Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt

ROBERT DALEY BÀN TAY KẺ LẠ MẶT Người dịch: Nguyễn Đắc Lộ NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KHÁNH HÒA - 1990 Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Hands of a Stranger (Robert Daley) NXB New American Library (Signet Book) 1986, Nguồn sách: @quang3456 Chụp ảnh, pdf, OCR: 4DHN Cuộc đấu tranh để ngăn chặn, chống những tệ nạn xã hội là một trong những trận tuyến thầm lặng nhung không kém phân gay go, quyết liệt và nhiều khi trở thành nóng bỏng đối với nhiều nước trên thế giới hiện nay, đặc biệt là ở những nước tư bản phát triển, khi lối sống thực dụng lan trần, con nguôi chỉ biết chạy theo đồng tiền và những dục vọng thấp hèn, bất chấp mọi luật pháp và những nên tảng dạo đức xã hội. Thống qua tắn bi kịch của một gia dinh, tiểu thuyết “Bàn tay kè lạ mặt” của Robert Daley tuy chỉ đề cập dến một trong những loại hình tội phạm dang làm nhức nhối trong lòng xã hội Mỹ đương đại: tội hiếp dâm, nhung với lối viết chân thực, rất tỉ mi, cụ thể mà có tầm khái quát cao của mình, ngòi bút của ông đã vẽ nên một bối cảnh xã hội rộng lớn của xã hội Mỹ hiện nay: con người được sống với những diều kiện vật chất cao hơn, nhung khi nền tảng đạo đức xã hội bị phá vỡ, con người càng có nguy cơ trở nên tàn ác, tha hóa, thú vật với nhau hơn và tội ác càng cố sức công phá lớn, khó ngăn chặn hơn khi nó tận dụng được những phương tiện khoa học hiện đại phục vụ cho nó. Với một đề tài hấp dẫn nhung thật khó viết vì rất dễ có nguy cơ roi vào dung tục, khiêu dâm, chạy theo những thị hiếu tầm thường, Robert Daley dã thành công và tỏ ra là một cây bút có bản lĩnh. Cuốn sách của ông được đánh giá cao, trờ thành một hiện tượng văn học trong thập niên 80 ở Mỹ. Nhiều nhà phè bình nôi tiếng khẳng định giá trị nghệ thuật, tính chân thực và bức thống điệp nóng bỏng mà ông gửi dến cho mọi người về những mối de dọa của tội ác với cuộc sống và hạnh phúc của con người Trân trọng giới thiệu “Bàn tay kẻ lạ mặt”với bạn đọc. *** Nạn nhân bị xâm phạm đầu tiên sáng hôm ấy là một cô gái da đen mười chín tuổi. Người thứ nhì là một bà nội trợ da trắng ba mươi tám tuổi. Phụ tá chưởng lý quận Judith Adler không làm được gì đáng kể cho bất kỳ vụ nào. Cô gái da đen được một nữ thám tử đưa vào và được chỉ vào một chiếc ghế đối diện với bàn giấy. Viên thám tử trao tập hồ sơ vụ án của cô gái rồi ngồi dựa vào tường, một tập giấy vàng trên váy cô, chiếc ví tay nặng của cô đặt trên sàn nhà ngay bên cạnh. Judith Adler, sau khi nhìn lướt qua tập hồ sơ, thấy rằng nạn nhân tên là Bianca, người đã bị sáu người đàn ông “bề hội đồng” hôm qua, cô ta không hề biết mặt những tên hãm hiếp trước đó. Chẳng tên nào được gọi đích danh và cô ta chỉ có thể mô tả chúng là sáu “anh chàng da đen” thôi. Sự mô tả không làm Judith mỉm cười được. “Bianca, sáng nay cô thế nào?” Nàng ngẩng đầu lên hỏi: “Cô không sao chứ?” Nàng cố hết sức thật ôn tồn và thông cảm vì, xét theo tập hồ sơ, sự thông cảm hoàn toàn là sự công bình mà nạn nhân này hình như muốn có được. Bianca cám ơn, nói rằng cô ta khỏe và hình như sự thật là như thế. Ở vào trường hợp của cô thì một nữ sinh viên khác ở Park Avenue - Judith đã đối phó với nhiều người như thế - chắc sẽ cứng đờ người ra. Bianca mặc quần Jeans và giầy cổ cao, mấy chiếc móng chân màu đỏ tươi ló ra ngoài. Khuôn mặt rất trẻ, nước da rất đen. Cô tô son đỏ tươi và mặc một chiếc áo cánh cũng đỏ tươi. Với tiêu chuẩn trong thế giới riêng của cô, có lẽ ăn mặc như thế là thanh lịch. Judith định nói ai nhỉ? Bản thân nàng mặc một bộ đồ xanh lục bên ngoài một chiếc áo cánh lụa. Nạn nhân bị hãm hiếp kiên nhẫn chờ đợi. Theo tập hồ sơ sự vụ, hiện trường là một khách sạn phúc lợi tại Harlem. Địa điểm này quen thuộc đối với Judith. Công việc của nàng là phải biết những điều như thế. “Đấy chẳng phải là một khách sạn tốt” - nàng chê trách như thể chính khách sạn phải chịu trách nhiệm vì nếu không thì tội ác đối với Bianca không thể nào hiểu được. - “Rất nhiều gái điếm ở đây”. Bianca không có công việc làm, không có địa chỉ nhất định nào cả. Tuần qua cô ta đã di chuyển từ một căn nhà công cộng đến khách sạn phúc lợi và nàng biết rõ phải ngủ với quần áo đầy đủ kể cả đôi giầy vì sợ rằng sáng ra mọi thứ nàng có đều bị ăn cắp. Một người đàn bà tên Maria - không có họ - cũng sống ở đấy và trở thành bạn gái của cô ta. Nhưng Maria có chồng, dù theo luật lệ chung hoặc là chồng thật sự -cũng không thành vấn đề và một buổi sáng anh chồng này khoác lác rằng đã làm tình với Bianca ở phòng bên trong đêm. “Hắn bảo Maria rằng cô đã mút “của” hắn. Và cô có làm thế không Bianca?” Vai trò của nàng cho phép nàng có quyền nêu lên những câu hỏi như thế. Tuy nhiên một số những câu hỏi mà nàng sẽ hỏi sau đây sẽ còn có tính cách riêng tư hơn nữa. “Tôi chẳng thèm làm tình với bất kỳ ai mà tôi vừa gặp mặt cả”. Bianca phản đối. “Tôi nghĩ rằng tôi không chịu nói về việc ấy”. Câu này được nói lên thật trịnh trọng đến nỗi Judith, dù nàng chỉ gật đầu thôi, muốn hoan hô cô. Đối với Judith, sự tự trọng và lòng can đảm đều như nhau. Cả hai đều hiếm, đáng ca ngợi, và trong trường hợp một người mà viễn ảnh của cuộc sống thật tàn nhẫn như cuộc sống của Bianca, nó hoàn toàn bất ngờ. Maria đã ra đường phố thu thập một số đàn ông. Ả đã tìm thấy họ nằm uể oải nơi hiên trước và thơ thẩn ở các góc đường dưới ánh đèn. Ả đã thu thập được sáu kẻ thơ thẩn và đưa họ lên lầu. Tuổi họ từ vị thành niên cho đến năm mươi! “Tao sẽ làm mày tổn thương vì điều mày đã làm với chồng tao”. Ả đã bảo Bianca như thế và cho họ tấn công cô ta. Như mọi tội ác khác, hiếp dâm được phân hạng. Trường hợp hiếp dâm này, Judith Adler thấy, là một sự hiếp dâm để trả thù. Hiếp dâm để gỡ hòa. Hiếp dâm để trừng phạt. Tất cả sáu người đàn ông đều đã hãm hiếp Bianca. Chúng đã thực hiện nhiều lần và kéo dài theo khả năng của chúng. Chúng đã hãm hiếp cô ta cả phía trước lẫn phía sau và khi khả năng hoặc sự hăng hái của chúng hoặc bất kỳ thứ gì đã duy trì được hành động của chúng cuối cùng cạn đi, chúng bắt đầu hãm hiếp cô ta bằng các đồ vật. Thực là may, Judith suy nghĩ, vì chúng không chủ tâm giết cô ta. Nhiều cô gái trong các trường hợp tương tự đã xuất huyết đến chết. Công tác đầu tiên của nàng là đưa ra một sự mô tả chính xác của chính các hành động - cái gì và do ai. Những câu hỏi của nàng minh bạch và nàng đòi hỏi các câu trả lời cũng minh bạch. Nhưng giọng nói của nàng vẫn đều đều vì công tác của nàng không cho phép nàng bày tỏ cảm xúc và đôi khi nàng còn tự hỏi xem nàng có còn cảm thấy sự xúc động nào không nữa. Nàng đã không muốn trở thành chai đá. Mình là một người đàn bà, thỉnh thoảng nàng đã tự nhắc nhở lại như thế. Mình không phải là đàn ông. Nếu so sánh những sự xúc phạm mà người nghèo khổ gây ra cho nhau, đôi khi sẽ làm cho người giàu có có vẻ thánh thiện. Cộng thêm vào việc Maria đã hành động với tư cách giám sát và bản thân những kẻ hãm hiếp, rõ ràng là căn phòng đã đầy dẫy các quan sát viên, và Judith bắt đầu cố gắng thu thập những cái tên mà Bianca biết, không may những cái tên này đều không có họ. Dĩ nhiên, có Maria và chồng ả, Willis. “Willis có hãm hiếp cô không?” “Willis à, hắn là trọng tài đấy”. Silvia, không có họ, được mô tả là “có giọng thanh hơn tôi” đôi ba lần, khóc lóc thảm hại như Bianca và van xin các tên cưỡng hiếp buông Bianca ra. Tiny, được Bianca mô tả là “một người đàn ông mập với một mùi mồ hôi rất nồng”, đã quan sát với ngón tay cái đưa lên miệng. Judith ý thức rằng sự mô tả này có vẻ buồn cười trong lúc kể lại. Có lẽ điều ấy còn có vẻ buồn cười ngay cả trong một phòng xử án nữa. Nhưng đối với nàng nó chẳng có vẻ gì là buồn cười cả. “Cô phải tránh xa khách sạn ấy ra”, Judith ngẩng lên từ những điều ghi chú của nàng và khuyên cô gái. “Vì nếu họ hiểu được cô đã đến với tôi, họ có thể tìm cách hãm hại cô đấy”. Hãm hại cô ta à? Có lẽ họ sẽ giết cô ta đấy. Judith ghi số điện thoại và đẩy nó qua bàn giấy. “Đây là nhà và số văn phòng của tôi” - nàng giải thích. “Nếu cô đánh mất, tôi vẫn còn trong sổ sách. Nếu cô trông thấy bất kỳ ai trong số những người này, nếu có ai quấy rầy cô, tôi muốn cô gọi tôi ngay. Cô hiểu không? Hãy gọi tôi bất kỳ giờ nào bất luận ngày hoặc đêm”. Khi nữ thám tử đưa Bianca ra khỏi văn phòng, phụ tá chưởng lý quận Adler gấp tập hồ sơ, nhưng không bỏ vụ án lại. Dù rằng chẳng có gì nhiều để tiếp tục, nàng quyết định dù sao cũng phải theo đuổi nó. Nàng định đưa hai thám tử da đen đến khách sạn. Nếu Maria, Tiny hoặc Silvia vẫn còn đấy có thể bị nhận diện, và nếu Bianca tìm được địa chỉ và nhớ gọi đến, lúc ấy, có lẽ có thể sắp xếp được một hồ sơ, các sự bắt giữ sẽ được thực hiện. Maria và Willis, khi bị bắt có thể khai ra tên tuổi các tên hãm hiếp. Có lẽ thế mới có thể mong xét xử được. Có quá nhiều chữ “nếu”. Và nàng sẽ lấy đâu ra các thám tử nhỉ? Các chỉ huy trưởng cảnh sát không muốn đưa người ra cho những vụ án ưu tiên thấp như vụ này. Nàng sẽ tán tỉnh nhiều đấy. Vụ án tiếp theo hơi khá hơn. Bà nội trợ người da trắng ba mươi tám tuổi cũng ngồi vào cùng chiếc ghế như Bianca. Có một vết xây xát phía trên gò má bà ta và những vết khâu đen nơi khóe miệng. Bà cố gắng nở một nụ cười thê lương, dường như lúng túng vì đã gây ra nhiều sự phiền nhiễu, và nụ cười này có vẻ rộng một phân về một bên khuôn mặt bà ta hơn phía bên kia. Bà ta trông không xấu quá, Judith nghĩ như thế. Không như một số người mình đã gặp. Những người mà chỉ có những kẻ điên rồ thực sự mới tấn công. Bà nội trợ đã bị ve vãn trong lúc đang thả bộ tại Công viên Trung ương. Bà ta đã bị lôi vào bụi và bị hãm hiếp. Bà ta đã la hét nhưng chẳng ai đến cả. Bà ta đã được xem các quyển album của những kẻ thường hay tấn công về tình dục, nhưng chẳng thể nào chỉ ra được kẻ nào đã tấn công mình. “Bọn hiếp dâm là những tên tái phạm”. Judith Adler bảo bà ta. Lần sau hắn có thể bị bắt và chúng tôi sẽ mời bà xuống và bà cố gắng chỉ ra hắn. Hình như chẳng có gì nhiều cho người đàn bà để đổi lại những gì bà ta phải chịu. Khi viên nữ thám tử đã dẫn bà ta ra, ông Katz bước vào với một tờ giấy ghi lại các cú điện thoại. Ông Katz là thư ký của nàng, một người đàn ông trạc lục tuần đội một chòm tóc giả không thích hợp. Ông ta đã đến làm việc đầu tiên tại văn phòng luật sư quận từ hơn ba mươi năm trước. Trong những ngày ấy, mọi người kể cả các thư ký, đều phải là đàn ông. Vào lúc Judith Adler tốt nghiệp trường luật - chỉ độ một chục năm trước thôi - vẫn chỉ có sáu người phụ nữ trong một ban nhân viên gồm trên hai trăm công tố viên, nhưng họ không được giao vụ nào để khởi tố cả. Dĩ nhiên bây giờ không phải kiểu như thế. Khi xin việc tại đây, Judith còn trẻ, mặt non choẹt và nhiệt tình, và viên chưởng lý quận lúc ấy, một ông già tao nhã, không muốn thu nhận nàng. Nàng vẫn còn nhớ rõ chiếc áo nàng đã mặc ngày ấy, nàng đã cố gắng thật đẹp để làm cho nàng trông được mắt ông già. “Công việc của chúng tôi quá hào nhoáng đối với một phụ nữ trẻ”, ông đã bảo nàng như thế. Nàng đã tranh luận, thuyết phục và nài nỉ. Cuối cùng, hình như trái với lương tri của ông, ông đã nhận nàng. Ông già có lý, bây giờ Judith nghĩ lại. Nó hào nhoáng - còn hào nhoáng hơn cả bất kỳ ai bên ngoài có thể đoán được. Một trong những câu nhắn trên điện thoại, ông Katz bảo, có vẻ đặc biệt, và ông trao nó cho nàng: một đại úy thuộc cảnh sát tiểu bang New Jersey đã gọi: “Ông ta chỉ muốn đích thân nói chuyện với bà thôi. Ông ta bảo rằng có việc khẩn cấp”. Phụ tá chưởng lý quận Adler, với một đầu óc nặng trĩu vì những người đàn bà bị bạo hành, muốn có một sự thay đổi, bất kỳ sự thay đổi nào, dù chỉ là thoảng qua, nên nàng lật qua bức điện khẩn và tò mò. “New Jersey à?” “Hãy gọi điện thoại cho ông ấy”, nàng bảo Katz. Ông ta gật đầu và đi ra. Khi nút trên điện thoại của nàng bật sáng, nàng đập vào nó. “A lô”, nàng gọi. Nghe giọng phụ nữ ở đầu dây, người đàn ông ở đầu kia không chấp nhận. Ông ta chỉ nói chuyện với chính phụ tá chưởng lý quận hiện tại, ông ta nhấn mạnh. “Đây là người ấy đấy”, Judith bực mình nghĩ. Rõ ràng là viên cảnh sát đã mong được nói chuyện với một người đàn ông. Ít năm trước, có lẽ ông ta cũng nói như thế; giờ đây, Judith ghi nhận một lần nữa, những người như thế, chỉ đối xử với nàng bằng một sự im lặng hơi kéo dài thôi. “Tôi là đại úy Sample”, giọng đàn ông cuối cùng lên tiếng. “Bà có thể ra khỏi chỗ đấy không? Chúng tôi có điều quan trọng để thảo luận với bà”. Và ông ta đợi. “Tốt hơn ông nên tường trình cho tôi đi”, Judith nói. Sau khi đã mất hứng thú nơi đại úy Sample, nàng bắt đầu lật qua các bức điện khác. Các luật sư cho các bị cáo, ủy viên công tố trừng phạt rắc rối với một tù nhân, có lẽ thế. Văn phòng thị trưởng. Chánh án hành pháp. “Tôi không muốn nêu vấn đề ấy ra trên điện thoại”, đại úy Sample nói. Câu này cũng làm Judith bực mình. Các cảnh sát viên về một vụ án thích cho là mọi đường dây điện thoại của họ đều bị nghe lén cả. “Tôi hơi bận,” nàng đáp cộc lốc. “Nếu ông muốn đến đây, tôi có thể cho ông một cuộc hẹn vào ngày mai hoặc ngày kia”. Sample cố gắng buông một tiếng cười trấn an. “Tôi không nghĩ rằng tôi có thể tìm ra văn phòng của bà. Bà sẽ phải đưa một chiếc xe cảnh sát đến đầu đường hầm để đưa tôi vào đấy.” Judith quả quyết “Nếu không…” Có một sự im lặng khác trong lúc lời đe dọa của nàng về đến đích. Cuối cùng Sample thở dài. “Hai người đàn ông định buộc cô gái trẻ này vào một chiếc xe” ông ta nói. Ông ta có một giọng nói khàn khàn và một âm điệu cứng. “Và một người của tôi ngẫu nhiên lái xe ngang qua, thế đấy. Chúng tôi bắt hai thủ phạm, và trong cốp xe của họ, bà biết chúng tôi đã tìm ra thứ gì không?” Judith đã quyết định sẽ gọi chánh án hành pháp ngay sau đó. Một vấn đề thuộc thời khóa biểu, nàng đoán như thế. Điều ấy có thể thương lượng trên điện thoại. “Tôi không biết”, nàng nói với đại úy Sample, “ông đã tìm ra điều gì thế?” “10 kilo hasit”, ông ta nói với vẻ đắc thắng. “Hay đấy”, Judith nói. Kế đấy nàng phải dự hai buổi thuyết trình pháp đình, buổi đầu tiên còn năm phút nữa - và trên tầng mười lăm. Sample, như hầu hết các cảnh sát viên của các thành phố nhỏ, bị hăm dọa một cách dễ dàng. “Tôi biết điều ấy không có vẻ gì là nhiều tại New York đâu”. “Ma túy không phải phần hành của tôi”, Judith nói. Nàng không muốn làm tổn thương cảm tình của Sample nhưng tốt nhất nàng nên cắt gọn vấn đề này. “Và New Jersey ngoài quyền xử lý của tôi.” “Chúng tôi có một tờ lệnh xét nhà họ”, Sample vội nói, “và bà nghĩ chúng tôi đã tìm được thứ gì nhỉ?” Lần này ông ta không chờ câu trả lời. “Độ hơn hai mươi cuộn video cassette về các cuộc hiếp dâm hiện nay. Các cô gái trẻ. Các cô người mẫu. Các cô thỏ Playboy. Các cô gái trẻ đẹp”. Giọng ông ta nghe như một cô quảng cáo trình diễn thoát y. “Nhưng các cuộc hiếp dâm đều xảy ra tại New York. Tôi muốn bà ra khỏi đây và nhìn qua các cuộn băng. Bà có định đến không?” Judith thôi lật các tờ giấy ghi lại những cú điện thoại của nàng. “Vụ án ma túy cũng có thể đưa về lại đây nữa”, Sample nói, ông ta cố gắng làm cho ngọt miếng mồi. Ông ta là một viên cảnh sát của một thành phố nhỏ đang có trong tay một vụ án hiếp dâm lớn, Judith nghĩ, ông ta không biết phải đối phó như thế nào với nó, ông ta đang cầu xin sự giúp đỡ. Rồi nàng nghĩ: ông ta chỉ hứng thú vì các nạn nhân đều hấp dẫn. Điều này làm phật ý nàng. Trong lúc các nguyên nhân lướt qua, điều ấy gây khó chịu. Giả sử các nạn nhân đều là các bà già thì sao? Các bà già cũng bị hãm hiếp nữa, nàng muốn bảo Sample như thế. Các bà nội thường đến đấy, nàng nghĩ thế. Họ không còn tự xem mình là đối tượng tình dục, đã nhiều năm rồi và sự xúc động chính của họ trong lúc họ kể lại câu chuyện của họ, trong lúc mô tả điều bọn đàn ông đã làm với họ là sự sợ hãi rằng mình sẽ cười. “Vậy bà định đến không?” Sample bảo. Giọng ông ta có vẻ nài nỉ. Điều ấy rất yếu vì những người mạnh bạo, những viên cảnh sát mạnh bạo, bất kỳ giá nào đều không nài nỉ - hoặc Judith cho rằng như thế. Nhưng điều ấy vẫn có và nàng hiểu được. Mình nên suy nghĩ điều này ít phút trước khi chối từ. Nàng tự nhủ. Mình nợ ông ta nhiều như thế đấy. “Để tôi xem người ta có gì cho tôi ở đây đã”, nàng nói. “Tôi sẽ trở lại với ông sau”. Trong lúc nàng đi vội lên tầng 15, chuyện ấy vẫn bám theo nàng. Buổi đầu tiên trong hai buổi nghe thuyết trình của nàng liên quan đến một tay thanh niên làm việc lặt vặt rất mập, đầu óc chậm chạp ngụ trong một tòa nhà ở phía tây. Ba tuần trước, vì một lý do chẳng ai xác định được là gì, hắn đã hiếp dâm một bà chủ nhà với một con dao để uy hiếp. Khi hắn không duy trì được tình trạng cương cứng, hắn bắt đầu đâm bà ta. Sau đấy tên thanh niên đi đến chỗ mẹ hắn và đưa cho bà mớ quần áo vấy máu của hắn để giặt. Bà đã gọi cảnh sát. Bây giờ luật sư của hắn cố gắng giữ hắn trong phòng bệnh tâm thần, cách ly các tù nhân thông thường với lý do rằng hắn tròn trĩnh và mềm như bất kỳ phụ nữ nào và đúng là không tự bảo vệ được về phương diện thể chất. Mỉa mai trên cả các sự mỉa mai: trong tù hắn sẽ bị hiếp dâm. Judith khăng khăng đòi các điều luật thích hợp. Nếu không nàng không phản đối gì cả. Buổi thuyết trình thứ nhì trong một phòng xử án bên cạnh, liên quan đến một người đàn ông da đen trung niên, lực lưỡng, vừa mới ra tù chỉ có ba tuần lễ. Không có tiền bạc và nghề nghiệp gì cả, duy nhất chỉ có bộ quần áo mà hắn vẫn còn mặc ở tòa án ngày hôm nay, cộng với nhiều cái đói khác nhau của hắn, hắn được thả lỏng trên xã hội. Trong hai tuần lễ tự do, hắn đã hãm hiếp hai người lạ trong hành lang của các tòa nhà. Cả hai đều giống những cuộc hiếp dâm trong tù - những cuộc đương đầu nhanh, tàn bạo rõ ràng là loại tình dục duy nhất mà người này biết hoặc có thể cảm thấy thoải mái. Bây giờ bị cáo lơ đễnh nhìn lên mặt bàn trong lúc luật sư của hắn nói với thẩm phán rằng quyền công dân của thân chủ ông ta đã bị xâm phạm, bắt giữ hắn là trái luật. Viên sĩ quan bắt giữ đã thiếu lý do có thể có được và hồ sơ mà cả hai nạn nhân đã tố giác thân chủ của ông đã được sắp xếp một cách không thích đáng. Đây là một trong nhiều vụ hãm hiếp chưa giải quyết mà chi tiết Judith còn đang mang trong đầu. Trước tòa nàng tranh luận rằng, trái lại, vụ án này tiêu biểu cho công việc có tính nguyên tắc cao nhất của cảnh sát và nàng giải thích rõ tại sao. Rồi nàng đưa chàng sĩ quan hình sự trẻ lên bục. Đầu tiên nàng chất vấn anh ta, rồi viên luật sư thẩm vấn chàng thật gắt gao. Hầu như đây là một cuộc xét xử đại qui mô, chỉ thiếu có bồi thẩm và tuyên án thôi. “Thưa quí tòa”, viên luật sư kết luận, “thân chủ của tôi bị bắt chỉ vì ông ấy là một người da đen trong một vùng phụ cận da trắng. Việc ông ấy bị bắt nặng mùi ngất trời. Tôi muốn nôn ra đây”. Chánh án giữ lại quyết định, điều đó ngầm bảo rằng ông ta có thể có quyết định cuối cùng là ra lệnh phóng thích bị cáo. Điều này xảy ra quá thường. Judith có lẽ cũng phải sốt ruột vì vụ án này và nàng đã thường sốt ruột chờ đợi rất nhiều rồi. Trong lúc ấy, bị cáo lại bị còng tay chỉ đứng cách nàng không đầy mười foot. Nếu một người là một tên hiếp dâm, nàng nghĩ trong lúc quan sát hắn, điều ấy phải được rõ ràng. Người ta có thể đoán ra được bằng cách nhìn hắn. Nhưng chẳng có gì lộ ra cả. Các tên hiếp dâm trông cũng chẳng khác gì người khác. Các tên sát nhân cũng thế. Điều ác không thể nhận ra bằng một cái liếc mắt được. Đây là lý do khiến chúng ta có hai phòng xử. Đấy là một cách tốt nhất mà chúng ra có thể làm được. Chàng cảnh sát trẻ đứng bên cạnh nàng. “Viên luật sư ấy”, viên cảnh sát cố ý nói, “ông ta cừ đấy, đúng không?” Chính những luật sư như thế đã đầu độc hầu hết các cảnh sát viên chống lại nghề nghiệp của nàng, và Judith biết điều này. Nhưng nàng không có ý định nào để phỉ báng các luật sư - bất kỳ luật sư nào - trước mặt các cảnh sát viên, nên nàng mỉm cười với viên cảnh sát, bắt tay anh ta và anh ta bỏ đi. Nàng còn một công việc nữa để làm trên tầng này nên nàng bước qua hai cánh cửa, đi dọc theo hành lang và bước vào một phòng xử ở đó một cuộc xử án đang tiến hành. Mặc dầu chỗ ngồi đều chật ních - bồi thẩm, chánh án, ban bào chữa, công tố, tốc ký, một số lính canh phòng xử có vũ trang - khu vực dành riêng cho người dự thính hầu như trống rỗng. Bao nhiêu là ghế mà chỉ có nàng và ba người khác. Có lẽ là một cuộc xử giả hiệu. Trong những căn phòng như thế này trên khắp đất nước, nền dân chủ được bênh vực từ ngày này sang ngày khác. Báo chí và các công dân, trừ trong một số ít vụ án nổi bật, chẳng chú ý gì cả. Chẳng lạ gì, nàng nghĩ, vì sao hệ thống làm việc không khá hơn mấy. Nàng chiếm một chiếc ghế gần cánh cửa nàng vừa bước vào và đặt hai tập hồ sơ nặng trên chiếc ghế bên cạnh. Công tố viên là chàng thanh niên Benjamin Goldberg. Chàng đang thẩm vấn một nữ nhân chứng trên bục, nhưng khi chàng nhìn lên và trông thấy Judith, chàng tặng nàng một nụ cười ngắn. Chàng trông có vẻ hài lòng vì nàng đã lên. Benjy vừa tốt nghiệp trường luật và mới hai mươi bốn tuổi. Chàng là công tố viên trẻ nhất ở ban của nàng. Nhưng họ đều còn trẻ cả - người lớn tuổi nhất trẻ hơn Judith nhiều. Họ hưởng lương kém, nhiệt tình, siêng năng và so với các luật sư bào chữa mà họ đương đầu, họ thiếu kinh nghiệm một cách thảm hại. Trong những phòng xử trống rỗng như thế này, sự có mặt của Judith chứng tỏ cho Benjy và những người khác thấy rằng lãnh đạo quan tâm đến - rằng có ai đấy quan tâm đến là điều quan trọng. Vụ án ở đây liên quan đến chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một cậu bé năm tuổi do một tên đốn mạt năm mươi hai tuổi ở vùng phụ cận, một người đàn ông có một tiền án hai mươi hai năm về tội tình dục. Người đàn bà trên bục chắc là người mẹ. Benjy xử sự với nàng gần như mỗi ngày một khá hơn. Không như nhiều công tố viên trẻ, chàng là một người có năng khiếu tự nhiên. Chàng sẽ trở thành một luật sư tòa án thành công. Chẳng còn gì nhiều để nàng có thể góp ý cho chàng, vấn đề duy nhất của chàng sẽ là chính bản thân đứa bé. Đứa bé năm tuổi có còn nhớ điều đã xảy ra với nó không? Judith đã đưa ra xử càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, vấn đề ấy phải mất sáu tháng, đứa bé có chỉ được kẻ tấn công nó không, hay tên đốn mạt sẽ lại tự do. Và sẽ tấn công một cậu bé nào đấy vào ngày mai hoặc tuần sau? Trong lúc đứng trong thang máy xuống văn phòng của nàng, Judith cảm thấy bực dọc. Nàng thấy luật chỉ là điều không hoàn hảo, vô hiệu và hầu như lúc nào cũng hoàn toàn không có hiệu quả dù rằng đấy là tất cả những gì nền văn minh có được. Yêu luật, và nàng quả tình yêu nó, như yêu một người không yêu mình. Cuộc đời nàng chỉ qua được một nửa thôi. Cuộc đời của nàng có lẽ mới một nửa - nàng ba mươi bảy tuổi - và nàng đã hoàn thành được gì? Điều nàng cần thật sự, nàng tự nhủ, là một lúc nào đó được rời bỏ văn phòng và ngay cả rời bỏ thành phố, không bận bịu những việc ở đây. Một buổi chiều một mình ở vùng quê bắt đầu làm cho nàng cảm thấy là một thú vui hiếm hoi nhất của cuộc đời. Khi nàng bước vào phòng trước của nàng, ông Katz đưa thêm cho nàng một số lời nhắn trên điện thoại. Chẳng có cái nào khẩn cấp cả, ông bảo. Judith, với hai hồ sơ vụ án kẹp dưới cánh tay, lật qua các bức điện, nhưng trí óc nàng để ở nơi khác. Nàng đang nghĩ đến cú điện thoại của cảnh sát tiểu bang New Jersey. Tại sao nàng không đến đấy trong một giờ và giúp đại úy Sample về những vụ án hiếp dâm mà ông ta nắm được nhỉ? Đấy là một chuyến đi có lý. Có một loạt cửa hàng mua sắm trên đường số 17. Ngoài ấy sẽ có ao hồ, rừng và không khí trong lành để thở. Nàng bỗng bảo ông Katz điện thoại cho Sample xin hướng dẫn. Hôm nay là thứ ba. Ông ta hẹn nàng vào chiều thứ năm. Nàng có nên đi một mình không, nàng tự hỏi, hoặc nên nhờ một cảnh sát trưởng cùng đi với nàng? Nếu thế thì ai đây? Về chiều, các cuộc xét xử đình lại. Tòa án đã kết thúc ngày làm việc. Các bồi thẩm đi phố. Các luật sư biện hộ đang bám vào những chiếc Cadillac của họ. Các thẩm phán đang treo áo trong phòng mình. Chỉ có những luật sư phụ thẩm quận trẻ, lương ít vẫn còn làm việc. Họ đã xuống lại văn phòng nơi họ sẽ làm việc thêm về các vụ án, một số người trong bọn họ còn làm việc đến khuya nữa. Các cuộc thẩm vấn phải được chuẩn bị, các bản tóm tắt phải được tu sửa lại. Họ như những diễn viên thiếu kinh nghiệm tập dợt lại giữa các màn trình diễn. Các nhân chứng cho ngày mai phải được tiếp xúc và phỏng vấn lại. Trong một số vụ, phải đưa thám tử ra truy lùng một nhân chứng thiếu hoặc một bằng chứng cuối cùng. Trời về chiều đã lâu, bỗng một số công tố viên trẻ được bổ nhiệm đến cho Judith cùng bước vào văn phòng nàng. Mỗi đêm trước khi về nhà, nàng muốn biết mỗi vụ án của họ đang diễn tiến thế nào, và lúc này họ có năm vụ, cộng với một vụ thứ sáu mà bồi thẩm vẫn còn vắng mặt. Tất cả những vụ này đều thuộc trách nhiệm của nàng. Nếu có vấn đề nào xuất hiện trong ngày, nàng muốn biết đây là những vấn đề gì. Do kinh nghiệm vượt trội của nàng, có lẽ nàng có thể ngăn chặn được một vụ án khỏi bị thua. Ít nhất nàng có thể đưa ra lời khuyến khích cho các chàng trai hoặc các cô gái đang khởi tố nó. Judith ngồi ở bàn giấy và họ vây lấy nàng và nàng hài lòng vì có họ ở đấy. Nàng mong muốn có những cuộc họp này hằng đêm. Đây là con cái của mình, nàng tự nhủ. Ông Katz đã mang vào một khay cà phê bằng các tông với những chiếc tách styrofoam. Các tách cà phê được chia ra và khuấy lên, đồng thời cuộc thảo luận bắt đầu. Đèn được bật lên. Bầu không khí trong phòng thân thiện, nhưng cũng căng thẳng. Các cuộc xử đều xúc động. Cuộc sống và nghề nghiệp của dân chúng đang bị đe dọa. Những biến cố kinh khủng đang được xét xử. Đa số các cuộc xét xử có vẻ đang diễn tiến tốt đẹp. Chỉ có Brian Crawford đã gặp phải một vấn đề nghiêm trọng; Chàng đứng tựa lưng vào tường, trông buồn bực. “Nhân chứng chính của tôi, nạn nhân, con bé tóc hoe bẽn lẽn ấy,” chàng thốt lên, “cô ta vừa gây trở ngại cho vụ án của tôi đấy.” Đối với các công tố viên này các cuộc xét xử giống như cuộc đời, hoàn toàn không tiên đoán được. Thủ tục tòa án theo đúng cách, nhưng tư cách các nhân chứng thì không. Phản ứng của các bồi thẩm cũng không. Các điều gây ngạc nhiên đều phổ biến. Các nhân chứng quên các câu của họ và ứng khẩu ra những câu mới. Một số đâm sợ hãi và thay đổi câu chuyện của họ. Một số cứng miệng. Các bồi thẩm tin một số và không tin số khác thì vì những lý do thách đố lương tri. Kết quả các vụ không bao giờ có thể tính trước được. Cuộc phiêu lưu hằng ngày của công việc xét xử đối với các luật sư trẻ này là một sự mê hoặc vô tận, và các đồng nghiệp của Crawford đang chờ để nghe bất kỳ điều kinh khủng nào ở pháp đình mà chàng sắp mô tả ra. “Tôi đã bảo cô ta”, Crawford nói, “chỉ ra người đàn ông đã hãm hiếp cô ta”. Có một sự im lặng bi thảm. “Cô bé tóc hoe e lệ này”, Crawford bảo, “chỉ hắn và la hét om sòm, “thằng chó ấy đấy”. Có một sự im lặng trong văn phòng Judith. Rồi mọi người bắt đầu cười. “Tôi không thể nào tin được tai mình,” Crawford bảo. Tiếng cười chấm dứt. Sự thông cảm của bồi thẩm đoàn là một chuyện mỏng manh. Nhưng không có nó các luật sư bảo là bạn thua vụ án. “Và hãy đợi”, Crawford bảo, “cho đến lúc bạn nghe điều cô ta nói tắt ngang.” Tất cả bọn họ đều biết các vụ án của nhau và bây giờ trong tâm trí họ, họ dừng lại để xem lại vụ án của Crawford. Bị cáo gõ cửa với lý do hắn là người trừ chuột. Cô bé e lệ cho hắn vào. Hắn chộp lấy một con dao ở tủ búp phê và hãm hiếp cô ta. Đấy là câu chuyện của cô ta suốt trong các cuộc phỏng vấn trước khi xét xử. “Không may,” Crawford bảo, “điều mà người trừ chuột làm là hắn đặt con dao xuống và bảo với cô ta là, tôi có thể đặt tay lên ngực cô không? Cô ta nói, cái gì đây, hiếp dâm à? Vì nếu như thế, chúng ta khắc phục nó.” Thế rồi cô ta bắt đầu cởi quần áo mình ra.” Một trận cười, sau đó im lặng. “Ngày mai anh thử thẩm vấn lại cô ta một lần nữa xem sao”. Judith xoa dịu anh ta. “Vâng, nhưng tôi phải nói gì?” Các công tố viên khác bắt đầu khuyên bảo. Câu chuyện được luật sư đoàn gợi ra ngày hôm sau hoàn toàn không tương xứng với điều kinh hoàng. Crawford có thể đưa lên bục một bác sĩ tâm thần để xác nhận điều ấy. Nhiều cái tên được đề nghị với chàng. “Nhưng cô ta đã gọi bị cáo là một tên “đít lừa”, Crawford bảo. “Bồi thẩm đoàn không còn xem cô ta là một cô bé tóc hoe e lệ nữa.” “Người đàn ông đã hãm hiếp cô ta đang đứng cách cô ta chỉ có ba thước,” Judith Adler vỗ về. “Cô ta vẫn còn bị hắn làm hoảng sợ. Trong sự kinh hoàng, cô ta gọi hắn bằng một từ thô lỗ.” Mọi người bắt đầu cười lại. “Đấy không phải là một cô bé tóc hoe đoan trang dùng một từ thô lỗ.” Judith bảo, “đấy là một nạn nhân hãm hiếp bị hoảng sợ.” Nàng nhìn quanh đến những người kia. “Marcy?” nàng bảo. Marcy Miller, người phụ nữ thứ hai duy nhất ngoài nàng hiện diện, đang xét xử một nha sĩ đã gạ gẫm nữ bệnh nhân bằng thuốc mê. Vụ án này diễn tiến tốt đẹp, nàng nói. Và trong vụ xử chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một tội nhân tình dục do thói quen, Benjy Goldberg đã đưa cậu bé năm tuổi lên bục chiều hôm nay và đã bắt đầu thẩm vấn trực tiếp. Đứa bé có được một lúc chú ý độ 60 giây. Nó đã ngồi vào ghế nhân chứng, hớp coca-cola và cười với mẹ nó cuối phòng xử. Các câu hỏi phải được lặp lại đôi ba lần nó mới có thể hiểu được và trả lời. Ngày mai Goldberg định bảo nó nhận diện bị cáo ở phòng xử công khai và chàng lo lắng. “Hãy cho nó đứng xa chiếc ghế nhân chứng,” Judith đề nghị. “Hãy bảo nó diễn lại vụ án - bị cáo đã đưa nó vào hẻm bằng cách nào, và hắn đã làm gì. Hãy bảo nó diễn lại. Tôi đã thử điều ấy trước kia với các em nhỏ. Điều ấy có vẻ hợp với chúng đấy.” Cánh cửa mở ra và ông Katz thò đầu vào phòng. “Vụ Ligouri đã có quyết định rồi,” ông thông báo. Tất cả bọn họ đều biết vụ án này nữa. Bồi thẩm đoàn của vụ Ligouri, đã thảo luận kỹ trong hai ngày. Katz bỗng nở một nụ cười thoải mái. Và hắn đã có bản án của hắn. “Trong vòng ít phút nữa,” Crawford bảo, “hắn sẽ vào đây và khoác lác rằng bản tóm tắt của hắn lớn lao như thế nào đấy.” Mọi người đều mỉm cười. “Tôi không hiểu tại sao bồi thẩm đoàn để lâu thế,” Judith trầm ngâm nói. Ngay lúc ấy cánh cửa bị giật ra sau và Anthony Ligouri, hai mươi bảy tuổi, đứng với vẻ đắc thắng trên ngưỡng cửa, đấm ngực, như Tarzan trong một bộ đồ ba mảnh. Những người kia cổ vũ chàng. “Tôi nghe bồi thẩm đoàn đã muốn kết tội anh thế nào đấy,” Benjy Golberg bảo. “Đấy là kết luận của anh”, Crawford nói. “Theo như tôi nhớ,” Benjy Goldberg bảo, “bị cáo hãm hiếp cô ta đứng dựa vào thành sau của một chiếc thang máy, lúc cửa mở và có hai cảnh sát viên đang đợi vào thang máy. Hiếp dâm có nhân chứng. Vậy tại sao bồi thẩm đoàn phải mất hai ngày nhỉ?” Ligouri, ngồi trên bệ cửa sổ của Judith, lau mồ hôi tưởng tượng trên trán. “Tôi đã nói chuyện với một người trong bồi thẩm đoàn sau đấy. Tôi đã suýt thua vụ án. Nạn nhân xác minh, chuyên viên phòng thí nghiệm và bác sĩ thực tập nội trú xác minh. Âm hộ của cô ta hoàn toàn bị trầy trụa. Còn cả tinh dịch nữa. Chúa ơi. Nhưng bồi thẩm số chín không tin rằng sự hãm hiếp xảy ra ở tư thế đứng như mô tả. Ông ta chống lại trong hai ngày. Không thể được, ông ta bảo. Ông ta là một công nhân bưu điện về hưu. Theo ông ta, sự giao hợp ở tư thế đứng không thể thực hiện được.” “Và anh hỏi tại sao thư từ chuyển quá chậm,” Crawford lên tiếng. Mọi người cười vang. “Các bồi thẩm kia tranh luận với ông ta hai ngày,” Ligouri bảo. Có bốn phụ nữ trong bồi thẩm đoàn ấy, tất cả đều có tuổi cả. Cuối cùng một trong số người ấy đứng dậy và bảo ông nhân viên bưu điện rằng ông ta sai, giao hợp ở tư thế đứng vẫn có thể thực hiện được. “Bà biết cách nào không?”, ông ta tra gạn. Và bà già tóc xám này bảo rằng: “Vì tôi đã đích thân làm như thế ở tư thế đứng.” “Điều ấy chắc gây thương tổn cho bà ta,” Judith lẩm bầm. “Ông nhân viên bưu điện vẫn không chịu,” Ligouri nói, “Nên các bà kia lần lượt đứng dậy và nhận rằng họ cũng đã làm điều ấy ở tư thế đứng. Cuối cùng, ông nhân viên bưu điện chịu thua và tôi có lời buộc tội.” Tất cả bọn họ đều cười vang, nhưng Judith thấy rằng họ cũng không được thoải mái. Dù rằng họ còn trẻ, tất cả đều đã lập gia đình. Ngay cả Marcy cũng có gia đình, còn Judith thì không, nên chuyện đùa cợt về tình dục trước sự hiện diện của nàng làm cho họ không được thoải mái như thể nàng là mẹ của họ. Đấy là con cái của nàng và nàng hãnh diện về tất cả bọn họ. Tuy vậy, đôi khi họ làm nàng có cảm giác nàng là gái già. Khi về nhà, nàng đi tắm ngay. Nàng sống trong một căn hộ phía tây công viên trung ương và đêm nay, như mọi đêm, đi tắm là một hành động hết phiên trực đầu tiên của nàng. Nàng kỳ cọ người kỹ lưỡng. Nàng tẩy rửa bụi bặm trong ngày và mồ hôi ở thân thể hay cố gắng rửa sạch bụi bặm trong tâm hồn nàng đây? Điện thoại reo. Sau khi bước ra nhà tắm, nàng lấy chiếc khăn lớn quạt nhanh lên người ít cái rồi bước vào phòng ngủ và trả lời. Da thịt của nàng vẫn còn bốc hơi yếu ớt, và nàng nắm chặt chiếc khăn ở một tay. “Alô?” Vẫn là một người khác trong số các công tố viên trẻ của nàng. David Reidy. Văn phòng nàng có người, 24/24. David trực đêm nay và một vụ án vừa đến - một nữ luật sư làm việc khuya bị hãm hiếp ngay trên bàn giấy của cô, do người thợ chữa điện của tòa nhà. David muốn được nàng khuyên bảo và nàng cho ý kiến. Rồi nàng đi tắm lại. Nàng đứng dưới vòi nước. Judith mặc pyjama và một chiếc áo khoác ngoài và tự đi sửa soạn bữa tối. Sau đấy nàng xem TV một lúc, rồi lên giường nằm, với tờ New York Times gấp lại ở phần đố ô chữ và đầu một cây bút chì cắn ở răng. Khoảng nửa đêm, nàng tắt đèn.   Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt Tập 1 của tác giả Robert Daley.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả
Tại tiệm đồ cổ “Kura” toạ lạc giữa khu phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto, có một “chàng trai cố đô” kì lạ với mắt thẩm định và quan sát hết sức tinh tường, đến mức được người ta tặng cho biệt danh “Holmes.” “Không phải đâu Aoi. Mọi người chỉ gọi anh bằng cái tên Holmes vì họ của anh là Yagashira thôi.” Phải. Hán tự gồm chữ Gia và chữ Đầu, nên đọc thành Homes. “.. Ủa, giờ này mà anh vẫn còn đính chính chuyện đấy à?” Đây là ghi chép về những vụ án li kì mà anh Holmes, tên thật là Yagashira Kiyotaka, và tôi, một nữ sinh trung học phổ thông tên là Mashiro Aoi, đã gặp phải tại thành phố Kyoto. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** hi cái nóng ngột ngạt của Kyoto đã dịu đi một chút cũng là lúc kì nghỉ hè kết thúc và một học kì mới lại bắt đầu. Thế nhưng, đám học sinh thì vẫn chưa thoát ra khỏi tâm lí muốn xả hơi. Chúng tôi còn là học sinh lớp Mười Một, sang năm sẽ phải thi đại học rồi, chắc thế nên nhiều người có tâm lí tranh thủ năm nay chơi cho xả láng, vì vậy mà bộ dạng cháy nắng của đám bạn cùng lớp cứ liên tục hiện lên trước mắt tôi. Đến giờ nghỉ trưa, bầu không khí trong lớp càng trở nên uể oải. “Hảảả, vậy là Aoi đã chấm dứt hẳn với bạn trai cũ rùi hở?” Người vừa la lên với vẻ kinh ngạc là Miyashita Kaori, từ lớp bên cạnh sang chơi. Cậu ấy chơi thân với tôi sau “vụ lá thư đe doạ gửi đến Saiodai” và là người duy nhất trong số bạn bè ở trường này biết về anh Holmes cùng quá khứ của tôi. Tiện nói luôn, giờ tôi với cậu ấy đã chuyển sang gọi thẳng tên nhau. Chúng tôi hiện đang ngồi bên ô cửa sổ thoáng gió và cập nhật cho nhau tình hình gần đây sau một thời gian dài không gặp. “... Ừ, mặc dù dây dưa cũng hơi lâu.” Sau khi kể lại cho Kaori chuyện xảy ra vào đêm Yoiyoiyama đợt lễ hội Gion, tôi cụp mắt xuống. ... Chuyện xảy ra vào mùa hè năm ngoái. Vì hoàn cảnh gia đình mà tôi phải chuyển từ Saitama đến Kyoto sinh sống. Ở Saitama, tôi có một cậu bạn trai, là người tôi đã hẹn hò từ hồi cấp hai. Như một lẽ đương nhiên, chúng tôi phải yêu xa trong vài tháng. Không lâu sau đó, cậu ấy cuối cùng cũng nói lời chia tay. Ban đầu tôi đã chấp nhận rằng xa mặt cách lòng là chuyện không thể nào tránh khỏi. Nhưng lí do chia tay thật sự lại là vì cậu ấy đã bắt đầu hẹn hò với bạn thân của tôi... Biết được sự thật ấy, tôi vô cùng choáng váng. Tôi muốn lập tức quay về Saitama để xác minh mọi chuyện, vì thế mà định bán đi mấy bức tranh cuộn treo tường của người ông đã khuất làm chi phí đi đường. Thế là vào một ngày tháng Ba, khi tiết trời vẫn còn se lạnh, tôi đã ghé vào tiệm đồ cổ “Kura” trong khu phố mua sắm Teramachi Sanjo. Tại đó, tôi đã gặp gỡ một chàng thanh niên kì lạ mang tên Yagashira Kiyotaka với biệt danh là “Holmes”. “Aoi, nếu được, em có muốn làm việc ở đây không? Thay vì lén lút bán bảo vật của gia đình đi để lấy tiền, em nghĩ thế nào về việc lao động chân chính nhằm kiếm phí tàu xe?” Bằng khả năng quan sát tinh tường đến đáng sợ, anh Holmes đã đoán ra mọi ý định của tôi và mời tôi đến làm thêm ở tiệm đồ cổ nhà mình. Sau một thời gian tiếp xúc với chàng trai kì lạ ấy cùng những tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, vết thương trong lòng tôi dần được chữa lành. Cả cậu bạn trai cũ lẫn cô bạn thân kia đều đã là chuyện quá khứ. Khi ấy, tôi đã định từ bỏ việc quay trở lại Saitama. Vào đêm Yoiyoiyama của lễ hội Gion... Tôi đã phải đối mặt với bạn thân và bạn trai cũ khi họ tới đây từ Saitama theo chương trình dã ngoại của trường. Đương nhiên là không hề có cách giải quyết dễ dàng cho mọi chuyện. Bạn bè trong nhóm ai cũng về phe bạn thân và bạn trai cũ của tôi, trong khi tôi một mình vật lộn với nỗi nhục nhã và đau đớn như đang ngồi trên bàn chông vậy. Người đã đến giải cứu tôi khi ấy cũng chính là anh Holmes. Anh ấy đã kéo mạnh tay tôi, dắt tôi khỏi nơi đó... khiến tôi có cảm giác như mình thật sự được cứu rỗi. “Khóc cho hết đi nha, Aoi đã gắng lắm rùi mờ.” Bàn tay to lớn nhẹ nhàng vỗ lưng tôi. Mỗi lần hồi tưởng lại cảnh mình khóc trong vòng tay anh Holmes, dưới ánh sáng của những chiếc đèn lồng... tôi lại thấy nóng râm ran trong lồng ngực. “Nè, vậy là bồ mê người ta rồi hén?” Kaori đột nhiên nhòm vào mặt tôi, khiến tim tôi nảy thót lên một cái. “H-Hả?” “Ảnh đã cứu bồ khỏi một bàn thua trông thấy còn chi? Lại điển trai như vậy, có cảm thấy ngây ngất vì ảnh cũng hổng kì đâu à. Chị hai nhà tui cũng hâm mộ anh Holmes lắm á.” “C-Còn Kaori thì sao?” Tôi ngần ngừ hỏi. Kaori liền nhăn nhó ra mặt, rồi lắc đầu. “Tui chịu chết. Ấn tượng rằng ảnh đáng sợ và khó lường trong tui quá mạnh. Chị hai suốt ngày mơ mộng kêu ảnh đẹp trai. Chứ tui thì thực lòng ớn cái kiểu nhìn thấu mọi chuyện của ảnh lắm.” Cũng phải, trong vụ Saiodai, những việc Kaori làm đều bị anh Holmes phát hiện ra, cảm thấy sợ có lẽ cũng chẳng có gì vô lí. “Thế Aoi thấy sao?” “N-Nói thật là cũng hơi xao động... Có điều, tớ đã trải qua một thời gian dài đau khổ vì bạn trai cũ, nên giờ cũng không hiểu rõ lắm về cảm xúc của mình.” “Cũng phải. Cơ mà cả mùa hè bồ ở cạnh anh Holmes thì phải rút ngắn được thêm khoảng cách chứ?” “Không, anh Holmes theo ông chủ ra nước ngoài suốt kì nghỉ hè, còn tớ thì chỉ trông cửa hàng thôi.” “Ông chủ là ông Yagashira Seiji ấy hả?” Ông nội của anh Holmes, chuyên gia giám định cấp quốc gia Yagashira Seiji có vẻ được khá nhiều người trong thành phố này biết đến. “Ừ, nghe nói ông chủ nhận rất nhiều công việc ở nước ngoài, hình như đợt nghỉ hè nào cũng dẫn anh Holmes đi đây đi đó.” “Ờ, phải rồi, anh Holmes là người kế nghiệp ông ấy mà ha” Kaori gật gù. Cụm từ “kế nghiệp” quả nhiên không lệch đi đâu được. Là người có tầm ảnh hưởng quốc tế trong giới giám định mĩ thuật hiện nay, có vẻ ông chủ đang cố gắng hết sức để đứa cháu kế nghiệp mình là anh Holmes được thật nhiều người trong ngành biết đến. Theo lời anh Holmes thì đó không phải chuyện mới bắt đầu gần đây, mà từ xưa, hễ được nghỉ dài là anh ấy lại bị ông lôi đi nước ngoài, không có thời gian học hành gì cả. Nhắc mới nhớ, hồi mới gặp anh ấy cũng kể mình “toàn đi chơi với ông nội nên không vào được hệ đại học của Đại học Kyoto”, hoá ra là ám chỉ chuyện này. “Nên là trong thời gian nghỉ hè, tớ đã cùng quản lí trong tiệm Kura.” “Chẹp, mùa hè của bồ coi bộ hổng có chút hơi thở lãng mạn nào sất. Ngồi coi tiệm với bác quản lí thì nhạt nhẽo thí mô à.” “Tớ thấy trong tiệm cùng bác quản lí cũng thoải mái lắm.” Quản lí tuy ít nói nhưng rất tốt bụng, tôi rất thích khoảng thời gian được ở cùng bác ấy. “Vậy là một mình bác quản lí phải trong cả cửa tiệm lẫn nhà riêng, coi bộ cũng cực ha... Nhắc mới nhớ, hổng biết cái anh Holmes đó sống trong căn nhà như thế nào ta?” Tôi chỉ biết chớp mắt trước câu hỏi từ trên trời rơi xuống của Kaori. “Nhà á?” “Ảnh dầu sao cũng là người trong giới mĩ nghệ cổ, nên tui có cảm giác ảnh sẽ sống trong một căn nhà kiểu Nhật có kiến trúc xưa cũ hay đại loại thế?” “Ừ, hợp lí. Anh ấy lại còn đặc sệt chất trai Kyoto, dễ là sống trong nhà kiểu Nhật[6] truyền thống lắm.” Tôi gật đầu tán thành. Kaori bỗng nhíu mày nhìn tôi với vẻ khó hiểu. “Trai Kyoto là sao? Phải là ‘nam nhân Kyoto’ chứ?” Cậu ấy đặt câu hỏi giống hệt anh Holmes. Dân Kyoto xem ra hơi bị nhạy cảm khi người khác tuỳ tiện cải biên những từ ngữ có từ xưa của họ. “Ừ, tớ biết, cơ mà tớ thấy ‘trai Kyoto’ dùng để diễn tả anh Holmes hợp hơn là ‘nam nhân Kyoto’ ấy. Cảm giác nhẹ nhàng hơn nam nhân Kyoto một chút, kiểu thế.” “... Ờ, nghe bồ biểu tui mới thấy đúng là có thể cảm nhận được sắc thái đó thiệt.” Cậu ấy gật gù, có vẻ đã thông. Xem ra người Kyoto vẫn sẽ chấp nhận sự cải biên miễn là họ hiểu được nó. “Mà vậy nghĩa là bồ hổng biết nhà anh Holmes ở đâu hử?” Kaori khơi lại chủ đề, khiến tôi sực tỉnh và ngẩng mặt lên. “Ừ. Tớ chưa từng đến hay trông thấy nhà anh ấy.” Chỉ là, tôi đã từng nghe qua “tình trạng nơi ở” của gia đình Yagashira. Nhà ông chủ ở gần chùa Ginkaku-ji, quản lí sống trong một khu chung cư ở Yasaka, còn anh Holmes vừa đi lại giữa hai căn nhà ấy vừa coi sóc chúng. Đối với anh Holmes, trạng thái đó giống như anh có hai căn nhà vậy. “Vậy sao? Ra là cả nhà họ hổng có sống chung.” Sau khi nghe tôi kể về tình trạng nơi ở của gia đình Yagashira, Kaori ồ lên, hai tay khoanh trước ngực với vẻ hứng thú. “Mà sắp tới tớ được mời đến nhà ông chủ đấy.” “Thích vậy. Về nhớ tả lại cho tui nghe xem nhà cửa thế nào nha.” Nhưng khi nghe tôi nói tiếp rằng, “Hôm ấy tớ muốn Kaori đi cùng tớ nữa cậu ấy bật ra một tiếng “Hả?” lạc điệu, rồi lắc đầu nguây nguậy như muốn cự tuyệt bằng toàn bộ cơ thể. “Tui á? Tại sao? Chịu thui, tui hổng muốn đụng mặt anh Holmes đâu.” “Ơ, tại sao?” “Cảm giác làm gì cũng sẽ bị ảnh bắt bài, sợ lắm.” Kaori phản đối với vẻ mặt hết sức nghiêm túc, khiến tôi bất giác phì cười. “Có thể anh ấy sẽ bắt bài được cậu thật, nhưng không sao đâu.” “Rõ ràng là sẽ bị bắt bài mờ, hãi chết đi được. Mà sao Aoi vẫn tỉnh queo vậy? Bị ảnh đi guốc trong bụng mà hổng thấy ớn sao?” “T-Tớ à? Ban đầu có hơi rợn gáy thật, nhưng dạo này cũng quen quen rồi. Có thể nói rằng nhanh hiểu ý nhau hơn kể ra cũng là chuyện tốt?” “Nhanh hiểu ý nhau là do bồ quen quá thành chai rùi đó. Mà sao tự dưng lại rủ tui?” Kaori thấy thắc mắc cũng dễ hiểu thôi. “Chuyện là... ngày hôm qua...” Khi tôi bắt đầu chậm rãi kể, Kaori nuốt nước bọt lắng nghe. Mời các bạn mượn đọc sách Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).
Holmes ở Kyoto
Nằm lẻ loi tại một góc phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto là cửa hàng đồ cổ “Kura”. Từ một sự việc tình cờ, nữ sinh cấp ba Mashiro Aoi đã quen biết cháu trai chủ cửa hàng ấy, tên là Yagashira Kiyotaka, rồi sau đó, cô bé bắt đầu làm thêm tại đây. Kiyotaka là một người ăn nói dịu dàng, cư xử hoà nhã, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Anh được gọi là “Holmes của phố Teramachi”. Aoi cùng Kiyotaka nhận được rất nhiều yêu cầu liên quan tới các món cổ vật mà khách hàng mang tới... Một tác phẩm kì bí nhẹ nhàng rất xuất sắc lấy bối cảnh cố đô Kyoto! *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** HOLMES VÀ THIỀN SƯ BẠCH ẨN “Quý khách có món đồ cổ nào đang ngủ quên trong nhà không? Cửa hàng chúng tôi nhận giám định và thu mua đồ cổ!” Khi đi bộ dọc con phố mua sắm mái vòm[1] đông đúc náo nhiệt ở Teramachi Sanjo thuộc Kyoto, ta sẽ thấy một tiệm đồ cổ nhỏ nằm giữa những cửa hàng kề nhau san sát. Trên biển hiệu, chỉ có một chữ Hán “Kura”[2]. Đây có vẻ là tên cửa hàng. (Nếu nói đến tiệm đồ cổ, trong đầu mình sẽ hiện lên các cái tên như, “Phòng triển lãm OO”, hay “Antique[3] OO”, hoặc cái tên nào đó có gắn chữ “Đường”[4], thế nhưng ở đây lại có mỗi một chữ “Kura”, đơn giản quá nhỉ...) Đó là ấn tượng đầu tiên của tôi với cửa hàng này Không khí cửa hàng giống như một quán cà phê retro[5]hơn là một tiệm đổ cổ. Cửa hàng được bài trí kết hợp phong cách Nhật Bản và phương Tây, làm người ta liên tưởng tới thời kì Minh Trị - Đại Chính[6]. Sát lối vào là một góc uống trà, còn phía bên trong thì bày sản phẩm. Tôi thấy bóng dáng một người phụ nữ đứng tuổi với một người đàn ông đang uống cà phê và chuyện trò vui vẻ. Thật sự là nếu không nhìn biển hiệu, có khi tôi sẽ nghĩ đây là một quán cà phê. Trong khi tôi đang đứng trước cửa hàng và lấm lét ngó vào trong, tôi nhận ra mấy người đi ngang qua cứ thi thoảng lại lén liếc nhìn tôi một cái. “...” Tôi luống cuống chỉnh lại tư thế, mặt làm ra vẻ chẳng biết gì. Chắc người ta sẽ thấy lạ lắm khi bắt gặp một nữ sinh cấp ba lảng vảng trước cửa hàng đổ cổ. “Cô bé kia muốn vào cửa hàng mà không vào được nhỉ?” Có thể họ sẽ nghĩ về tôi theo kiểu ấy cũng nên. Nếu người ta nghĩ như thế thì... vâng, chuẩn rồi. Đúng, tôi là một cô nữ sinh cấp ba chán đời, dù muốn vào hàng đồ cổ này nhưng không thể, thế nên đang lảng vảng ở bên ngoài. Cũng bởi, nếu đây là một tiệm tạp hoá mang phong cách Bắc Âu cởi mở, hay một cửa hàng đồ cổ nhẹ đô hơn thì đã chẳng nói làm gì. Nhưng không khí cửa tiệm này lại đậm chất “cửa hàng mĩ nghệ cổ”, nên tôi không thể thoải mái bước vào. “Nhận giám định và thu mua đồ cổ.” Kể từ khi tình cờ nhìn thấy dòng chữ đó, tôi đã để ý đến cửa hàng này. Bao nhiêu lần tôi đã bụng bảo dạ rằng, “Vào thôi, vào thôi,” nhưng kết quả là tôi vẫn cứ lướt qua. “Kyoto”. Không phải quá lời khi nói đây là địa điểm tham quan số một Nhật Bản. Trong vòng một năm, rất nhiều khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới đã ghé thăm nơi đây. Thế nhưng, đối với một học sinh cấp ba sống tại mảnh đất này mà nói, đây không ngờ lại là một “thành phố không có chỗ để vui chơi”. Đền chùa miếu mạo thì tuyệt vời và cũng xoa dịu lòng người đấy, nhưng không phải nơi cho bạn bè tụ tập chơi đùa. Chỗ để giải trí loanh quanh chỉ có tới quán karaoke hoặc trung tâm thương mại lớn, tạt vào rạp chiếu phim ở Sanjo rồi đi dạo lòng vòng ở khu mua sắm mái vòm mà thôi. Nhân tiện, tôi thấy con chim linh vật tên “Sanjoto~ri”, biểu tượng của khu phố mua sắm Sanjo, đáng yêu hết biết. Tôi thích nó ghê. A, ở lối vào cửa hàng này cũng dán poster “Sanjoto~ri” nữa. Quả nhiên là đáng yêu thật, nhìn mà dịu cả lòng. Mà thôi, tạm thời không nói đến chuyện đó. Vì lí do kể trên, hễ tới chơi ở phố mua sắm Sanjo, tôi lại liếc nhìn cửa hàng “Kura”, nhưng lần nào cũng chỉ lướt ngang qua nó. Đến nước này rồi, tôi không thể cứ lảng vảng bên ngoài mãi được. Tôi nắm chặt quai chiếc túi giấy trong tay. (Được rồi, vào thôi!) Ngay giây phút tôi vừa hạ quyết tâm, một người đàn ông trung niên mặc com lê từ sau lưng vượt qua tôi êm ru rồi mở cửa đánh xạch một cái. “Chào cả nhà, Holmes có đây hôn?” Ông vừa nói vậy vừa bước vào cửa tiệm. (Holmes?) Dù cảm thấy khá là kì quặc, tôi vẫn bước vào cửa hàng, như thể bị lôi kéo bởi người đàn ông nọ. Vừa mới vào bên trong, tôi trông thấy ngay một bộ sô pha cổ làm người ta liên tưởng tới phòng tiếp khách của những tòa kiến trúc phương Tây cổ kính. Một phụ nữ đứng tuổi đang vui vẻ nâng tách cà phê lên miệng. Chiếc đèn chùm nhỏ treo trên trần nhà không cao lắm. Một cái đồng hồ tủ đứng rất to dựng sát tường. Rất nhiều những món đồ cổ và vật dụng đủ loại được bày trên giá nằm sâu bên trong cửa hàng. Nhìn từ cửa ra vào thì cửa hàng trông cũng nhỏ, nhưng bên trong có vẻ khá sâu. Mời các bạn mượn đọc sách Holmes ở Kyoto của tác giả Mai Mochizuki & Thu Thủy, Nhân Văn (dịch).
Kẻ Đào Tẩu
Khi được đề nghị nhận trước 500.000 đô la để bào chữa cho Charlie Marsh, nữ luật sư xinh đẹp Amanda Jaffe không thể từ chối. Marsh, vốn phải chạy trốn khỏi Mỹ sau khi bị buộc tội sát hại hạ nghị sĩ Arnold Pope, giờ đây buộc phải quay về Mỹ khi bị tên độc tài Jean-Claude Baptise truy sát vì đã dám ngủ với người vợ quyến rũ của hắn. Liệu sự thông minh của Amanda có giúp Marsh thoát khỏi mức án tử hình, ông bố khát máu của Arnold Pope hay sát thủ của Baptiste và bao ân oán cũ? “Một cốt truyện đầy gay cấn... Độc giả sẽ bị cuốn theo hành trình lần tìm, ghép nối các manh mối của nữ luật sư thông minh, xinh đẹp Amanda.”  – Publishers Weekly “Nhịp điệu dồn dập, cốt truyện hấp dẫn… và một cái kết bất ngờ. Bạn còn đòi hỏi gì nữa?” – BookPage “Một vụ giết người bí ẩn với những nhân vật độc đáo, một bối cảnh thú vị và hàng loạt màn đấu trí thông minh. Kẻ đào tẩu hoàn toàn là một tuyệt tác của Margolin.” – The Globe and Mail *** Nữ luật sư thông minh Amanda Jaffe không khoan nhượng tội ác trên hành trình tìm kiếm sự thật. Tên sách: Kẻ đào tẩu Tác giả: Phillip Margolin Dịch giả: Vũ Thị Việt Hà Công ty Văn hóa Đông A và NXB Văn học liên kết xuất bản Thuộc thể loại trinh thám, hình sự, tiểu thuyết Kẻ đào tẩu của nhà văn Mỹ Phillip Margolin dồn nén nhiều kịch tính, cuốn hút độc giả qua từng tình tiết của vụ án mạng và cuộc đấu trí không khoan nhượng giữa một bên là luật pháp và một bên là bóng tối của tội ác. Cuốn sách viết về hành trình nữ luật sư xinh đẹp Amanda Jaffe bào chữa cho tên tội phạm Charlie Marsh. Amanda Jaffe không thể từ chối bào chữa cho hắn khi được đề nghị nhận trước 500.000 USD. Marsh chạy trốn khỏi Mỹ sau khi bị buộc tội sát hại hạ nghị sĩ Arnold Pope. Và giờ đây, hắn buộc phải quay về Mỹ khi bị tên độc tài Jean-Claude Baptise truy sát vì dám ngủ với người vợ quyến rũ của hắn. Thế nhưng, lần trở về này, Charlie Marsh bị bao vây bởi rất nhiều khó khăn và kẻ thù. Án cũ vẫn còn treo lơ lửng trên đầu hắn trong khi ông bố khát máu của Arnold Pope luôn theo sát Marsh để tìm cơ hội trả thù cho con. Sát thủ Baptiste do Jean-Claude Baptise phái đến luôn gây áp lực với Marsh. Bên cạnh đó, gã cũng vướng phải ân oán cũ với những người bạn tù ngày xưa. Tất cả khiến Charlie Marsh không có một giây phút nào bình an. Hắn luôn đứng giữa ranh giới sống và chết. Và luật sư thông minh Amanda Jaffe phải dấn thân vào hành trình tìm ghép các manh mối giúp thân chủ của cô thoát khỏi vòng vây bủa của tội ác. Trong hành trình đó, nhiều bí mật được phơi bày ra. Đan xen giữa hiện tại và quá khứ, cuốn tiểu thuyết của Phillip Margolin dày đặc tình tiết, kịch tính được dồn nén. Với kinh nghiệm 25 năm làm luật sư và kiến thức dày dặn về tội phạm, Phillip Margolin đã xây dựng cốt truyện được tờ National Examiner nhận xét: “Một cuốn tiểu thuyết hình sự giật gân cuốn hút ở tầm quốc tế”. Phillip Margolin đã có gần hai mươi tiểu thuyết nằm trong danh sách ăn khách nhất của tờ The New York Times, trong đó có Kẻ đào tẩu. Mỗi tác phẩm của ông là một cái nhìn độc đáo về hành vi tội phạm được miêu tả và phân tích dưới góc nhìn của người trong cuộc. Bản thân Margolin từng tiến hành bào chữa ba mươi vụ giết người trong thời gian ông là luật sư. Margolin đã giành được nhiều giải thưởng về thể loại truyện trinh thám hình sự. Hiện ông  sống ở Portland, Oregon, Mỹ. Bạch Tiên *** “Charlie đang ở đâu?” 1997   “Anh Burdett, hãy cho tôi biết khi anh đưa ra được quyết định nhé,” thẩm phán Dagmar Hansen đáng kính nói. “Chúng ta sẽ tạm hoãn phiên tòa cho tới khi tôi nghe được tin từ anh đấy.” Amanda Jaffe đứng dậy cùng những người tham dự phiên tòa khi ngài thẩm phán Hansen rời ghế quan tòa, nhưng cặp mắt cô không hề nhìn vị thẩm phán. Chúng đang dõi theo cuộc trao đổi gay cấn giữa bố cô và thân chủ của ông. Miệng Frank Jaffe chỉ cách tai Sally Pope có vài inch và ông đang nói gì đó rất nhanh. Bà Pope đang đặt tay lên cánh tay của bố cô, đôi lông mày bà ta nhíu lại, tập trung vào những lời ông đang nói. Amanda cau mày. Cô cảm nhận rõ ở hai người có sự thân mật hơn mức bình thường của quan hệ luật sư và thân chủ. Karl Burdett, ủy viên công tố quận Washington, trông đầy giận dữ khi lao ra khỏi cửa phòng xử án, theo sau là hai viên trợ lí. Một lúc sau, Frank Jaffe và bà Pope cũng rời đi. Ngay trước khi cánh cửa phòng xử án khép lại, Frank giơ ngón tay cái về phía Amanda. Sáng nay, trước khi tới phiên tòa, Frank đã bóng gió về một tiến triển lớn trong vụ này. Amanda ao ước biết được những gì đã xảy ra trong phòng riêng của ngài thẩm phán trước đó nhưng cô biết thừa chẳng nên quấy rầy bố cô khi vụ xử còn đang dang dở. Amanda quyết định đi thang bộ tới tiền sảnh. Cuộc đi bộ này có thể là bài tập thể dục duy nhất cô có được trong ngày hôm nay và cô cảm thấy vơi đi cảm giác tội lỗi. Amanda đã luyện tập rất căng suốt mùa hè vừa rồi khi rời trường về nhà. Là sinh viên năm thứ ba của Berkeley, cô đã giành về cho trường giải quán quân bơi 200 m tự do tại Cúp Liên đoàn PAC-10*và được xếp thứ sáu trong bảng xếp hạng quốc gia. Nếu như về đích sớm hơn vài giây, hẳn là Amanda đã được xếp hạng ba quốc gia và có cơ hội vào đội tuyển Olympic 2000. Những đột phá như vậy không dễ gì mà có nếu như cô bỏ lỡ quá nhiều buổi tập luyện, nhưng cô không thể bỏ qua cơ hội xem bố cô trình diễn trong phiên xử vụ án giết người xôn xao dư luận cả nước. Frank Jaffe là một trong những luật sư bào chữa giỏi nhất bang Oregon và Amanda đã muốn nối nghiệp cha từ hồi học tiểu học. Trong khi bọn con gái mải mê đọc mấy cuốn tạp chí thời trang thì Amanda nghiền ngẫm Perry Mason . Lúc bọn con gái mơ mộng chuyện đi dự vũ hội cuối cấp thì cô chỉ mơ về việc được tham gia xét xử những vụ án mạng. Từ trước tới giờ, ở bang Oregon chưa từng có vụ xét xử nào được công luận quan tâm nhiều như vụ xử Sally Pope về tội giết chồng, ngài nghị sĩ Arnold Pope con. Góp thêm vào sự ồn ào đó là sức thu hút của nhân vật được cho là đồng phạm của Sally Pope, anh chàng Charlie Marsh, hay còn gọi là Guru*Gabriel Sun, người đã từ một tên tội phạm quèn trở thành anh hùng quốc gia và từ đó, vị guru Thời đại mới đã dành được sự quan tâm của cả nước. Amanda có mang theo một cuốn Ánh sáng Nội tâm, tự truyện của Marsh, trong đó tác giả hé lộ về việc đã bị lạm dụng khi còn nhỏ và lí giải vì sao sự tổn thương tinh thần ấy khiến anh ta có một cuộc sống đầy bạo lực sau này. Điều làm cho cuốn sách trở nên đặc biệt là sự giải thích quá trình chuyển hóa tín ngưỡng đáng kinh ngạc của Marsh, xảy ra vào đúng giây phút anh ta liều mình cứu một viên giám ngục thoát khỏi sự tấn công của tên tù nhân điên loạn. Amanda nhìn tấm hình Marsh in ở mặt sau cuốn sách. Chẳng có gì khó hiểu tại sao phụ nữ lại lũ lượt kéo nhau tới dự những buổi nói chuyện của vị guru này để nghe anh ta giảng giải cách thức tìm ra nguồn sáng nội tâm, thứ ánh sáng đã lan tỏa trong cơ thể anh ta khi cận kề cái chết. Marsh sở hữu vẻ ngoài ưa nhìn của một ngôi sao điện ảnh, tóc vàng, mắt xanh nhưng cái quá khứ bạo lực của anh ta lại gợi ra một con quỷ đang tiềm ẩn. Sally Pope là một trong những người phụ nữ xinh đẹp và tự chủ nhất mà Amanda từng gặp, nhưng rồi ngay cả bà ta cũng gục ngã trước bùa chú của Marsh, đấy là nếu bạn tin vào những thứ trên mấy tờ báo lá cải. Trong vụ của Sally Pope có yếu tố tình dục, có người nổi tiếng và có cả cái chết thê thảm. Chỉ thiếu có một thứ - là Charlie. Dòng tít “GURU ĐANG Ở ĐÂU?” xuất hiện trên khắp các mặt báo cả nước vào ngày tòa mở phiên xét xử. Câu hỏi ấy trở đi trở lại trong các bản tin truyền hình. Charlie Marsh đã biến mất khỏi Câu lạc bộ Westmont đúng lúc Arnold Pope con bị bắn. Cũng như mọi người dân nước Mỹ, Amanda tự hỏi giờ này anh ta ở đâu và đang làm gì. Mời các bạn mượn đọc sách Kẻ Đào Tẩu của tác giả Phillip Margolin & Vũ Thị Việt Hà (dịch).
Ám Dạ Hành
Thành phố Thanh Dương liên tiếp xảy ra các vụ án mạng, nạn nhân có vẻ như không quan hệ gì với nhau nhưng nguyên nhân tử vong lại giống nhau đến kỳ lạ: bị móng tay dính nọc độc rắn cào xước da, trúng độc, suy tim mà chết. Một vụ hỏa hoạn bùng phát giữa đêm khiến người đàn ông trẻ thiệt mạng, qua khám nghiệm tử thi, nạn nhân không phải chết cháy mà do do trúng độc rắn, trên mặt, đầu và cổ là những vết móng tay cào. Mọi nghi ngờ đều chĩa về phía vợ nạn nhân nhưng không có chứng cớ. Vụ án đi vào ngõ cụt. Sau đó chỉ trong một thời gian ngắn, một ông lão về hưu, một gã ăn mày, một thương nhân giàu có và một cô gái điên đều được phát hiện tử vong với nguyên nhân tương tự. Tin đồn lan ra khắp nơi, người dân hoảng hốt, thật sự có ma đầu móng tay độc giết người bừa bãi, hay còn có huyền cơ khác?   Dưới sự dẫn dắt của tổ trưởng Tần Hán Xuyên, tổ trọng án số 2 đi sâu vào điều tra nhưng mãi chưa tìm ra hung thủ. Cùng lúc, thám tử tư trẻ tuổi Kim Nhất Điền lại phát hiện ra manh mối quan trọng, chĩa mũi nhọn về phía nội bộ cảnh sát, và khơi lại một câu chuyện quá khứ đau lòng… *** Reviewer: Điền Yên Ấn tượng đầu tiên của tôi với Ám dạ hành là: Có phải Ám ảnh đen yêu đương với Bạch dạ hành đẻ ra Ám dạ hành không vậy? Tiếp đến là cái bìa thì kiểu Cửu âm bạch cốt trảo nên duyên cùng tuyệt kỹ của Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi. Nói chung là hơi bị tạp. Truyện mở đầu với bi kịch con lỡ tay phóng hỏa làm bố chết ngạt trong nhà. Tuy nhiên, sau đó pháp y phát hiện ra ông này đã chết vì nọc độc rắn hổ mang trước khi chết ngạt. Loạt bỏ tất cả các đối tượng tình nghi, vụ án rơi vào bế tắc. Liên tiếp sau đó diễn ra các vụ giết người tương tự. Nạn nhân đều là đàn ông, nghề nghiệp tuổi tác giàu nghèo có thể khác nhau nhưng đều chết vì bị cào và nọc độc rắn xâm nhập cơ thể từ vết thương dẫn đến cái chết của nạn nhân. Đội cảnh sát hình sự tìm mãi chẳng ra manh mối gì. Đến đây, nếu bạn đã quen với motif trinh thám thì hẳn sẽ nghi ngờ thủ phạm là công an hoặc người thân của công an. Chỉ có thế mọi manh mối mới đi vào ngõ cụt. Nhưng nghi mà không có chứng cứ thì cũng chẳng làm được gì. Thế nên tác giả mới đưa vào truyện nhân vật thám tử tư Kim Nhất Điền.Nói thật là anh chàng này không để lại cảm tình nhiều đối với tôi vì quá trình phá án khá mờ nhạt. Điều này không trách được vì thám tử tư không thể nhúng tay quá nhiều vào chuyện của công án, vụ nào thám tử lấn lướt công an thì e rằng đều là bịa đặt. Được cái, những gợi ý hay thông tin do Kim Nhất Điền mang tới đều có tính bước ngoặt. Tôi chỉ không thích anh chàng này ở chỗ hình như thần kinh anh ta hơi thô hơi bình thường, đặc biệt là khúc cuối, khi anh vạch mặt thủ phạm thì đúng là bất chấp mặt mũi người ta, cái cách anh ta xỉa vào nỗi đau của người khác khiến tôi không tiêu hóa được. Đổi lại, tôi đánh giá cao việc tác giả không buff Kim Nhất Điền thành nhân vật anh hùng bất chấp tất cả vì đạo nghĩa, sống dưới cờ đỏ búa liềm phải làm việc vì nhân dân. Anh chỉ là một thám tử tư và hành động theo đúng đạo đức nghề nghiệp của nghề đó.Tuy truyện không đề cập nhưng khi đọc, trong đầu tôi luôn hiện lên câu hỏi: tội này có đáng chết không? Một tên cặn bã làm hàng đống việc xấu xa lại ngộ sát người vô tội thì có đáng chết không? Những kẻ tuy không giết người trực tiếp nhưng hủy hoại cuộc đời người khác thì có đáng chết không? Vụ án không quá lắt léo, nếu đọc kỹ và cảm nhận thì có thể đoán ra hung thủ. Điều đọng lại sau cuốn truyện là nỗi đau không bao giờ lành của nạn nhân và gia đình nạn nhân. Và một lần nữa, tôi nghĩ mình không hợp làm cảnh sát khi nảy sinh cảm giác đồng tình với thủ phạm. Ngoài ra, vấn đề này không thuộc khía cạnh trinh thám, đó là chuyện tình cảm của nhân vật chính. Cô gái này vừa xao động trước ân sư vừa cảm thấy mến sư đệ. Quả thực là người ăn tạp y như bìa truyện: nam (phụ) lão ấu đều không chê. Văn phong tác giả khá ổn, có lúc trộn chút hài Mỹ. Có 1 vài lỗi chính tả. Dang Thi Quynh Anh‎ *** Màn đêm, tựa như một tấm lưới khổng lồ, từ từ bao phủ mặt đất. Thành phố Thanh Dương vào tháng Ba, trời chuyển sang mùa ấm nhưng vẫn còn se lạnh, gió đêm thanh mát thổi khắp phố lớn, trang phục mùa xuân của các cửa hàng thời trang đang rất đắt hàng. Hơn tám giờ tối, hai khách hàng bước vào shop thời trang Y Yến, một trai một gái, người con gái trông khoảng mười bảy, mười tám tuổi, mặc một chiếc quần đồng phục màu xanh, chắc là học sinh cấp ba từ trường học nào đó trốn tiết tự học ban đêm; người nam tóc nhuộm vàng, đeo một chiếc khuyên tai, phần cổ bên phải xăm hình chiếc đầu lâu, trên miệng đầu lâu ngậm một cành hoa hồng, vừa nhìn đã biết là Thanh niên hư hỏng mà giáo viên trong trường thường nói. Bà chủ Diêu Y Yến đóng ứng dụng QQ trên di động, từ sau quầy thu ngân đứng dậy tươi cười tiếp đón, “Hai vị muốn xem quần áo gì ạ?” Thanh niên hư hỏng ôm nữ sinh vào lòng rồi nói, “Hôm nay là sinh nhật bạn gái tôi, tôi muốn chọn một bộ trang phục đẹp tặng cô ấy làm quà sinh nhật.” Bà chủ cười hì hì nhìn cô gái kia, xoay người lấy một chiếc váy liền dài tay màu trắng và nói, “Chiếc váy này mang phong cách Hàn Quốc, chất vải khá dày, hoa văn cũng rất đẹp, là kiểu thịnh hành nhất năm nay, vừa ngọt ngào vừa có chút tươi mới, rất hợp với khí chất của cô ấy.” Thanh niên hư hỏng cầm chiếc váy hỏi cô gái, “Tiểu Lộ, em thấy đẹp không?” Cô gái không lên tiếng, hơi thẹn thùng gật đầu một cái. “Vậy thì mua cái này đi. Tối nay đám anh em của anh tổ chức tiệc sinh nhật cho em, em mặc chiếc váy này đến đó, chắc chắn sẽ làm bọn nó lóa mắt cho xem.” Thanh niên hư hỏng lại hỏi bà chủ, “Bao nhiêu tiền?” Diêu Y Yến báo một cái giá cao hơn giá bán ban đầu một phần ba. Chị ta biết thời điểm này là lúc đàn ông hào phóng nhất. Người thanh niên không nói lời nào, lấy ví ra thanh toán, đưa chiếc váy đã được đóng gói cho cô gái và nói, “Tặng quà sinh nhật cho em, có thích không?” “Thích ạ!” Cô gái nói, khuôn mặt ngập tràn hạnh phúc của cô gái vừa biết yêu. Nhìn bóng lưng đôi tình nhân trẻ nắm tay nhau rời đi, Diêu Y Yến bất giác có chút ngưỡng mộ cô bé. Chị ta cất mấy tờ tiền vừa thu được vào ví, mở ứng dụng QQ lên, thấy ảnh đại diện của một người đàn ông sáng đèn, hiển thị đang online QQ trên điện thoại, bèn mở khung đối thoại lên, đánh một hàng chữ, “Anh yêu, anh về đến nhà chưa?” Đợi vài phút, không thấy đối phương trả lời, chị ta thấy có chút mất mát, nghĩ bụng, đàn ông là vậy đấy, trên giường đối với bạn tốt biết mấy, kéo quần lên là quên bạn ngay. Ngõ Thanh Vân ở trước cửa tiệm, đèn đường mờ mịt, từ lâu vắng tanh không một bóng người. Diêu Y Yến biết không thể đợi được thêm vị khách nào nữa, bèn đứng dậy hạ cửa cuốn xuống, thu dọn sơ qua cửa tiệm, sau đó đi lên lầu. Cơ thể đầy đặn bước lên cầu thang cũ kĩ phát ra tiếng kêu ọp ẹp. Căn nhà hai tầng của Diêu Y Yến được xây vào những năm 80 của thế kỷ trước, dưới tầng trệt mở cửa hàng, tầng hai là nơi ba người nhà chị sinh sống. Diêu Y Yến thấy phòng con trai mình vẫn sáng đèn, biết Tiểu Lượng đang làm bài tập. Tiểu Lượng năm nay mười bốn tuổi, là học sinh lớp tám. Đứa trẻ này rất chăm học, thành tích cũng tốt, chỉ có một cái tật là không thích nói chuyện, suốt ngày cúi đầu, giống hệt ông cụ non. Chồng Diêu Y Yến tên là Hà Khánh Quốc, lớn hơn chị ta mười tuổi chẵn. Năm xưa, Diêu Y Yến là một cô gái trẻ từ quê lên thành phố, sở dĩ gả cho Hà Khánh Quốc chủ yếu vì nhìn trúng anh ta có một phiếu cơm dài hạn. Bấy giờ Hà Khánh Quốc làm việc ở nhà máy Giang Nam, đó là doanh nghiệp nhà nước vang danh gần xa. Không ngờ sau khi kết hôn được vài năm, gặp phải đợt tái cơ cấu doanh nghiệp, anh ta bị giảm biên chế, trở thành kẻ thất nghiệp. Sau này được một người bà con sắp xếp đến Đông Quan, Quảng Đông làm công, đến nơi mới biết người bà con kia lừa anh ta đi bán hàng đa cấp, lừa sạch mấy chục vạn tệ tiền bồi thường giảm biên chế mới thả anh ta về nhà. Hà Khánh Quốc thất nghiệp ngồi không hai năm, cuối cùng xin được một chân chạy vặt trong nhà ăn của trường Kỹ thuật thành phố, hàng ngày cưỡi chiếc xe đạp cũ kỹ đi sớm về khuya, nhưng chẳng thấy đem được bao nhiêu tiền về nhà. Diêu Y Yến cởi giày cao gót, biếng nhác ngả người trên sofa, tay cầm điều khiển tivi bấm liên tục. Bỗng cảm thấy dưới mông có vật gì đó cấn vào người, đưa tay mò xuống thì phát hiện dưới đệm sofa có một chiếc túi đeo chéo. Vừa nhìn chị ta biết ngay là của Chu Chính để lại. Chu Chính là người tình của chị ta. Hà Khánh Quốc là người trầm tính, không có chút thú vui cuộc sống gì, chẳng làm được việc gì ra hồn, trên người lại có mùi hôi. Ba năm trước, Diêu Y Yến và anh ta đã chia phòng ngủ. Có lúc nửa đêm Hà Khánh Quốc mò lên giường chị ta, chị ta đạp anh ta xuống giường hoặc cãi nhau một trận ầm ĩ. Khi cãi nhau chị ta không như những người phụ nữ khác, mà sẽ vừa động khẩu vừa động thủ, vừa mắng đến nước bọt bay tung tóe vừa nhe răng múa vuốt, móng tay bén nhọn như vuốt mèo không ngừng cào lên người Hà Khánh Quốc, thường xuyên cào cho anh ta mặt đầy thương tích. Sở dĩ Diêu Y Yến càng lúc càng không ưa chồng mình, càng lúc càng chán ghét chồng mình, còn có một nguyên nhân khác, đó là chị ta có tình nhân ở bên ngoài. Ban ngày Diêu Y Yến trông cửa hàng quần áo, lúc không có khách thì lên QQ trò chuyện với người khác. Hơn hai năm trước, chị ta quen biết Chu Chính qua mạng. Chu Chính làm việc cho một công ty kinh doanh dược liệu ở trung tâm thành phố, nhỏ hơn Diêu Y Yến sáu, bảy tuổi, vẫn chưa kết hôn. Hai người biết nhau qua QQ, trò chuyện vô cùng ăn ý, thỉnh thoảng Chu Chính nhắn vài mẩu chuyện sắc dục để trêu chọc Diêu Y Yến, chị ta không những không giận mà còn cười khúc khích. Sau này hai người trao đổi địa chỉ và số điện thoại liên lạc. Có một hôm, Diêu Y Yến đang trông cửa hàng, có một chàng trai trẻ bước vào, mặc áo vest, gương mặt trắng trẻo rất đẹp trai, trông có nét giống minh tinh Hồng Kông - Lê Minh. Diêu Y Yến tiến đến hỏi anh ta muốn mua trang phục gì? “Lê Minh” nói, “Tôi có một chị gái xinh đẹp, muốn mua bộ váy tặng chị ấy, khiến chị ấy vui vẻ một chút.” Diêu Y Yến hỏi, “Chị gái cậu bao nhiêu tuổi?” Lê Minh dùng ánh mắt táo bạo nhìn chị ta, cười hì hì nói, “Chị ấy xấp xỉ chị, dáng người cũng tương đương. Chị cứ chọn một bộ thật đẹp theo sở thích của chị đi.” Diêu Y Yến bèn chọn chiếc váy ren dài đắt nhất trong cửa hàng đưa cho anh ta. “Lê Minh” trả tiền, sau đó cầm túi quần áo lên, hai tay đưa đến trước mặt chị ta, nói, “Tiểu Yến Tử, đây là quà gặp mặt của Chu Chính tặng chị.” “Tiểu Yến Tử” là tên tài khoản QQ của Diêu Y Yến. Chị ta ngẩn ra, lúc sau mới có phản ứng lại, thì ra “Lê Minh” này chính là người bạn Chu Chính trên QQ. Diêu Y Yến chưa bao giờ được đàn ông tặng quà, cảm động suýt rơi nước mắt, trong lúc xuân tình nhộn nhạo, bất giác ôm lấy cổ anh ta, bạo dạn dâng lên một nụ hôn cháy bỏng. Chu Chính cũng hàm hồ, thuận thế đè chị ta lên chiếc sofa phía sau quầy thu ngân… Bắt đầu từ đó, hai người từ bạn trên mạng, phát triển thành một đôi tình nhân. Diêu Y Yến thường đợi sau khi con trai đi học, chồng đi làm, gọi Chu Chính đến cửa hàng quần áo để hẹn hò. Thời gian lâu dần, Hà Khánh Quốc tuy là người có đầu óc chậm chạp, cũng thầm hiểu ra chút ít nội tình, nhưng anh ta chỉ mắt nhắm mắt mở, vờ như không hay biết gì. Anh ta sợ một khi vạch trần sự việc, Diêu Y Yến sẽ ly hôn với mình. Dầu sao anh ta cũng đã 45 tuổi, với điều kiện của bản thân, muốn tìm một người vợ khác e là hơi khó khăn. Diêu Y Yến hiểu rõ tính cách anh ta, lại càng không kiềm chế, mỗi lần sau khi hẹn hò với tình nhân xong liền quay lại đánh phủ đầu, bắt bẻ những chuyện vụn vặt để cãi nhau với chồng, lần nào cũng mắng cho chồng mình không ngóc đầu lên được, cào cho rách đầu chảy máu, như thể người có lỗi là Hà Khánh Quốc vậy. Cả Chu Chính cũng thấy có chút khó coi, nói chị ta ở trước mặt mình giống như một con mèo nhỏ, trước mặt Hà Khánh Quốc lại như một con cọp cái. Chiều nay, Hà Khánh Quốc gọi điện thoại về nói có người đồng nghiệp mời uống rượu, không về ăn tối. Hà Khánh Quốc thích uống rượu, lần nào uống cũng phải say bí tỉ mới về. Có một tối, anh ta uống rượu xong đạp xe về nhà, đi dọc đường thì ngã gãy một bên tay, treo tay suốt một tháng mới hồi phục. Từ đó, anh ta uống rượu xong thì không dám đạp xe nữa. Diêu Y Yến lập tức gọi điện thoại cho Chu Chính, nói rằng buổi tối mình nấu mấy món ngon, gọi anh ta đến ăn cơm. Con trai Tiểu Lượng một ngày ba bữa đều ăn ở trường, buổi tối cũng học xong tiết tự học ban đêm mới về nhà, nên Chu Chính vừa đến Diêu Y Yến liền hạ cửa cuốn của cửa hàng xuống, dẫn anh ta lên lầu, tận hưởng thế giới của hai người. Ăn cơm tối xong, hai người lăn lộn trên giường, tất nhiên tránh không khỏi quấn quýt một phen. Xong việc, Diêu Y Yến gối đầu trước ngực người tình, bất tri bất giác chìm vào giấc mơ ngọt ngào. Trong lúc chị ta mơ màng ngủ còn nghe thấy Chu Chính vừa vuốt ve ngón tay mình vừa khen ngợi, “Tiểu Yến Tử này, mười đầu ngón tay của em trắng trẻo nuột nà, đẹp thật đấy!” Mời các bạn mượn đọc sách Ám Dạ Hành của tác giả Nhạc Dũng & Tú Phương (dịch).