẽ tìm thấy nó. Bạn sẽ hun đúc nó. Và nếu bạn giống tôi, bạn sẽ không bao giờ để nó biến mất. Trả thù. Nhưng hãy cẩn thận với điều ước của bạn, đặc biệt khi bạn chỉ là một con bé ngốc nghếch bị giam cầm trong cái thùng gỗ có kích cỡ như chiếc quan tài. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Chiếc Thùng Gỗ của tác giả Lisa Gardner & Phạm Hoa Phượng (dịch).
Bãi Săn Người
"Tôi là Diệp Tứ Minh, mọi người thường gọi tôi là anh Tứ. Tôi cảm thấy biệt danh này khắc mình, vì tôi phát hiện mình buộc phải kết liễu sinh mạng trong vòng 4 ngày, nếu không chờ đợi tôi phía trước chính là "sống không bằng chết".  Do một nhiệm vụ nằm vùng, cảnh sát Diệp Tứ Minh bị nghiện ma túy. Khi cai nghiện, anh lại mắc phải chứng lệ thuộc thuốc. Biết mình sắp thân bại danh liệt, anh quyết định tự sát. Đúng lúc này, ở bờ sông có người phát hiện ra một cánh tay cụt. Cho rằng anh là cảnh sát hiện trường nên người dân níu lại và báo án. Đồng thời ở ngoại ô thành phố, người ta phát hiện 61 thi thể dưới một đập chứa nước, trở thành một án giết người liên hoàn chưa phá lớn nhất trong thành phố. Chỉ còn 4 ngày nữa, Diệp Tứ Minh sẽ nhận được phán xét cuối cùng, anh quyết định đánh cược: hoặc là sẽ phá giải vụ án thành công hoặc là tìm cơ hội "hi sinh" trong khi làm nhiệm vụ? Giới thiệu tác giả: Ntybooks xin giới thiệu tác giả Lương Kha - tác giả trinh thám thuộc thế hệ 8X - Sơn Đông. Tác giả đã di cư sang Đức, là một trong những nhà văn rất thích dòng tiểu thuyết trinh thám và rất thành công với tác phẩm: Bãi săn người *** Nếu bạn nào thích trinh thám Trung Quốc thì có thể cho quyển này vào danh sách tìm đọc nha, cũng khá lắm. Diệp Tứ Minh (Anh Tứ) một cảnh sát nằm vùng. Trong một lần xâm nhập để triệt phá một tổ chức buôn bán ma tuý, anh bị nghiện. Việc cai nghiện tưởng chừng đơn giản nhưng không hề đơn giản, trong quá trình cai nghiện anh bị lệ thuộc vào thuốc. Cuộc sống của anh gặp nhiều bất hạnh từ đó. Gia đình tan vỡ, con không nhận cha, đồng nghiệp nhìn anh với con mắt khác và nhiều vấn đề đen tối khác. Chán nản và thất vọng, Diệp Tứ Minh định tự tử. Nhưng khi định nhảy xuống sông để kết liễu sinh mệnh, thì có người phát hiện một cánh tay cụt có hình xăm một nửa bông hoa hồng (cái này ở bìa có vẽ) và giữ anh lại vì tưởng anh là cảnh sát được cử đến xử lý hiện trường. Cùng thời điểm đó, 61 bộ hài cốt được tìm thấy dưới một đập chứa nước ở ngoại ô thành phố. Phá án lập công xoá nỗi ô nhục hay liều chết “hi sinh vì nhiệm vụ” … Diệp Tứ Minh quyết tâm lao vào điều tra vụ án. Bãi Săn Người là sự kết hợp của kinh dị, hành động, sự biến thái vẹo vọ tâm lý lẫn trinh thám điều tra thông thường. Giết người, phân xác, lột da mặt. Những pha hành động đầy tính điện ảnh. Tâm lý lệch lạc, méo mó của hung thủ lẫn quá trình hành động, điều tra truy tìm manh mối thông thường của cảnh sát. Lối viết khá hấp dẫn, lôi cuốn hồi hộp. Nhiều những bất ngờ không ngờ được đưa vào để đánh lạc hướng. Mang một màu u tối, mỗi người đều như sống dưới đáy của xã hội, mang những tổn thương day dứt trong lòng. Chỉ sống thôi sao mà cũng khó quá. Gọn lại quyển này rất khá, hồi hộp, hấp dẫn, khó đoán trước được điều gì sẽ xảy ra, nội dung đầy trăn trở 8,25/10 P.s: Nếu làm cảnh sát mà khổ, be bét như này thì chắc ai cũng muốn bỏ ngành. Binh Boog *** BÃI SĂN NGƯỜI Tác giả: Lương Kha Dịch giả: Tuệ Tâm Reviewer: Điền Yên Công ty phát hành: Phuc Minh Books —— Hiếm khi gặp một truyện trinh thám nào mà số nạn nhân với hung thủ lại nhiều thế này. Án lồng án, vừa tưởng thằng này là hung thủ thì lại phát hiện nó đúng là hung thủ, nhưng lại là của vụ khác chứ không phải vụ chính. Dĩ nhiên, người đọc có thể đoán bằng cách đơn giản hơn: thấy truyện mới đi được non nửa độ dài thì chẳng thể nào boss cuối đã bị bắt được. Nhân vật chính là anh Tứ – một cảnh sát ngầm, chuyên thâm nhập vào hang ổ tội phạm dưới các vỏ bọc khác nhau. Một trong những lần đó, anh buộc phải hít ma túy để tạo lòng tin cho kẻ thù. Thôi thì ít ra anh cũng không phải bắn vào đầu đồng đội như anh Khánh trong Mê cung. Nhưng kể từ đó, anh Tứ nghiện. Cai rồi tái nghiện liên tục do đặc thù nghề nghiệp. Điều này tôi biết. Dù bạn đã cai bao lâu, chỉ cần thuốc ở trước mặt, chưa cần hít, bạn đã tái nghiện rồi. Một cảnh sát dương tính với ma túy, sự nghiệp của anh ta coi như chấm dứt. Ai tin anh? Ai dám đặt trọng trách vào tay một thằng nghiện? Anh Tứ vào sinh ra tử, một đời sống mái với nghề, vợ li dị, con không nhận cha. Tất cả những gì anh còn là công việc này. Nếu kết thúc trong nhục nhã thì chết còn hơn. Và anh quyết chết. Hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ là tuyệt nhất. Người chết rồi, chẳng ai kể về sai lầm của anh nữa, họ chỉ nhắc đến điều tốt đẹp thôi. Khổ nỗi, chẳng hiểu sao, phàm những thằng càng liều mạng muốn chết ngay lại càng sống dai. Anh Tứ muốn hy sinh, thần Chết cũng không chấp nhận. Anh quyết phá được vụ án cuối cùng, chết không hối hận. Vụ án này không ngờ lại quá rắc rối, làm anh mãi không chết nổi. Chiếc lá cuối cùng bên ngoài cửa sổ mãi không rời cành. Trong lúc chờ nó lìa cành thì anh Tứ kịp tìm được bông hoa mới. Đã rất nhiều lần tôi nghĩ lấy chồng đừng lấy cảnh sát nếu bạn không có thần kinh thép. Vất vả chưa nói, đó là điều dĩ nhiên. Đáng sợ nhất là bị bỏ rơi và chờ đợi vô vọng. Trong Đại mễ tiểu mạch, vợ của Hình Long Nhược li dị dù vẫn yêu chồng vì chị không thể chịu nổi cảnh chờ đợi chồng hàng đêm, luôn lo lắng anh bị thương hoặc hy sinh. Chị có thể cáng đáng gia đình, con cái nhưng không thể chịu nổi sự tra tấn dày vò tinh thần. Đằng sau sự hy sinh của các chiến sĩ công an là sự hy sinh của cả gia đình họ. Tác giả viết rất khéo, một tập truyện mà cảm giác như đọc cả series giết người. Đọc truyện mà tôi cứ phải chép miệng: “đời có lắm thằng điên”. Tôi tin rằng nếu tác phẩm này được dựng thành phim thì nó đủ gay cấn. Điểm trừ (nhẹ) là đoạn đối đầu giữa boss cuối và boss gần cuối chóng vánh quá, chưa đủ thỏa mãn tôi. Vốn có quan điểm lấy ác trị ác, tôi thấy boss gần cuối chết hơi nhanh, chưa kịp tận hưởng cảm giác của các nạn nhân của hắn. Tôi thích cuốn sách này, trừ cái bìa. Phong cách bìa quá “Tây” cho một truyện trinh thám Á. *** Tôi là Diệp Tứ Minh, mọi người thường gọi là anh Tứ. Tôi cảm thấy biệt danh này khắc mình, vì tôi phát hiện mình buộc phải kết liễu sinh mạng trong vòng bốn ngày, nếu không chờ đợi tôi phía trước chính là “sống không bằng chết”. Giờ nghĩ lại, mọi nguồn cơn của sự việc đều bắt đầu từ chiếc sofa năm năm về trước. Chiếc sofa đỏ bọc vải, khó có thể mô tả màu sắc của nó một cách chính xác, nhưng có lẽ lúc mới mua thì nó màu trắng. Lại gần sẽ ngửi thấy một hỗn hợp mùi quái lạ: mùi thức ăn thừa, mùi mồ hôi, mùi thuốc lá… Khi đó tôi mặc chiếc áo sơ mi trị giá ít nhất hai ngàn tệ, nhưng tôi cũng không thể vì tiếc của mà không ngồi xuống đống rác đó. Vì ngay sau gáy tôi là một họng súng lạnh ngắt. “Từ đầu đến giờ mày luôn bình tĩnh.” Kẻ cầm súng tên là Đảng Siêu. Hắn không nói to, nhưng giọng nói sắc nhọn như muốn xuyên thủng màng nhĩ. “Mày là thằng nào? Cớm hả?!” “Cớm” là tiếng lóng, ám chỉ “cảnh sát”. Nhiều người không thích cảnh sát, nguyên nhân rất đa dạng. Đảng Siêu không thích cảnh sát thuần túy vì lý do nghề nghiệp. Hắn buôn lậu súng ống, thuốc phiện và hắn giết người. Các bó cơ toàn thân tôi cứng ngắc, nội tạng như thể biến mất trong phút chốc. Lẽ ra tôi phải đổ mồ hôi như tắm mới phải, nhưng trán tôi lại khô rang như sa mạc Gobi. Có lẽ tôi nên phản bác hoặc biện giải đôi câu, nhưng tôi quyết định không mở miệng. Bởi vì tôi có thể cảm thấy giọng mình sẽ căng thẳng đến mức hụt hơi, chỉ cần mở miệng là để lộ nỗi sợ hãi đang dâng trào. Trong phòng lặng phắc, chỉ có tiếng tích tắc của đồng hồ treo tường. Bàng Tam nhìn tôi, mồ hôi vã đầm đìa khắp mặt. Điều này rất dễ hiểu, tôi mà chết thì cậu ta cũng khó mà sống sót nổi. Nghĩ đến đây, tôi quyết định phải làm gì đó. “Có lý đấy! Dẫu nói thì lũ nghèo kiết xác bọn mày cũng không hiểu…” Tôi chậm rãi đứng dậy, đồng thời tận dụng chút thời gian ít ỏi nhanh chóng nuốt nước bọt để dây thanh quản khôi phục chức năng đôi chút, “Nếu tao muốn làm trò thì còn phải ngày nào cũng tự mua dây buộc mình sao?” Không ai đáp lời, không ai phụ họa. Bọn chúng đều nhìn tôi chằm chằm. Không còn lựa chọn nào khác. “Không mang!” Tôi vứt thuốc lá và bật lửa lên bàn đánh “xoạch” một tiếng, cố cất cao giọng, “Ai cho mượn chút?” Tên nào đó quẳng một gói bột trắng nho nhỏ lên bàn. Bàng Tam đưa cho tôi miếng giấy bạc. Tôi thành thục lấy thuốc lá cuộn thành điếu, đổ bột trắng ra giấy bạc, dùng bật lửa hơ nóng. Một mùi quái dị mà quen thuộc xộc thẳng vào mũi. Thứ đó bắt đầu hóa lỏng, sủi bọt rồi biến thành màu cam nhạt ghê tởm, nom nó giống nham thạch trong miệng núi lửa vẫn thường thấy qua tivi. Tôi bần thần giây lát, rồi nhắm mắt, hít mạnh một hơi. Họng súng rời khỏi gáy tôi. Đảng Siêu ngồi xuống bên cạnh, đưa cho tôi cốc nước. Tôi uống một ngụm liền phun hết ra ngoài. Bọn chúng cười phá lên. “Hít mạnh quá cơ…” Bàng Tam đứng bên cạnh cười xiểm nịnh, đế vào một câu. “Giỡn chơi ấy mà, anh Tứ đừng kích động thế!” Đảng Siêu vỗ vai tôi, “Hít gấp quá hại người lắm, ngay cả anh Thương cũng không dám nữa là.” “Giỡn gì thế hả?” Tôi đẩy hắn một cái, “Lẫn cả phân ngựa à? Để lần sau mang cho bọn mày hàng nguyên chất, cho bọn mày mở mang tầm mắt.” Đảng Siêu cuời, sau đó hạ giọng nói chuyện với tôi. Nói thật, phần lớn chuyện chúng kể, tôi chẳng nghe thấy gì. Khi đó, tôi nằm trên sofa, cảm giác cơ thể mình trôi bồng bềnh, mí mắt như công tắc ngàn cân, liên tục nhắm lại, mở ra. Đầu tôi biến thành cái lồng, mọi thông tin từ thế giới bên ngoài đi vào não qua tai và mắt, rồi chảy ra tứ tán khắp nơi như bị rò nước. Tuy nhiên, câu nói dưới đây thì ngoại lệ, “Anh cần bao nhiêu bánh? Ngắn hay dài?” Tôi cười. Thế giới trước mắt bắt đầu trở nên méo mó, xoay chuyển. Mọi thứ trong phòng đều tan chảy, nguội dần, rồi đúc thành chiếc huân chương khảm huy hiệu của ngành cảnh sát. Đó là lần đầu tiên tôi hít thuốc phiện. Quả thật tôi là cảnh sát. Chẳng biết đó là lần thứ bao nhiêu tôi phải xâm nhập vào hang ổ của tội phạm. Khi ấy, tôi không hề cảm nhận được một lần hít thuốc phiện sẽ khiến bản thân ra sao. Trên thực tế, khi ấy tôi cảm thấy không gì mình không thể làm được và mình sẽ mãi mãi “siêu sao” thế này. Mời các bạn đón đọc Bãi Săn Người của tác giả Lương Kha & Tuệ Tâm (dịch).
Cuộc Đời Là Một Tiểu Thuyết
Với anh, mọi thứ đã được viết sẵn Với cô, mọi thứ đang đợi viết tiếp “Sáu tháng trước, ngày 12 tháng Tư năm 2010, con gái ba tuổi của tôi, Carrie Conway, đã bị bắt cóc trong lúc hai mẹ con đang chơi trốn tìm trong căn hộ nhà mình ở Williamsburg.” Câu chuyện của Flora Conway, nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng sống kín đáo, đã bắt đầu như thế. Carrie đột ngột mất tích, không cách nào lý giải được. Cửa chính và các cửa sổ đều đóng kín, các camera giám sát trong tòa nhà không phát hiện điều khả nghi nào. Cuộc điều tra của cảnh sát không mang lại kết quả gì. Cùng thời điểm ấy, ở bờ kia Đại Tây Dương, một nhà văn với trái tim tan nát trốn tránh xã hội trong một ngôi nhà xập xệ, bế tắc với tiểu thuyết đang viết dở. Anh là người duy nhất nắm giữ chìa khóa của bí ẩn.  Và Flora sẽ đánh bật anh. Với Cuộc đời là một tiểu thuyết, bạn sẽ bắt gặp một Guillaume Musso hoàn toàn mới, người dẫn bạn bước vào mê cung, dắt bạn đi theo mạch truyện ly kỳ bằng nguồn sức mạnh rút từ quyền năng của những cuốn sách và khát khao mãnh liệt sống cuộc đời của các nhân vật. “Guillaume Musso là một cao thủ phù phép, luôn biến hóa ra điều bất khả trong cuộc đời các nhân vật giữa lúc ta không ngờ tới.” - Anne Michelet, Version Femina “Một câu chuyện tuyệt vời làm hài lòng cả độc giả sách trinh thám lẫn tín đồ văn chương. (…) Guillaume Musso, chắc chắn là nhà văn lớn và độc giả phi thường, trở lại với chủ đề nghề viết, nguồn cảm hứng, cuộc đời thực và tưởng tượng… một cách thật điêu luyện (…) Cuộc đời là một tiểu thuyết không khỏi khiến ta nghĩ tới Romain Gary.” - Alain-Jean Robert, AFP TÁC GIẢ: Guillaume Musso sinh năm 1974 tại Antibes, thị trấn nhỏ bên bờ Địa Trung Hải. Ngay từ năm mười tuổi, cậu bé Guillaume đã phải lòng văn chương và tuyên bố một ngày nào đó sẽ viết tiểu thuyết. Lớn lên, anh theo học ngành kinh tế rồi trở thành giáo viên sau khi tốt nghiệp, nhưng niềm đam mê thuở ban đầu vẫn tràn đầy. Năm 2001, tiểu thuyết đầu tay của anh ra đời và nhận được tín hiệu tốt từ giới phê bình. Tác phẩm thứ hai, Rồi sau đó, xuất bản năm 2004, đã gây ấn tượng mạnh và đưa tên tuổi Guillaume Musso đến với công chúng. Từ đó đến nay, anh đều đặn cho ra đời các tiểu thuyết mới và giành được thành công vang dội không chỉ tại Pháp mà còn trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Guillaume Musso đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được chuyển thể thành phim. Các tác phẩm của Guillaume Musso đã được Nhã Nam xuất bản: - Rồi sau đó - Hãy cứu em - Hẹn em ngày đó - Bởi vì yêu - Trở lại tìm nhau - Nếu đời anh vắng em - Cô gái trong trang sách - Cuộc gọi từ thiên thần - Bảy năm sau - Ngày mai - Central Park - Giây phút này - Cô gái Brooklyn - Dưới một mái nhà ở Paris - Cô gái và màn đêm - Cuộc đời bí mật của các nhà văn *** 'Cuộc đời là một tiểu thuyết' - khi hư cấu gọi tên hiện thực. Sau "Cuộc sống bí mật của các nhà văn", Guillaume Musso bật mí thêm những ngõ ngách khác trong hành trình kiến tạo một tác phẩm văn chương trong "Cuộc đời là một tiểu thuyết". Tại New York, Mỹ, cô bé 3 tuổi Carrie Conway bị bắt cóc trong khi đang chơi trốn tìm cùng mẹ mình trong căn hộ. Flory Conway - mẹ của nạn nhân - nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng sống ẩn dật và truyền thông chỉ biết Flory thông qua một tấm ảnh mờ nhạt. Carrie bốc hơi khi các cửa tòa nhà đều đóng kín, camera giám sát không ghi lại được hình ảnh nào khả nghi và cuộc điều tra rơi vào bế tắc. Ở Paris, Pháp, Romain Ozorski là tiểu thuyết gia 40 tuổi đã viết được 19 cuốn sách và tất cả đều trở thành bestseller. Nhưng đó là quá khứ, bởi hai năm gần đây Romain không viết thêm quyển tiểu thuyết nào.  Anh ly dị vợ, không nhận được quyền nuôi con cùng với những hóa đơn chưa thanh toán và một quyển tiểu thuyết đang còn dang dở.  Hai nhà văn nổi tiếng ở hai bờ Đại Tây Dương, với bao cuộc đời được tạo ra từ 2 khối óc đầy sáng tạo. Cha mẹ đẻ của những niềm vui và nỗi buồn trong hành trình đi tìm con chữ. Hai con người cùng bước chân vào bi kịch đời mình. Liệu có sợi dây nào liên kết Flory Conway và Romain Ozorski, khi cả hai dấn thân vào cuộc viễn chinh đi tìm cái kết? Cuốn sách Cuộc đời là một tiểu thuyết sẽ đem đến câu trả lời thỏa mãn cho người đọc. "Đặc sản" Guillaume Musso với cái kết bất ngờ  Có thể nói với hầu hết tác phẩm của Guillaume Musso, cái kết bất ngờ luôn là dấu ấn mà độc giả tò mò và ngóng đợi. Dưới sự dẫn dắt tài tình, câu chuyện được ông bóc tách và ghép lại như trò chơi xếp hình. Chỉ đến khi mảnh ghép cuối cùng được đặt vào, bức tranh toàn vẹn mới hiện ra trước sự trầm trồ của người đọc. Cuộc đời là một tiểu thuyết vẫn chứa đựng plot twist nằm ở những trang cuối cùng, với điểm sáng riêng biệt chính là một Guillaume Mussohoàn toàn mới. Câu chuyện tưởng chừng dễ đoán nhưng cài cắm những “ngòi nổ” mà chính độc giả chính là người giật kíp và tự nhận ra khi đi cuối hành trình. Ở cuốn tiểu thuyết này, tác giả tạo nên một tổng thể chỉn chu khi hư cấu gọi tên hiện thực. Các tuyến nhân vật đan cài lẫn nhau, song hành vào giao nhau ở điểm cuối truyện, hòa làm một và biến cuộc đời thành một quyển tiểu thuyết, hay nói đúng hơn tiểu thuyết phản ánh trung thực một cuộc đời. Những lát cắt trong cuộc đời của các nhà văn  Nếu Cuộc đời bí mật của các nhà văn là trải nghiệm công việc của người viết lách nơi ánh hào quang, tiền bạc và sự thành công chỉ là bề nổi cho những phần chìm trước mắt độc giả, thì Cuộc đời là một tiểu thuyết lại là những ngõ ngách khác trong hành trình xây dựng nhân vật, vật lộn với tình huống và đem cuộc đời thực vào trong tác phẩm. Tác phẩm mới của Musso hé lộ những lát cắt nằm phía trong tâm hồn và được bóc tách bởi chính sự dấn thân trên hành trình đi tìm con chữ. Mỗi tiểu thuyết gia có quyền lấy chất liệu đời thực đưa vào tác phẩm hay ngông cuồng cầm nắm trong tay quyền sinh sát mỗi nhân vật.  Nhưng dường như họ cũng có câu chuyện riêng cần kể. Sự cô đơn, niềm tin yêu thậm chí là bi kịch trở thành nguyên liệu quý giá trong việc tạo tác những cuộc đời tưởng chừng đã mất. Phía sau một tác phẩm thành danh luôn chứa đựng một bí mật mà người giữ chìa khóa để mở toang cánh cửa mà không ai khác chính là tác giả. Họ cho phép độc giả bước vào những cuộc đời song song khác của họ với đầy đủ dư vị cảm xúc hỉ nộ ái ố. Cuộc đời là một tiểu thuyết phần nào làm thỏa sự tò mò nơi độc giả khi hiểu thêm về công việc viết lách và những cuộc đời hiện sinh bằng con chữ với câu hỏi đặt ra rằng: Liệu cuộc đời là một quyển tiểu thuyết hay tiểu thuyết chính là cuộc đời? *** Quay về với một cuốn tiểu thuyết của Guillaume Musso. Sau cuốn “Cô gái và màn đêm” hơi gây thất vọng mình đã tự nhủ “Thôi thì cả thanh xuân đọc truyện lãng mạn của Guillaume Musso của tôi kết thúc tại đây”. Tuy vậy, lúc đó mình đã mua cuốn “Cuộc đời là một tiểu thuyết” rồi nên vẫn quyết định đọc dù đọc qua review thấy rate không cao lắm. Thực sự, mình thích cuốn sách này. Nó cũng lấy lại niềm tin của mình vào tác phẩm của Guillaume Musso. Thôi thì những cuốn sách của chú cùng cháu lớn lên, cháu cũng quyết định là cũng có thể cùng nhau về già :D. Mình nhận thấy từ rất nhiều cuốn sách, nhân vật chính của Guillaume Musso đều là những nhà văn. Và từ cuốn sách này, mình cảm thấy dường như Guillaume Musso đã mượn văn chương để nói về cuộc đời mình và để bộc bạch những suy tư mà cuộc sống đời thường khó có thể làm được. Musso cũng công nhận “Sức mạnh to lớn của văn chương hư cấu nằm ở quyền năng nó cho phép chúng ta chạy trốn thực tại hay bang bó những vết thương ta phải chịu đựng do bạo lực xung quanh gây ra.” Cuộc đời là một cuốn tiểu thuyết kể về 2 nhân vật Flora Coway và Romain Ozorski đều là những người viết. Đến một ngày, sau những biến cố đau đớn, họ cảm thấy nghi ngờ về cuộc sống của mình. Nội dung cuốn sách này lấy cảm hứng từ câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng của Plato về những người tù, bị giam trong một hang động từ khi mới sinh ra. Những người tù này luôn bị xích và phải quay mặt về phía trong hang, thay vì phía cửa/miệng hang. Trong suốt cả cuộc đời, họ sẽ chẳng bao giờ thấy đc thế giới bên ngoài ra sao. Thứ duy nhất mà họ có thể là những cái bóng phản chiếu của những sự vật đi ngang qua cửa hang vào lúc có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Họ cho rằng những cái bóng chính là những con người, con vật và đồ vật ấy. Đến một ngày, một trong số những người tù này trốn thoát và chạy ra khỏi hang. Lần đầu tiên anh ta thấy thế giới thật thay vì những cái bóng. Nhận thức cũ về thế giới xung quanh của anh ta bị sụp đổ. Những cái bóng anh ta nhìn thấy mỗi ngày khi xưa hóa ra chỉ là một phần rất rất nhỏ của thế giới thực ngoài kia. Thế rồi anh ta trở lại hang kể với những bạn tù của mình về thế giới ngoài hang mà anh ta nhìn thấy. Nhưng không may, những người bạn của anh ta, vì vẫn luôn giữ nhận thức cũ, nên không thể hiểu được những điều anh ta nói, họ không thể tưởng tượng ra tại sao lại có một thế giới như vậy tồn tại ngoài kia. Từ đó, tác giả đẫn dến những suy tư trong trích dẫn của Bergson “Chúng ta không thực sự thấy bản chất của mọi thứ: thường thì ta chỉ tự giới hạn mình ở việc đọc nhãn dán trên chúng”. Bergson “Thực tại… Hư cấu… Suốt cuộc đời tôi đã đi tìm ranh giới rất mơ hồ giữa chúng. Không gì gần với cái thật bằng cái giả trong thế giới thực, bởi khi con người coi một hoàn cảnh nào đó là thực tế, thì sau đó chúng sẽ trở thành thực tế…”. Guillaume Musso Tuy vậy, tác giả cũng nhắc đến nối sự và sự đau khổ của những con người bị giam cầm khi được ra khỏi hang, rằng “họ nhận ra bóng tối thật dễ chịu và ánh sáng khiến họ đau khổ” và họ không muốn chấp nhận sự thật. Đôi khi biết được sự thật cũng không phải chuyện vui, nhưng liệu chúng ta có muốn sống mãi trong hang tối? Một vài bộ phim và cuốn sách cũng xoay quanh chủ đề này, có thể kể đến bộ phim Ma trận 9 Lana Wachowski & Lilly Wachowski, 1999) hay cuốn sách gần đây của David Chalmers “Reality+: Virtual world and the problems of philosophy”. Khi được hỏi “Nếu chúng ta đang sống trong một mô phỏng máy tính thì khả năng mô phỏng đó sẽ như thế nào?”, tác giả David Chalmers trả lời rằng: Có nhiều loại mô phỏng khác nhau. Có loại gọi là mô phỏng hoàn hảo, nó làm việc tốt đến mức không ai có thể phân biệt được nó với thực tại vật lý. Nếu chúng ta đang ở trong một mô phỏng hoàn hảo, chúng ta sẽ không bao giờ biết được điều đó. David Chalmers Vậy liệu có phải chúng ta đang sống trong một thế giới mô phỏng? Mình nghĩ đây là một câu hỏi triết học khá thú vị để đi sâu hơn vào nhận thức con người, và cũng có khá nhiều tài liệu đi sâu hơn vào câu hỏi này, mình sẽ trích dẫn ở cuối bài. Guillaume Musso đang dùng tác phẩm văn chương của mình để gợi lên những câu hỏi sâu sắc hơn cho độc giả. Tuy nhiên, triết học luôn là những vấn đề trừu tượng, bàn về triết học đòi hỏi chiều sâu hiểu biết về con người và thế giới quan. Do đó, một tác phẩm văn chương đủ sâu sắc, đủ hấp dẫn đẻ bàn về triết học cũng không phải điều đơn giản. Mình thấy, trong Guillaume Musso mới hình thành một ý tưởng sơ lược, chưa thực sự hiểu sâu sắc về nó. Do đó, mình đánh giá các tình tiết trong câu chuyện này còn một số đoạn hơi “lỏng lẻo”, và dường như tác giả đã hơi lúng túng không biết kết truyện sao cho vừa.  Mặc dù vậy đây vẫn là một cuốn sách mình thấy hay bởi ý tưởng và những thông điệp mà Guillame Musso muốn gửi đến độc giả về sự thức tỉnh, mở rộng thế giới quan và đi tìm  ánh sáng của sự thật. Vì đọc phải có bất ngờ khi đọc truyện mới hay nên mình không tóm tắt nội dung chi tiết mà chỉ ghi lại phần mình ấn tượng nhất trong cuốn sách này, nhưng mà sách hay và đáng đọc nhé
Hai Cõi Người Ta
Khi người bạn yêu sâu sắc mất đi, dù là người thân hay người phối ngẫu, cuộc đời bạn mãi mãi không còn như trước nữa. Những gì trước nay bạn có như một điều mặc nhiên, đột nhiên sẽ mất. Khoảng trống đó không gì bù đắp được, chỉ có chính bạn có thể, bằng cách này hay cách khác, vượt qua và tìm cách sống tiếp. Nhưng cách vượt qua của mỗi người sẽ không như nhau. Có người sẽ cố chấp không buông như Ross, đi khắp nơi mong gặp linh hồn của vợ, tìm mọi cách cực đoan để liều mình tìm sang thế giới bên kia, thế nhưng không thỏa nguyện, bởi bóng hình anh yêu có tồn tại đâu? Hoặc như nỗi ám ảnh của người mẹ có con mắc bệnh hiếm, khiến cô khép mình với thế giới bên ngoài, sợ cả yêu thương.  Thế nhưng đây không chỉ là một cuốn sách về tâm lý tình cảm. Một hồn  ma, một hồ sơ vụ án chưa bao giờ khép, một khu đất là quê hương của thổ dân Châu Mỹ ngày xưa với biết bao hiện tượng kỳ dị... được lật lại bởi người cảnh sát địa phương, không ngờ lật ra cả một giai đoạn đen tối của lịch sử nước Mỹ, khi mà khao khát về đời sống tốt đẹp hơn lại vô hình suýt đẩy quốc gia vào con đường diệt chủng với Thuyết Ưu Sinh - một lý thuyết gạn lọc những gen bị cho là "gen xấu" của con người. Nhưng con người, với tất cả hiểu biết hạn hẹp của  mình, liệu đã có đủ năng lực để vạch ra lằn ranh cho khoa học di truyền đó? Một câu chuyện đan cài hấp dẫn từ đầu tới cuối, là sự xen kẽ của trinh thám, tình cảm, khoa học và lịch sử, với ngòi bút mượt mà đậm tính nhân văn. *** Lần đầu tự đẩy mình vào chỗ chết, Ross Wakeman suýt thành công, nhưng lần thứ hai và thứ ba chết hụt thì không phải do anh. Lần thứ hai, anh ngủ gục trên tay lái nên phóng xe lao qua thành cầu và rớt xuống hồ nhưng được đội cứu hộ tìm thấy. Khi chiếc Honda nửa chìm nửa nổi được trục vớt, cửa xe đều còn khóa kín, kính cửa sổ cường lực rạn như mạng nhện mà vẫn nguyên vẹn. Sau vụ tai nạn chẳng ai hiểu làm sao anh ta thoát khỏi xe mà không hề trầy xước. Lần thứ ba, Ross bị cướp ở New York. Tên cướp trấn lột ví tiền, đập Ross một trận nhừ tử, nã một phát vào lưng anh rồi trốn mất dạng. Với cự ly gần như thế, viên đạn lẽ ra phải khiến xương vai vỡ vụn và đâm thủng phổi. Vậy mà như có phép thần, viên đạn kẹt lại ngay khi vừa chạm xương. Mẩu đạn chì bé tẹo giờ đang được Ross dùng làm móc chìa khóa. Còn lần đầu tiên suýt chết là vài năm trước, khi Ross mắc kẹt giữa một trận bão sét. Tia sét màu xanh tuyệt đẹp bất chợt xuất hiện trên nền trời rồi phóng thẳng trúng tim anh. Mấy bác sĩ đều nói anh đã chết lâm sàng khoảng bảy phút. Họ nói rằng tia sét không đánh trúng Ross trực tiếp. Nếu dòng điện mạnh 50,000 ampe thực sự truyền thẳng vào lồng ngực, nó sẽ làm nước trong tế bào bốc hơi và khiến anh nổ tung đúng theo nghĩa đen. Tia sét chỉ sượt qua, tạo ra dòng điện cảm ứng khiến nhịp tim anh rối loạn. Mấy tay bác sĩ đều trầm trồ cái gã này sao mà may mắn quá. Mấy gã đó đều sai bét. Lúc này, Ross chẳng buồn cẩn trọng khi dò dẫm trên mái nhà đen thui ướt nhẹp của gia đình O’Donnells’ Oswego vào ban đêm. Trời đã vào tháng Tám mà gió lùa vào từ hồ Ontario vẫn còn lạnh buốt, thổi mấy sợi tóc dài vào mắt khi anh khéo léo rướn mình qua ô cửa sổ xiêu vẹo. Nước mưa vỗ xuống gáy khi anh loay hoay gắn mấy cái kẹp vào máng xối và chỉnh lại máy quay phim chống thấm nước hướng vào tầng gác mái. Đôi ủng của anh trượt một phát, khiến vài tấm ván lợp cũ mèm rơi xuống. Ông O’Donnel che ô đứng dưới đất, nheo mắt dõi theo anh. “Cẩn thận đấy,” ông ta hét lên. Ross ngầm hiểu lời O’Donnel muốn nói: Chừng ấy hồn ma là đủ lắm rồi. Nhưng Ross sẽ chẳng làm sao cả đâu. Anh sẽ không trượt chân; anh sẽ không ngã. Đây là lý do vì sao hết lần này đến lần khác, anh sẵn sàng lao vào nguy hiểm và liều mạng như nhảy bungee, leo núi và hút ma túy. Anh vẫy tay với ông O’Donnell, ra hiệu rằng mình đã nghe thấy. Nhưng Ross biết mặt trời sẽ mọc sau tám tiếng nữa, cuộc sống của anh vẫn tiếp diễn, và dù muốn đến đâu thì mình cũng không chết được. Tiếng trẻ con khiến Spencer Pike tỉnh giấc và loay hoay ngồi dậy. Tất cả phòng trong Viện Dưỡng Lão Shady Pines đều bật đèn ngủ, nhưng ông biết dù có bật điện hết công suất đủ để chiếu sáng cả thành phố Burlington này thì mình cũng chẳng thấy gì quá phạm vi chân giường. Bệnh đục thủy tinh thể khiến ông chẳng nhìn được gì. Những lúc bước ngang qua gương soi để vào phòng vệ sinh, ông loáng thoáng thấy ai đó đang nhìn mình - một anh chàng với hàng lông mày chưa lốm đốm ngả vàng; một người hoàn toàn khác với làn da nhăn nheo bọc ngoài khung xương hiện tại. Nhưng bóng dáng Spencer một thời trẻ trung vụt tan biến, bỏ lại ông với những mảnh vụn sót lại của đời mình. Dù vậy, đôi tai ông vẫn còn rất thính. Khác với mấy lão già lẩm cẩm ở đây, Spencer chưa bao giờ cần đến máy trợ thính. Quỷ thật, ông còn nghe được những thứ ông chẳng buồn quan tâm. Trời ơi, đứa nhỏ lại khóc nữa rồi. Ông vén chăn, bấm nút bên cạnh giường. Một lúc sau, y tá trực đêm bước vào hỏi, “Ông Pike, có việc gì sao?” “Có đứa nhỏ cứ khóc mãi.” Cô y tá nhanh nhẹn xoay gối và nâng cao đầu giường sau lưng ông. “Ông Pike, chẳng có đứa trẻ nào ở đây cả. Đó chỉ là mơ thôi.” Cô vỗ nhẹ lên bờ vai một thời rắn rỏi của Spencer. “Bây giờ thì ông nên ngủ tiếp đi. Ngày mai sẽ bận rộn lắm đấy. Ông có hẹn đúng không?” Ông tự hỏi vì sao cô ta nói chuyện như đang dỗ con nít vậy? Vì sao ông lại ngoan như một đứa con nít - mặc cô đỡ ông nằm xuống giường và kéo chăn lên ngực? Một loạt ký ức chực chờ dâng trào nơi cổ họng, tiếp đó là một cảm giác mơ hồ khiến ông rơm rớm nước mắt. Cô y tá ân cần hỏi: “Ông có cần vài viên Naproxen cho dễ chịu không?” Spencer lắc đầu. Từng là nhà khoa học, ông biết rõ chẳng có phòng thí nghiệm nào bào chế được loại thuốc xoa dịu nỗi đau này. Curtis Warburton ngoài đời trông nhỏ con hơn trên truyền hình. Nhưng chuyện này chẳng hề ảnh hưởng đến sức quyến rũ của anh, thứ khiến chương trình Đêm Rùng Rợn trở thành một trong những tiết mục ăn khách nhất. Mái tóc đen ngắn với vệt tóc bạc trông như lông chồn hôi - anh thành ra thế từ chín năm trước, khi hồn ma của ông nội hiện về ngay chân giường. Sau đêm ấy, anh ta bắt đầu dấn thân vào lĩnh vực điều tra hiện tượng tâm linh. Maylen vợ anh ta có dáng người thấp bé nhưng khả năng ngoại cảm vang danh đến tận sở cảnh sát Los Angeles. Cô đang ngồi bên cạnh và mải miết ghi chép khi Curtis đặt câu hỏi cho ông bà chủ nhà. “Đầu tiên là tại nhà bếp,” bà Eve O’Donnell thì thào, và chồng bà gật gù. Hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu. Hai người mua căn nhà bên hồ này làm nơi nghỉ hè, nhưng suốt ba tháng ở đây, họ gặp nhiều hiện tượng kỳ quái ít nhất hai lần mỗi tuần. “Khoảng mười giờ sáng, tôi khóa hết cửa, đặt chuông báo động và đi đến bưu điện. Lúc về nhà, chuông báo động vẫn đang bật… nhưng tất cả tủ bếp trong nhà đều mở toang, mấy hộp ngũ cốc nằm la liệt trên bàn và vương vãi xung quanh. Tôi gọi tên Harlan vì nghĩ rằng ông ấy mới về nhà và là thủ phạm của đống lộn xộn này.” “Tôi ở câu lạc bộ Elks suốt buổi sáng,” chồng bà ngắt lời. “Chưa từng về nhà. Nhà chẳng ai làm chuyện đó cả.” “Lúc hai giờ sáng, chúng tôi nghe thấy tiếng đàn calliope vọng lại từ tầng gác mái. Nhưng khi chúng tôi bước lên đó thì tiếng nhạc ngừng lại. Lúc mở cửa ra, chúng tôi thấy một chiếc đàn piano đồ chơi không hề gắn pin nằm ngay giữa sàn.” “Chúng tôi không có cây đàn piano đồ chơi nào,” ông Harlan nói thêm. “Nhà cũng chẳng có trẻ con. “Khi chúng tôi thử gắn pin vào thì tiếng nhạc phát ra từ cái đàn lại không giống với âm thanh kia.” Bà Eve ngập ngừng. “Anh Warburton, tôi hy vọng anh hiểu rằng chúng tôi không phải là những người tin… tin vào những thứ như thế. Chỉ là… chỉ là nếu như không phải là nó thì có lẽ tôi đang mất trí rồi.” “Bà O’Donnell, bà không bị mất trí đâu.” Curtis khẽ nắm tay bà ra vẻ cảm thông. “Đến sáng mai là chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về chuyện gì đang diễn ra tại nhà hai vị.” Anh ngoái đầu ra sau để đảm bảo Ross ghi lại đoạn phim này. Tùy vào việc xảy ra sau đó, nhà O’Donnells có thể xuất hiện trên chương trình Đêm Rùng Rợn. Nếu vậy thì thước phim này rất quan trọng. Mỗi ngày, nhóm Warburtons nhận được hơn ba trăm thư điện tử từ những người tin rằng nhà họ bị ma ám. Tám mươi lăm phần trăm vụ việc hóa ra là những trò chơi khăm hoặc do chuột trên nóc nhà. Những vụ còn lại thì - theo kinh nghiệm của Ross - không thể giải thích một cách đơn giản được. “Ông bà từng thấy ma chưa?” Curtis hỏi. “Hoặc là cảm giác nhiệt độ thay đổi đột ngột?” “Phòng ngủ hai vợ chồng tôi đột nhiên nóng như địa ngục khoảng một phút, sau đó lại lạnh đến rùng mình,” ông Harland trả lời. “Ông bà có cảm thấy đặc biệt không thoải mái với chỗ nào trong nhà không?” “Tầng gác mái. Còn cả phòng tắm trên lầu nữa.” Curtis đưa mắt nhìn từ tấm thảm thủ công đậm chất Đông phương đến chiếc bình cổ trên bệ lò sưởi. “Tôi phải khuyến cáo hai vị rằng bắt ma là công việc rất tốn kém đấy.” Là nhà nghiên cứu thực địa trong nhóm Warburtons, Ross được cử đến thư viện, khu tư liệu báo chí để tìm tài liệu về căn nhà hay vụ giết người hoặc tự tử từng xảy ra ở đó. Công tác điều tra của anh chẳng mang lại thông tin gì đáng giá, nhưng Curtis không hề muốn bỏ cuộc. Dù sao thì ma quỷ có thể ám cả người lẫn nhà. Lịch sử luôn để lại vết tích, như mùi nước hoa nhàn nhạt hay vệt ký ức in đậm sau ánh mắt. “Cứ tiến hành thôi,” bà Eve O’Donnell đáp. “Tiền bạc không thành vấn đề.” “Tất nhiên là vậy rồi.” Curtis vừa cười vừa vỗ tay đánh bốp lên đầu gối. “Tốt lắm. Chúng tôi có vài việc phải làm.” Đó là ám hiệu của Ross. Trong quá trình điều tra, anh chịu trách nhiệm thiết lập và giám sát các thiết bị điện từ, máy quay video kỹ thuật số, nhiệt kế hồng ngoại. Bất chấp lợi nhuận kếch xù do chương trình truyền hình và những vụ làm ăn kiểu này mang lại, Ross làm việc với mức lương rẻ mạt. Chín tháng trước, sau khi đọc về nhóm Warburtons trên tờ tạp chí L.A. Times vào ngày lễ Halloween, Ross đã phải nài nỉ họ nhận mình vào làm. Khác với Curtis và Maylene, dù rất muốn nhưng anh chưa từng thấy một linh hồn nào cả. Anh hy vọng khả năng ngoại cảm có thể lây qua đường tiếp xúc giống như bệnh đậu mùa và in lại dấu ấn vĩnh viễn trên người anh. “Tôi nghĩ mình nên kiểm tra tầng gác mái,” Ross đề nghị. Anh đứng giữa hành lang, đợi bà Eve O’Donnel dẫn đường. Dù anh chẳng hề thắc mắc nhưng bà vẫn thừa nhận, “Tôi cảm thấy thật là ngu ngốc, từng tuổi này rồi mà còn thấy ma Casper.” Ross mỉm cười. “Ma có thể làm bà rùng mình một tí, hoặc khiến bà nghĩ mình bị mất trí nhưng sẽ không làm hại bà đâu.” “Ồ, tôi cũng không nghĩ cô ấy sẽ hại tôi.” “Cô ấy?” Bà Eve ngập ngừng. “Harlan dặn tôi không được chia sẻ quá nhiều thông tin để tránh việc các anh hiểu sai vấn đề.” Bà rùng mình, liếc mắt về phía cầu thang. “Em gái tôi mất hồi tôi bảy tuổi. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi… liệu ma có tìm được người nào đó nếu nó muốn?” Ross hướng mắt ra chỗ khác. “Tôi không biết nữa,” anh đáp, thầm ước giá mà mình có thể đáp lời bà ấy với một câu trả lời cụ thể hay chia sẻ trải nghiệm cá nhân. Mắt anh sáng lên khi nhìn thấy cánh cửa nhỏ ngay trên bậc cầu thang. “Ở đây à?” Bà gật đầu, để anh vượt lên trước và mở cửa. Chiếc máy quay phim Ross gắn ngoài cửa sổ trông như con mắt của người khổng lồ Cyclops đang dõi theo hai người. Eve sợ đến rúm ró cả người. “Bước vào đây là tôi thấy ớn lạnh.” Ross dời mấy cái hộp để tránh trường hợp hình bóng kỳ lạ nào đó xuất hiện trong thước phim bị nhận nhầm. “Curtis nói đó là cách tìm ra họ, chỉ cần nghe theo cảm giác mách bảo.” Mắt anh nhìn trúng thứ gì đó lấp lánh trên sàn nhà. Anh khuỵu gối nhặt lên vài đồng xu. “Tất cả có 6 xu.” Anh mỉm cười. “Kỳ quái thật.” “Thỉnh thoảng cô ấy vẫn làm vậy.” Bà Eve lùi dần về phía cửa, hai tay ôm lấy vai. “Luôn để lại cho chúng tôi mấy đồng xu lẻ ấy.” “Con ma đấy sao?” Ross xoay người lại thắc mắc nhưng bà Eve đã chạy xuống lầu. Hít một hơi thật sâu, Ross đóng cửa phòng gác mái lại và tắt hết đèn, để bóng tối tràn ngập căn phòng nhỏ. Anh lách mình sang góc phòng, tránh khỏi tầm máy quay phim rồi khởi động nó bằng điều khiển từ xa. Sau đó Ross cố tập trung vào bóng tối bủa vây trước ngực và sau hai đầu gối, giống như chỉ dẫn của Curtis Warburton. Ross thả lỏng tất cả giác quan, chờ đến khi sự hoài nghi giảm dần và khoảng không xung quanh mở rộng. Anh thầm nghĩ, có lẽ chính là cảm giác này. Cảm giác khi những bóng ma vây quanh giống như cổ họng lúc nấc nghẹn. Bên trái có tiếng bước chân, kèm theo tiếng leng keng không lẫn vào đâu được của mấy đồng xu rớt trên sàn. Ross bật đèn pin rọi quanh phòng, đến chỗ đôi ủng của mình thì thấy có ba đồng xu nằm đó. “Aimee?” anh thì thào với khoảng không trống trải. “Có phải em không?” Thị trấn Comtosook bang Vermont nằm giữa nhiều ranh giới tự nhiên: vùng trũng dẫn nước chảy vào hồ Champlain, vách núi dựng đứng bao quanh mỏ đá granite nơi nửa số dân thị trấn đang làm việc. Dường như có một giới tuyến vô hình ngăn giữa vùng nông thôn bang Vermont và thành phố Burlington liền kề. Nhà thờ thuộc Tự trị giáo đoàn ở trung tâm thành phố có treo một bảng hiệu ca ngợi Comtosook là vùng đất đẹp nhất tiểu bang do tạp chí Đời Sống Vermont trao tặng năm 1994. Thật không sai. Có những ngày, Eli Rochert chỉ biết nín thở ngắm nhìn tán lá đang chuyển màu, nào là màu hồng ngọc, màu hổ phách và cả màu ngọc lục bảo. Nhưng dù khách du lịch có nghĩ gì về Comtosook thì đây vẫn là quê hương Eli. Đã từng, và mãi mãi. Anh vẫn cho là vậy. Tất nhiên, với cương vị là một trong hai cảnh sát của thị trấn, anh biết rõ những gì du khách thấy chỉ là ảo ảnh. Từ lâu Eli đã biết có những thứ dù có cố nhìn chằm chằm thì cũng không thấy được những gì nằm ẩn sâu dưới mặt ngoài. Anh lái xe dọc con phố Nghĩa Trang. Anh vẫn hay tuần tra vào những đêm trăng tròn vành vạnh tỏa ra ánh vàng như mắt diều hâu. Mấy cửa sổ xe đều kéo xuống nhưng chẳng có ngọn gió nào thổi qua. Phần tóc đen ngắn ngủn sau gáy Eli nhớp nháp dính vào gáy. Ngay cả Watson, chú chó săn của anh, cũng đang thở hổn hển trên ghế sau. Mấy tấm bia mộ cũ kỹ nằm ngả nghiêng như những chiến binh với đôi chân rệu rã. Bên trái khu nghĩa trang, gần chỗ cây sồi, là bia mộ kỳ quặc nhất của thị trấn Comtosook. Bia đề, WINNIE SPARKS. SINH NĂM 1835. QUA ĐỜI NĂM 1901. QUA ĐỜI NĂM 1911. Truyền thuyết kể rằng khi đang trên đường đưa tang cho bà lão cay nghiệt có tiếng ra khu nghĩa địa thì mấy con ngựa kéo lồng lên, khiến quan tài rớt xuống. Sau đó nắp quan tài bật ra, bà Winnie ngồi dậy, leo ra khỏi đó rồi khạc nhổ điên cuồng. Mười năm sau khi bà chết - thêm một lần nữa - thì ông chồng tội nghiệp đã đóng đến 150 chiếc đinh trên nắp quan tài để phòng chuyện trước kia. Mời các bạn đón đọc Hai Cõi Người Ta của tác giả Jodi Picoult & Trần Nguyên Hương (dịch).